Nhạc Sỹ
NGUYỄN VĂN ĐÔNG


Đại Tá Nguyễn Văn Đông (năm 1971)

Nguyễn Văn Đông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Nguyễn Văn Đông
ARVN
                                        Joint General Staff
                                        Insignia.svg
Chánh Văn phòng Tổng Tham mưu phó
Nhiệm kỳ 1 tháng 11 năm 1972 – 30 tháng 4 năm 1975
Cấp bậc Đại tá (11/1972)

ARVN
                                        Joint General Staff
                                        Insignia.svg
Phụ trách một Phòng trong khối Lãnh thổ, Bộ Tổng Tham mưu
Nhiệm kỳ tháng 6 năm 1968 – 
Cấp bậc Trung tá

ARVN
                                        Joint General Staff
                                        Insignia.svg
Phục vụ ở khối Lãnh thổ Bộ Tổng Tham mưu
Nhiệm kỳ tháng 11 năm 1963 – tháng 6 năm 1968
Cấp bậc Thiếu tá (11/1963)

Flag
                                        of South Vietnam.svg
Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian, Đài Phát thanh Sài Gòn
Nhiệm kỳ 1958 – 

Trưởng phòng 3 (Tác chiến) Phân khu Đồng Tháp Mười
Nhiệm kỳ đầu tháng 11 năm 1955 – 
Cấp bậc Trung úy (1954)
Đại úy (10/1959)

Trưởng phòng Hành quân Phân khu Đồng Tháp Mười
Nhiệm kỳ 1954 – 
Cấp bậc Trung úy (1954)
Chỉ huy Phân khu Đại tá Nguyễn Văn Là

Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553
Nhiệm kỳ 1954 – 1954
Cấp bậc Thiếu úy (10/1952)

Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh 15 tháng 3 năm 1932
Sài Gòn, Flag of Colonial Annam.svg Đông Dương thuộc Pháp
Mất 26 tháng 2 năm 2018
(86 tuổi)[1][2]
Bệnh viện Chợ Rẫy, Tp Hồ Chí Minh, Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Nơi ở quận Phú Nhuận, Tp Hồ Chí Minh
Nghề nghiệp Quân nhân, Nhạc sĩ
Dân tộc Kinh
Học vấn Tú tài bán phần
Học sinh trường - Trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao, Quận Nhất, Sài Gòn
- Trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng Tàu
- Trường Võ bị Vũng Tàu
- Trường Võ bị Ðà Lạt
Quê quán  Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, Tây Ninh
Binh nghiệp
Phục vụ Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa
Thuộc Flag of the Army of the
                                      Republic of Vietnam.jpg Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ 1951  1975
Cấp bậc DaiTaQLVNCHlucquan.gif Đại tá
Đơn vị Huy hiệu Lục quân Việt Nam
                                      Cộng hòa.png Bộ binh
ARVN Joint General Staff
                                      Insignia.svg Bộ Tổng Tham mưu
Chỉ huy Flag of the Vietnamese
                                      National Army.svg Quân đội Quốc gia
Flag of the Army of the
                                      Republic of Vietnam.jpg Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Tham chiến - Chiến tranh Đông Dương
- Chiến tranh Việt Nam
Khen thưởng VPD National Order of Vietnam
                                      - Officer BAR.png Bảo quốc Huân chương đệ Tứ đẳng
Nguyễn Văn Đông
Nghệ danh Nguyễn Văn Đông
Phượng Linh
Phương Hà
Hoài Phương
Vì Dân
Đông Phương Tử
Thể loại Nhạc vàng
Tình khúc 1954-1975
Nghề nghiệp Nhạc sĩ
Ca khúc tiêu biểu Chiều mưa biên giới
Hải ngoại thương ca
Nhớ một chiều xuân
Sắc hoa màu nhớ
Ca sĩ trình bày thành công Thanh Tuyền, Hà Thanh, Giao Linh

Nguyễn Văn Đông (1932  2018) nguyên là một Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên nhiều người biết đến ông với tư cách là một nhạc sĩ nổi tiếng qua các ca khúc như "Chiều mưa biên giới", "Sắc hoa màu nhớ",... Một số bút danh khác của ông là Phượng Linh, Phương Hà, Hoài Phương, Vì Dân  Đông Phương Tử.[1]

Tiểu sử và binh nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài Gòn, nguyên quán ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở Tây Ninh. Thiếu thời, do gia đình có điều kiện nên ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau đó ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao, quận Nhất.[3] Năm 1945, nhà cầm quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh; năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng Tàu khi ông 14 tuổi.[4] Thời gian tại đây, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông trở thành một thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè"...[3] Năm 19 tuổi, ông rời trường Thiếu sinh quân và được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân 52/120.117, sau đó được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Vũng Tàu. Tháng 10 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Qua năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Ðại đội trưởng" tại trường Võ bị Ðà Lạt. Năm 1954 ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội.[5] Ra trường, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.[4] Sau Hiệp định Genève (1954), ông di chuyển vào Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Đầu tháng 11 năm 1955, ông được chuyển biên chế sang Quân lực Việt Nam Cộng hòa, kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh để đánh dẹp lực lượng quân sự giáo phái Hòa Hảo, và tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.[6]

Cuối năm 1957 ông được cử đi du học khóa Chỉ huy tham mưu tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.[7] Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm.

