Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



CHU TRI LỤC

X.Y.Thái Dịch Lý Đông A



 Trang mạng Việt Nam Văn Hiến xin được trân trọng lưu trữ và phổ biến những biên khảo và sáng tác của triết gia X.Y. Thái Dịch Lý Đông A, trong mục đich bảo tồn di sản văn hoả cuả Việt tộc và để tri ân sự hiện hữu của ngài trong dòng sinh mệnh Việt cùng những đóng góp vô cùng quý báu cho nền văn hóa Việt.

      nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến










Mục Lục



CHU TRI LỤC

X.Y.Thái Dịch Lý Đông A


CHU TRI LỤC của X.Y. Thái Dịch Lý Đông A do Gió Đáy thuộc Duy Dân Học Xã xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam năm 1969 (Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt)

An bản điện tử do Hannamquan.com ấn hành Ngày 15 Tháng 2 năm 2002 Để ghi nhớ công ơn các tiền bối cách mạng dân tộc Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, Lý Đông A, Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ, Huỳnh Phú Sổ.

CHÂN NGÔN

  Lịch sử là một cuộc đãi lọc các nòi giống mà đào thải với tái sinh là hy vọng rất lớn lao của văn hóa, nó là cơ năng thuế hóa của loài người.

•           Tồn tục phải có một bàn cứ duy nhất, đó là sinh lực của các lớp tử vong: tồn tục chỉ có một bảo chướng duy nhất, đó là năng lực của các lớp đang sống trên tiến hóa.

•           Tiến hóa làm bằng sự tự giác của thời đại trên một phản tỉnh đối với sự khứ, một phản quang đối với vũ trụ, một tiên kiến đối với tương lai.

•           Tiến hóa phải có một lý tưởng và một phương châm, một cương thường luôn luôn sẵn sàng có trong tay mình những vũ khí vô cùng sắc bén, những công cụ tinh thần và vật chất luôn luôn tiến hóa.

•           Lịch sử là một cuộc vận động theo biện chứng Duy Dân của cả toàn thể loài người coi là một thể; một thể lấy hun đúc lên bằng tất cả cái tinh hoa đặc thù làm một tinh hoa rất lớn và sáng; sự tiến hóa thiên lệch bao giờ cũng là biện chứng của diệt vong.

•           Sinh mệnh với văn hóa phải tiến lên theo bề cao tức là hướng thượng; phải tiến hóa lên bằng khoáng trương và nung đúc: đó là sự đồng nhất hóa. Chỉ có cái gì gồm được “hết cả” trong sự nung nấu tinh thần và thực tiễn mới mong sự tiến hóa có năng lực. Sự chuốt lọc nghĩa là đem hết cả cá tính hóa đi, đặc sắc hóa bằng tác dụng thăng hoa lên chân lý.

•           Cái quốc túy nhất là cuộc sáng tạo tự lực của nòi giống. Cái quốc hồn độc nhất là sự sống trên sáng tạo của nòi giống.

•           Có một chân ngôn: Có tác dụng của tất cả lại có bản sắc của một mình làm nên văn minh. Sự lý tắc hóa cái tất cả đi mà hốt thị cái một mình, đó là sự không hiểu thấu Duy Dân biện chứng của lịch sử khách quan.

•           Lại có một chân ngôn: Sống nghĩa là đang còn và không còn. Chết nghĩa là không còn mà cũng không hết. Chữ dấu của văn minh Việt là: S Hãy giác ngộ ý nghĩa và chân ngôn của nó.

X.Y. THÁI DỊCH LÝ ĐÔNG A
4822 Tuổi Việt (1943)

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Bộ Chu Tri Lục này là Huấn Cáo tức là bộ chủ nghĩa Duy Dân rút ngắn gồm mười một chu tri lục, mỗi chu tri lục có 9 quan điểm; như vậy bộ Huấn Cáo có 99 vấn đề về cách mạng Duy Dân. Trong trường hợp nào không rõ, chu tri lục số 10 bị thất lạc (vào thời kỳ 9/3/1945); chu tri lục này nói về 9 cái thủ uyển của cách mạng Việt, nghĩa là 9 cái chỉ đạo thực tiễn cho công cuộc cách mạng Duy Dân.

Giữa các chu tri lục có một dây rợ ràng buộc với nhau nghĩa là từ vấn đề nọ sang vấn đề kia có một thứ tự lý tắc rõ ràng, đọc qua ta nhận ngay ra được.

Mở đầu, chu tri lục thứ nhất đặt ngay 9 vấn đề thế giới, thời đại và nhân loại cần phải được giải quyết để tránh cho loài người cái khổ nạn. Cảm chiêu được 9 vấn đề ấy tức là đã thấy nhu yếu làm cách mạng. Cho nên chu tri lục 2 nói về 9 cái tiết yếu của cách mạng.

Nhưng làm cách mạng không phải là cách mạng thế giới mà là cách mạng Việt (9 cương lĩnh cách mạng Việt trong chu tri lục số 3) cần được đem nối liền với những công cuộc cách mạng dân tộc của tổ tiên, vì ở đó ta có thể rút ra những giáo huấn cho cách mạng (9 kinh nghiệm quốc sử trong chu tri lục số 4).

Cách mạng trên phá hoại kẻ địch chỉ là thành công tương đối. Thành công tuyệt đối là kiến thiết cho nên chu tri lục số 5 đề ra 9 cái tiêu điểm về công cuộc kiến thiết. Lại, công cuộc kiến thiết này không phải là sự chắp vá những chủ trương kiến thiết của những công cuộc cách mạng nào trên thế giới mà nó có nền tảng triết học hẳn hoi (9 quan điểm chính thống triết học Duy Dân trong chu tri lục 6). Tiếp sau là chu tri lục số 7 nói về 9 cái chỉ nam nhân chủ cho kiến thiết tức là phần căn bản thực tiễn của kiến thiết Duy Dân.

Trở về trên là phần lý luận thuần túy. Bước sang công tác thực tiễn, muốn thực hiện chủ nghĩa phải đặt vấn đề lập đảng. Đảng tức là công cụ cho việc thực hiện cách mạng dân tộc. Mà một chính đảng phải có sự nhận xét khách quan và chủ quan rất nghiêm chỉnh và tỉ mỉ. Do đó, trong chu tri lục số 8, Thư Ký Trưởng Lý Đông A đưa ra 9 cái phê phán của quốc dân và của Đảng Duy Dân về các Đảng ngoài làm thành một cương lĩnh tổng quát và trong chu tri lục số 9, Đảng Duy Dân phê phán tự mình, nêu thành những cương lĩnh giản dị để các đảng viên Duy Dân có mấu cứ trên duyên trường hoạt động.

Sau cùng là chu tri lục số 11, trong đó Tổng Đảng Bộ phát biểu 9 huấn thoại cho các cấp chỉ huy, tức là 9 cái chỉ thị gồm các cách thức làm việc trong thời kỳ quân sự hóa các hành động của Đảng, nghĩa là trong thời kỳ chuẩn bị động viên.

Nói tóm lại, thông hiểu được 90 quan điểm trong chu tri lục, vận dụng những nguyên tắc này vào thực tiễn đấu tranh, chúng ta cũng đã tạm đủ bản lĩnh để dẫn dắt công cuộc cách mạng Việt cho tới thành công. Những quan điểm đại cương này tuy còn được Thư Ký Trưởng Lý Đông A dẫn giải trong bộ Mô mà Gió Đáy sẽ lần lượt xuất bản.

GIÓ ĐÁY Xuân 4845 (1966)

GIỚI THIỆU

Nhằm vào lúc cuộc tranh bá chủ thế giới giữa các trào lưu quốc tế cộng sản chủ nghĩa, quốc tế phát xít chủ nghĩa và quốc tế tư bản dân chủ chủ nghĩa bắt đầu chuyển vào giai đoạn tranh chấp máu lửa, các dân tộc bị trị nắm lấy cơ hội đứng lên giũ bỏ những xiềng xích nô lệ, chủ nghĩa Duy Dân ra đời, đáp ứng cái nhu cầu đổi đời của dân tộc và nhân loại đứng trước cửa ngõ của một thời đại mới.

Văn hóa thế giới chuyển hình giữa tiếng súng đạn của chiến tranh. Trật tự thế giới cũ xây dựng trên tham vọng và bạo tàn của đế quốc đi dần vào con đường sụp đổ, không một sức người có thể cứu vãn. Rồi các hệ thống đế quốc tan vỡ; các tương quan văn hóa, chính trị và kinh tế giữa các dân tộc thay đổi, đưa đến sự đặt lại những vấn đề từ trong nội bộ của mỗi quốc gia ra ngoài thế giới trong cộng đồng các dân tộc.

Nhân loại sống trong khủng hoảng gây nên bởi sự phá sản của các ý thức hệ xưa và nay, bàng hoàng trước những thế lực vật chất như lôi cuốn loài người xuống vực thẳm của hư vô với phi lý chủ nghĩa.

Hàng vạn năm lịch sử tiến hóa của loài người không còn gì đáng để lại nữa ư? Phải chăng loài người mất tin tưởng ở những giá trị xưa trước nên đã không còn tin tưởng ở ngay nơi mình nữa?

Dẩu sao, trong khắc khoải của thời đại, loài người vẫn tìm được một hướng đi chung, thể hiện trong những ước mơ chung.

Phải chấm dứt thống trị dân tộc, phải không còn cảnh người bóc lột người, phải xua đuổi được bóng dáng của chiến tranh, phải tạo những xã hội hòa hài trong một thế giới yên vui. Đều là những những nhu yếu cấp thiết, càng cấp thiết khi loài người nắm trong tay những vũ khí ghê hồn có thể tiêu diệt nhân loại mà cũng có thể là những phương tiện giúp cho nhân loại sống ấm no, trong tiến bộ và danh dự.

Cho nên, trong hỗn loạn của thời đại, con đường phát triển của lịch sử nhân loại đã được vạch ra rõ ràng và một cuộc thanh toán lớn lao đang diễn ra trên khắp thế giới: thanh toán những bất công và bất bình đẳng được đưa lên hàng những giá trị và nguyên tắc tuyệt đối. Các dân tộc và các tầng lớp xã hội bị áp bức đã đứng lên.

Đồng thời một cuộc vận động tổng kiểm thảo lại những trí thức của loài người xưa và nay, trong các lãnh vực đã thành hình, trong cái nhu yếu nắm lại chất liệu lịch sử cần thiết cho cuộc Nhân Văn Phục Hoạt nay mai. Bởi đó cũng là điều mơ ước của loài người không ngừng chạy theo một “mẫu mực con người lý tưởng” trong một “mẫu mực xã hội lý tưởng”. Bởi trong lịch sử nhân loại tiến hóa, chẳng phải lần này là lần đầu loài người phải sống trong những thời kỳ tối tăm trong đó giá trị con người bị phủ nhận, thân phận con người chỉ ngang với kiếp thú vật.

