Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Giỗ Tổ Hùng Vương Tại Little Sài Gòn
Trang nghiêm, đông đảo và ý nghĩa

Hà Giang/Người Việt



Khán đài ở đại lễ giỗ tổ Hùng Vương ở Vườn Hồng, Westminster.
 (Hình: Hà Giang/Người Việt)



WESTMINSTER (NV) - Vào khoảng 11 giờ trưa Thứ Bảy, không khí chung quanh khu Vườn
Hồng trong thành phố Westminster nhộn nhịp và ấm áp hẳn lên với cờ xí rợp trời, và
những tà áo phất phơ của hàng trăm đồng hương người Việt ở quanh Little Sài Gòn kéo về
để tham dự lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 4890 theo Việt lịch do Hội Ðền Hùng hải ngoại tổ
chức.

Nghi thức giỗ tổ Hùng Vương cổ truyền là một phần quan trọng của ngày
đại lễ. Trước làn trầm hương nghi ngút, mọi người cùng hướng mình về
với quê hương. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)


Những tiếng dục liên hồi của đoàn múa lân làm nao nức lòng những người bước đi trong đoàn lễ
kiệu gồm thành viên của gần hai mươi hội đoàn, nhịp nhàng tiến về cổng Tam Quan để đến nơi cử hành đại lễ.

Kiệu mang Ðất và Nước Thiêng đi đến đâu thì được ban tổ chức thông báo đến đó. Ðoàn Kiệu đi qua, kéo theo nhưng những ánh mắt chăm chú không rời của những người Việt tha hương ngồi kín những chiếc ghế xếp gọn ghẽ dưới những chiếc lều trắng lớn. Người ta nhìn theo đoàn kiệu, theo dõi những nghi thức tế lễ cổ truyền, như thể có thể tìm được ở đó bóng dáng của quê nhà.


Ðoàn võ sinh Vovinam tại lễ giỗ tổ Hùng Vương.
 (Hình: Hà Giang/Người Việt)


Sự tham dự đông đảo và làm việc sát cánh nhau của gần hai mươi hội đoàn và tổ chức khiến người tham dự ấm lòng. Nếu có một điều gì chung và gắn bó chặt chẽ nhất có thể khiến cộng đồng đa dạng của người Mỹ gốc Việt tại Nam Cali, hay bất cứ ở đâu, có thể xích lại gần nhau, thì điều đó chắc chắn phải là Quốc Tổ, phải là Quốc Tổ Hùng Vương.

Chị Mai Vũ, thuộc Hội Ðền Hùng, trang trọng trong chiếc áo dài gấm và khăn hoàng hậu mầu hồng, cho biết năm nào chị cũng tham dự giỗ tổ, vì “đó là dịp để nhớ về quốc tổ, về Việt Nam, và về đất nước.”

Ðứng cạnh chị Mai, chị Thu Huỳnh, cũng trong bộ áo dài khăn đội đầu màu hồng chia sẻ: “Bận thế nào thì cũng phải đến dự lễ giỗ tổ để nhớ lại tổ tiên.”



“Vua Hùng Vương à? Biết chứ, mười tám đời cơ mà, phải không?” GS Stephen Young
trả lời câu hỏi của phóng viên Người Việt như thế trong khuôn viên Vườn Hồng tại
Westminster, nơi ông tham dự lễ giỗ tổ Hùng Vương.
 (Hình: Hà Giang/Người Việt)


Ðược hỏi về cảm tưởng của mình, GS Stephen Young, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ từng tham gia chiến tranh Việt Nam, và cũng từng có nhiều sinh hoạt rất gắn bó với đất nước Việt Nam như cùng GS Nguyễn Ngọc Huy dịch bộ Luật Hồng Ðức ra tiếng Anh, phát biểu:

“Có hai điều quan trọng, thứ nhất, buổi lễ Giỗ Tổ Hùng Vương cho thấy người Việt Nam sống xa quê hương vẫn nhớ đến cội nguồn. Thứ hai, tôi rất vui khi thấy ở giữa Little Sài Gòn này, vào thế kỷ thứ 21 mà còn được thấy những y phục cổ truyền từ ngàn xưa của Việt Nam, thì thật là một điều đáng quý.”


Ðồng hương và quan khách đến tham dự lễ giỗ tổ Hùng Vương ngồi chật mấy gian lều
ở Vườn Hồng, Westminster. (Hình: Hà Giang/Người Việt)




Sự tham gia của giới trẻ trong đại lễ giỗ tổ Hùng Vương khiến đồng hương
ấm lòng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)


Tham dự đại lễ giỗ tổ, không chỉ có những cụ cao niên đầu tóc bạc phơ, mà còn có các thanh niên thiếu nữ thuộc Tổng Hội Sinh Viên. Ðặc biệt là sự có mặt của các thiếu niên trong hội võ thuật Vô Vi Nam, mắt sáng ngời, mắt ngây thơ trên tay cầm những cây cờ Hoa Kỳ và cờ VNCH vàng với ba sọc đỏ bay phất phới.

Duyệt qua danh sách người tham dự, ngoài những vị danh cử quen thuộc trong vùng như Nghị Viên Tạ Ðức Trí, ông bà Frank Fry, người ta còn thấy tên những người ở xa đến như Luật Sư Trần Thanh Hiệp đến từ Pháp, GS Stephen Young đến từ Minnesota, cùng các thành viên trong đại gia đình GS Nguyễn Ngọc Huy.Trả lời câu hỏi của phóng viên nhật báo Người Việt là ông có biết gì về vua Hùng Vương không, Giáo Sư Stephen Young cười, và trả lời bằng tiếng Việt rất sõi:

“Vua Hùng Vương à? Biết chứ, mười tám đời cơ mà, phải không?”

Nghe ông trả lời, chợt thấm thía nhận ra bốn chữ Giỗ Tổ Hùng Vương nghe sao ấm áp quá.

Hà Giang/Ngươì Việt




TÂM THƯ VẬN ĐỘNG DIÊN HỒNG
 
 
Kính Gủi Qúy Cụ Lão ông, Lão Bà khắp  bốn phương
Kính Thưa Qúy Cụ
 
Người viết là Võ Toàn tên riêng Lão Nông sinh trưởng tại Thanh Hóa đầu năm Tân
Hợi (1911) hơn mười tuổi mới đi học tại các trường thành phốVinh, Nghệ An, được
con trai bảo lãnh qua Hoa Kỳ năm 1991. Nay đã ngoài trăm lẻ một (101) tuổi.
 