Sau Đảo chính 1963 ông được thăng cấp Thiếu tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu phục vụ ở khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968 ông được thăng cấp Trung tá phụ trách một Phòng trong khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972 ông được thăng cấp Đại tá, chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu phó. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Huy chương

  • Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương (tặng thưởng)
  • Một số huy chương quân sự, dân sự khác (tặng thưởng)

Sau 1975

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên ông bị chính quyền mới bắt đi học tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu (Biên Hòa), một thời gian sau thì bị đưa về giam ở trại tù Chí Hòa cho đến khi được trả tự do vào năm 1985. Tuy nhiên, khi có Chương trình Ra đi có Trật tự (ODP), ông đã không xin đi xuất cảnh mà ở lại Việt Nam sống thầm lặng cùng gia đình tại quận Phú Nhuận, Tp Hồ Chí Minh.

Ông qua đời vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh.

Hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc

Ngay từ thập niên 1950 ông đã nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim,... Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.

Từ năm 1958 ông là Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc... Năm sau ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 Đoàn Văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia, một giải thường do bà Trần Lệ Xuân trao tặng.

Ông còn là Giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân,... Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng  cải lương. Ngoài ra ông đã có công phát hiện và đào tạo ca sĩ Thanh Tuyền khi cô còn là nữ sinh Đà Lạt.

Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh  Ban Thăng Long - Sơn Ca 10, Lệ Thu - Sơn Ca 9, Phương Dung - Sơn Ca 5  Sơn Ca 11, Giao Linh - Sơn Ca 6, Sơn Ca - Sơn Ca 8,... và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.

Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó. Nhạc phẩm "Phiên gác đêm xuân" được ông viết vào đêm 30 Tết Nguyên Đán năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. "Chiều mưa biên giới" ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị nhầm với nhạc phẩm "Khúc tình Kinh Kha" của Phạm Duy.

Ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như "Khi đã yêu", "Thầm kín", "Niềm đau dĩ vãng", "Nhớ một chiều xuân"... Với bút danh Đông Phương Tử  Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng...

Ca sĩ trình bày thành công: Thanh Tuyền, Hà Thanh, Giao Linh.

Danh sách ca khúc

STT Tên tác phẩm Bút hiệu Chú thích
1
Anh
Nguyễn Văn Đông

2
Anh trước tôi sau
3
Áo trắng người yêu
4
Bà mẹ hai con
5
Bài ca hạnh phúc
6
Bến đò biên giới
7
Bông hồng cài áo trắng Khác với "Bông hồng cài áo" của Phạm Thế Mỹ
8
Chiều mưa biên giới
9
Cuốn theo chiều gió Khác với bài cùng tên của Anh Việt Thu
10
Cung thương ngày cũ Đồng sáng tác với Mạnh Phát
11
Dáng xuân xưa
12
Dù biết thế
13
Đêm buồn Đồng sáng tác với Lam Phương
14
Đôi bờ thương nhớ
15
Hải ngoại thương ca
16
Hiến dâng
17
Hoa đêm
18
Hồi chuông kỉ niệm Đồng sáng tác với Song Ngọc
19
Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp
20
Khúc xuân ca
21
Lá thư người lính chiến
22
Mấy dặm sơn khê
23
Mùa sao sáng
24
Ngày mai anh về
25
Người tình yêu dấu
26
Nguyện cầu trên bến ngàn năm
27
Nếu có em bên anh
28
Nhớ một chiều xuân
29
Nhớ người viễn xứ Đồng sáng tác với Lâm Tuyền
30
Núi và gió
31
Phiên gác đêm xuân
32
Thu hoài cảm
33
Tình cố hương
34
Tình đầu xót xa
35
Trái tim Việt Nam
36
Truông mây
37
Về mái nhà xưa
38
Vô thường
39
Xin chúa thấu lòng con
Phượng Linh

40
Bóng nhỏ giáo đường
41
Cay đắng tình đời
42
Chiếc bóng công viên
43
Chuyện tình hoa Pensée
44
Cô nữ sinh Gia Long
45
Dạ sầu (Nỗi buồn duyên kiếp)
46
Đoàn chim cánh sắt Đồng sáng tác với Ngọc Sơn
47
Đom đóm
48
Đoạn tuyệt
49
Em vẫn của anh
50
Khi đã yêu
51
Lời cuối cùng cho nhau
52
Lời giã biệt
53
Mây chiều Viết chung với Mây Tần
54
Niềm đau dĩ vãng
55
Thầm kín (Bẽ bàng)
56
Thương muộn
57
Thương về mùa đông biên giới
58
Tình người ngoại đạo
69
Rồi một đêm đó
60
Xin đừng trách anh
61
Hẹn ước đêm xuân
Hoài Phương