Một cuộc Nhân Văn Phục Hoạt tất sẽ đến sau thời kỳ ngự trị của tư bản, của máy móc, của khoa học đã đày đọa con người, khiến cho thế giới loài người đầy ăm ắp những tủi nhục và bất bình. Những dân tộc bị linh lạc, những nòi giống bị diệt vong, những giai tầng xã hội bị đầy ải! Một văn minh lầm lẫn, đầy tội ác và hối hận! Một lịch sử loài người thất bại trong kiến thiết nhân loại, duỗi dài tới ngày nay với sự thất bại trong hòa bình của những cường quốc chiến thắng trong chiến tranh.

Sự thất bại đó càng làm nổi bật lên cái nhu yếu của loài người cần có được một ý thức hệ mới trong công cuộc ổn định nhân loại trên những nguyên tắc của chân bình đẳng, chân tự do, của nhân ái và tiến bộ. Những nguyên tắc đó đã được mọi người công nhận và chỉ còn chờ ngày đem thực tiễn hóa, chế độ hóa đi.

Chủ nghĩa Duy Dân ra đời, từ trên mảnh đất của tủi nhục và đau thương này, chính là để làm công việc đó, đáp lại một cuộc thách thức của lịch sử, đặt ra chẳng những riêng cho dân tộc Việt mà là cho toàn thể nhân loại. Chủ nghĩa Duy Dân ra đời chính là hiện thân của lý tưởng Nhân Văn Phục Hoạt.

Loài người phải giác ngộ NHÂN CHỦ để nắm chắc lấy vận mạng của mình mà đưa dắt và kiến thiết.

Loài người phải không xa rời NHÂN TÍNH để có những y cứ mà đo ngắm con đường sống của mình, được tổ chức thế nào và sai lầm bởi tự đâu.

Loài người phải thực NHÂN BẢN, tự giải phóng mình khỏi những dây rợ siêu hình của các loại vũ trụ quan từ trước tới nay, để vững trên lập trường NGƯỜI mà lập đạo sống.

Chủ nghĩa Duy Dân xây dựng quốc gia và kiến thiết dân tộc trong tinh thần nhân loại đó. Bởi nhân loại tuy là một nhưng dân tộc là nhiều. Bởi loài người sống sinh mệnh mà không sống thuần tâm, thuần lý v.v… mà dân tộc là đệ nhất yếu tố của sinh mệnh chủ nghĩa.

Phương thức của chủ nghĩa Duy Dân là phương thức cách mạng. Bởi chỉ có cách mạng mới toàn diện và triệt để cải tạo được con người và xã hội. Cách mạng đòi hỏi những điều kiện ý thức, tinh thần và đạo đức đi đôi với những điều kiện tổ chức để kiến tạo nên một lực lượng cách mạng làm tiền phong cho cuộc đổi đời.

Trong cái nhu yếu đó, mười một Chu Tri Lục được viết ra để đem đến cho người phụng sự cách mạng những nhận thức cơ bản về cuộc cách mạng Duy Dân. Mười một Chu Tri Lục là 99 điều mà người cán bộ Duy Dân cần ý thức được trên phương diện lý luận thuần túy của Đảng, trước khi bước vào đấu tranh.

THÁI THẢN
Xuân Đinh Mùi 4846 tuổi Việt (1967)

CHU TRI LỤC 1
 Nói về chín cái vấn đề thế giới, thời đại và nhân loại

Chín mươi huấn cáo quỷ thần khốc
Mười vạn quy mô thù địch xiêu

Thái Dịch Lý Đông A

CHU TRI LỤC 1

Nói về chín cái vấn đề thế giới, thời đại và nhân loại mà phổ thông ai nấy trên mặt đất này phải nghi nan và thực tại ai nấy đều có nghĩa vụ và trách nhiệm tìm tòi giải quyết.

1. VẤN ĐỀ THẾ GIỚI 1

Các nòi giống bị tuyệt vong, linh lạc đối với loài người để lại một bài học gì?

Chúng ta hãy tạm thời lột truồng hết những bì vỏ nhân đạo chủ nghĩa của hết thảy những hành vi lịch sử ra coi, còn gì ở loài người? Một sự cạnh tranh tối vô nhân đạo. Còn gì ở vận mệnh? Một cuộc đãi lọc tối vô tình diện.

Nhưng mà loài người trên giai đoạn mới mở ra đây đã tự phụ là văn minh và giác ngộ không thể công nhận được mi hệ của tự nhiên vận động (luật cạnh tranh và thiên diễn) đó được nữa. Bao nhiêu những vinh quang chỉ là những hư hão dưới một bão táp hối hận. Người da đỏ tội tình gì? Người da đen tội tình gì? v.v… Bây giờ phục hưng làm sao lại được các giống nòi tuyệt vong ấy để cùng hưởng sống còn của văn minh, phục hoạt làm sao lại được các nòi giống linh lạc ấy để cùng hưởng ánh sáng của nhật nguyệt?

Cho nên văn minh nhân đạo bằng không có nhân chủ bả ác là giả dối. Lịch sử nhân đạo bằng không có nhân chủ trách nhiệm là phi nhân. Một công cuộc gì của nhân loại không có nhân chủ tự giác là thất bại lịch sử.

Ngày phán đoán tối hậu có chăng và tiêu chuẩn là ngày nhân chủ Duy Dân ra đời. Nhân chủ là thế nào? Bằng chủ đạo của loài người có thực tự giác lĩnh đạo loài người cùng chung sống được vô cùng mãi mãi trên Thái Bình và Vạn Xuân, mục tiêu chính trị của chủ nghĩa nhân chủ.

Một cuộc cách mạng nhân chủ phải ra đời để đả phá lịch sử cũ đã thối nát, bắt trách nhiệm các nòi đi tiêu diệt nòi giống khác, tu chỉnh lại lịch sử bằng sự dẫn dắt tương lai của nhân chủ cương thường, phục hoạt lại cả loài người.

2. VẤN ĐỀ THẾ GIỚI 2

Các nòi giống bị áp bách thực dân sao được giải phóng?

Cái vô lý, cái tàn ác của đế quốc thực dân, chủng tộc thống trị, thế giới chinh phục đã bộc lộ ra ghê tởm không cải được nữa. Tông tộc, tư bản chủ nghĩa không để sống được nữa. Cái nguyên nhân khổ sở của loài người phải tìm ra bằng tiến hóa sử của xã hội thực tiễn di lìa khỏi tự tính của xã hội nhân loại, của lịch sử không có trách nhiệm nhân chủ ở trong. Chúng ta phải tìm tòi ra cái dây rợ chân lý của nhân chủ Duy Dân, nghĩa là tìm ra phương châm, phương thức và phương pháp giải quyết. Người Bách Việt hãy mau giác ngộ vấn đề thứ nhất và thứ nhì này mà đứng lên tự mình giải quyết cho mình và cho thế giới làm gương.

3. VẤN ĐỀ THẾ GIỚI 3

Các giai tầng bị áp bách trong toàn thể thế giới xã hội giải phóng thế nào?

Sự triệt để giải phóng các nòi giống trên dân tộc thực dân và áp bách phải thâm nhập đến cả nguyên nhân vận động của các bản vị trên sự ác hóa các cơ năng (chức nghiệp, giai cấp, thế hệ, gia đình, phong kiến v.v…), như thế thì cuộc giải phóng mới toàn thể và nhân chủ. Sự điêu linh xã hội và nhân loại chính là sự bất tự giác trên nhân dân sinh hoạt kết cấu. Sự vô chính phủ của quốc dân sinh hoạt hay nhân loại sinh hoạt phát sinh ra giai cấp. Sự không có bả ác tự tại của nhân chủ chính trị trên chi phối mệnh vận phát sinh ra cơ năng mâu thuẫn.

4. VẤN ĐỀ THỜI ĐẠI 1

Hình thế quốc tế hiện nay và mai sắp tới thế nào?

Phải lấy Duy Dân biện chứng mới thực tế giải quyết được quốc tế chính trị vấn đề ngày nay. Tại sao phát sinh chiến tranh? Chiến hậu tất nhiên xu hướng thế nào?

Duy vật phái cũng như duy tâm phái và duy sinh phái đều có luận đoán của họ. Sự sai lạc đã rõ rệt ra rồi. (Xem Tổng Tiến Trình, Chiến Hậu Vấn Đề, Xuân Thu, Tuyên Ngôn v.v…)

Cuộc tranh bá chiến tranh 1940 chỉ là cái nút chuyển hình văn hóa thế giới sang Duy Nhân mà cuộc tất thắng về mặt trận nhỏ yếu sẽ đột khởi lên cuối cùng. Thế giới sẽ thành cục diện quốc tế tập đoàn, quốc dân dân chủ chuyên chính, quốc gia kinh tế xã hội hóa, quốc tế nhân văn phục hoạt (hướng tâm vận động), tựu trung chủ nghĩa Duy Dân là ý thức tự giác sớm nhất và chủ trương cao độ nhất.

5. VẤN ĐỀ THỜI ĐẠI 2

Để mà thành lập một cuộc sống còn quốc gia và thế giới chân chính, hòa bình, tự do phải làm thế nào?

Chỉ có một sự giác ngộ nhân chủ của Duy Dân dân chủ chủ nghĩa, chỉ có một cuộc phấn đấu nhân đạo của Duy Dân đảng, chỉ có một cách kiến thiết nhân bản của Duy Dân chủ nghĩa mới thực tại thành công được thôi. Cách mạng phải là một triết học, khoa học, thuật học rất cặn kẽ và rất đúng đắn, nghiên cứu triệt để về bản thân cái đạo lý của cách mạng, bản thân cái đạo lý của chính trị, bản thân cái đạo lý của kiến thiết, phải nắm giữ triệt để và sáng suốt sự tiến hành của nó mới có bả ác thành công. Chủ nghĩa cách mạng phải nhân bản, nhân tính và nhân chủ mới không thiên lệch và “dĩ bạo dịch bạo”. Sứ mệnh của cách mạng phải chân chính, cảm chiêu bởi sự thực thời đại, không là phụ đới tác dụng của thời đại, trên thời gian đã đào thải, không phải là phụ đới công cụ của một xí đồ, như thế công cuộc cách mạng ấy mới giải phóng được thành thực khổ thống của nòi giống và nhân loại.

6. VẤN ĐỀ THỜI ĐẠI 3

Loài người để mà giải thoát được khổ nạn chiến tranh, phải làm sao nắm giữ được vận mệnh?