Kính Thưa Qúy Cụ
 
Tuy chúng ta ít có dịp hoặc chưa có cơ hôi về thăm quê hương , chúng ta vẫn được
biết khá rõ về hiện trạng nguy khốn của đất nước. Chế độ cộng sản Hà Nội đã đồng
tình với cộng sản Bắc Kinh cho cả vạn chuyên gia và công nhân xâm nhập cao
nguyên nhân danh khai thác Bô xít. Cao nguyên là địạ điểm chiến lược sung yếu
của nước ta chi phối cả ba miền Việt Miên Lào. Vì thế các tướng Võ Nguyên Giáp,
Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh, các nhà khoa học, nhà văn nhà báo nhất tề
quyết liệt chống đối. Nhiều cuộc thảo luận gay go xôm tụ đã diễn ra. Gần đây sau
vụ thế giới xôn xao vì bùn đỏ nước Hungari  bất ngờ tạo cái chết thảm gần 100
người dân vô tội khiến 12 khoa học gia lại nêu bật vấn đề. Nhưng đây là chủ
trương của Bắc Kinh nên mọi việc vẫn tiến hành.Hà Nội làm tiếp một điều quái dị
là  cho người Hồng Kông, Đài Loan, thuê rừng đầu nguồn tại các tỉnh biên giới,
thời hạn 50 năm. Họ ngây thơ hay quên những người ấy đều là người Tầu và cũng
không tiên liệu những người thuê rừng phải có vợ con hoặc lấy gái Việt. Sau nửa
thế kỷ sinh sôi nẩy nở bao nhiêu nhân mạng và bao nhiêu nhà cửa cho số người đó
sinh sống?? Đáo hạn 50 năm làm sao trục xuất họ???
 
Chưa hết chuyện nguy nan. Hầu hết các thí điểm  xi măng, hóa chất, điện khí đều
do người Trung Quốc trúng thầu. Điều kỳ lạ, mỗi người được đem theo vài ba ngàn
công nhân, sống riêng biệt trong những xóm làng do chúng tư tạo. Chắc chắn bọn
này đều độc thân chúng sẽ tìm kiếm gái Việt thực hành âm mưu Hán hóa dân tộc
Việt. Những người Tầu ấy, sinh sống ở Việt Nam với cơm gạo Việt Nam, nhưng khi
hữu sự họ sẽ trở thành đội quân thứ năm giúp kẻ thù.
 
Nhìn chung mọi mặt Bắc Kinh ở thế  thượng phong nên Hải quân họ mặc sức truy
lùng các ngư thuyền và ngư phủ V.N, bắt nộp tiền chuộc người và ngư cụ.Có khi họ
thẳng tay bắn giết hay đâm chìm cả ngư thuyền và tuyên bố biển Đông là Nam Hải
của họ. Hà Nội chỉ phản đối lấy lệ. Thái độ hống hách và uy hiếp Việt Nam quá
đáng, khiến các nước lớn tỏ ý nâng đỡ Việt Nam. Rõ rệt là Hoa Kỳ sau 15 năm tái
lập bang giao, bà ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố tại một cuộc họp
tại Hà Nội là Hoa Kỳ có “quyền lợi quốc gia” tại biển Đông và sẵn sàng nâng đỡ
các nước nhỏ khối Đông Nam Á. Hoa Kỳ mời Hải quân Việt Nam cùng tập trận tại
biển Đông. Hà Nội không dám thách thức nước đàn anh vẫn im lặng vô cùng bất lợi
cho dân tộc.
        
       Trước sư bế tắc nguy hiểm này, những người quan tâm tới thời cuộc đồng ý
với nhau là phải vận động HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG dể cứu nước.Tuy nhiên để bắt tay
vào công việc vận động Lão Nông tôi đã đi tiếp xúc với các nhà Nhân Sĩ cao trọng
cũng như các vị lãnh tụ các đảng phái song các vị này đều lấy lý do thoái thác
là chưa ổn định xong nội bô của qúy vị  nên chưa thể tham gia…Thật là buồn và
chán nản!!! Những tưởng  rằng sẽ chết ôm theo giấc mơ Diên Hồng tan trong sương
khói….
 
           Tuy nhiên gần đây khi các cuộc cách mạng  nổ ra tại Tunisia và Ai cập
mà người ta gọi là cuộc cách mạng Hoa Lài đã làm rung động tất cả các nước độc
tài trên thế giới kể cả Trung Cộng và CSVN.Đồng bào VN trong nước và ngoài nước
đều nức lòng ai nấy đều mong cuộc cách mạng Hoa Lài sẽ lan nhanh đến Việt nam để
dân tộc VN sớm thoát khỏi ách họa cộng sản. Trong bầu không khí sôi động mới
này, tình cờ chúng tôi được gắp nhà Biên Khảo Lịch sử, người tù bất khất Phạm
Trần Anh đại diện Hội Ai Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo tại hải ngoại. Ông
muốn tìm hiểu về tổ chức Diên Hồng Bắc Cali và sau khi nghe tâm sự của Lão Nông
Ông Phạm Trần Anh có nói với lão: “Lúc này các Bô lão Bắc Cali nói riêng và toàn
hải ngoại nói chung nên đứng ra vận động Hội Nghị Diên Hồng là rất hợp cảnh, hợp
thời đề cứu nước. Hơn lúc nào hết, toàn dân Việt Nam phải đoàn kết một lòng,
muôn người như một đứng lên làm cuộc cách mạng cứu nguy dân tộc thoát khỏi ách
thống trị bạo tàn của tập đoàn Việt gian CS bất nhân, hại dân bán nước đang từng
bước đưa dân tộc vào vòng nô lệ của đế quốc Trung Cộng. Chúng tôi sẵn sàng đứng
sau lưng Qúy Cụ để thực hiện những quyết định của Hội nghị Diên Hồng. Trước hết,
xin, các Cụ kiện toàn tổ chức Hội Bô Lão Diên Hồng tại Bắc Cali, chúng tôi sẽ về
Nam Cali vận động thành lập Hội Bô Lão Diên Hồng tại Nam Cali, sau đó sẽ vận
động thành lập các Ban Vận Động Bô Lão Diên Hồng trên các tiểu bang và toàn hải
ngoại.

Các Bô Lão với hào khí Diên Hồng biểu trưng của lòng yêu nước thương nòi để thế
hệ cháu con theo gương tiền nhân đứng lên đáp lời sông núi, hoàn thành cuộc cách
mạng Trống Đồng, hào khí Diên Hồng Tây Sơn thời đại để cứu dân cứu nước. Các Bô
lão sẽ giữ vai trò tiền phong vận động các giới tiến tới ngày Đại Hội không xa…”
Được lời như cởi tấm lòng… Phải chăng đây là vận nước đã tới rồi. và cũng nhờ
Hồn Thiêng sông núi luôn độ trì cho Dân Tộc Việt Nam sẽ thoát khỏi ách nô lệ
giặc Tầu  lần thứ năm, nếu chúng ta biết dựa vào sức dân vận động được Hội Nghị
Diên Hồng Hải Ngoại.
 