62
Lời hứa ban đầu
63
Màu hoa kỷ niệm
64
Màu xanh Noel
65
Mỗi độ xuân về
66
Ngỏ ý
67
Viễn xứ ca
68
Việt Nam hôm nay
69
Đồng Tháp duyên gì
Vì Dân
Viết chung với Minh Kỳ
70
Sắc hoa màu nhớ
71
Chúc tết
Đông Phương Tử

72
Ave Maria
Nhạc của Franz Schubert
Soạn lời Việt
73
Đêm thánh huy hoàng Khác với bài "Đêm thánh vô cùng" do Hùng Lân soạn lời Việt dựa theo nhạc của nguyên tác bài "Silent Night"
74
Hồi chuông nửa đêm
Nguyên tác Jingle Bells của James Lord Pierpont
Soạn lời Việt

Chú thích

  1. ^ a ă Quỳnh Nguyễn (ngày 27 tháng 2 năm 2018). “Tác giả 'Chiều mưa biên giới' qua đời ở tuổi 86”. Tuổi trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
  2. ^ “Tác giả ca khúc Chiều Mưa Biên Giới qua đời ở Sài Gòn”. BBC. Ngày 27 tháng 2 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
  3. ^ a ă Trường Kỳ (26 tháng 11 năm 2008). “Nguyễn Văn Đông: Giữa binh nghiệp và âm nhạc”. TiVi Tuần-san.
  4. ^ a ă Du Tử Lê. “Binh nghiệp và nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Ðông”. Người Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2010.
  5. ^ Sau Hiệp định Genève, trường chuyển cơ sở vào Sài Gòn và cải danh thành Trường Đại học Quân sự. Năm 1960 trường di chuyển lên Đà Lạt đổi tên thành Trường Chỉ huy và Tham mưu. Năm 1971, một lần nữa trường lại di chuyển cơ sở về Long Bình, Biên Hòa.
  6. ^ Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa.
  7. ^ Trong thời gian này ông cho ra đời tác phẩm "Nhớ một chiều xuân".
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_%C4%90%C3%B4ng

CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI


PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN



MẤY DÂM SƠN KHÊ



VỀ MÁI NHÀ XƯA



HẢI NGOẠI THƯƠNG CA






STT
 Tác Phẩm (bấm vào đề tài để đọc tiếp)
Tác Giả
1
Đôi Dòng Tâm Sự và Tiểu Sử
Nguyễn Văn Đông
2
Sắc Hoa Màu Nhớ - Hàng Hàng Lớp Lớp
Nguyễn Văn Đông
3
Hình Ảnh Người Lính Khác Trong Nhạc NVĐông
Du Tử Lê
4
Tình Ca Nguyễn Văn Đông
Thy Nga
5
Nguyễn Văn Đông Giữa Binh Nghiệp và Âm Nhạc
Trường Kỳ
6
Người Lính Trong Nhạc Nguyễn Văn Đông
Lê Hữu
7
Phiên Gác Đêm Xuân - Hà Thanh hát (video)
Nguyễn Văn Đông
8
Nhớ Một Chiều Xuân - Hà Thánh hát (video)
Nguyễn Văn Đông
9
Chiều Mưa Biên Giới - Hà Thanh hát (video)
Nguyễn Văn Đông
10
Mấy Dm Sơn Khê - Hà Thanh hát (video)
Nguyễn Văn Đông
11
Ave Maria - Thanh Thúy hát (video)
Nguyễn Văn Đông
 12
Về Mái Nhà Xưa - Hà Thanh hát (video)
 Nguyễn Văn Đông
13
Cung Thương Ngày Cũ - Lệ Thanh hát (video)
Nguyễn Văn Đông
14
Khi Đã Yêu - Hà Thanh hát (video)
Nguyễn Văn Đông
15
Hải Ngoại Thương Ca - Hà Thanh hát (video)
Nguyễn Văn Đông

Hải Ngoại Thương Ca  ( Nhạc & Lời)
16
Bông Hồng Cái Áo - Thanh Lan hát (video)
Nguyễn Văn Đông
17
Mùa Sao Sáng - Quỳnh Dao hát
Nguyễn Văn Đông
18
Anh - Carol Kim hát (video)
Nguyễn Văn Đông
19
Hồi Ký Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông
Nguyễn Văn Đông
 20
Đại Tá Nguyễn Văn Đông
  gisdinghoangtrong
        Trở lại trang mặt