Chỉ có một sự phản tỉnh của toàn thể loài người, lại gốc gác tự mình trên xã hội tự tính để giải thoát cái mi phọc của tự nhiên luật tắc. Chỉ có sự nắm giữ được mệnh vận bằng ngay cái cơ cấu kiến trúc loài người cho thực hợp lý hóa và thực nhân loại hóa, thực trí tuệ hóa mới được thôi. Duy Dân cơ năng và Duy Dân vận hội thực tiễn bằng cái dân chủ chân chính trên cái nguyên tắc hoạt động của quốc gia, sinh hoạt của quốc dân (nội tắc), bình quân kiến thiết ba yếu tố: hôn nhân (bộ mẹng), kinh tế (bình sản), giáo dục (kiện khang), trên các nền tảng kiến chế, tán dục và nhân chủ cương thường mới thành công.

7. VẤN ĐỀ NHÂN LOẠI 1

Loài người lấy gì làm tiêu chuẩn tối cao và tối dịch của chân lý?

Phải giải phóng cho loài người cái vũ trụ quan, cũng như phải giải phóng cho loài người cái tin tưởng rằng không có tuyệt đối chân lý được. Tuyệt đối chân lý bằng cái nhất nguyên luận trong vũ trụ quan, đó là lối tông giáo ngu dân. Tương đối chân lý bằng cái đa nguyên luận của hình nhi hạ khi lưu, đó là lối xu thời ứng thế, sự phát hiện chủ nghĩa Duy Dân trên ba thành phần biện chứng mang đến cái thống nhất và đại đồng chân chính của loài người: Duy Nhiên là ngoại tầng chân lý, nhân chủ Duy Nhân là tuyệt đối chân lý, Duy Dân tương đối là ứng dụng chân lý.

8. VẤN ĐỀ NHÂN LOẠI 2

Loài người sinh hoạt trong một chế độ gì thực bình đẳng, thực tự do, thực nhân ái?

Duy Dân dân chủ với chín cái chỉ nam nhân chủ trả lời hết cho vấn đề này.

9. VẤN ĐỀ NHÂN LOẠI 3

Thế nào là một văn minh chân chính và thực tại?

Chỉ có một văn minh nhân bản, nhân tính và nhân chủ là chân chính và thực tại. Nó là toàn diện, triệt để và hướng thượng. Nó cho loài người cái nhân quyền chân chính, nó cho loài người cái lý tưởng nhân đạo, thực tại văn minh, văn minh chịu trách nhiệm, văn minh tự giác, văn minh phổ biến và thâm nhập trên hưởng thụ văn minh, văn minh không để hối hận, đó là lý tưởng Thái Bình và Vạn Xuân. Chỉ có Duy Dân chủ nghĩa thực hiện được thôi.

Người Việt chúng ta hãy thân thiết tìm tòi sự giải quyết cái chủ yếu vấn đề này trên hiện đại. Có vạch tỏ ra được vấn đề mới có mục tiêu để mà tìm tòi nghiên cứu và giải quyết. Đã giác ngộ được các vấn đề trên là đã có một cảm chiêu nhân loại. Hãy đứng dậy bằng phấn đấu mà cứu nhân loại, cứu giống nòi.

THÁI DỊCH LÝ ĐÔNG A
4822 tuổi Việt (1943)

CHU TRI LỤC 2
ĐẢNG VỤ NGHIÊN CỨU

Nói về chín cái tiết yếu, tất cả các nhận thức cần cấp của nhân viên cách mạng hiện tại. Tiết yếu tức là tóm tắt cái cần dùng ra thành điều để dễ nhớ.

10. TIẾT YẾU 1

Phải thực cảm thấy cái nhu yếu của một công cuộc đấu tranh lớn lao trong thời đại này, cái nhu yếu ấy chính là nền tảng vững chắc và tuyệt đối của chủ nghĩa Duy Dân. Phàm những người trong nòi giống Đại Việt, sống trong thời đại ngày nay, nếu chưa quên mình là người và là người của tổ tiên Hồng Lạc, là người của cửa ngõ tương lai, hẳn đã có cái thể nghiệm trên lý tính thực tiễn được cả những thể nghiệm quốc dân Đại Việt. Hãy trông trở lại trước cả một lịch sử, hãy trông ngay đương thời tất cả một bể sống, hãy trông ra tương lai tất cả một dây sống. Trình độ thể nghiệm được sâu sắc bao nhiêu ấy là tư cách giác ngộ được bấy nhiêu. Chủ nghĩa Duy Dân chính là ở sự thể nghiệm rất sâu sắc, rất tung hợp và rất sáng suốt kia mà sản sinh nên. Chủ nghĩa Duy Dân chính là ở cái nhu yếu rất lớn lao, rất cấp bách và rất xúc động kia mà hiệu triệu ra. Chủ nghĩa Duy Dân chỉ có một nền tảng là sự thực của cả lịch sử thời đại và tương lai. Chủ nghĩa Duy Dân chính là ở nhu yếu và sự thực của một cuộc đấu tranh lớn lao, không phải riêng của những người Đại Việt mà là của tất cả mọi người Đại Bách Việt, của toàn nhân loại đứng dậy xô mình vào nước lửa để mong cứu vớt cho nòi giống khỏi tất cả những áp bách ma quỷ của đế quốc, của các hình thái sinh hoạt kỳ hình, để cứu vớt loài người nhỏ yếu khỏi tất cả những áp bách ma quỷ của xâm lược, của những quyền lợi tối đen ghê tởm, để cứu vớt loài người khỏi tất cả những áp bách của vô giác, của những phân chia đau đớn thảm thương.

Quốc dân phải hiểu cái sự thế của nền thống trị Pháp Lan Tây, cũng như tất cả các nền thống trị khác muốn đem quyền lực mình ra chi phối toàn thế giới, đem tất cả những người xuống cúi đầu dưới những người. Các nòi giống nhỏ yếu nên hiểu rõ rệt tất cả những chiêu bài đạo nghĩa hay quyền lợi của những lưỡi lê đồ bá, những khuyến dụ và những thủ đoạn lừa bịp của bọn buôn loài người. Cả thế giới còn nên hiểu rằng: Một ngày loài người không xây đắp được nền nhân chủ là một ngày loài người còn trong bấp bênh của sống chết và dưới những huyễn ảnh không bờ bến. Cho nên Duy Dân chủ nghĩa sản sinh nên, hiệu triệu ra, chính là bằng cái kết quả rất thích đáng, rất tung hợp của tất cả loài người đã từng và đang thiết tha hy vọng một cuộc kết luận tối hậu của loài người. Chủ nghĩa Duy Dân đấu tranh cho cuộc kết luận tối hậu của cả loài người, cuộc tự quyết cho nòi giống, cuộc hạnh phúc cho mỗi người.

Chủ nghĩa Duy Dân sinh ra:

  • Để chối bỏ tất cả những cái dã man trên loài người.
  • Để chối bỏ những cái chia rẽ trên loài người.
  • Để chối bỏ những cái đau khổ trên loài người.
  • Để chối bỏ những cái thừa thãi có hại trên loài người.
  • Để chối bỏ tất cả những cái giả dối buôn loài người.
  • Để chối bỏ tất cả những cái cùm buộc loài người.

Tất cả những sự thực trên lịch sử loài người cũng như tất cả những tư tưởng của đời sống thế giới đã được đãi lọc qua một phương pháp mới và một tinh thần mới, một ý chí mới mà nên công cuộc mới của Duy Dân.

11. TIẾT YẾU 2

Công cuộc mới của Duy Dân, đó là công cuộc cởi mở triệt để, chân chính và toàn thể cho nòi giống Hồng Việt, tiến lên đùm bọc bằng cởi mở triệt để, chân chính và toàn thể cho nòi giống Đại Bách Việt, tiến lên nữa đùm bọc bằng cởi mở triệt để, chân chính và toàn thể cho tất cả các nòi giống nhỏ yếu, sau nữa đùm bọc bằng cởi mở triệt để chân chính và toàn thể cho tất cả nhân loại. Đó là cái phương châm duy nhất và tối cao của chủ nghĩa Duy Dân.

Sự phát hiện ra một vũ trụ quan, một nhân sinh quan và một chính trị quan thực đúng chân lý, thực hợp nhân loại cho chủ nghĩa Duy Dân một con đường đi rất chắc chắn, rất thẳng thắn và rất ngay thực, nghĩa là cho tất cả mỗi người quốc dân Đại Việt, cho mỗi người quốc dân Đại Bách Việt, mỗi người nhân dân thế giới một con đường đi rất chắc chắn, rất thẳng thắn và rất ngay thực, từ sự cởi mở tự mình cho đến sự cứu vớt nòi giống và cứu vớt cả loài người. Tất cả các nghi vấn của loài người từ xưa: tri hành chế độ, nhân luân kinh tế cho đến tất cả các vấn đề hiện tại của loài người ngày nay “nòi giống nhỏ yếu, giai cấp bị đè nén, loài người bị tiêu ma, cơ cấu chính đáng của loài người, hành động hợp lý của quốc gia” đều được bằng sự thực hành Duy Dân mà giải quyết rất nhân bản, rất nhân tính và rất nhân chủ.

Chỉ có Duy Dân dân chủ trên nhân chủ cương thường mới là phương pháp rất nhân loại, thật chân lý, thật nhân chủ, để đem đến cho loài người một cuộc sống yên ổn mà sáng láng, hòa bình mà lâu dài.

Mỗi người quốc dân Việt riêng được cảm thấy cái thế nào là sáng tạo, cái thế nào là sống thực, bằng sự thực thể nghiệm và nghiên cứu chủ nghĩa Duy Dân. Những người sai lầm trên loài người sẽ được rõ cái thế nào là tiêu chuẩn của chân lý tuyệt đối của loài người trong đời sống loài người. Người quốc dân Việt riêng phải đứng triệt để trên mặt trận gốc Duy Dân mà thực hành cái lý tưởng tối cao quý của tự dòng máu sống còn của lịch sử nước nòi mình nở hoa ra.

12. TIẾT YẾU 3

Mục tiêu của mặt trận Duy Dân là trên then chốt của thời đại “cứu nước và giữ nòi” bằng một cương lĩnh rất đầy đủ, thi hành một cuộc cách mạng triệt để, toàn diện và hướng thượng mà kiến thiết bằng một cuộc sáng tạo toàn diện, triệt để và hướng thượng nên toàn bộ một thế hệ sinh mệnh và văn hóa rất nhân bản, rất nhân tính và rất nhân chủ cho nòi giống Hồng Việt và Đại Bách Việt. Nó là mục tiêu viên mãn của công cuộc đấu tranh.