          Diên Hồng sẽ tuyển lựa những người tài năng đức độ vào Hội Đồng Diên
Hồng hải ngoại đại diện 4 triệu người Việt lưu vong, Hội Đồng được coi như Quốc
Dân Đại Hội sẽ chọn những người có đạo đức, có  tài năng và  bản lĩnh chính trị
cho các chức vụ, trưởng phó cho các Khối, các Ủy Ban các Ngành…Hội Đồng Diên
Hồng hải ngoại cũng là BAN THAM MƯU định ra những sách lược và chiến lược cụ
thể, khả thi và có hiệu năng nhằm vận động, phát huy  SỨC MẠNH TỔNG THỂ CỦA CỘNG
ĐỒNG, làm tiền đề vận động phát huy SỨC MẠNH TỔNG HỢP CỦA DÂN TỘC ngõ hầu hoàn
thành 2 sứ mệnh lớn là CỨU QUỐC và KIẾN QUỐC mà 90 triệu người dân trong và
ngoài nước  đang mong đợi.
 
Kính thưa Qúy vị Lão Ông, Lão Bà Bắc Cali,và toàn Hải Ngoại
 
          Truyền  thống Á Đông cũng như Việt Nam là trọng người cao tuổi. Là các
vị Bô Lão, chúng ta co trách nhiệm phải đứng ra kêu gọi tất cả các Đảng Phái Hội
Đoàn, các Cộng Đồng ,các tổ chức đấu tranh, các hội đoàn văn hóa xã hội cùng mọi
giới đồng bào cùng tham gia Hội Nghị Diên Hồng Hải Ngoại mới có được SỨC MẠNH
TỔNG HỢP để cứu nước cứu dân trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này. Kế thừa tinh
thần Diên Hồng bất diệt trong lịch sử Việt, giới bô lão chúng ta vừa có trách
nhiệm và đồng thời được vinh dự nêu cao tinh thần, sự đóng góp của mỗi cá nhân
quý cụ nhân ngày Đại Hội Lịch Sử  hiếm qúy  này.

 
 
Kính Thưa Qúy Vị Bô Lão.
 
          Tuy ngày nay chúng ta không có đủ thẩm quyền với con cháu. gia đình và
dòng họ như qúy vị Bô Lão tham dự Hội Nghị Diên Hồng thời Nhà Trần, nhưng vẫn có
trách nhiệm lưu ý con cháu,bạn hữu của chúng, cũng như bạn hữu của chúng ta và
đồng bào các giới cùng tham gia Hội Nghị Diên Hồng Hải Ngoại. Ngày khai hội nhất
tâm cầu nguyện cho Đại Hội Diên Hồng hải ngoại thành công viên mãn. Đại Hội khai
mạc sớm hay muôn cũng do chính nỗ lực của chúng ta cùng nhau vận động. Vậy kính
xin Qúy vị sốt sắng liên lạc với Lão Nông qua số điện thoại; (408) 272-3889 và
vui lòng  cho Lão Nông biết: Tên Họ, tuổi tác, số phone  và đia chỉ của qúy  vị
hay gửi thư qua Bưu điện về địa chỉ của Lão Nông:Võ Toàn, 2368 mammoth Dr  Apt #
1, San Jose CA 95116.
 
Trân trọng kính chào và hẹn gặp qúy vị trong ngày Đại Hội.
 
San Jose ngày 19 tháng 2 năm 2011
 
Lam Sơn Lão Nông Võ Toàn
Bô Lão Võ Toàn, Nhà Biên Khảo Lịch sử Phạm Trần Anh
và LS Nguyễn Xuân Nghĩa Hội Trưởng Hội Đền Hùng Hải Ngoại
 
 
 
TÂM THƯ
 
Kính thưa Toàn thể Đồng bào
Kính thưa Quý vị Bô Lão
Kính thưa Quý vị Nhân sĩ Trí thức
 
Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm nổi trôi của vận nước từ khi lập quốc
đến ngày nay. Dân tộc Việt đã trải qua hàng ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một
trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa ngoại lai của chủ
nghĩa Cộng Sản. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc luôn luôn chủ trương xâm
lược tiêu diệt Việt tộc bằng mọi giá, ngay cả sau khi Việt tộc đã giành lại độc
lập tự chủ. Các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều đem quân xâm
lược Việt Nam nhưng đều bị quân dân ta đánh cho tan tành không còn manh giáp.
Bản chất xâm lược của Hán tộc trước sau như một, từ Hán tộc du mục xâm lược xa
xưa và Trung Cộng bành trướng ngày nay vẫn tìm cách xâm lấn đất đai, biển cả của
chúng ta.
 
     Chiến thắng Bạch Đằng Giang lịch sử của Ngô Quyền mở ra một thời kỳ Độc lập
tự chủ của dân tộc. Sau hơn một ngàn năm độc lập với các triều đại Ngô, Đinh,
Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn thì thực dân Pháp lại vào xâm chiếm nước ta. Vận mệnh
dân tộc Việt trải qua nhiều thăng trầm dâu bể, hết gần một ngàn năm chịu nô lệ
của giặc Tàu lại đến trăm năm đô hộ của giặc Tây. Trong khi toàn dân đang đấu
tranh giành độc lập thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng công cuộc đấu tranh
giành độc lập, núp dưới danh nghĩa kháng chiến để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản
đưa dân tộc vào thế khốn cùng nhất trong lịch sử.
 
Kính thưa quý vị,
 
     Hơn ¾ thế kỷ tính từ ngày thành lập, đảng Cộng Sản Việt gian đã đưa dân tộc
Việt vào cuộc chiến tranh bi thảm nhất trong lịch sử Việt. Hàng triệu đồng bào
Việt Nam đã hy sinh cho sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản, hàng triệu đồng
bào đã phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Một đất nước Việt Nam độc tài toàn trị,
nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới đang từng bước trở thành một Tân Cương, một
Tây Tạng thứ hai trong lịch sử bành trướng xâm lược của đế quốc Trung Cộng. Sau
hơn 35 năm thống trị cả nước, đảng Cộng Sản Việt Nam đã đem lại hậu quả nặng nề
cho dân tộc Việt Nam trên nhiều phương diện. Bộ mặt thật “Hại dân bán nước” đã
dâng đất nhường biển cho quan thầy Trung Cộng. Trong lịch sử Việt, gian hùng Hồ
Chí Minh, một Lê Chiêu Thống của thời đại và đảng cộng sản việt Nam là  tội đồ
của dân tộc đã cam tâm bán nước phản bội công lao của tiền nhân bao đời đã hy
sinh xương máu để bảo vệ giang sơn gấm vóc từ thời lập quốc đến ngày nay.  Việt
Nam đang đứng bên bờ vực thẳm của suy vong, nguy cơ mất nước cận kề. Đây là thời
kỳ đau thương ô nhục nhất trong lịch sử dân tộc Việt.   