Sự kiến thiết quốc gia của người Duy Dân sẽ bằng tinh thần mới, ý chí mới và phương pháp mới kia thành một công cuộc triển khai ra khác với tinh thần, ý chí, phương pháp và công cuộc của thế giới cũ đầy những sự thực đáng tiếc. Quốc gia Đại Việt Duy Dân sẽ nắm giữ được vận mệnh cao quý và hạnh phúc của nền Thái Bình mới ấy trên muôn đời trong sự sống còn chung, một cách thân ái và thành thực với loài người chung cả. Quốc gia Đại Việt Duy Dân sẽ không để cho những vấn đề cá nhân, tông tộc, chức nghiệp, giai cấp, thế hệ, nam nữ trở nên những tai họa, trái lại sẽ để cho những sức lực tinh thần và vật chất ấy chung góp vào một mục đích chung và rất hợp cho mỗi người và mỗi đời. Cái tinh thần mới mà loài người phải có là cái tinh thần của Duy Dân kia, tức là tinh thần nhân bản. Cái phương pháp mới kia là phương pháp nhân tính. Cái ý chí mới kia tức là cái ý chí nhân chủ. Công việc mới kia tức là công việc nhân loại. Tất cả thế giới hẳn sẽ công nhận thẳng thắn rằng chỉ có sự kiến thiết trên cơ sở cao quý đó mới không có hạl cho quốc dân, cho loài người.

13. TIẾT YẾU 4

Đảng Việt Duy Dân cương quyết làm tròn sứ mạng của mình bằng sự nhận thức chính xác và thẳng mặt các địch nhân của mình. Đảng Việt Duy Dân thực hành chủ nghĩa Duy Dân chính theo cái thái độ cách mạng và sáng tạo của Duy Dân là thực hiện đến toàn diện, triệt để và hướng thượng. Đảng quyết phụ trách trước quốc dân và thế giới công cuộc của mình cho đến cùng, phi Đảng Việt Duy Dân ra thì không có sức lực nào đảm đang được sứ mạng lớn lao và cao quý kia. Các đồng chí Duy Dân và quốc dân toàn thể sau khi đã nhận thức rõ rệt cái nhu yếu của đấu tranh, cái phương châm của đấu tranh, cái mục tiêu của đấu tranh, phải nhận thức liền đến các địch nhân của mình.

Địch nhân của Duy Dân tức là địch nhân của nòi giống Bách Việt, là địch nhân của quốc gia Việt, là địch nhân của toàn thể giống nòi nhỏ yếu, là địch nhân của toàn thể loài người. Các địch nhân ấy, Đảng không trông bằng con mắt hằn thù mà cũng chẳng trông bằng nguyên tắc. Đảng trông bằng thực tiễn quá trình rất biến hóa của đấu tranh và lịch sử.

Cho nên:

a) Ngoại địch có:

1) Hạng địch nhân đã và đang thành lập cuộc thực dân thực tại trong cõi Hồng Việt là tổ quốc chúng ta, trăm ngàn lần tiêu diệt chúng ta.

2) Hạng địch nhân đang can thiệp bằng vũ lực vào sự sống còn trong cõi đất chúng ta, mà chưa thành lập nền thống trị.

3) Hạng địch nhân còn rất âm mưu khuy du và trở ngại công cuộc sống còn của chúng ta, nhưng hẳn là địch nhân tối hậu của thời đại chúng ta.

b) Nội địch có:

1) Hạng công cụ đảng của quốc tế thống trị, tích cực mang nòi giống ta vào một chế độ bán thực dân hay hình thức nào khác.

2) Hạng tư đảng vô ý thức, chỉ cốt cát cứ, vinh thân phì gia.

3) Hạng mạt loại phản cách mạng, quan liêu công cụ, chó săn, mật thám, cá nhân mãi quốc, phản động, vô tổ quốc ở dưới dẫn dắt một ngoại địch nào sai xử.

c) Thời địch có:

1) Những nhược điểm văn hóa và tinh thần của quốc dân ta.

2) Những nhược điểm cách mệnh vận động trên bản thân.

Sự khắc phục các thời địch chính là các cuộc đấu tranh nội tại mà nền tảng, các đồng chí Duy Dân nên gắng sức đối phó luôn luôn đừng quên nhãng cũng như đối phó với ngoại địch và nội địch.

Việc nghiên cứu địch nhân cho rõ rệt là việc đưa đến phương pháp đả phá được địch nhân và xử trị được địch nhân rất thần hiệu rất hợp lý và rất nhân chủ. Mặt ngoại giao cũng như mặt chiến đấu và chính trị, bản đảng đã rõ rệt chỉ định các nguyên tắc đả phá và xử trị địch nhân, cốt nhất là không bỏ lỏng địch nhân một chút nào, mà cũng không thể để cho quốc tế nghị luận chúng ta không quy củ trong sự xếp đặt trình tự cách mạng. Cái bảng liệt kê địch nhân trên kia dưới sự giám thị của thế giới thông chứng học, chín cương lĩnh đã dự liệu thế nào, các đồng chí phải luôn luôn xét nét.

14. TIẾT YẾU 5

Đảng Việt Duy Dân rất thân ái và thành thực hoan nghênh các bạn hữu hiện tại và tương lai của mình, cương quyết không để cho ai di hám. Lại còn sự nhận thức bạn hữu của công cuộc đấu tranh cũng là một tiết mục trọng yếu. Tất cả quốc dân, tất cả mọi người đau khổ vì một lẽ gì trong loài người đều là bạn hữu của chúng ta. Hãy tranh thủ lấy sự đồng tình lớn lao đó, hãy hóa địch nhân ra bạn hữu đi, đó là khẩu hiệu của Đảng. Phải phân chia ra các loại địch nhân, đó là một mối đau lòng của sự thể bó buộc. Nhưng mà sự cố gắng phục vụ cho loài người và cho nòi giống hẳn đưa đến cho chúng ta lòng bạn hữu của mọi người là tất nhiên. Phàm thành thực tán thành, ủng hộ, khuông cứu, giúp đỡ, tranh đấu, thanh viện cho chủ nghĩa Duy Dân, nghĩa là cho công cuộc độc lập, thống nhất và kiến thiết quốc gia Đại Việt, đó là bạn hữu chúng ta. Đảng Việt Duy Dân trên chính sách cấp cứu thế giới đã tỏ rõ thái độ thế giới của nòi giống Đại Việt rồi, các phản hưởng quốc tế tất đem đến biểu thị mọi mặt. Đảng Việt Duy Dân chủ trương đối nội đã tỏ rõ thái độ quốc gia trong nòi giống dân chúng rồi, các phản hưởng quốc nội hẳn rõ ràng biểu thị mọi mặt. Bạn hữu với thù địch đều là người, chúng ta thực thà mà nói rằng chúng ta tranh đấu chung cho hạnh phúc cả của hai bề, cái thắng lợi của chúng ta nào đem riêng kết quả cho ai? riêng ai?

15. TIẾT YẾU 6

Thời cơ mà Đảng đã bắn ngọn lửa thứ nhất là lúc Đảng cương quyết và nghiêm nghị vạch mặt, chỉ tên địch nhân ra, lúc ấy là lúc không thể thỏa hiệp, không thể trì hoãn, không thể buông lỏng sự tiêu diệt địch nhân mọi hạng được. Cái cương lĩnh địch với bạn đi đôi với cái phương pháp và nguyên tắc xử trị địch nhân của Đảng, tỏ ra Đảng rất sáng suốt và nhân ái. Sở dĩ Đảng để đến thời gian tối hậu mới vạch mặt chỉ tên ra là để toàn thể quốc dân với toàn thể đồng chí không còn nghi ngờ gì nữa, mà địch nhân cũng không thể oán thán gì nữa, còn là cái trình tự tất nhiên của công cuộc đối ngoại vận dụng, cái biến hóa quốc tế và quốc nội tăng tiến thêm việc cảm hóa người về mình. Thời gian đã vạch tỏ ra, chúng ta chỉ còn bằng phương pháp và nguyên tắc của ta mà làm việc triệt để.

16. TIẾT YẾU 7

Đảng Việt Duy Dân dàn bày cuộc đấu tranh của mình ra trên phương thức dự kế cách mạng, vũ lực cách mạng của toàn dân Đại Việt. Chỉ có dự kế cách mạng mới đem đến cách mạng lên trình độ tự giác, sáng suốt, có kế hoạch, có quy củ, có phương châm, đem nòi giống lên toàn thắng lợi. Mà cũng chỉ có phương thức vũ lực cách mạng của toàn dân ở dưới chỉ đạo của dự kế cách mạng Duy Dân là cách cỗi gốc có thể đem đến những kết quả của những yêu cầu cỗi gốc của nòi giống. Phải giải quyết vấn đề cỗi gốc, phải giải quyết lịch sử bằng cỗi gốc lịch sử, phải giải quyết thời đại bằng thời cơ cỗi gốc của thời đại, phải kiến thiết quốc gia bằng lực lượng cỗi gốc của quốc gia, phải thành lập văn minh bằng cỗi gốc của loài người văn minh.

17. TIẾT YẾU 8

Tinh thần tranh đấu của Duy Dân là bằng nhân đạo phục vụ cho loài người. Các đồng chí của Đảng phải thông hiểu và thực tiễn được sinh hoạt nội tắc, thông hiểu và thực tiễn được đảng vụ dung kinh mà lấy đó ra khởi phát cho quốc dân và nhân loại. Mỗi đồng chí phải luôn luôn tự nhiệm lấy sứ mệnh của hồn Vạn Thắng của hồn Thái Bình, của hồn Duy Dân. Chỉ có đó làm cách mạng hồn, làm quân hồn và quốc hồn của thời đại mới.

18. TIẾT YẾU 9

Thủ đoạn tranh đấu của Việt Duy Dân là bằng nhân đạo phục vụ cho loài người; nguyên tắc của Việt Duy Dân phải thực hành bằng thủ đoạn của Việt Duy Dân. Cái kỹ thuật: Cao, Thâm, Quy, Long là những thủ đoạn mà chúng ta chỉ phải ứng dụng đối chiếu với thủ đoạn của thời đại mà thôi. Chúng ta triệt để tâm tưởng rằng thủ đoạn ở bên trong mục đích mà mục đích là sự phục vụ cho loài người. Mỗi người đứng trước chúng ta đều là mục đích cả mà chẳng phải là thủ đoạn. Chúng ta bằng một công cụ và vũ khí tinh thần mới: biện chứng Duy Dân là một thủ đoạn tối cao, chúng ta có thể thời thời ứng phó bằng sáng tạo và tranh đấu mà ra các thủ đoạn thật thích hợp cho cách mạng bất cứ trên nền tảng và điều kiện xã hội nào. Nhưng mà cái thủ đoạn của toàn thể quốc dân và đồng chí là Đảng Việt Duy Dân dùng đó mà đạt tới sự thắng lợi trọn vẹn của nòi giống.

Chỉ có Duy Dân chủ nghĩa,

Chỉ có Duy Dân biện chứng,

Chỉ có Việt Duy Đảng,là thủ đoạn tối cao của mỗi người quốc dân Đại Việt nào muốn mong cho nòi giống sống còn và loài người hạnh phúc.

CHUA THÊM:

Bản này coi làm cương lĩnh lập Đảng, kiến quân và lập lâm thời quân chính phủ của Đảng. Phàm đảng viên, phàm đồng chí, chiến sĩ phải thực tế lấy làm đề tài mà trau luyện và phát dương cho tường mật.

X.Y. THÁI DỊCH LÝ ĐÔNG A

CHU TRI LỤC 3
CƯƠNG LĨNH CÁCH MẠNG VIỆT

Nền tảng và điều kiện khách quan tạo thành đời sống thế giới của nòi giống phải được xét nét lại trên suốt cả lịch trình xưa, nay cho đến mai, lấy đó làm một tiêu chuẩn và một cột mốc cho sự đo ngắm con đường chính trị của nòi giống trong xã hội loài người. Đấy là cương lĩnh thứ nhất: Quốc tế biên tế phát triển.

Nòi giống coi là một chính thể mà chính thể ấy trên sự vận hành, tự có nền tảng và điều kiện của nó, ta có thể gọi là nền tảng và điều kiện trung gian ở giữa khách thể là quốc tế và chủ thể là dân tộc coi trên nội dung, trong suốt cái dòng sống ấy, trên một vị trí nào, bị những ảnh hưởng gì, phản ứng thế nào, thành công hay thất bại đều là những bài học lịch sử của chính trị quốc gia; sự vận hành của cái chính thể ấy không lìa cái trục trung tâm của mình, đấy là cương lĩnh thứ hai: Dân tộc căn bản lập trường.

Cái lập trường cỗi gốc của dân tộc bao giờ cũng đôi, như hình với bóng với sự phát triển bờ cõi của quốc tế. Lập trường từ muôn năm về trước đến nay trên đại vận biểu hiện bước đi của Totem biện chứng về Tiên Rồng đã, rồi mỗi giai đoạn trên lịch sử Tiểu Việt đều có thể quy nạp vào một lập trường với sự xử trí của người đương thời tự đắc thất mà định lẽ hưng suy, tồn vong, có thể ở đó mà định lẽ khen chê; rồi tất cả một chuỗi những lập trường đó kết lại với nhau thành một khí mạnh và có lý tắc nhất quán từ tối cổ đi theo một trật tự lịch sử, suy diễn cho đến lập trường tối cận từ 1856 cho đến 1885, lại từ 1885 đến 1918, từ 1918 đến 1939, từ 1939 đến 1950 cho tới tương lai 2000, ở đấy ra một thức vận số kỷ hà học:

1) (1939-1950) -  Dẫn một vạch tới bờ cõi phát triển của quốc tế (50-2000) mà thành ra con đường sống quốc dân của dân tộc.

2) (1939-1950) -  Dẫn một vạch tới bờ cõi phát triển của quốc tế (50-2000) mà thành ra con đường sống thế giới của dân tộc.

Nền tảng và điều kiện chủ quan trên đời sống dân tộc trong kết cấu xã hội và quan hệ kinh tế của nó làm xuất phát điểm cho sự quyết định một phương châm với kế hoạch rõ rệt trên cách mệnh, kiến thiết và chính trị của quốc gia, nó tức là nền người của mỗi cử động và mỗi chế độ. Đó là cương lĩnh thứ ba: Xã hội kết cấu của dân tộc.

Hiệu suất và hiệu quả của sự hô hào và vận dụng được tâm lý và yêu cầu của dân chúng, tâm lý bình diện của dân chúng từ đó dẫn một vạch tới tâm lý lập thể của dân chúng hoàn thành một trình thức lập phương của kỷ hà học, nó phản chiếu tất cả cái hình ảnh chế độ với sự nghiệp cách mạng và kiến thiết thật vững chắc, đó là đời sống xã hội của dân tộc. Đấy là cương lĩnh thứ tư: Dân chúng yêu cầu của dân tộc.

Tom góp bốn cương lĩnh trên mà thành một chương trình của cách mạng phải tiếp liền với những nền tảng và điều kiện bây giờ, sau khi cách mạng vừa thành công và tương lai kiến thiết. Cái mực độ của cuộc sống biểu hiện trên văn hóa loài người thành một chính thể từ bây giờ cho tới tương lai quy định cuộc sống chế độ về mọi mặt chính trị, quân sự, xã hội, kinh tế và nhân chủng của toàn thế giới là một mục tiêu để đạt tới cuộc sống cho dân tộc. Đấy là cương lĩnh thứ năm: Thời đại văn hóa của quốc tế.

Nhưng mà xuất phát điểm của cuộc kiến thiết quốc gia đứng ngay trên mực độ đời sống văn hóa của dân tộc, từ đó dẫn một vạch tới thời đại văn hóa của quốc tế hình thành con đường sống kiến thiết của dân tộc, chủ quan phối hợp với khách quan. Đấy là cương lĩnh thứ sáu: Thủy chuẩn văn hóa của dân tộc.

Tất cả sáu cương lĩnh trên, dưới một nghiên cứu thật đích đáng vạch tỏ rõ rệt những nguyên tắc tối cao và chắc chắn nhất, hiện thực nhất, làm chỉ nam cho cách mạng, chính trị và kiến thiết của dân tộc, đem tất cả con đường sống kỷ hà học chắp vào một con đường biện chứng thống nhất tính với một con số thống kê mà nắm thắng hiện thực và giả định chắc chắn hay diễn dịch đích đáng mà thành. Đấy là cương lĩnh thứ bảy: Chính trị phương châm quốc gia.

Sự thực hành những nguyên tắc chỉ đạo trên kia phải y cứ vào một hiện đồ có con số và điểm tuyến mà thi thố ra bằng những chương trình thực tiễn, xác thực và bách chân. Đấy là phần ứng dụng quan hệ nhất. Phải đem một biện chứng đúng xác nó dẫn dắt và một quan sát trọn vẹn nó giữ lại, mới khỏi sai lầm trên sự lĩnh đạo trong trận thế. Đấy là cương lĩnh thứ tám: Đấu tranh cương lĩnh.

Lại một khi cách mạng thoạt thành công, sự nhập thủ vào kiến thiết với sự đưa dắt sự kiến thiết ấy lên một bả ác để đem vào một quỹ đạo xã hội cho thành công, còn trông ở cái triết học, khoa học và thuật học trọn vẹn tỏa ra một dự biết, dự đoán đó mà thành công trước khi thành công. Đấy là cương lĩnh thứ chín: Kiến quốc qui mô.

Chín cương lĩnh trên trong nghiên cứu và phát hiện phải nhờ dựa vào một thức học đem quy nạp vào biện chứng của chủ nghĩa, sự thâu thái được cái hiệu quả lý luận thống nhất với thực tiễn, con số thống nhất với lý tắc của lịch sử thống nhất với biện chứng, đó là do sự trăm phần trăm đúng xác của chủ nghĩa.

Chủ nghĩa trên tiêu cực tác dụng mới để tuyên dương và hiệu triệu, nhưng cái tác dụng tích cực của nó là ở trong sự thành lập đời sống đích xác của loài người, tức là ở sự nghiên cứu, phát minh, kiến thiết và vận dụng thực tiễn. Chủ nghĩa vừa sinh ra trước 9 cương lĩnh này để nghiên cứu nó mà còn vừa sinh ra sau nó để lấy nó chứng minh trên lý luận và thực tiễn cho sự đúng chắc của chủ nghĩa, cái ấy bảo đảm cho hành động chúng ta thành công.

19. CƯƠNG LĨNH 1

Quốc tế biên tế phát triển.

Thời kỳ thành thục rồi hủ bại của một văn minh đưa dắt đến cuộc vỡ lở của toàn đời sống thế giới, ở đó sản sinh ra con đường quặt của vật chất và tinh thần, nó tu chỉnh lại con đường nhân loại học của tiến hóa gọi là kỳ chuyển hình từ đó.

Như ta thường nói, từ 1862 trở về trên, trước 1856 là thời kỳ mà đời sống quốc tế và khách quan của dân tộc ta chỉ hạn chế trong lòng thiên hạ nòi Hán. Sự gặp gỡ Đông Tây đã đem trận 1870 và 1918 thế giới hóa mà trải qua giai đoạn 49 năm đó tới thời kỳ 1919-1939 là thời kỳ rõ rệt nhất của loài người trong cuộc đấu tranh của ba trận doanh quốc tế (dân chủ tư bản, cực quyền chủng tộc, cộng sản thống trị). Cuộc hỗn chiến 1939­1945 quyết định cái mầm mống của vỡ lở và chuyển hình, nó đặt để thời kỳ hướng tâm với một chế độ thế giới mới từ 1950 trở đi.

Dân tộc nhân tố, giai cấp hình thể và tâm lý trào lưu của thế giới trong khoảng hỗn chiến này đã quyết định xu hướng tương lai của chúng ta; để mà thành công, chỉ chiếu ứng vào cái hiện đồ mà xếp đặt công cuộc cách mạng của dân tộc.

20. CƯƠNG LĨNH 2

Dân tộc căn bản lập trường.

Lập trường 1940 và lập trường 1950 là hai điều cần biết. Hãy nói trước về lập trường 1940 đối Tàu, Nhật, Thái, Pháp, quốc tế và tự thân.

1) ĐỐI TÀU

Muốn biết lập trường của mình đối với người và người đối với mình, sự tự xem mình một mặt đã cần, sự xem người trên hết các xu hướng của phát triển lịch sử cùng là chính trị lộ tuyến của người về phía mình một mặt còn rất cần.

Trung tâm của quy luật lịch sử Tàu là: “Hữu đức giả hữu thổ”; hữu đức đây không phải là đạo đức, nhưng lấy ý nghĩa nghiêm ngặt của nó trong kinh sử Tàu mà giảng giải thì nó là lấy tài hóa thu nhân tâm. Cái quy luật đó đem phối hợp với ý chí của dân tộc ấy là “hưng Hoa diệt Di”, hình thành một cái định nghĩa của một tấm lịch sử xâm lược. Cái nguyên tắc chủ yếu ấy từ cổ tới nay đã từng thực hành mà còn có thể nói có chứng cớ rằng vẫn thực hành. Bằng cớ sự đem ra thực tiễn các kho nguyên tắc này là kinh sử vẫn thấy nhan nhản. Kinh sử vốn là miệng lưỡi của cái thanh giáo nhà nho làm trung kiên cho xã hội quan liêu dân chủ, trung lưu tư sản phong kiến của cái thiên hạ đại đồng chủ nghĩa lối Hán, mà vũ khí và thủ đoạn chủ yếu là chủng tộc xâm lược. Chủng tộc được suy tiến theo lối “tam niên dưỡng nhi giáo chi tất giai ngô dân”, văn hóa được suy tiến sau chủng tộc làm sự duy hệ và thế thủ sau thế công: “tuần tuyên văn giáo, thủ tại tứ Di”, kinh tế theo sau nữa: “hữu đức giả hữu thổ” mà chính trị chiếm lĩnh là cần yếu hơn “phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ”, tất cả đều phục tòng dưới lưỡi lê: “nhưỡng Di Địch, phạt Man Khương”.