 
Kính thưa quý vị,
 
Cách đây đúng 727 năm, đội quân Mông Cổ “Bách chiến bách thắng” tràn xuống tấn
công nước ta. Trong lịch sử chiến tranh xâm lược, vó ngựa Mông Cổ chưa một lần
thất bại. Trong nửa thế kỷ XIII, một đế chế rộng lớn chưa từng thấy “Đế quốc”
Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu, từ bờ Thái Bình Dương đếnn bên kia bờ Hắc Hải
châu Âu. Thế mà 3 lần xâm lược nước ta đều thất bại thảm hại. Để huy động sức
mạnh của toàn dân tham gia kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược, Thái Thượng
Hoàng Trần Thánh Tông mời các bô lão trên toàn quốc về kinh đô Thăng Long dự hội
nghị Diên Hồng bàn việc nước “Hòa hay chiến”. Toàn thể bô lão cả nước đồng thanh
hô lớn “Quyết chiến, quyết chiến”, quân sĩ xâm vào cánh tay hai chữ “Sát Đát”
thề chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, người Việt Nam cuối cùng  để bảo vệ đất
nước. Đại Việt Sử ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép: “Muôn người cùng nói như một
miệng phát ra … Quyết chiến, quyết chiến. Giặc đi đến đâu, tất cả quận huyện
trong cả nước phải liều chết mà đánh. Nếu sức không địch nổi thì phải lẩn tránh
vào rừng núi … Tuyệt đối, không được hàng giặc …”.
Ngày hôm nay, đế quốc mới Trung Cộng với sự tiếp tay của đảng Cộng sản Việt Nam
đã dâng đất nhường biển và đang từng bước biến nước ta thành một khu tự trị của
Trung Quốc.  Chúng ta đã bước sang năm thứ 36 của ngày Quốc hận, hơn 3 triệu
đồng bào Việt Nam chúng ta phải sống đời lưu vong ở Hải ngoại. Tám mươi bảy
triệu đồng bào đang sống trong khốn khó dưới sự thống trị kìm kẹp bạo tàn của
Việt gian CS. Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm của suy vong, nguy cơ mất nước
cận kề. Đây là thời kỳ đau thương ô nhục nhất trong lịch sử dân tộc Việt.

Kính thưa toàn thể Đồng bào,
Kính thưa quý Nhân sĩ, Trí thức yêu nước
 
Trước tình trạng Tổ Quốc lâm nguy, Sơn hà nguy biến, toàn thể đồng bào Việt Nam
muôn người như một, phải đồng lòng đứng lên đấu tranh giải thể chế độ Cộng sản
bạo tàn để CỨU DÂN CỨU NƯỚC. Là những người Việt Nam yêu nước thương nòi, chúng
ta đã chứng kiến bao đổi thay tang thương dâu bể của đát nước, nay đã đến lúc
chúng ta phải gầy dựng lại “HÀO KHÍ DIÊN HỒNG”của tiền nhân để cùng với thế hệ
con cháu đứng lên đáp lời sông núi diệt kẻ nội thù, diệt quân xâm lược.

 
Chúng ta  thành lập Hội Nghị Bô Lão Diên Hồng đáp ứng yêu cầu bức thiết của lịch
sử để  thể hiện quyết tâm bảo toàn đất Tổ. Chúng ta cùng với toàn dân hoàn thành
sứ mạng của lịch sử đấu tranh dẹp kẻ nột thù Việt gian hại dân bán nước, huy
động sức mạnh toàn dân tộc chống quân Trung Cộng xâm lược bảo vệ giang sơn gấm
vóc mà tiền nhân bao đời đã hy sinh xương máu để bảo toàn đất Tổ. Chúng ta hãnh
diện tự hào đã chu toàn bổn phận của một con dân nước Việt, xứng đáng với tiền
nhân và với các thế hệ cháu con của chúng ta nữa.
 
     Tám mươi bảy triệu đồng bào Việt Nam khốn khổ quằn quại trong ngục tù bao
la “Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” đang chờ đợi chúng ta…
 
Nguyện cầu Hồn thiêng sông núi phù trợ cho đất nước chúng ta
 
Việt Nam Hải Ngoại, ngày 22-2-2011
TM UỶ BAN VẬN ĐỘNG
HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI
 
Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm


 
       1. Bô Lão Võ Toàn 101 tuổi, San Jose Hoa Kỳ.
       2. Bô Lão Nguyễn văn Bách, Nam cali 100 tuổi.
       3. Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, Nhân sĩ Nam Cali.
       4. LM Nguyên Thanh, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.
       5. Khoa học gia, GSTS Nguyễn Xuân Vinh.
       6. Bô Lão Vũ Ngọc Truy, Cựu Luật sư 96 tuổi.
       7. Nhân sĩ Đinh Thị Việt Liên 95 tuổi Bắc Cali.
       8. Nhà văn Lão thành Doãn Quốc Sỹ, 88 tuổi Texas.
       9. GS Nguyễn Tư Mô, Cố vấn Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       10.  Cụ Bà  Âu Tiên Nguyễn thị Đức.
       11. Giáo sư Phạm Cao Dương.
       12. Cụ Bà Nguyễn thị Chương
       13. Học giả Huỳnh văn Lang, 90 tuổi Nam California.
       14. Luật sư Đoàn Thanh Liêm, Nam California.
       15.  Giáo sư Nguyễn Chính Kết USA.
       16.  Nhân sĩ Phạm văn Tường 85 tuổi, Bắc California.
       17.  Nhân sĩ Lê Châu Lộc, Cựu Thương Nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
       18.  Nhân sĩ Nguyễn Hy Vọng 80 tuổi, Nam Cali.
       19.  Nhân sĩ Phan Kỳ Nhơn, Ủy Ban Đặc nhiệm chống Tuyên vận Cộng Sản.
       20. Nhà Báo Trần Phong Vũ.
       21. Giáo sư Vũ Thiệu Phúc, Cố vấn Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       22.  Nhân sĩ Chu Chi Nam, Hội Nghiên cứu Lịch sử Pháp Quốc.
       23.  Nhân sĩ Trần Như Huỳnh, Bắc Cali.
       24.  Nhân sĩ Trần Thanh Phong, CT Hội Đồng Kiểm soát Hội Đền Hùng hải Ngoại
       25.  Nhân sĩ Nguyễn văn Cừ, Cộng Đồng Việt Nam Los Angeles.
       26.  Phan Như Hữu, Hội Đồng Việt Nam Tự Do Nam Cali.
       27.  Nhân sĩ Phạm Ngọc Khôi, Phó HT Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       28.  Nhân sĩ Trần Ngọc Tôn, Cựu Đốc sự Hành Chánh.
       29.  Bác sĩ Nghiêm Phú, Nam Cali.
       30. DS Bùi Như Hải. Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       31. DS Nguyễn Đình Thức, Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       32. Nhân sĩ Trần văn Thắng, Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       33. Nhân sĩ Pham Ngọc Điệp 81 tuổi Úc Châu.
       34. Tiến sĩ  Phan văn Song, Đại Việt Quốc Dân Đảng.
       35.  Nhân sĩ Phan Đa Văn,  Nam Cali HK.
       36.  Nhân sĩ Dương Ngọc Sum Nam Cali.
       37.  Nhân sĩ Nguyễn Duy Nghiêu Nam Cali.
       38.  Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Phong Trào Phụ Nữ Hành Động Cứu Nước.
       39.  Cư sĩ Minh Pháp.
       40.  Nhân sĩ Nguyễn Hữu Đĩnh.
       41.  Nhân sĩ Nguyễn Tạ Quang, Hội Hải Quân Trần Quang Khải Philadelphia.
       42.  Nhân sĩ Đoàn Thế Cường, Ủy Ban Bảo Toàn Đất Tổ.
       43.  Nhân sĩ Vũ Lang, Câu Lạc Bộ Thi Văn Tao Đàn Hải Ngoại.
       44.   Nhân sĩ Phùng Ngọc Ẩn San Diego.
       45.  Giáo sư Nhạc sĩ Lê Quốc Tấn, SanJose.
       46.  Nhân sĩ Hoàng Ngọc An Nam Cali.
       47.  Nhân sĩ Hoàng Vy Nam cali.
       48.  Nhân sĩ  Lê Văn Lan Texas.
       49.  Nguyễn Hữu Lễ, Cộng Đồng Việt Nam Ohio.
       50.  Nguyễn Phùng Phong, CT Hội Ái Hữu Tù nhân CT và Tôn Giáo VN Cambodia.
       51.  Lê Thái Lan, CT Hội Ái Hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN Thái Lan.
       52.  LS Nguyễn Xuân Nghĩa, HT Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
       53.  Giáo sư Trần Đức Thanh Phong, Nhân sĩ Tây Nam Hoa Kỳ.
       54.  Thi họa sĩ Vũ Hối, nhân sĩ  Đông Bắc Hoa Kỳ.
       55.  Mhân sĩ Trần Vệ, CT TT Cựu Chiến sĩ Tây Nam Hoa Kỳ..
       56.  Nhà văn Nguyễn Hữu Của, TT Văn Bút Tây Nam Hoa Kỳ.
       57.  Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, nhân sĩ Đông Bắc Hoa Kỳ.
       58.  Nhân sĩ Đào Xuân Đàm 93 tuổi, nhân sĩ Tây Nam HK.
       59.  Tiến sĩ Hà Thế Ruyệt, nhân sĩ Nam Cali.
       60. GS Nguyễn Thành Long PGHH.
       61. GS Nguyễn Thanh Giàu PGHH.
       62. Hiền Tài Phạm Văn Khảm Cao Đài.
       63.  BS Phạm Nguyên Lương, Nhân sĩ Nam Cali.
       64.  Cụ Nguyễn văn Sĩ, Nhân sĩ Nam Cali.
       65.  Ông Vũ Hoàng Hải, VNQDĐTN  Nam Cali.
       66.  Nhân sĩ Hoàng văn Phong, Đoàn An Lạc Phụng sự Nam Cali.
       67.  Nhân sĩ Nguyễn Phổ Nam Cali.
       68. Nhân sĩ Trần Việt Nhân Úc Châu.
       69.  Nhân sĩ Hoa Thế Nhân, Hội Cử Tri Việt Mỹ Nam Cali.
       70.  Nhân sĩ Trần Thị Hồng Khương, Hội Văn Hóa Phụ Nữ Philadelphia và vùng Phụ
cận HK.
       71.  Nhân sĩ Lê Thị Hồng Lan, Hội Phụ Nữ Nhân Ái Thiện Nguyện Nam Cali HK.
       72.  Nhân sĩ Lê Quý An, Hội Giáo Chức Việt Nam Nam Cali.
       73.  Nhân sĩ Nguyễn thị Ngọc Dung, nhà văn Cỏ Thơm Magazine HK.
       74.  Học giả Vũ Hữu San.
       75.  Bà Đỗ Thị Thuấn, Điện báo Ánh Dương.
       76.  Nhà văn Chu Vũ Ánh Fháp Quốc.
       77. Nhá Báo Thanh Phong.
       78. Họa sĩ Hoàng Vinh, nhân sĩ Nam Cali.
       79. Nhân sĩ Trần Ngọc Thiệu, QGHC Nam Cali.
       80.  Nhà Biên Khảo Lịch sử Phạm Trần Anh, Mặt Trận Dân Tộc Cứu Nguy Việt Nam.
 
HỘI ĐOÀN
 
-          Mặt Trận Dân Tộc Cứu Nguy Việt Nam.
-          Hội Cao Niên Việt Nam Sanjose.
-          Lê Văn Duyệt Foundation.
-          Hội Cao Niên Montréal Canada.
-          Hội Đền Hùng Hải Ngoại.
-          Ủy Ban Đặc Nhiệm chống Tuyên vận Cộng Sản.
-          Hội Nghiên cứu Lịch sử.
-          Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.
-          Liên Minh Dân Tộc Việt Nam.
-          Ủy Ban Hoà Đồng Dân Tộc và Tôn Giáo.
-          Phong Trào Phụ Nữ Hành Động Cứu Nước.
-          Hội Hải Quân Philadelphia và vùng phụ cận.
-          Đại Việt Quốc Dân Đảng.
-          Việt Nam Quốc Dân Đảng Thống Nhất Nam Cali.
-          Hội Cao niên Á Mỹ.
-          Câu Lạc Bộ Thi Văn Tao Đàn Hải Ngoại.
-          Câu Lạc Bộ Dân chủ Tự Do.
-          Cộng Đồng Người Việt Cleverland Ohio.
-          Hội Đồng Việt Nam Tự Do.
-          Diễn Đàn Dân chủ Tự Do.
-          Chi Hội Ái Hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo Cambodia.
-          Chi Hội Ái hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo Thái Lan.
-          Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California.
-          Nghị Hội Người Việt Toàn Quốc Hoa Kỳ.
-          Hội Cử Tri Việt Mỹ.
      -    Phật Tử An Lạc. Phụng sự.
-    Hội Văn Hóa Phụ Nữ Philadelphia và vùng Phụ cận HK.
-    Hội Phụ Nữ Nhân Ái Thiện Nguyện Nam Cali HK.
-    Hội Giáo Chức Việt Mỹ Tây Nam Hoa Kỳ.
-    Cỏ Thơm Magazine.
 
1. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG NAM CALI: Nhân sĩ Phan Kỳ Nhơn.
2. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG BẮC CALI:  Nhân sĩ Phạm văn Tường.
3. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG MONTRÉAL CANADA: Nhân sĩ Vũ Ngọc Truy.
4. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ: Nhân sĩ Nguyễn Ngọc Bích.
5. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG HAWAI HK: Nhân sĩ Nguyễn Anh Tuấn.
6……………………………………………………………

 
XIN MỜI QUÝ BÔ LÃO, NHÂN SĨ TRÍ THỨC, QUÝ HỘI ĐOÀN ĐOÀN THỂ THAM GIA VÀO ỦY BAN VẬN ĐỘNG HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI.

- Xin liên lạc với Phạm Trần Anh qua email: quocvietanhpham@yahoo.com
hoặc điện thoại 1(714) 603-9291




LỄ HỘI ĐỀN HÙNG
10-3 Âm Lịch

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba …”


GIỖ TỔ
HÙNG VƯƠNG

Hàng năm cứ vào ngày mồng mười tháng ba Âm
lịch, nhân dân cả nước nô nức kéo về đền Hùng để
dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương, người khai mở nước Văn
Lang xa xưa của Việt tộc. Truyền thống uống nước
nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã đi vào tâm
thức Việt như một nguồn suối tâm linh làm phong
phú thêm đời sống tinh thần của người Việt.

Ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã có một
đời sống tâm linh siêu vượt. Người Việt cổ đã sớm

nhận thức được cuộc sống thường nhật để tìm ra
lẽ sống của cả một đời người nên không chỉ tin
vào thần thánh mà còn tin vào chính con người.
Chính vì vậy, từ xa xưa người Việt ngoài việc thờ
cúng thần linh giúp cho cuộc sống còn thờ cả nhân
thần là những người khi còn sống đã giúp dân giúp
nước, giúp ích cho địa phương. Đặc biệt người
Việt có truyền thống thờ cúng Tổ tiên, ông bà cha
mẹ là những người trực tiếp sinh đẻ ra mình, nuôi
dưỡng mình thành người. Ngay cả ông Trời, đối
với người Việt là cư dân sống bằng nghề nông nên

tôn thờ ông trời đã ban cho những giọt nước mưa
tưới xuống đất để hạt giống nảy mầm, cây cối đâm
chồi nảy lộc. Ông trời được dân gian Việt kêu cầu
đến “Trời ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn, dân gian còn
nhân cách hoá ông trời thân thương từ chân trời,
lưng trời đến mặt trời và nếu cần thì sẵn sàng bắc
thang lên hỏi ông trời .. chứ không thần thánh hoá
kiểu Hán tộc là có một ông Ngọc Hoàng Thượng
đế toàn quyền ban phát, toàn quyền sinh sát trên
thượng giới và cả ở dưới trần gian nữa.

Một nhà Việt Nam học người Pháp Léopold
Cadìere đã nhận định về tín ngưỡng và thực hành
tôn giáo của người Việt Nam như sau: “Với người
Việt, Trời không phải là một vị thần, ít nhất là trong
quan niệm dân gian. Đó là ông Trời, đấng hình như
thuộc về thế giới siêu việt. Hoàng đế tế trời một
cách trọng thể còn dân gian thì cầu trời, kêu trời
hàng ngày bằng ngôn ngữ thông thường. Ý niệm
trời thấm sâu vào tâm tư người Việt và được biểu
lộ thường xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ một cách
minh nhiên đến nỗi ta không thể thấy rằng ý niệm
trời chính là một nguyên lý cơ bản và cao cả nhất
đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt”. Trong
khi đó, phương Tây với nền văn minh hết duy
thần, duy linh, duy tâm, duy lý rồi duy vật thái quá
khiến con người cảm thấy bất an nên thường đặt ra
những vấn nạn như chúng ta từ đâu đến rồi chết sẽ
đi về đâu? Chính những câu hỏi xa vời không bao
giờ giải đáp được nên con người trở nên vô thần
hoặc phải tìm đến tôn giáo chấp nhận một cách vô
thường.

Với niềm tin đơn giản chân chất của người Việt
cổ thì Tổ Tiên, ông bà cha mẹ đã sinh ra mình chứ
không phải do một thần linh nào từ trên trời. Chính
vì thế phải biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục
mình nên người. Bổn phận con người là phải hiếu
thảo với cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc
lẫn nhau vì cùng một mẹ mà ra. Huyền thoại Rồng
Tiên với Bố Lạc mẹ Âu của Việt tộc, chúng ta cùng
một bào thai mẹ Âu, trăm họ cũng cùng từ một gốc
Bố Rồng mẹ Tiên mà ra cả. Trên thế giới duy nhất
chỉ có dân tộc ta mới có hai chữ “Đồng bào”, chúng
ta cùng một bào thai mẹ sinh ra nên đối với mọi
người, chúng ta cũng dùng tình thân mà đối xử, mới
gọi nhau là bà con cô bác như trong một nhà vậy.

Người Việt có một đời sống tinh thần tâm linh
sâu thẳm, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả mà
không một dân tộc nào có được. Đạo lý làm người
dạy chúng ta rằng khi sống là phải biết tri ân thờ

cúng ông bà cha mẹ để mai này khi ta có chết đi thì
cũng về với ông bà cha mẹ mà thôi. Từ việc hiếu
thảo thờ cúng cha mẹ, ông bà tiên tổ đến ý thức tôn
thờ ông Tổ của dòng giống: Quốc tổ Hùng Vương
cũng như các anh hùng dân tộc, danh nhân văn
hoá đã hun đúc ý thức cao độ về lòng yêu nước
thương nòi, tạo cho mỗi con dân đất Việt niềm tự
hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của Việt tộc.
Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tôn thờ nhân thần và
đạo thờ cúng ông bà vẫn còn trân trọng bảo lưu, đó
chính là bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc và
cũng là đạo lý làm người của Việt tộc. Truyền thống
cao đẹp này trải qua hơn sáu ngàn năm lịch sử vẫn
thấm đậm trong lòng dân tộc với bao thăng trầm
biến đổi của dòng vận động lịch sử. Cho tới nay và
mãi mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế hệ trẻ Việt
Nam vẫn tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc với tất cả
lòng hãnh diện tự hào Việt Nam.