Nếu không tin mà còn tin vào Khổng Mạnh. xin hãy giở pho sử muôn năm của ta với tất cả thảm thương sỉ nhục của sự bị đè nén, bị xâm lược, bị hiếp tróc; lại xin tham khảo lịch sử của các dân tộc Man Di bốn phía Tàu. Quốc dân, chính trị gia và cách mạng gia hãy giở lại cái quan hệ của sự giúp đỡ cách mạng lẫn nhau giữa nòi giống ta và nòi giống Hán, hãy thể nghiệm cái sầu hận đời Hậu Trần và Lê Chiêu Thống, hãy tiếc róc cái đối đãi tốt của ta đối với lũ Hậu Tống, Hậu Minh.

Còn có kẻ thân Tàu, sùng bái Khổng Mạnh, ủng hộ Tôn Văn, nói rằng việc cũ bỏ đi, trăm điều phải trông vào xu hướng mới. Cái xu hướng mới của Cách Mạng Tân Hợi (1911) tức là sự chuyển hình của một đế quốc lối Á Đông phong kiến, sang lối dùng những tinh thần và vật chất vũ khí của các đế quốc tư bản lối Âu Châu.

Hãy xem Đảng Quốc Dân Tàu hiện làm chủ trào lưu của chính trị lộ tuyến và xu hướng nước ấy. Sự quyết định chính sách của mỗi đảng hay mỗi nước còn căn cứ vào cái thành phần xã hội của đảng hay nước ấy, tự nó giải nghĩa hết và quy định hết các hành vi hay tâm lý để rồi hãy xem đến quốc sách với chủ trương sau. Nền tảng của Quốc Dân Đảng Tàu bao gồm một giai cấp từ trung tư bản đến đại tư bản trở lên cầm đầu bởi lũ quân phiệt tư bản nho sĩ đè nén tiểu tư sản và vô sản giai cấp, mua chuộc sự thỏa hiệp với đế quốc bên ngoài, mong học đòi cái kết cấu ấy quyết định con đường tư bản đế quốc chủ nghĩa, phối hợp với chủng tộc thiên hạ chủ nghĩa cũ mà nảy nở ra một hình thức đế quốc chủ nghĩa Tam Dân. Tam Dân chủ nghĩa chỉ là một chủ nghĩa chủng tộc xâm lược, hơn nữa là một chủ nghĩa xâm lược thế giới. Đã biết rằng Tam Dân chủ nghĩa là thủ đoạn đó, sự phân tích dân tộc chủ nghĩa là đặc biệt cần yếu (chú ý: dân tộc chủ nghĩa của Tam Dân).

Dân tộc chủ nghĩa ấy tóm tắt 5 yếu điểm này:

A. Trung Quốc dân tộc tự cầu giải phóng hay là nòi Hán tự cầu đổi lốt.

B. Quốc nội dân tộc nhất luận bình đẳng.

Khoảng năm 1885 cách mạng Tôn Văn ra đời, cực lực chủ trương chủng tộc. Lúc bấy giờ y đề xướng ra nòi Hán diệt nòi Mãn, rồi lãnh đạo nòi khác ở Á Đông, chưa bị hay hiện bị dưới ách của Tàu. Sự dập gẫy làm y giảm bớt sự quá khích mà đề xướng Ngũ Tộc Cộng Hòa (khoảng Tân Hợi 1911). Ngũ Tộc Cộng Hòa chỉ là một liều thuốc độc bọc bánh ngọt, bởi vì nếu kể về nhân khẩu trong đất Tàu thì 90% là Hán còn 10% là các nòi Mãn, Mông, Tạng và Miêu (Việt núi). Như thế thì chế độ Ngũ Tộc Cộng Hòa dung túng cho số đông nuốt số ít mà số đông ấy càng được đông người và thêm đất, hợp với mục đích lập quốc lắm. Nhưng bệnh quá khích lại nổi dậy để Tôn Văn (khoảng năm 1916) đề xướng ra luận quốc tộc. Quốc tộc là gì? Để Tôn Văn tự giải nghĩa. Là: đúc các dân tộc vào một lò mà thống nhất thế giới. Sự yêu cầu đồng hóa bằng áp bách và hiếp tróc các dân tộc chung quanh là như thế. Còn một điểm cần chú ý trong tập “Kiến Quốc Đại Cương” nó bày tỏ cái mâu thuẫn của dã tâm đó càng bộc lộ là đã nói để các dân tộc nhỏ yếu trong nước được bình đẳng, tự quyết mà nguyên tắc kiến quốc tối cao lại quy định đem chia toàn quốc ra tỉnh, quận, huyện. Sự quy định ấy giá trị một lò đồng hóa người.

C. Liên hiệp nhược tiểu, cộng kháng cường quyền, nó là một bãi nhỗ chua chát vào mặt các nòi giống nhỏ yếu toàn thế giới, bằng sự liên hợp ấy làm dưới Đại Á Tế Á chủ nghĩa của Tôn Văn (khoảng năm 1921-1922). Tôn Văn nói: “Ta phải đem các dân tộc Thái, Việt… liên hợp lại cùng chống đế quốc” (chú ý đến chữ “đem” và “liên hợp”). Ấy đấy sự liên hợp như vậy, nghĩa là đem mà thôn tính vào, tất nhiên cái truyền thống “thủ tại tứ Di” với cái thuật ngữ “sinh tồn không gian” làm cho người Hán ngớp đất Nam Dương nhiều nhất.

D. Hưng diệt kế tuyệt, cứu nhược phù khuynh, gọi là lý tưởng ngoại giao của lễ vận đại đồng của họ, nhưng đó chỉ là một chiêu bài giả đạo đức bao trùm cái sự thực can thiệp đến đời sống người khác và bắt ép các nòi giống nhỏ yếu thế nhập đảng Tàu và tôn phù chủ nghĩa Tam Dân để mà đi đến mục đích cuối cùng là:

Đ. Hoàn thành kiến thiết thế giới đại đồng, nghĩa là xâm lược thế giới là bước cuối cùng của chủ nghĩa. Dân Sinh với Dân Quyền là những hộc lương, xẻng đất và súng ống đeo lên lưng Dân Tộc chủ nghĩa để đi trên con đường năm chặng trên kia, bất tất luận.

Nhưng nếu có người trách tôi là nhiễu sự và moi móc thì nên hiểu rằng ta phải cùng lý để mà tri ngôn, lời nói đa số là mặt nạ, phải dò đến bối cảnh và động cơ của các lời nói ấy mới biết rõ cái hành động tiềm tàng trong bản vị. Còn nhớ Tôn Văn nói với cụ Phan: “Các ông bất tất phải làm, Việt Nam chỉ là một tỉnh của Tàu, chúng tôi làm xong thì xong”. Cũng như họ Tưởng bây giờ nuôi mấy đứa Việt gian và nói rằng: Việt Nam là Tàu, Việt Nam để người Tàu làm giúp cho”. Thử hỏi khi Tàu đổ bộ trên đất này, bao nhiêu quyền hành về tay Hoa kiều cả, binh sĩ bị hỗn hóa với lính Tàu thì thi hành kế gì để đuổi chúng về?

Nhưng nếu lại còn nghi nữa, cho rằng đấy chỉ đứng về lý luận mà quan sát, cần biết rõ những hành động thực tế của chính phủ ấy thì những chứng cớ thực tiễn, ta lại bày tỏ ra đây để cùng chứng minh cho sự thực là sự thực, phải là sự thực hay sẽ là sự thực:  Dư luận dưới sự chỉ đạo của đảng Quốc Dân Tàu, nói về vấn đề Việt Nam chỉ có hai câu trên trăm nghìn muôn miệng là: Việt Nam là thuộc địa của Tàu, ta phải thu phục lại đất mất cũ của ta là Việt Nam.

- Giáo dục để nuôi cái xu hướng chính trị trong mầm mống nòi giống cũng chỉ có hai câu đó suốt từ ấu học đến đại học.

Học thuật và lý luận chỉ đạo của lịch sử học tiến từ “Quốc Tộc Luận” và “Hán tộc ưu việt” đến “Quốc quân sử luận” một ngày một tăng tiến đến lĩnh vực của dã tâm.

-  Chính Trị Địa Lý Bộ, tức là bộ tham mưu chính trị quy định chính lược và chiến lược. Bộ ấy ở Trùng Khánh năm 1940 lên tiếng ra bộ “Đông Á Địa Lý” quy định tám con đường phát triển của nòi Hán sau này:

1) Tây Bá Lợi Á.
2) Tây Tạng, Ba Tư.
3) Tân Cương.
4) Ấn Độ.
5) Việt, Thái, Miến, Tân Gia Ba.
6) Nam Dương liệt đảo.
7) Úc Châu.
8)Thái Bình Dương Đông liệt đảo, Hàn.

Nhưng mà sự chuẩn bị quân sự để nhập Việt có thể moi móc cái tim ruột, cái mục đích của cuộc hành quân này, mặc dầu là đi giải phóng, bằng sự phát quật các chiến lệnh trong quân, ngoài dân do bộ tuyên truyền và quân chính bí mật phát bố ra: 1) Lộ ố Nàm phồ (lấy vợ An Nam). 2) Dìu ố Nàm sìn (tiêu tiền An Nam). 3) Chì ố Nàm tì (ở đất An Nam).

-  Kiều Vụ Chính Sách: tức là tiền phong của ngoại giao xâm lược. Ngày 1 tháng 5 năm 1933, tờ Đại Lộ Nguyệt San ở Thượng Hải đăng một cuộc “Nam Dương Hoa Kiều Cộng Hòa Quốc vận động” chủ trương lấy Hoa kiều làm chủ lực lập quốc, xâm lược lấy toàn đất Nam Dương lập thành Hoa kiều Cộng Hòa Quốc, trong đó có quy định về Việt Nam: Bắc Kỳ quy về mẫu quốc, Trung Kỳ và Nam Kỳ thuộc về Hoa kiều thống trị. Nước ấy sau khi đồng hóa hết thổ dân rồi sẽ hợp nhất với mẫu quốc. Cái suy luận ấy suy động bởi Quốc Dân Đảng Tàu, cũng như hồi 1942, tháng 11, ngày 26 trên tờ Quảng Tây Nhật Báo một nhà Kiều Vụ Ủy Viên Trung Ương có tiếng đề xướng ta “Hoa kiều thổ hóa vận động” quy định rằng bề mặt phải thổ hóa, nghĩa là người Hoa kiều phải ăn mặc theo người thổ dân, nói tiếng người thổ dân, ảnh hưởng văn hóa người thổ dân để bề trong tăng mạnh thêm tác dụng Hoa hóa.

Chính sách chiến hậu của người Tàu theo đúng như mục tiêu chính trị trên, đối trong hết sức tăng gia quân bị, trọng công nghiệp và đào tạo một quốc dân hoàn toàn Ban Siêu và Mã Viện thực dân, khi ấy đối ngoài phải tranh đòi quyền lợi Hoa hóa cho Hoa kiều và đối đãi với các nước phiên thuộc cũ theo một chế độ mới. Sự Tôn Khoa yêu cầu ở Hoa Thịnh Đốn chiếm lĩnh Việt với Hàn chứng thực rằng họ muốn nối gót đế quốc, xây đắp một liên hiệp “Thập quốc” đòi đứng làm môi giới giữa Đông Tây (ngoại giao tay trên) và làm sức an định (tiếng thuật ngữ của đế quốc Anh) cho Đông Á (nghĩa là bá chiếm), đồng thời đòi thực hành bảo hộ mậu dịch chính sách (ăn cắp chính sách bloc).

Họ hiện nay đang dang hai chân, một chân đứng về đế quốc, một chân đứng về nhược tiểu để mà đóng vai “con trời” trên thế giới. Sự giúp đỡ De Gaulle và nể sợ Pétain đi đôi với sự ngược đãi cách mệnh Việt tỏ rõ rằng họ muốn làm cường quốc và đứng về phe liệt cường để quay giáo lại các nước nhỏ yếu. Đối riêng Việt Nam, họ đang nghiên cứu cách nào lập thành một tỉnh, nuôi Việt gian thế nào, diệt chữ quốc ngữ thế nào, tiễu trừ dân tộc ý thức cách nào, làm sao cho người Việt tưởng mình là Hán, khôi phục chữ nho thế nào, truyền bá Tam Dân chủ nghĩa thế nào, thống trị thế nào? Hỡi người Hán! Hãy quay lại mà dùng cách thực dân truyền thống nhà Minh đã văn minh chán, thử xem người Việt sẽ biết đối phó cách nào?

Chúng ta hãy quay về mình xem hình thể của tự mình. Đất ta là đất cơ sở của Thái Bình Dương, trung tâm của Đông Nam Á, tư lệnh đài của quốc tế, được ta thì tiến lên xưng bá loài người, lui về tự thủ muôn thuở, bất cứ trên chính trị, quân sự, kinh tế, chiến lược, văn hóa đều đứng vào thiên hiểm của trung tâm. Cho nên tự phần ta nên hiểu: đời nay nếu ta muốn sống phải hết sức mạnh mà ta hững hờ thì tất diệt. Lại đời nay, diệt tức là toàn diệt đó. Ta chớ nên hòng làm Hòa Lan hay Thụy Sĩ; bọn thân Tàu tất cũng diệt hết đi chớ để nó làm tay trong như Phần Lan với Nga. Ta còn nguy hiểm hơn Phần Lan đối với Nga nhiều. Phần Lan chỉ có một Nga, ta còn phải phòng cả thế giới, vì thế giới kẻ nào chiếm được ta mới xưng bá được lâu dài; tiện nhất và thẳng đường nhất là Tàu, ta là cái xương hóc giữa cổ họng chú chiệc, phải hiểu thế.

Hiện giờ đây nòi Hán đã và đang còn tiếp sẽ uy hiếp đến sinh mệnh ta. Chúng ta thử tính xem số Hoa kiều trong nước ngoài 60 vạn, hợp với số minh hương hơn 2 triệu, một số 3 triệu nội gián ấy trên mặt nhân chủng quen thói lấy vợ người mà giữ gái mình, ảnh hưởng tới sinh lý của nòi giống là thế nào? Sức lũng đoạn kinh tế của bọn Hoa kiều mới lớn, từ đô thị đến ngõ hẽm, từ tầu biển đến ghe sông, từ mỏ quặng đến đồng ruộng, từ bán gạo đến lạc rang, nhất nhất nằm trong tay bọn chiệc cả. Lấy sức tiền ấy mà giẫy thì dân chủ hay cộng sản, ba phần tư nghị viện với nội các giao tay người Tàu. Sự ngoại giao tay trên của người Tàu đi với các điều kiện xâm nhập muốn làm mưa gió thì làm trong ta, đủ cho chính trị của ta không phải chính sách Việt nữa, uy hiếp quân sự càng lớn với nội ứng, ngoại hợp trên các chiến thuật tối tân ngày nay. Sự đồng hóa càng dễ về văn hóa, một khi nó lợi dụng được bọn thân Tàu và đồ nho. Ấy chỉ riêng một cái ám ảnh Hoa kiều, mặc dầu cuộc chiến tranh này Nhật Bản đã làm tổn hại và giảm đi chút ít, cũng đủ làm cho ta thấy sự diệt vong trước mắt, nói chi đến cả sức của chính quốc.

Huống chi Nhật, Pháp chỉ là quân địch trước mắt chớp qua và quá độ, Tàu mới là quân địch sau cùng, tức là kẻ có thể quyết định diệt vong được mình. Chúng ta phải nghiên cứu, quan sát và đề phòng kỹ lưỡng quân địch tối hậu và sự đấu tranh với họ mới hẳn quyết định cái vận mệnh của mình. Những sách lược của chúng ta phải tính tới và tập trung vào vận mệnh tối hậu, nghĩa là vào quân địch tối hậu. Chúng ta phải biết bắn vượt tầm con mắt chúng ta qua khỏi cái trước mắt chúng ta, như thế mới nắm được sự sống còn trong tay chúng ta. Cho nên kể đường trường ra, chúng ta mắc vào tay quân Tàu trong ba tháng thì toàn dân đói khát, cái dũa không còn mà dùng, trong sáu tháng thì ruộng bỏ hoang, đường hết người đi, đàn bà tự tử quá nửa, trẻ con chết ba phần tư, đàn ông chết hai phần ba và trong mười năm thì nòi giống hoàn toàn diệt vong. Nhưng có thể trông thấy Tưởng và Uông từ năm 1944 đều xuống cả. Nước Tàu từ năm 1945 trở đi trong 20 năm nội loạn và ngoại hoạn ê chề còn đến để trừng phạt cái dã tâm muôn thuở ấy. Quân của nó sang ta mảnh giáp không còn mà về dưới sức lan tràn sùng sục của sóng đáy.

2) ĐỐI NHẬT

Những kẻ thân Nhật chỉ trông thấy cái sướng chợp qua của cái thân ô trọc một mình, hoặc bị huyễn hoặc bởi cái cảnh tượng một lúc lên như diều của dân tộc Phù Tang. Thực tại lý luận Đại Đông Á chỉ là một chủ nghĩa tư bản đế quốc trần truồng muốn thực hành tái sinh sản, mà tinh thần Thần Đạo, Võ Sĩ Đạo, Bảo Giáo trên cái để uẩn lịch sử của Nhật Bản, suy động cái lý tưởng tám tường một mái kia, Điền Trung đã thay ta và thế giới mà cắt nghĩa rõ rệt rồi, bất tất phải nghi ngờ và bàn bạc cho rờm.

Một điều cần biết là Nhật Bản sẽ đối đãi ta bằng cách nào trong bốn cách sau:

a) Vẫn để Pháp thống trị chăng? Pháp chỉ bị lợi dụng một khi Vichy còn ngoại giao quan hệ với phe đồng minh, làm lá chắn cho Nam Dương. Pháp được để yên khi Nhật chưa được Đức đồng ý về vấn đề Đông Dương. Pháp chỉ còn được ăn ở khi Nhật chưa tìm được nguyên cớ triệt thủ sau cùng, không thể có khi nào Nhật dung Pháp được cho vướng chân và bận ý mình, khi chiến tranh lan tràn đến đất này. Lúc ấy là thời cơ rất dễ.

b) Nhật tự thống trị chăng? Mục tiêu to nhất ngày nay trong 20 năm cho Nhật là xong cuộc lũng đoạn Tàu và kiến thiết Nam Dương; ta chỉ là đất liên lạc trạm và hậu phương cơ địa, chưa cần có chính trị chiếm lĩnh.

c) Để cho Uông Tinh Vệ chăng? Uông với Tàu chỉ là con cá trên thớt của Phù Tang, không phải là giúp đâu.

d) Để cho Cường Để chăng? Cường Để có thể về làm chủ đất Việt. Nhật thắng sẽ giúp 20 năm trên một trình độ cho ta đủ làm chư hầu và phên che mặt Nam Tàu cho Nhật Bản để sau 20 năm, thỏ săn chết thì chó săn diệt. Nghe nói đã có bí mật lâm thời chính phủ ở Đài Loan đi đôi với cái mật ước là Cường Để được từ Nam Ninh trở về, nhưng Nam Kỳ phải nhượng cho Nhật với cả quyền lợi đường sắt, mỏ quặng và buôn bán.

Nhưng quốc dân thử xem và nghiệm có những sự biến loạn từ bốn bề đưa lại, để Cường Để có về đành lại phải ra đi, mà cơ đồ Nhật Bản cũng như đế quốc sắt mà chân đất sét, từ trong nội bộ vỡ lở ra mà sụp đổ.

3) ĐỐI THÁI

Đại Thái chủ nghĩa tức là Đại Việt chủ nghĩa đẻ non và đồng hóa vào trận doanh cực quyền. Thái chỉ là tay sai của Nhật Bản. Số phận của Thái đã hết tự chủ, chỉ còn là phụ thuộc của Nhật. Nhật thắng thì đưa Thái lên trình độ cắt của ta đôi chút đất; Nhật bại, Thái sẽ thành chiến trường. Lập trường Thái lúc ấy sẽ thành lập trường ta và Đại Nam Hải. Nhật và Thái lúc ấy sẽ thành những bạn bí mật cho cuộc phục hưng và phục hoạt Việt.

4) ĐỐI PHÁP

Chính quyền Pétain hiện đang thống trị tại Việt Nam; chính sách Pétain cố nhiên là đế quốc mong sự chuyển mình ngóc dậy bằng cách tự lực và truyền thống. Sự đi thân với Trục tâm thực lòng của Laval đã làm lạc lối cho Pétain. Số phận Pháp Vichy bây giờ đây chỉ là phụ thuộc với Trục tâm và chính quyền Decoux cũng theo với cử động của Nhật mà mất còn, bất tất phải luận nhiều.