Tự xa xưa, tiền nhân ta đã chọn ngay mồng mười
tháng ba là ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Tháng ba
là tháng Thìn, tháng của bố Rồng và ngày mười là
ngày của mẹ Tiên nên tiền nhân đã giỗ quốc Tổ
vào ngày mồng 10 tháng 3 hàng năm.
Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn có tên
là núi cả, núi cao nhất 175 mét trong quần thể 100
ngọn núi ở Vĩnh Phú. Theo Hùng triều Ngọc phả,
Thần phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì tỉnh Hà Bắc thì
đến đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương
huý Đức Quân Lang mới dời đô xuống Việt Trì,
Phong Châu. Hùng Tạo Vương trị vì từ năm Tân
Dậu 660 TDL đến năm Nhâm Thìn 569 TDL ngang
với thời Chu Linh Vương đời Đông Chu.

Đền Hùng gồm Đền Hạ, Đền Trung, Đền
Thượng với Lăng vua Hùng. Từ dưới đi lên qua
cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình dáng tám mái,
hai bên là phù điêu hình 2 võ sĩ cầm đao và chùy
bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước lên 225
bậc đá là lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi đây
mẹ Âu đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở thành trăm
người con trai. Bước thêm 168 bậc thang đá là đến
Đền Trung toạ lạc ngang sườn núi Nghĩa Lĩnh, theo
tương truyền thì đây là nơi Lang Liêu đã gói bánh
dày bánh chưng dâng vua cha để cúng tiên tổ nhân
ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua Hùng thường hội
các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc nước. Đền
Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi, có cả
bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở
gian giữa đền Trung treo bức đại tự “Hùng Vương
Tổ miếu” nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian
bên phải treo một bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang”

nghĩa là Tổ muôn đời của nước Nam, gian bên trái
treo bức “Hùng Vương Linh tích” nghĩa là Huyền
tích linh thiêng của vua Hùng.

Bước thêm 132 bậc thang đá nữa là tới đền
Thượng. Đền Thượng có 4 nếp nhà: Nhà chuông
trống, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế, Cung thờ. Trên
vòm cung cửa chính ra vào được trang trí phù điêu
hình 2 vệ sĩ phương phi làm nổi bật bức hoành phi
4 chữ “Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ Triệu muôn
đời của nước Việt. Trong nhà Đại bái có câu đối bất
hủ:

Mở lối đắp nền
bốn hướng non sông về một mối
Lên cao nhìn rộng,
nghìn trùng đồi núi tựa đàn con …

Trong nhà Tiền tế đặt một Hương án trên để
tráp thờ bên trong đặt một triện gỗ hình vuông có
khắc 4 chữ: “Hùng Vương tứ phúc”. Đặc biệt có treo
một bức hoành phi trong đó có câu “Quyết sơ dân
sinh” nghĩa là cuộc sống của nhân dân là điều quyết
định đầu tiên của người lãnh đạo. Ngay từ thời vua
Hùng đã lấy dân làm gốc, Tất cả của dân, do dân
và vì dân, còn giá trị mãi đến muôn đời*. Bên phải
đền Thượng là cột đá thề của An Dương Vương,
bên trái đền Thượng là Lăng vua Hùng nhìn về
hướng Đông Nam, kiến trúc theo hình khối vuông,
trên có cổ diêm 8 mái, đỉnh chóp đắp hình rồng uốn
lượn nổi lên 3 chữ khắc chìm: “Hùng Vương Lăng”.
Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc
đắp kỳ lân, cửa chính của Lăng nổi lên 2 câu đối tri
ân Quốc Tổ Hùng Vương:

Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà …
non nước vẫn quay về đất Tổ
Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc
giống nòi còn biết nhớ mồ ông ..!

Hàng năm vào ngày mồng mười tháng ba là
ngày lễ hội Hùng Vương được xem như Quốc lễ
của cả một dân tộc. Thời xưa đích thân nhà vua
đứng chủ tế với đủ nghi thức tế lễ long trọng. Lễ vật
gọi là lễ Tam sinh gồm nguyên một con heo, một
con bò và một con dê. Bánh chưng và bánh dày là
lễ vật không thể thiếu được cũng như khi cử hành
tế lễ phải có đầy đủ bộ nhạc cụ đặc biệt là chiếc
trống đồng độc đáo của Việt tộc. Sau phần tế lễ là
phần lễ hội với cuộc rước bánh dày bánh chưng và
rước cỗ chay, rước voi và cuối cùng là lễ rước kiệu
bay truyền thống của dân gian các làng xung quanh

vùng đất Tổ. Mỗi làng đều đem theo kiệu riêng của
làng mình từ các làng do vị bô lão dẫn đầu rồi đến
thanh niên trai trẻ mặc võ phục thuở xưa tay cầm
đủ loại cờ quạt sắc màu rực rỡ. Tất cả tề tựu dưới
chân đền chờ cử hành tế lễ tạo nên một rừng
người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu. Mọi người nô
nức dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng cười nhưng khi
tiếng chiêng tiếng trống khai lễ thì không khí trang
nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng đất Tổ. Sau
phần tế lễ rước kiệu là phần hội hè với đủ mọi trò
vui chơi cho nam thanh nữ tú tham dự thưởng
ngoạn. Mở đầu là cuộc thi đua thuyền truyền thống
của các đội thuyền Rồng của các làng trong hồ Đá
Vao ngay cạnh chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh
ven chân núi đủ các trò vui chơi nào là những rạp
tuồng chèo, những cây đu tiên, những trò chơi dân
gian như đánh cờ người, trò tung còn giữa thanh
niên thiếu nữ ngày xuân, những phường hát Xoan
của các nơi về tụ hội tổ chức hát Xoan với những
làn điệu dân ca truyền thống mỗi độ xuân về.