Bên ngoài và đối đầu với Vichy, còn cái chiến đấu Pháp quốc của De Gaulle mới thỏa hiệp với với Giraud trên một nền tảng thực èo ẹp và sau cái kết quả tranh giành nhau ở Bắc Phi lấy thế lực của Anh, tận cùng bằng sự ám sát Darlan và sự nhượng bộ một cách hậm hực của Mỹ. Dầu sao chính sách của nhóm này, tức là chính sách của De Gaulle, mà 90% De Gaulle tức là cái đuôi của Luân Đôn, trên sự ủng hộ của đế quốc Anh trọn vẹn mong nhờ đó mà đế quốc Pháp chết dở cũng được sống lại không sây sát. De Gaulle đã tuyên bố rõ rệt là khôi phục hiến pháp 1875 với cả đế quốc trọn vẹn không sây sát một ly. Những hoạt động của De Gaulle hiện nay về ngoại giao rất đáng chú ý, nhất là người Tàu rất nể sợ y. Đó là một lẽ đáng để người Việt phải cảnh tỉnh với tụi De Gaulle đóng ở bên Tàu, phái đảng De Gaulle ở trong nước, tụi chó săn Việt thân với De Gaulle, hoạt động của y và sự phù trợ của Tàu. Nhưng mâu thuẫn của dã tâm Tàu đối với Việt xung đột với những tham vọng của De Gaulle, vì đó thêm vào sự can thiệp của Mỹ, Anh và các vấn đề nội bộ mà chuyển hình thế và thời cục Việt Nam sang một phương hướng khác, nếu có thể tự chuyển được, nghĩa là nếu người Việt có chủ lực và có thể nắm giữ được số mệnh trong tay mình, trong một thời cơ mình đã chắc chắn biết trước.

Hỡi người Việt! Chúng ta không sợ gì những thế kỷ tương lai là đen tối, nếu ta biết giác ngộ và cố gắng.

5) ĐỐI QUỐC TẾ

Quốc tế phải chia làm hai phe: phe Đồng Minh và Trục tâm. Chúng ta có thể bị một trong hai phe công quản được và sự công quản nghĩa là cho chúng ta tụt xuống địa vị bán thực dân, năm cha ba mẹ, một cổ bốn năm tròng, chúng ta phải liệu cảnh tỉnh mà liệu cầm lái lấy chủ lực.

Chúng ta nên hiểu rằng nhiệm vụ thời đại của chúng ta là làm trọn vẹn cho dân tộc được cội gốc độc lập và dân chúng được cội gốc giải phóng mới thôi.

Sự vạch một con đường từ lập trường 40 đến lập trường 50 tỏ rõ các phương hướng chính lược và chiến lược của cách mạng, chính trị và kiến thiết của dân tộc trên thời đại. Có một điểm cần đặc biệt và thân thiết chú ý là lập trường 50 trở đi phải là một lập trường chung của các dân tộc nhỏ yếu Đại Nam Hải, một mặt trên số phận nó là công cộng cho tất cả các dân tộc nhỏ yếu Đại Nam Hải, và một mặt vì số phận các dân tộc ấy dù có đại đồng tiểu dị, song vì sự sinh tồn lâu dài của tự mình đứng trước sóng trào của quốc tế, mà tự thấy mình cần phải liên lạc số mệnh mình với số mệnh chung kia; nhưng nếu đứng trên một nhỡn quang íck kỷ một cách thấp kém, chỉ lo đến sự giải phóng riêng một mình, cái cử động ấy dù có thành công cũng mang liền đến sự thất bại đi sau năm năm hay mười năm sau mà thôi.

Phải biết rằng độc lập riêng một mình có vững chắc hay không là nhờ ở sự đoàn kết của các độc lập riêng của các dân tộc trong một độc lập chung. Vì lúc bấy giờ Thái Bình Dương sẽ là một nước có một vận mệnh chung giữa sự xâu xé của các mặt Anh, Nga, Mỹ, Tàu, Nhật, Úc, Gia Nã Đại, Pháp.

Tàu trên nguyên tắc đã đứng ra làm công địch của Thái Bình Dương rồi, bất tất luận nhiều.

Anh không chịu bỏ một ly trong đế quốc, nghĩa là quyền lợi về thương mại và thế lực hải quân chưa rút ra khỏi đây.

Mỹ không còn nơi nào bổ béo như Tàu mà hưởng chung nữa, tất tập trung chú ý vào đất này (trừ những gắng sức ở Âu Châu) mà chèn với Anh ra.

Nhật với chính sách quang vinh cô lập (splendide isolation) và đại lục quân thế (équilibre continental) của Anh Mỹ tất chưa bị, hết sức phát triển ra ngoài mà lúc ấy chỉ còn ở đây.

Nga có năm lối quốc sách là: Baltique, Hắc Hải ra Dardanelles, Thái Bình Dương qua Sibérie, Đông bộ Caucasie xuống Arménie và Cận Đông, Turkestan sang Viễn Đông. Trong năm lối ấy, chiến hậu tất có cơ hội nhúng tay vào Thái Bình Dương.

Úc với Gia Nã Đại trên chính sách kinh tế quốc gia chủ nghĩa, được đề bạt của Mỹ trên ngoại giao cho được nửa độc lập, rồi sẽ hoàn toàn độc lập, dần dà thấy cần phải phát triển vào Nam Dương.

Pháp tuy sẽ rất muộn màng mới khôi phục lại sức khoẻ được, nhưng mấy cù lao ở Ấn Độ Dương còn làm được căn cứ phát triển.

Sự đấu tranh cho nền độc lập phải tự một nơi mà tỏa ra bốn bề, phải liên kết thành một khối Đại Nam Hải, phải đẩy sức gốc các dân tộc nổi dậy lên một cuộc bùng nổ nó giành lại sống còn về với ta.

Bấy giờ chủ lực cách mạng của chúng ta là đáy tầng đại đa số dân chúng, bởi chỉ có một sức ấy mới hoàn thành được toàn dân chiến lược và toàn diện cách mạng, nó cần yếu cho một cuộc đấu tranh sống còn suốt mặt. Cái sức ấy tính vào nguyên tắc lịch sử mới thấy nó hiển nhiên bộc phát, sẽ không phải ngờ.

21. CƯƠNG LĨNH 3

Xã hội kết cấu.

Cái chủ lực ấy gọi là đáy tầng, là sức gốc, là mặt trận gốc, gồm có 98% dân chúng trung kiên của xã hội Việt, nó sẽ đồng hóa và chỉ có nó mới lãnh đạo được hết hai giai cấp kỳ hình phát triển là vô sản 1% và tư bản 1%. Mao Trạch Đông nói về xã hội Tàu “hai đầu nhỏ, bụng to, chỉ có đảng nào tranh thủ được giai tầng giữa ấy mới thắng nổi”.

Cái giai tầng trung kiên về chủ lực kia hình thành từ đời Vạn Thắng, trải qua một ngàn năm bền giai tranh đấu và ngưng kết thành tinh hoa đời Lý, Trần, chập chững dưới Lê, Nguyễn, phủ phục ẩn tàng dưới đế quốc Pháp, đấy là lý tắc Tiên Rồng của Totémisme.

22. CƯƠNG LĨNH 4

Dân chúng yêu cầu.

Tất cả đáy tầng và mặt tầng chỉ có một yêu cầu là “cứu quốc với tồn chủng” (như đã nói rõ trong Tuyên Ngôn).

23. CƯƠNG LĨNH 5

Quốc tế văn hóa thời đại.

Văn hóa, khoa học, quân sự và kinh tế tư bản chủ nghĩa, quân hóa công nghiệp qua một thời kỳ chuyển hình dưới áp lực của hướng tâm cách mạng tất sẽ hình thành một thế giới mới trên nền tảng văn hóa ấn định có bốn tính chất:

Quốc tế tập đoàn an toàn (bloc mà không phải sécurité collective), dân tộc hướng tâm vận động, quốc dân dân chủ chính trị hóa với quốc dân kinh tế xã hội hóa.

Ba vấn đề của thời đại và sáu vấn đề của thế giới và nhân loại ở trên sự ấn định mới đó mà giải quyết một khoé trời, mở ra thời đại Đại Việt và thiên hạ Đại Nam Hải.

24. CƯƠNG LĨNH 6

Dân tộc văn hóa thủy chuẩn.

Thời đại Đại Việt mở màn ra bằng một văn minh Viêm mới là kết tinh của muôn năm bồi thêm chút tinh hoa của đời nay, một tinh thần khoa học chủ nghĩa kết hợp với Tam Giáo triết học cũ, di sản nối liền tự đó vào văn hóa trình độ quốc tế bằng Thắng Nghĩa, tất cả một thể hệ và một tiệp kính của đời sống.

25. CƯƠNG LĨNH 7

Chính trị phương châm.

Như đã nói trong Tuyên Ngôn, căn cứ học thuật trong chính trị phương châm còn nên dãi bày trên sự thành lập của nó bằng tất cả các công việc phát triển và nghiên cứu đạo lý của cách mạng, của kiến thiết, đạo lý của chính trị, tất cả triết học, khoa học, thuật học và sử học tập đại thành dưới học thuật của biện chứng pháp.

26. CƯƠNG LĨNH 8

Đấu tranh cương lĩnh.

Dự kế cách mạng đã từng kê định rõ rệt từng ly, từng tí, cần nói thêm chỉ là biện chứng của quốc vận ta trên hai kỳ:

1)      Các đế quốc tự chối bỏ nhau trên mặt tầng.

2)      Toàn dân nòi giống đáy tầng phục hưng và phục hoạt trên các cơ sở cách mạng đặc biến, đột biến và thuế biến.

27. CƯƠNG LĨNH 9

Kiến quốc quy mô.

Tất cả pho “Quốc Sách” quy định cái quy mô đó, cần nói thêm chỉ là biện chứng pháp của kiến thiết nước ta trên mười năm đầu, chú toàn lực vào quốc phủ khu là cái trục tâm cho kiến thiết hướng thượng lại làm cái kho tàng cho kiến thiết toàn diện, đồng thời còn làm cái vốn liếng của chính phủ cho cuộc kiến thiết trên phương châm chủ nghĩa được triệt để. Một chương trình cách mạng ba mươi năm sẽ thực hiện thắng lợi bằng triết học, khoa học, thuật học của dự kế cách mạng đi đôi với một quy mô kiến quốc 500 năm sẽ thực hiện thành công bằng chế độ của thiên tài giáo dục làm cho ra hữu hình.

Người cách mạng trong sự tính toán cái mệnh hệ của dân tộc không những là không để một ly tư kiến và vũ đoán nào vào, lại còn không được đem vị trí riêng của mình đặt lẫn vào bàn toán ấy, đó là yếu điểm duy nhất của nhà lãnh đạo trong sự chỉ huy vận mệnh của dân tộc, của cách mạng và của Đảng.

THÁI DỊCH LÝ ĐÔNG A
1/11/4822 tuổi Việt (1943)



Trang [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]