Việt tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ
chức lễ tết hội hè quanh năm suốt tháng nhưng lễ
hội đền Hùng mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp.
Dự lễ hội đền Hùng chính là cuộc hành hương trở
về nguồn cội dân tộc trong tâm thức mỗi con dân
đất Việt. Lễ hội đền Hùng không đơn thuần là cuộc
chơi xuân với những hội hè đình đám mà để chúng
ta hướng vọng về Quốc tổ Hùng Vương, người
truyền thừa sự sống và khai mở đất nước Văn Lang
cho tất cả chúg ta. Trên thế giới ngày nay, có lẽ chỉ
có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn thờ và có
một huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử thi để
chúng ta có quyền tự hào gọi nhau là đồng bào, là
anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra:

Bọc điều trăm họ thai chung,
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam



ĐỀN THỜ QUỐC TỔ



Theo Ngọc phả Đền Hùng do Hàn lâm viện Đại
học sĩ Nguyễn Cố phung soạn vào năm Hồng Đức
nguyên niên 1470, sau được Hàn lâm Thị Độc sao
lại năm Hoàng Đinh Nguyên niên 1600 thì Đền
Trung tức Hùng Vương Tổ miếu được xây vào thế
kỷ XIV, bị quân Minh phá huỷ vào thế kỷ XV. Đến

thời Lê (1427-1573) đền được xây dựng lại theo bố
cục hình chữ nhất cùng với Gác chuông và Thiền
Quang Tự nay chỉ còn 2 phần tiền tế. Đền Thượng
cũng được xây dựng vào thời kỳ này. Đến thế kỷ
XVII-XVIII đền Hạ mới được xây dựng.

Năm 1823, vua Minh Mạng cho xây dựng
Miễu “Lịch đại Đế vương” ngay tại kinh thành
Huế. Nhà vua đã bà bac kỹ lưỡng với bộ Lễ để đưa
các nhân vật lịch sử vào thờ trong miếu. Bản tâu
trình của bộ Lễ lên vua Minh Mạng như sau: “Kinh
Dương Vương, Lạc Long Quân thực là thuỷ tổ của
nước Việt ta. Thế thì từ ngoại kỷ trở về trước phải
lấy các vị sáng thuỷ mà thờ. Từ nhà Đinh về sau thì
giềng mối mới rõ. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,
Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Thái Tổ thừa vận
lần lượt nổi lên, đều là vua dựng nghiệp một đời.
Trong khoảng ấy, anh chúa trung hưng như Trần
Nhân Tông ba lần đánh bại quân Nguyên, hai lần
khôi phục xã tắc. Lê Thánh Tông lập ra chế độ, mở
rộng bờ cõi, công nghiệp rạng rỡ vang rền đều nên
liệt vào miếu thờ”.

Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) ra sắc chỉ sửa chữa
lại đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh và cho khắc
2 bia đá dựng tại khu đền thờ. Năm Duy Tân thứ
sáu (1912) cho trùng tu cung trong điên ngoài qui
thứ như ngày nay. Năm Khải Định thứ 7 (1922) lại
cho sửa sang thêm Lăng mộ và trùng tu đền Giếng
thờ 2 công chúa Tiên Dung con vua Hùng thứ 3 lấy
Chử Đồng Tử và công chúa Ngọc Hoa, con vua
Hùng thứ 18 lấy Cao Sơn tức Sơn Tinh (Thánh Tản
Viên). Năm 1935, vua Bảo Đại cho trùng tu và mở
rộng thêm diện tích đền và cho dựng bia đá ngày 10

Đông Bắc và dải núi Tản Viên ở rìa Tây Nam.
Nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ cận địa lý học thì
đất tổ với trung tâm điểm Việt Trì ở ngã ba Bạch
Hạc ngoảnh mặt hướng biển hậu chấm xa là dải
Hoàng Liên Sơn chất ngất trời Nam, tay “Long”
là dải Tam Đảo với dưới chân nó là sông Cà Lồ.

tháng 3 năm Canh Thìn “Đền vua Hùng là nơi thờ
các vua họ Hồng Bàng trong lịch sử tối cổ của nước
Việt ta”. Thời xưa, hàng năm tổ chức quốc lễ vào
mùa Thu nhưng đền đời vua Khải Định năm 1917,
Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc xin bộ Lễ lấy
ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm Quốc
lễ, trước ngày giỗ vua Hùng thứ 18 một ngày.

Theo cách tính ngày tháng Việt Lịch của dân tộc,
thì tháng 3 là tháng Thìn, và đếm từ Tý trong 12
con giáp, thě ngŕy 10 lŕ ngŕy Dậu. Theo 12 địa chi,
Dậu là gà, thuộc loài chim, và chim là biểu hiệu
của Tiên. Cũng vậy, địa chi Thìn đã mang nghĩa là
Rồng. Ngày 10 tháng 3 là ngày Tiên, tháng Rồng.
Ngày 10 tháng 3 được Tổ Tiên chọn chính là để
giúp con cháu dễ dàng nhận thức về nguồn gốc
dân tộc của mình: Con Rồng cháu Tiên. Ngày nay
chúng ta không những bảo lưu truyền thống giỗ Tổ
Hùng Vương mà còn xem ngày này là ngày nhớ ơn
cha mẹ, bậc sinh thành dưỡng dục mình nên người.
Chính vì vậy ngày này được xem như “Ngày Phụ
Mẫu Truyền thống ” của người Việt Nam chúng ta.

** Theo học giả Trần Quốc Vượng thì Việt Trì và
vùng xung quanh Vĩnh Phú là đỉnh cao nhất của tam
giác châu sông Hồng. Sông Hồng là tên gọi muộn
màng ở cuối thế kỷ thứ XIX do màu nước của sông
này. Sách Thuỷ Kinh chú ở thế kỷ thứ VI gọi nó
là Tây Đạo, cái tên chữ Hán Việt này là sự phiên
âm từ một tên Tày cổ: Nậm Tao mà tên Việt hiện
nay còn giữ được ở Việt Trì là sông Thao. Tam giác
châu sông Hồng được giới hạn bởi dải núi Tam
Đảo ở rìa

Tay “Hổ” là dãy Tản Viên với dưới chân nó là sông
Tích, sông Đáy. Trước mặt là sự “Tụ thuỷ” rồi “Tụ
nhân” trên đôi bờ nhị thuỷ với các đầm lớn trũng
lầy như đầm Vạc Vĩnh Yên, ao Vua, suối Hai Sơn
Tây …Thế đất đó bảo đảm một viễn cảnh phát
triển ngàn năm, hơn bốn ngàn năn nếu tính từ người

Việt cổ Phùng

Nguyên đến ngày nay. Bao quanh điểm Việt Trì là
những núi đồi lô nhô như bát cơm mà dân gian hình
dung thành bầy voi trăm con mà tới 99 con chầu về
đất tổ.

Tư tưởng vì dân này mãi đến ngày 19-11 năm 1863,

mới được Tổng Thống Abraham Lincoln khẳng
định “Nhất định sẽ khai sinh nền tự do và chính phủ
Của Dân, Do Dân và Vì Dân nhất định sẽ không
biến mất khỏi mặt địa cầu này” tại lễ khánh thành
Nghĩa trang Quốc gia tại Gettysburg.

PHẠM TRẦN QUỐC VIỆT
www.phamtrananh.wordpress.com
www.phamtrananh.net






Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Giỗ Tổ Hùng Vương 4889
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
Phá tan giặc Cộng bằng Tâm lược
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt