Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com




Gọng Kềm Lịch Sử
Hồi Kư Chính Trị

Tác giả: Bùi Diễm
  Dịch giả: Phan Lê Dũng


                          Mục Lục

1. Gọng Kềm Lịch Sử
2. Thuở Ấu Thời
3. Những Tổ Chức Chính Trị Bí Mật
4. Đảng Đại Việt
5. Cách Mạng Tháng 8
6. Anh, Tàu, và Pháp
7. Khủng Bố
8. Trong Ṿng Trốn Tránh
9. Giải Pháp Bảo Đại
10. Mùa Nghỉ Alpine
11. Lập Trường Ngoan Cố Của Pháp
12. Sự Lựa Chọn của Cựu Hoàng
13. Ông Diệm và Các Thành Phần Đối Lập
14. Đảo Chánh
15. T́nh H́nh Sau Đảo Chánh
16. Chánh Quyền Tướng Khánh
17. Sự Can Thiệp của Hoa Kỳ
18. Bác Sĩ Quát và Các Tướng Lănh
19. Con Đường Dẫn Đến Hiến Pháp
20. Bước Thứ Hai
21. Đại Sứ tại Hoa Thịnh Đốn
22. Hiến Pháp Dân Chủ
23. Khung Cảnh Hậu Trường
24. Cuộc Bầu Cử 1967
25. Sự Chuyển Đổi của Thời Cuộc
26. Tết Mậu Thân
27. Cuộc Đàm Phán Bắt Đầu
28. Vụ Anna Chennault
29. Tổng Thống Mới, Chính Sách Mới
30. Tŕ Hoăn
31. Mất Tiên Cơ
32. Cuộc Độc Cử
33. Hai Màn Ngoạn Mục
34. Hiệp Định Ba Lê
35. Những Việc Cuối Cùng
36. Lời Hậu Luận


1. Gọng Kềm Lịch Sử


Một giọng nói yếu ớt, giục dă xuyên qua những tiếng ồ ồ ở đầu giây điện đàm: "Ông Diễm, Bob Shaplen đây, Bob Shaplen. Tôi đang gọi từ Hồng Kông." Giọng nói lập đi lập lại tên người gọi, nhưng cơn ngủ say vùi vừa xong và những viên thuốc cho cơn cảm cúm khốc liệt vẫn làm tôi mù mờ về người đang gọi.

"Bob Shaplen đây, ông Diễm. Tôi vừa mới từ Sài G̣n về. Bạn bè ông đang cần gặp ông gấp. Họ rất hoang mang và đang muốn biết rơ tin tức của phía Hoa Kỳ. Chính phủ Sài G̣n đă cắt hẳn mọi liên lạc với dư luận bên ngoài. Chẳng ai biết ông Thiệu hoặc đại sứ Graham Martin suy nghĩ thế nào. Mọi người đều hoang mang. Chỉ c̣n ông. Ông phải về Sài G̣n cho mọi người biết rơ sự thật. Ông phải về ngay!"

Đầu óc tôi bắt đầu tỉnh táo hơn. Giọng nói đầy vẻ thúc giục của người gọi đă khiến tôi tập trung được tư tưởng phần nào. Đây là lần đầu tiên tôi nhận được tin trực tiếp của Sài G̣n. Khi kư giả Shaplen gác điện thoại, tôi đă hoàn toàn tỉnh táo. Tôi tin là nhận định của ông ta hoàn toàn chuẩn xác. Người kư giả lăo thành chuyên tường tŕnh các mục Viễn Đông của báo New Yorker là người hiểu biết và có nhận định chính xác. Ông không phải là người hấp tấp, hay bi thảm hóa vấn đề. Nếu không phải v́ t́nh trạng bắt buộc th́ chắc chắn ông đă không gọi tôi. Tôi vẫn c̣n nghe âm hưởng gấp gáp, giục dă trong giọng ông ta.

Tuy đă 2 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn mà khi trở về giường tôi vẫn không tài nào chợp được mắt. Thật ra th́ trong suốt tuần vừa qua, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về vấn đề cần phải trở về Việt Nam. Tôi c̣n đang phân vân không biết có nên về hay không th́ đột nhiên bị cúm nặng. Trong khi đó th́ ở Sài G̣n những cơn hoảng hốt lại bùng ra thật bất ngờ. Những cơn hoảng hốt đó đă khiến quân đội Việt Nam mất tinh thần và trở thành hỗn loạn. Vào giờ phút này th́ chẳng ai có thể đoán được liệu Sài G̣n c̣n có thể đứng vững được bao lâu nữa. Đầu óc tôi lại miên man nghĩ về vấn đề cần phải trở về Việt Nam. Tôi tự hỏi phải chăng trở về lúc này không c̣n kịp nữa? Việt Cộng đă đến sát Sài G̣n và hẳn nhiên là tôi đă đoán trước được số phận của ḿnh nếu chẳng may bị lọt vào tay đối phương.

Ba tuần trước, ông Thiệu gửi tôi sang thủ đô Hoa Kỳ, nơi tôi đă trú ngụ suốt từ năm 1967 tới năm 1972 khi phục vụ với chức vụ đại sứ Việt Nam. Kể từ năm 1973, khi tôi bắt đầu làm Đại Sứ Lưu Động th́ Hoa Thịnh Đốn cũng là một trong những nơi tôi thường xuyên lui tới. Lần này chuyến đi của tôi nhằm mục đích thuyết phục quốc hội Hoa Kỳ thông qua số tiền viện trợ khẩn cấp 700 triệu đô la đang bị tŕ hoăn. Số tiền viện trợ đó sẽ được dùng vào việc mua thêm đạn dược và tiếp liệu cho quân đội Việt Nam. Lúc này, trước cơn thác của những sư đoàn Bắc quân tràn vào Miền Nam với tốc độ mỗi thành phố một ngày, quân đội Việt Nam đang hoang mang v́ thiếu thốn quân cụ.

Nhưng giờ là 14 tháng tư. Tôi chẳng c̣n ǵ để làm ở Hoa Thịnh Đốn. Ở vào giây phút khẩn cấp, khi Việt Nam đang trong ṿng hiểm họa gian nguy, những nỗ lực của tôi từ trước đến nay gần như hoàn toàn vô dụng. Tôi đă kêu gọi đến gần như tất cả bạn bè và đồng nghiệp cũ của tôi để nhờ họ giúp đỡ mà vẫn thất bại. Tuy tôi đă phục vụ ở Hoa Kỳ trong suốt 7 năm mà những sự liên hệ của tôi với Hoa Kỳ trong quá khứ vẫn chẳng giúp tôi thuyết phục được quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam.

Vào lúc này, những biến chuyển ở Việt Nam đang dồn dập trong giai đoạn chót. Đă đến lúc tôi phải về. Mẹ tôi, 90 tuổi vẫn ở Sài G̣n cùng người chị ruột. Tôi phải cố đưa hai người cùng đi. Hơn nữa, ngoài việc phải trở về Việt Nam để gặp gia đ́nh, tôi cũng muốn về để c̣n được thấy Việt Nam lần cuối. Đă ba mươi năm qua, cuộc sống của tôi cũng như cuộc sống của bao nhiêu người khác đă đi đôi với sự thăng trầm của chính trường Việt Nam nói chung, hoặc của Sài G̣n nói riêng. Trong suốt ba mươi năm đó, có lẽ không lúc nào là lúc tôi không tham gia vào các hoạt động chính trị. Trong tất cả mọi giai đoạn, nếu tôi không trực tiếp tham gia cộng tác với chính phủ th́ cũng là tham gia vào những đoàn thể đối lập chống lại chính phủ. Lúc này tuy Sài G̣n đang lúc nguy kịch, nhưng tôi cho rằng Sài G̣n vẫn là chỗ của tôi. Nào ai biết trước được, có thể tôi vẫn c̣n cứu gỡ được phần nào như lời Shaplen. Và dù rằng chẳng giúp đỡ ǵ được th́ về vẫn hơn là ở đây làm một ông đại sứ lạc loài của một quốc gia đang hấp hối, nằm bẹp dí ở Hoa Thịnh Đốn xem tin tức về giai đoạn kết thúc ở nước ḿnh.

Hôm sau tôi vẫn giữ hẹn ăn trưa ở quán Empress với ông Ted Shackley, Trưởng pḥng T́nh Báo Viễn Đông của CIA. Shackley vừa mới từ Việt Nam trở về sau một sứ vụ đặc biệt dưới chỉ thị của Tổng Thống Ford. V́ nghĩ rằng Trưởng Pḥng Shackley có nhiều tin tức nên tôi muốn gặp ông để t́m hiểu thêm về t́nh h́nh Việt Nam trước khi về. Lời Shackley đầy vẻ ảm đạm. Sài G̣n đang nguy và ngày càng nguy hơn. Ông Thiệu hoàn toàn cô thế, và chẳng c̣n đủ sáng suốt để đối phó với t́nh h́nh. Trong cuộc gặp gỡ vừa qua với Trưởng Pḥng Shackley và ông Federick Weyand, Tư lệnh quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam, ông Thiệu không c̣n đủ tâm trí để phân tích hoặc đàm luận nữa. Ông Thiệu đang chới với v́ tầm mức lớn lao của sự đổ vỡ.

Sáng hôm sau, tôi chuẩn bị về Sài G̣n và định rằng trên đường đi sẽ ghé Hồng Kông để nói chuyện với kư giả Shaplen. Tôi chia tay nhà tôi và ba con ở phi trường Washington 's National. Các con tôi lúc đó vẫn c̣n nhỏ: Lưu, 24; Giao, 20; và Hân, mới tám tuổi, hăy c̣n quá bé chưa hiểu rơ được sự t́nh nhưng có lẽ đă đủ khôn để cảm thấy những sự khác biệt trong lần đưa tiễn này. Nhà tôi tuy lo nhưng cũng như mọi lần, cố gắng trấn tĩnh để chồng khỏi bận tâm. Mặc dù nhà tôi biết rằng chuyến về Việt Nam của tôi vô cùng nguy hiểm, nhưng nhà tôi cũng hiểu nếu không trở lại Việt Nam lần này th́ tôi sẽ phải hối hận suốt đời.

Chuyến bay phản lực Pan Am tiến dần về hướng Tây trong khi tôi chập chờn, kiệt lực cả về tinh thần lẫn thể xác, chỉ nhớ lờ mờ rằng chuyến bay có ghé San Francisco và Honolulu. Hai mươi bốn giờ sau tôi xuống máy bay tại phi trường Kai Tak ở Hồng Kông rồi lập tức đến thẳng nơi Shaplen cư ngụ. Khi tôi đến nơi th́ trời đă về chiều. Đêm đó, tôi ngồi đến khuya nghe kể chuyện hỗn mang ở Việt Nam. "Ở Sài G̣n chẳng ai biết rơ t́nh h́nh, nhất là về ư định của Hoa Kỳ. T́nh trạng thật là khẩn trương. Tuy vậy mọi người vẫn cố bám vào những ảo tưởng về việc Hoa Kỳ sẽ viện trợ hoặc sẽ có một Giải Pháp Dung Ḥa nào đó."

Theo lời kư giả Shaplen th́ có đến cả hàng triệu tin đồn. Người ta tin rằng Hoa Kỳ không thể khoanh tay đứng nh́n một đồng minh trong suốt hai mươi năm gục ngă trước mũi dùi của Cộng quân đang được tập đoàn Sô Viết đứng sau làm hậu thuẫn. Có lẽ Hoa Kỳ sẽ có cách gỡ rối. Các đội B-52 đang được lịnh bay đến đập tan các sư đoàn Bắc Quân đang hành quân vào Nam một cách lộ liễu. Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đang sửa soạn đổ bộ vào vùng đồng bằng Cửu Long để bảo vệ những khu vực sản xuất lúa gạo chính cần thiết cho nền kinh tế của Việt Nam. Ngoại Trưởng Kissinger đang đàm phán về việc phân chia lănh thổ, cố thuyết phục cộng sản nhượng những tỉnh chính để đổi lại những viện trợ kinh tế khổng lồ. Đây mới chỉ là một trong vài câu chuyện đồn đăi, những tin đồn không những đă làm mất tinh thần dân chúng mà c̣n làm lung lạc cả tinh thần chính phủ trong lúc chính quyền đă trở nên mù quáng, tê liệt và bám víu vào ảo ảnh. Shaplen kết luận: "Họ cần phải biết sự thật, v́ thế ông phải về."

Tôi trả lời: "Sự thật là: Đối với Hoa Kỳ, trận chiến này coi như đă kết liễu."

Shaplen nh́n tôi chăm chăm, buông giọng: "Nếu vậy th́ ông phải nói rơ cho họ biết."

Hôm sau, 17 tháng 4-1975, tôi có mặt trên chuyến bay Air France về Sài G̣n. Máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất vào khoảng bốn giờ trưa. Khung cảnh yên tĩnh nhất thời của phi trường làm tôi ngạc nhiên. Khi nghe lời tường thuật của Shaplen tôi đă chờ đón trước những khung cảnh hoàn toàn hỗn loạn. Tôi nh́n quanh và rồi bất chợt nh́n thấy một đám đông đang xoay quanh chỗ khu vực cấm của phi đạo, chờ đợi những chuyến bay đặc nghịt người sắp sửa ra đi. Khung cảnh bên ngoài phi trường c̣n khác thường hơn. Đường rời phi trường thật vắng. Trong khi đó th́ ở tất cả những con đường dẫn đến phi trường xe cộ lại từng hàng ứ nghẽn. Dường như cả Sài G̣n đang di tản ra sân bay. Xe cộ sắp hàng như thắt nút. Hàng đoàn xe nối đuôi theo nhau chậm chạp nhích dần về hướng phi trường.

Ở Sài G̣n, triệu chứng độc nhất chứng tỏ dân chúng đă biết về những cơn sóng gió sắp đến chỉ là những tiếng x́ xào bàn tán ở các đám đông tụ họp trên đường phố. Vẻ căng thẳng, âu lo hiện rơ trên từng khuôn mặt. Mọi sinh hoạt ồn ào hàng ngày đă mất. Trên tất cả mọi khuôn mặt dường như chỉ có những nét cương quyết, quả cảm của những người có quá nhiều việc cần làm trong một thời gian gấp rút. Hôm đó, tin tức loan báo rằng Việt Cộng đă chiếm được Phan Rang và chỉ c̣n cách Sài G̣n khoảng hơn 300 cây số.

Tôi trở về căn nhà thuê ở đường Nguyễn Huệ để gặp mẹ và chị tôi. Khi thấy tôi về, mẹ và chị tôi hết sức vui mừng. Cơn khủng hoảng ngày càng tăng đă khiến cả hai phải lo âu khắc khoải không biết phải làm ǵ.

Sau khi chào hỏi và trấn an gia đ́nh rằng tôi sẽ có cách lo toan mọi chuyện, tôi gọi điện thoại vào Phủ Tổng Thống để xin gặp ông Thiệu. Chánh văn pḥng Phủ Tổng Thống lúc bấy giờ là Đại Tá Vơ Văn Cầm trả lời rằng ông sẽ lập tức cho tổng thống biết tôi đă ở Sài G̣n và sẽ gọi lại cho tôi ngay. Vài phút sau, ông Cầm gọi tôi để nhắn lại lời ông Thiệu: "Tổng Thống rất bận rộn và đang dao động v́ mất Phan Rang. Tổng thống nhắn rằng xin ông đại sứ gặp Thủ Tướng trước rồi Tổng Thống sẽ tiếp ông đại sứ sau."

Lời nhắn tin cho thấy rơ ràng t́nh trạng đang khẩn trương đến độ nào. Chính ông Thiệu đă gửi tôi làm đại diện ở Hoa Kỳ. Lúc này tôi vừa trở lại và đương nhiên tôi là nguồn tin độc nhất mà ông Thiệu mong mỏi. Thường thường mỗi khi tôi đi công du trở về th́ ông Thiệu vẫn thường gặp tôi ngay. Vậy mà lần này, trong lúc t́nh h́nh đang khẩn cấp th́ thay v́ gặp tôi, ông Thiệu lại muốn tôi gặp thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, một người mà từ trước tới nay ông vẫn có ư xem thường. Tôi nhớ lại lời Shackley và lời Shaplen: Ông Thiệu đang "chới với," đang "mất hết sáng suốt". Ông Thiệu (Và luôn cả đại sứ Graham Martin) "đang cắt đứt hết mọi liên lạc và không tiếp ai cả." Tôi tự hỏi: "Vậy th́ ai, là người đứng ra điều hành mọi chuyện?" Lần họp cuối giữa tôi với ông Thiệu trước khi tôi lên đường sang Hoa Kỳ là vào khoảng trung tuần tháng ba. Kể từ ngày đó cho tới nay th́ thời gian mới chỉ ba tuần. Nếu so sánh khung cảnh của Sài G̣n vào lúc tôi mới vừa trở về và khung cảnh của Sài G̣n ba tuần về trước th́ có lẽ chẳng ai có thể tin được mức độ dồn dập của các biến cố đă xảy ra ở Sài G̣n.

* * * * *

Ngày 11 tháng 3 năm 1975 có lẽ chính là thời điểm khởi đầu của giai đoạn kết thúc, tuy rằng biến cố đánh dấu giai đoạn này vẫn chưa lấy ǵ làm rơ ràng hoặc đậm nét. Hôm đó, Ban Mê Thuật đă bất thần bị ba sư đoàn Bắc Quân đánh chiếm. Thật ra Ban Mê Thuật chỉ được bảo vệ rất sơ sài. Tuy Việt Cộng đă chiếm được Ban Mê Thuật rồi mà ở Sài G̣n vẫn chưa có cơn hoảng hốt nào rơ rệt. Ban Mê Thuật là một tổn thất đáng kể nhưng không phải là một mất mát có tính cách sinh tử. Đă có lần Việt Nam phản công tái chiếm những thành phố lớn hơn -như Huế hồi Tết Mậu Thân năm 1968, Quảng Trị hồi mùa hè đỏ lửa 1972.

Khi Ban Mê Thuật thất thủ th́ tôi vừa từ Tân Đề Li trở về sau một chuyến công du Ngoại Giao. Đây là một trong những chuyến công du nằm trong hành tŕnh Đại sứ Lưu Động của Việt Nam. Chức vụ đại sứ lưu động là một chức vụ ngoại giao nhằm mục đích biểu dương h́nh ảnh Việt Nam, nối kết các mối bang giao và t́m viện trợ ở Đông Nam Á, Ấn, Pháp hoặc bất kỳ nơi nào có thể ủng hộ cho Việt Nam.

Vào ngày 15 tháng 3 ông Thiệu đă ngỏ ư mời tôi vào để chuẩn bị cho một chuyến công du Hoa Kỳ kế tiếp. Lần này th́ chuyến công du của tôi khẩn thiết hơn v́ Ban Mê Thuật đă thất thủ và cuộc tấn công của Bắc Quân đang lan rộng khắp nơi.

Tôi được mời cộng tác với chính quyền ông Kỳ vào năm 1965, ngay sau khi làm Đổng Lư Văn Pḥng cho bác sĩ Phan Huy Quát, vị thủ tướng dân sự cuối cùng của Việt Nam. Khi ông Kỳ ngỏ lời mời tôi tham gia chính phủ. Tôi đă suy nghĩ rất nhiều. Chính bản thân tôi cũng rất nghi ngờ sự thực tâm của các tướng lănh khi họ mời tôi cộng tác. Kinh nghiệm chính trị của tôi là kinh nghiệm chính trị của một người phục vụ trong một chính phủ dân sự có quan niệm chính trị khác hẳn với quan niệm của một chánh phủ quân nhân. Và chính chánh phủ đó lại vừa mới sụp đổ.

Thực ra th́ ngay sau khi chánh phủ dân sự của ông Quát sụp đổ tôi đă kết luận ngay rằng: Đă đến lúc tôi nên cho sự nghiệp chính trị của tôi lùi vào quá khứ. Lúc đó, tôi không hề nghĩ ǵ về việc tham gia hoặc cộng tác với chính quyền mới. Ngược lại, tôi chỉ mong được trở lại để sống mộc cuộc sống b́nh thường và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Saigon Post. Nhưng chính bác sĩ Quát là người thúc dục tôi nhận lời. Hơn nữa, tôi cũng biết rằng đối với một chánh phủ quân nhân th́ vấn đề cần phải giữ một đại biểu dân sự trong chính quyền là một việc tối cần, nhất là khi Việt Nam đang phải giao dịch với Hoa Kỳ. Trong sự giao dịch đó, tôi cho rằng chính phủ Việt Nam cần có sự đóng góp của tất cả các thành phần quốc gia. Trước đây, khi c̣n phục vụ trong chánh phủ của bác sĩ Quát, v́ là nhân viên đứng giữa liên lạc nội các của bác sĩ Quát và Hoa Kỳ nên dầu muốn, dầu không tôi đă phải giữ mối giao hảo với các nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ, chẳng hạn như đại sứ Maxwell Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson. Bởi vậy các tướng lănh thấy rằng kinh nghiệm giao dịch của tôi có thể giúp họ phần nào khi họ phải hợp tác với Hoa Kỳ.

Việc các tướng lănh quyết định mời tôi tham gia cộng tác với chính phủ là một bằng chứng cho thấy rằng tôi thật sự có dịp để phát biểu ư kiến trong chính quyền mới. Vả lại, tôi có thể từ chức bất cứ lúc nào. Tôi nhận lời một phần v́ tin tưởng rằng cho dù có tham gia chính phủ, tôi vẫn có quyền phát biểu ư kiến của tôi một cách tự do hoặc từ chức bất kỳ lúc nào tôi muốn. Hơn nữa, nếu không ra cộng tác, tôi khó thể tránh tiếng rằng tôi đă đặt quyền lợi và tiếng tăm của cá nhân lên trên quyền lợi của đất nước.

Nói cho cùng th́ tuy tôi đă nhận lời cộng tác với chính phủ Thiệu-Kỳ, nhưng những liên hệ giữa tôi, ông Thiệu và ông Kỳ vẫn chưa bao giờ vượt quá những khuôn khổ giao thiệp b́nh thường để trở thành thân mật. Khi nh́n lại sự liên hệ giữa tôi và ông Thiệu trong quá khứ tôi vẫn nhiều lần thắc mắc chẳng hiểu tại sao sự liên hệ khác thường giữa tôi và ông Thiệu lại có thể tiếp tục lâu dài đến thế?

Đă nhiều năm qua tôi liên tục chỉ trích chánh quyền ông Thiệu và riêng ông Thiệu th́ đă có tiếng là người không thích nghe chỉ trích, nhất là khi những chỉ trích của tôi lại toàn nhằm vào những vấn đề ông Thiệu không hề nhượng bộ ai bao giờ. Chẳng hạn như những chỉ trích về vấn đề đoàn kết các tầng lớp quốc dân. Trong các cuộc bàn luận với ông Thiệu tôi vẫn thường nói rằng ông Thiệu cần phải cải tổ chính phủ để loại trừ bớt những nhân viên bất tài và thiếu khả năng. Tôi đưa ư kiến rằng ông Thiệu cần phải mời những đại biểu từ khắp cả các tầng lớp quốc dân, kể cả những đại biểu của các nhóm đối lập th́ mới có thể phát huy được hết tiềm năng của quốc gia và đối chọi hữu hiệu được với cộng sản.

Thật sự th́ ông Thiệu cũng không hẳn hoàn toàn mù quáng về những nhược điểm của chánh phủ. Sau những buổi họp vô vị và dai dẳng của chính phủ mà ông tham dự, nỗi thất vọng của ông thường bùng ra. Mỗi khi những cuộc họp đó kết thúc, ông Thiệu vẫn thường cau có: "Anh coi đó! Thật chẳng ra làm sao cả!"

Những lúc đó là những lúc tôi đưa lời chỉ trích: "Như tôi đă nói với tổng thống, tổng thống cần thay đổi chánh phủ." Nhưng khi cuộc bàn căi tiến tới chỗ găng hơn th́ phản ứng cố hữu của ông Thiệu lại y như cũ. "Để coi, tôi sẽ suy nghĩ lại." Kết cục sự tŕ hoăn và bản tính lưỡng lự cố hữu của ông vẫn thắng. Mặc dù hiểu tường tận tầm mức cấp thiết của việc phải cải tổ, ông Thiệu vẫn rơi vào t́nh trạng măi măi đợi chờ, măi măi nghi ngờ để rồi chẳng bao giờ có hành động nào thiết thực cả.

Ngày 15-3, ông Thiệu lâm vào t́nh thế chính trị nan giải. Vào lúc này, khi Bắc quân đang phát động tấn công gia tăng ngày càng ráo riết th́ vấn đề viện trợ cho quân đội Việt Nam trở thành vô cùng cấp thiết. Lúc ông Thiệu cho vời tôi cũng chính là lúc tôi dự định sẽ dùng tất cả quyền lực để làm áp lực với ông Thiệu. Vào ngày 15-3-74, trước khi đến gặp ông Thiệu, tôi nói rằng: Chắc chắn tôi sẽ đến gặp tổng thống, nhưng tôi yêu cầu được phép mang hai người nữa đi cùng: Cựu Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ, nguyên là một trong những bạn thân của tôi và ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công. Cả hai đều là những chính trị gia tháo vát và đều không phải là nhân viên của chánh phủ Việt Nam lúc đó. Khi yêu cầu được mang hai người này đi cùng, ư kiến của tôi về vấn đề cần phải đoàn kết tất cả các thành phần quốc gia trong mọi tầng lớp quốc dân đă trở nên quá rơ.

Lúc Chánh văn pḥng Phủ Tổng Thống gọi tôi nhắn rằng tổng thống vui ḷng gặp cả ba, tôi biết ḿnh đang đứng ở vị thế phải làm áp lực hết sức. Tôi dự định hết sức nhấn mạnh sự quan trọng của ư kiến dư luận Hoa Kỳ. Tôi muốn nói rơ ảnh hưởng của dư luận đối với quốc hội Hoa Kỳ về vấn đề viện trợ cho Việt Nam.

Qua những buổi thuyết tŕnh của tôi và nhiều nhân viên khác, ông Thiệu đă biết từ nhiều năm trước rằng ở Hoa Kỳ ông bị coi là một lănh tụ quân phiệt và độc tài. Thật sự th́ một trong những thất vọng lớn nhất của tôi là việc tôi chẳng thể giải thích cho ông Thiệu hiểu rơ nổi những bất lợi do ấn tượng xấu xa này gây ra. Trong các cuộc thuyết tŕnh, lúc nào ông Thiệu cũng coi thường những dư luận của Hoa Kỳ. Lúc nào ông cũng quyết đoán rằng những lời chỉ trích của dư luận Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những vấn đề "bị thổi phồng" và "hoàn toàn vô căn cứ." Những lúc đó tôi thường cực lực lên tiếng rằng: "Nếu tổng thống c̣n cần viện trợ của họ th́ tổng thống phải coi trọng ư kiến của họ. Chỉ khi nào tổng thống không cần họ nữa th́ lúc đó tổng thống mới có quyền xem ư kiến của họ là đồ vứt đi."

Lúc này th́ tất nhiên là chánh phủ Việt Nam đang cần viện trợ. Thất thủ Ban Mê Thuật là một thúc đẩy cấp thiết. Có thêm hai người bạn là cụ Đỗ và ông Bửu tăng cường bên cạnh, tôi đă dành gần hết 5 tiếng đồng hồ nhấn mạnh tầm mức cấp thiết của việc phải lập một chánh phủ hoàn toàn có tính cách đại diện cho mọi tầng lớp dân chúng. Ở ngay cả giờ phút đó, nếu ông Thiệu chịu cải tổ chính phủ th́ sự thay đổi này vẫn có thể khiến quốc hội Hoa Kỳ thay đổi ư kiến về vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Và cho dù sự cải tổ của ông Thiệu có không thay đổi được ư kiến của quốc hội Hoa Kỳ th́ ít ra th́ sự thay đổi này cũng sẽ cổ vơ được tinh thần quốc dân trong việc chống lại Cộng sản. Cuộc bàn căi của tôi với ông Thiệu căng thẳng đến độ về sau có lời đồn đại (như lời tường thuật sau này của nhân viên CIA Frank Snepp) là tôi đă yêu cầu ông Thiệu từ chức. Sự thật không đúng hẳn. Mặc dù tôi chưa hề đ̣i hỏi ông Thiệu từ chức nhưng ngoài chuyện này ra có lẽ tôi đă làm tất cả mọi việc có thể làm ở cương vị tôi.

Cho đến lúc đó mà ông Thiệu vẫn không chịu nghe tôi. Mặc dù ông đồng ư với chúng tôi là cần có sự thay đổi trong guồng máy chính quyền. Mặc dù ông đă yêu cầu chúng tôi đưa ra những "phương pháp cụ thể" để tiến hành. Tôi biết ông vẫn ngấm ngầm t́m cách tŕ hoăn, hứa hẹn như những lần trước đây và vẫn chẳng hề có chủ định nào rơ rệt. Ngay cả khi đă cùng đường ông Thiệu vẫn chứng tỏ là con người đă mù quáng v́ quyền thế, không c̣n đủ khả năng để hiểu rơ nhu cầu thiết yếu của quốc dân và những nhu cầu thiết yếu của đồng minh, mặc dù đây là một đồng minh có liên quan đến sự sinh tồn của chính chánh quyền ông Thiệu.

Ngày 22-3 tôi đến Hoa Thịnh Đốn vừa lúc thành phố bắt đầu rạng rỡ sinh động trong buổi chớm xuân. Tuy vậy, những nụ Azalea, nụ Dogwood và nụ Anh Đào vẫn chẳng làm giảm bớt được nỗi lo âu trĩu nặng tim tôi. Khi ghé qua Ba Lê tôi đă nghe về cuộc triệt thoái cao nguyên. Thay v́ cố gắng củng cố các đội quân ở Ban Mê Thuật sau khi Ban Mê Thuật thất thủ th́ ông Thiệu lại hạ lệnh rút lui về mé biển. V́ những đại lộ chính đă bị cắt ngang, quân đội Việt Nam bị buộc phải dùng những con lộ phụ hiểm hóc trong chuyến triệt thoái. Giữa rừng già cao nguyên, những toán quân triệt thoái đă bị chia cắt và tiêu diệt. Lúc này quân đội Bắc Việt đang tấn công cả đại lộ dọc theo bờ biển, cô lập những thành phố chính như Huế và Đà Nẵng. Một chiến thắng xoàng xĩnh, địa phương bỗng nhiên lan rộng thành một biến cố đủ sức gây hoảng hốt trong quân đội. Thảm kịch diễn ra ở Việt Nam đă khiến 700 triệu đô la trợ cấp, nguyên là mục tiêu cho chuyến đi của tôi thành một thứ viện trợ khẩn cấp liên hệ đến sự sinh tồn của Việt Nam.

Những tiến tŕnh tuần tự về sau cho thấy màn đầu của tấn thảm kịch kết liễu Việt Nam đang được vén dần lên trong các sảnh đường quốc hội Hoa Kỳ. Những kinh nghiệm thâm niên trong ngành đă khiến tôi thuộc nằm ḷng tất cả các phương thức vận động quốc hội. Tôi biết rơ cả chi tiết trong từng giai đoạn. Đầu tiên th́ tôi phải theo dơi tất cả những cuộc họp ở Ṭa Bạch Ốc, ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, ở Bộ Ngoại Giao và ở Ngũ Giác Đài. Khi những cuộc họp đó kết thúc, tôi sẽ phải họp riêng với kư giả về vấn đề Việt Nam và t́m cách để thuyết phục quốc hội. Cuối cùng, khi đă biết rơ lập trường của các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ tôi mới chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Thường th́ tôi cố vận động để nâng cao tinh thần những người có cảm t́nh với ḿnh và lên tiếng kêu gọi những người chỉ trích hăy suy nghĩ lại.

Tôi đến Hoa Thịnh Đốn được một ngày th́ Huế, kinh thành đại nội cổ kính đă bị cắt đứt. Hàng trăm ngàn dân tản cư đổ xô về phía Nam dọc theo những con đường chạy sát biển về Đà Nẵng cố trốn mũi dùi Bắc Việt. Ở Hoa Thịnh Đốn, quốc hội Hoa Kỳ lúc đó đang nghỉ nhóm 10 ngày. Ngoại Trưởng Kissinger đă lên đường đàm phán ngoại giao Trung Đông và tổng thống Gerald Ford đang nghỉ mát ở Vail, Colorado.

Cũng trong hôm đó tôi đến gặp ông Philip Habib, Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Đặc Trách Viễn Đông Sự Vụ. Tôi biết ông Philip đă ngót một thập niên, từ khi ông c̣n là cố vấn Bộ Trưởng ở Sài G̣n năm 1965. Ông Habib vừa là một nhà ngoại giao thẳng thắn, chuyên nghiệp lại vừa là người bộc trực, can đảm và thành thật đôi khi đến tàn nhẫn. Vừa gặp tôi, ông Habib đă đi thẳng vào vấn đề: "Lúc này Tổng Thống Ford đang bị Đạo Luật về Quyền Hạn Chiến Tranh trói chặt và hoàn toàn bất lực... Tôi không biết Tổng Thống phải làm thế nào để có thể vượt ra khỏi ṿng kềm tỏa của quốc hội... Chúng ta phải ráng t́m cách tŕnh bày để quốc hội có thể thấy rơ t́nh trạng khẩn cấp của Việt Nam..."

Tuy ông Habib có vẻ bộc trực và bi quan, những nhận xét của ông vẫn chưa thấm tháp vào đâu so với những nhận xét của nghị sĩ George Aiken. Ông George Aiken là nghị sĩ của tiểu bang Vermont và cũng là đường giây liên lạc chặt chẽ giữa tôi và quốc hội. Tuy là một nghị sĩ của đảng Cộng Ḥa, nghị sĩ Aiken cũng là bạn thân của lănh tụ đa số Thượng Viện Mike Mansfield. Thượng Nghị Sĩ Mansfield vốn nổi tiếng là một nghị sĩ phản chiến. Thông thường th́ những nhận xét về thế đứng quốc hội của nghị sĩ Aiken lúc nào cũng rất sắc bén. Khi tôi đến gặp ông ta ở văn pḥng riêng, ông đă nhận định rằng: "T́nh thế rất là ảm đạm." Lúc t́m đến các nghị sĩ khác tôi có cảm giác là ngay cả bạn bè cũng cố tránh gặp tôi. Nếu bị buộc phải nh́n thẳng mặt tôi th́ họ cũng chỉ nh́n với vẻ miễn cưỡng, khó khăn.

Ngày 30-3, Đà Nẵng, một thị xă nằm khoảng non 200 cây số về phía Nam của Huế và là một thành phố lớn hàng thứ hai của Miền Nam bị một lực lượng 35 ngàn quân Bắc Việt tiến chiếm. Đêm đó màn ảnh truyền h́nh đầy những cảnh tượng hăi hùng: Phụ nữ và trẻ em bị dày xéo trong đám đông hỗn loạn. Dân, quân đạp lên nhau cố vượt ra khỏi ṿng vây khổng lồ đang thắt dần lấy thành phố. Một triệu dân tản cư tràn ngập đường phố dẫn về Nam.

Lúc này đường liên lạc giữa ṭa đại sứ ở Hoa Thịnh Đốn và Sài G̣n đă bị cắt đứt hoàn toàn. Chúng tôi không c̣n liên lạc được với ông Thiệu nữa. Mặc dù đă gửi liên tiếp hàng loạt điện tín, chúng tôi vẫn không nhận được trả lời. Dường như đă có một bức màn vô h́nh chụp xuống, cắt ĺa Sài G̣n với thế giới bên ngoài, với những người như chúng tôi. Hàng đêm chúng tôi ngồi lịm trước máy truyền h́nh bàng hoàng nh́n những thành phố, quận lị theo nhau lần lượt bị xoá tên trên bản đồ Việt Nam. Mỗi ngày ông Trần Kim Phượng, người đă thay thế tôi giữ chức vụ đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ từ năm 1972, và tôi đều phác họa thời khắc cho những cuộc điện đàm, những buổi họp, làm đi làm lại những bước mà càng ngày cả hai càng tin là hoàn toàn vô hiệu. Và khi ngày đă tắt, cả hai đều phờ phạc v́ kiệt sức, không nhớ nổi lấy một điều về những việc đă làm. Ở mười ngàn dặm xa, đất nước đang chết dần và chúng tôi hoàn toàn bất lực.

Cuối tháng 3, một tia hy vọng bỗng loé lên khi tổng thống Ford th́nh ĺnh gửi đi một phái đoàn chuyên viên sang Việt Nam để lượng định t́nh h́nh. Những người được gửi đi bao gồm Tư Lệnh quân sự Frederick Weyand, Trưởng Pḥng T́nh Báo Viễn Đông Ted Shackley và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng Đặc Trách Quân Nhu Erich von Marbot. Những nhân viên này được phái sang Việt Nam để có thể đích thân thị sát t́nh h́nh và chuyển lời đề nghị viện trợ nếu đây quả là vấn đề cấp thiết. Ngày 9-4 tôi đến gặp Tư Lệnh Weyand ngay khi ông vừa trở lại. Mặc dầu bi quan, tướng Weyand vẫn cho rằng quân đội Việt Nam hăy c̣n cơ hội tập trung để chỉnh đốn, kết hợp và chống đỡ. Nếu viện trợ hăy c̣n kịp thời, ông ta hoàn toàn đồng ư việc quốc hội hỏa tốc chấp thuận viện trợ.

Vào lúc này tất cả các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt được trang bị với khối lượng chiến cụ khổng lồ của Nga và Tàu đang trải rộng dần ra, tiến theo đội h́nh hàng dài dọc theo mọi ngă đường. Trong suốt cuộc chiến chưa lúc nào những toán quân Cộng Sản lại hành quân lộ liễu và có thể dễ bị máy bay tiêu diệt bằng lúc này. Tại Xuân Lộc, ṿng đai tự vệ phía ngoài của Sài G̣n, sư đoàn 18 của Việt Nam đang chống trả dữ dội các cuộc tấn công ngày càng tăng của cộng sản. Lúc này, chỉ cần các lực lượng không quân Hoa Kỳ can thiệp - Một giải pháp can thiệp mà cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đă cam đoan thi hành hồi năm 1973- cũng đủ để phá tan các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đang công khai hành quân và làm giảm hiệu năng của quân đội cộng sản trong nhiều năm kế tiếp. Rồi từ đó, nếu được tiếp tế quân nhu và quân cụ đầy đủ và được ủy lạo tinh thần, quân đội Việt Nam sẽ có thể tái chiếm những vùng đă mất.

Ngay cả khi tăm tối đă bao trùm, ông Phượng và tôi vẫn cảm thấy điều này. Cả hai chúng tôi đều biết rằng thời cơ hoàn toàn tùy thuộc vào lần họp sắp tới. Tuy thế, quốc hội Hoa Kỳ lúc này lại là một quốc hội đă chán chường với chiến tranh, đă mệt mỏi v́ viện trợ cho một đồng minh đang bị rất nhiều dân biểu xem là một chánh phủ của những thành phần bất tài và tham nhũng. Sau nhiều năm Hoa Kỳ đổ mồ hôi và nước mắt vào Việt Nam, giờ đây chính những Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ sẽ phải đi đến quyết định cuối cùng. Kinh nghiệm thực tế nghề nghiệp đă buộc tôi phải hiểu rằng quốc hội Mỹ nhất định sẽ phải quyết định bằng quan niệm của người Mỹ. Trong quyết định sắp tới về việc liệu có nên viện trợ cho Việt Nam lúc này hay không, quốc hội Hoa Kỳ sẽ phải quyết định một trường hợp thật là khó khăn. Những dân biểu bị buộc phải cân đo những lỗ lă về uy tín cũng như vị trí chiến lược của Hoa Kỳ để đánh đổi với tiền của và xương máu mà Hoa Kỳ đă đổ vào Việt Nam trên hai mươi năm. Vào giờ phút đó th́ quốc hội Hoa Kỳ lư luận rằng, nếu họ có gia tăng viện trợ cho Việt Nam đi chăng nữa th́ vấn đề vẫn chỉ là tạm kéo dài cơn hấp hối, thống khổ của Việt Nam mà thôi. Các Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ quyết định rằng quốc hội cần phải đưa ra một giải pháp thiết thực và rồi kết luận: Nếu cùng lắm th́ cũng đành phải kết thúc một chương sử Hoa Kỳ.

Tất cả kinh nghiệm chính trường đă dạy tôi chẳng những phải chờ đón quyết định sắp tới của quốc hội Hoa Kỳ mà c̣n phải hiểu rơ lư do của quyết định đó để nhận thấy quan niệm của những người đă tạo ra luật pháp ở Hoa Kỳ. Bởi thế nên tôi đă cố gắng để hiểu rơ những lư do ảnh hưởng đến quyết định sắp tới của họ. Nhưng trong tận cùng tâm khảm tôi biết rằng câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến vấn đề viện trợ thật sự chẳng liên quan ǵ đến uy tín Hoa Kỳ hay sự xứng đáng của các lănh tụ Việt Nam. Câu hỏi quan trọng nhất là câu hỏi về cuộc sống của 20 triệu nhân dân Việt Nam. Sau khi quốc hội quyết định về vấn đề viện trợ th́ cuộc sống của 20 triệu người dân Việt Nam, của con họ và cháu họ rồi sẽ ra sao? Đây mới là câu hỏi quan trọng nhất. Nhưng câu hỏi này không phải là một trong những yếu tố chính đưa đến quyết định cuối cùng của quốc hội Mỹ. V́ lẽ đó tôi không thể chịu đựng được những nỗi uất ức đè nén khi Việt Nam phải chấp nhận một bản án bất công như bản án mà quốc hội Hoa Kỳ đă quyết định. Ở căn nhà riêng tại Hoa Thịnh Đốn tôi đă không thể cầm được nước mắt.

Tia hy vọng phù du về vấn đề Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam tắt phụt sau khi chuyến công du do Tư Lệnh quân sự Weyand dẫn đầu kết thúc vào ngày 11-4. Hai ngày sau khi Tư Lệnh Weyand trở lại Hoa Kỳ th́ đạo luật chấp thuận viện trợ đă bị phủ quyết. Những người thực tế đă nhận định rằng đến lúc đó th́ dù có phủ quyết hay không việc cũng đă quá trễ. Nhưng đối với ông Phượng và tôi th́ quyết định phủ quyết chính là một con dấu phũ phàng công khai chấp nhận việc Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh. Những người đang chiến đấu anh dũng ở Xuân Lộc và hàng triệu người tản cư vào Miền Nam vẫn không hề hay biết Quốc Hội Hoa Kỳ đă tuyên bố bản án khai tử Việt Nam ở Capitol Hill vào ngày 11-4-1975.

Kể từ khi tổng thống Johnson c̣n đương nhiệm tôi đă giữ chức vụ đại sứ. Tôi cũng là người liên lạc chính giữa chánh quyền Sài G̣n và Hoa Thịnh Đốn. Sau 5 năm trải qua các hội nghị thượng đỉnh, qua Tết Mậu Thân, qua các trận đánh phối hợp quân đội của Hoa Kỳ và Việt Nam ở Cam Bốt, qua trận tập kích mùa xuân cho tới tháng 4- 1975, công việc của tôi lúc nào cũng đi đôi với những công tác có liên quan đến quốc gia. Nhưng sau đạo luật khai tử Việt Nam cuối cùng ở Hoa Thịnh Đốn th́ vai tṛ của tôi kể như đă chấm dứt. Chẳng c̣n liên lạc được với chánh phủ, chẳng c̣n việc ǵ để làm trong các sảnh đường quyền lực Hoa Kỳ, tôi trở lại với gia đ́nh ở căn nhà ngoại ô Hoa Thịnh Đốn để cùng nhà tôi và các con dán mắt vào máy truyền h́nh, trước những tấn thảm kịch thôi miên trên màn ảnh.

Bỗng nhiên tôi nhớ lại một mùa nghỉ ngắn ngủi khoảng một năm về trước, khi cả gia đ́nh tôi có dịp quây quần ở băi biển Nha Trang bên con nước trong xanh màu lục biếc và những bờ cát mịn long lanh. Lần đó, khi nh́n băi biển dịu dàng phơi ḿnh trên nắng tôi đă nghĩ rằng bất kể v́ lư do ǵ nếu mảnh giang sơn gấm vóc này mất đi th́ niềm đau quả vô cùng tận. Những kư ức xa xăm khác tự dưng ồ ạt ùa về như một cuốn phim quay chậm. Tôi thấy ḿnh đứng trong ruộng lúa gần căn nhà lúc ấu thời ở Miền Bắc vào những năm đầu của thập niên 1940, chăm chú nh́n theo chiếc máy bay P-38 hai đuôi của Hoa Kỳ dội bom vào những vùng Nhật chiếm đóng gần Hà Nội. Lần đó có lẽ là lần đầu tiên tôi mục kích Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam. Lúc này, tôi lại là chứng nhân đứng ngoài mục kích màn kết liễu của sự can thiệp tôi đă mục kích lần đầu. Dầu muốn dầu không, cuộc đời tôi cũng đă nối liền vào với những chuỗi biến cố chập chồng đă chuyển hướng quê hương từ điểm ban đầu đến điểm hiện tại.

2. Thuở Ấu Thời

Ông thân tôi tên tục là Bùi Kỷ. Ông vốn vừa là học giả, vừa là một nhà nho phóng khoáng, phóng khoáng đến độ chẳng coi ǵ là quan trọng cả. Đối với ông cụ th́ trời có sập cũng chẳng thành vấn đề. Sống trong truyền thống nho sĩ Việt Nam, ông đă chọn một bút hiệu để nói lên nỗi ḷng ḿnh: Ưu Thiên, có nghĩa là "Kẻ lo trời đổ," nhưng thường th́ được hiểu theo nghĩa bóng: "Kẻ chẳng chú ư ǵ đến chuyện trời đổ." Ông thân tôi vẫn thường nói: "Những kẻ lúc nào cũng để tâm lo âu mọi chuyện là những kẻ dại." Trong một bài thơ nhiều người biết đến ông đă viết rằng:

Lo như ai cũng là ngốc thật
Lo trời nghiêng, lo đất chông chênh
Lo chim bay lạc tổ nhầm cành
Lo cá lội xa ghềnh lạ nước
Hăo huyền thế đố ai lo được
Đem gang tay đánh cuộc với cao dày!

Khi c̣n trẻ ông thân tôi đă khước từ làm quan với triều đ́nh dưới chánh quyền thực dân. Ông đă sang Ba Lê để gặp cụ Phan Chu Trinh và những lănh tụ quốc gia thời đó. Nhưng sau hai năm, thay v́ làm cách mạng, ông lại trở về Việt Nam mở trường dạy học. Đă có lần ông bảo tôi: "Những lănh tụ quốc gia đều có lư tưởng tốt, những hoài băo của họ đều được đặt vào chiều hướng đúng. Cha đứng về cùng hướng với họ." Nhưng mặc dầu ông cùng chung suy nghĩ với những người quốc gia, mặc dầu ông ghét Tây, bản tính khách quan cố hữu đă ngăn ông hành động.

Tính khách quan là tính nết chung đă ăn sâu thành cội rễ trong gia đ́nh tôi từ lâu. Ông Cố tôi vốn là quan trong triều. Đă có lần ông được mời chọn lấy một cánh hoa trong vườn Thượng Uyển và sau đó được vua ban cho một cánh hoa đă chọn tạc lại bằng vàng để dùng như biểu tượng chức tước. Mặc dù vậy, khi Pháp vào Việt Nam ông đă bỏ triều đ́nh về làng dạy học. Ông nhất quyết không chịu bắt tay với Pháp. Ông nội tôi cũng thế, tuy đă đậu tiến sĩ là một bằng cấp cao nhất của nho sĩ thời bấy giờ, ông cũng noi theo ông cố, một ḷng từ chối hàm tước triều đ́nh. Như thế, trước đời ông thân tôi đă có nhiều khuôn mẫu để chính ông có thể noi theo khi ông chối bỏ bổng lộc của Pháp trong chính quyền thuộc địa để ra đi t́m gặp những lănh tụ quốc gia ở Pháp.

Ảnh hưởng từ những tổ tiên lâu đời và từ ông thân đă khiến quan niệm của tôi đối với những người làm việc với Pháp trở thành định kiến. Tôi cũng đă thấm nhuần truyền thống khách quan của gia đ́nh, một không khí chán chường với thời cuộc, một vị thế xa rời với những tạm bợ nhất thời của thế gian. Đă đành rằng nếu sống th́ ai cũng phải phục vụ đời sống. Chuyện này không ai có thể chối căi. Nhưng nếu vấn đề phục vụ vừa quá phiền toái lại vừa đ̣i hỏi những đổi chác khó khăn th́ sao lại không về làng dạy học, viết văn, làm thơ mượn lấy tư tưởng Lăo, Trang, xem thường thế sự như chuyện chiêm bao thoắt biến?

Nhưng mặc dù đă thừa hưởng truyền thống khách quan của ông thân, tôi cũng đă biết từ ngày c̣n rất bé rằng ḿnh không thể sống cuộc đời học giả thanh đạm. Tôi cũng không thể sống một cuộc đời công chức nguyên là con đường độc nhất c̣n lại dành cho những người như tôi. Thế giới Việt Nam vào những thập niên 1920, 1930 quá nhỏ. Tôi muốn bay nhảy, vượt ra ngoài thế giới đó. Luôn luôn đầu óc tôi mơ tưởng chuyện đi xa, đến những chỗ lạ, t́m hiểu về thế giới rộng lớn bên ngoài. Mặc dù ḷng ham muốn chỉ mới phôi thai, chưa cụ thể, ư nghĩ viễn du đă dính liền với tôi từ thuở ấu thời cho đến khi mới lớn. Tôi cũng bắt đầu có khái niệm mù mờ rằng con đường dẫn đến giấc mơ hoàn toàn phụ thuộc vào việc học. Mặc dù mối dây liên lạc chưa hiện rơ, tôi biết chắc rằng nhà trường sẽ cho tôi những khả năng cần thiết. Chỉ cần tôi cố gắng.

Ở tiểu học tôi đă giữ đúng vai tṛ con em của những nhà nho. Tôi học xong tiểu học năm 13 tuổi và rồi vào trung học ở trường Thăng Long, một trung học tư thục ông thân tôi đă góp phần xây dựng và cũng là nơi ông giảng dạy. Khi mới vào trường Thăng Long, tôi chưa biết rơ rằng đa số những học sinh trong trường cũng đang mơ về một thế giới tự do bên ngoài khác hẳn với thế giới g̣ bó của xă hội Việt Nam dưới thời thực dân Tây như tôi. Chỉ khác là nếu ước mơ của tôi chỉ là những ước mơ phiêu lưu ngoại quốc ngoạn mục th́ ước mơ của những học sinh khác là về những vấn đề bao quát có thể thay đổi ngay đường hướng chính trị và xă hội của quốc gia lúc đó.

Thật sự th́ vào năm 1936, khi tôi ghi tên nhập học, trường Thăng Long đă sôi sục với những ư chí chống thực dân và những cuộc tranh căi về những chiều hướng tương lai của xă hội Việt Nam. Giáo Sư gồm những người như ông Phan Thanh, sau này là sáng lập viên của đảng xă hội. Ông Đặng Thái Mai, sau này là Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục. Ông Hoàng Minh Giám, sau này là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao miền Bắc. Ông Trần Văn Tuyên, sau này là một trong những chính khách đối lập trong chánh quyền Miền Nam. Giữa những nhân vật đáng nhớ này, đặc biệt nhất là một nhà giáo nhỏ con, đầy nhiệt tâm, dạy chúng tôi môn Sử Kư -Ông Vơ Nguyên Giáp. Mặc dù chuyện ông Giáp trở nên nhân vật lịch sử đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ và đương đầu trực tiếp với Mỹ hăy c̣n là chuyện về sau, nhưng lúc này vị đại tướng tương lai đă là người hoàn toàn bị mê hoặc v́ tiếng gọi ma mị của cách mạng và đấu tranh.

Tuy trường đă ấn định rơ ràng là chương tŕnh sử phải bắt đầu từ năm 1789 cho tới khoảng giữa thế kỷ thứ 19 mà phương pháp của ông Giáp lại hoàn toàn khác hẳn. Ngay buổi đầu tiên ông Giáp đă bước qua, bước lại trước bảng đen và minh định: "Thật ra đă có rất nhiều sách vở viết về những vấn đề trong giai đoạn này. Nếu muốn biết tường tận các anh chị có thể tự t́m hiểu. Tôi chỉ đi vào chi tiết về hai vấn đề chính: Cuộc cách mạng Pháp và Napoleon."

Cách dạy của ông Giáp đặc biệt cho đến nỗi đă 45 năm sau mà tôi vẫn c̣n nhớ rơ cách tŕnh bày cùng các đề tài ông đưa ra: Chi tiết diễn tả những cảnh sa đọa của Marie Antoinette; quan niệm về nhân quả, công bằng của xă hội; Công Xă Ba Lê; và số phận của Danton cùng Robespierre. Trong khi giảng bài ông Giáp tỏ ra hết sức ngưỡng mộ những lănh tụ cách mạng. Ông giảng sử không phải chỉ bằng giọng đơn thuần của một sử gia mà bằng những cung cách thiết tha của một người nhiệt tâm bênh vực cách mạng.

Những bài giảng của ông Giáp về Napoleon c̣n ly kỳ hơn nữa. Đứng trước bảng đen ông bước đi bước lại theo từng lời giảng tường tận về các chiến dịch do Napoleon đề ra. -Từng trận đánh, ngay cả những trận đụng độ thật nhỏ mà ông vẫn giảng giải cực kỳ cặn kẽ toàn thể mọi biến chuyển dẫn đến các chiến thuật và chiến lược cuối cùng. Ông Giáp nhớ như in tất cả. Ông đă học sử cho đến nỗi sử biến thành một phần của chính con người ông. Tất cả các vấn đề dính dáng đến sử đối với ông đều phải khúc triết, rành mạch. Ông Giáp nêu rơ tại sao đội vệ binh lại bắt buộc phải đóng ở vị trí này vào thời điểm đó, tại sao quân đội triều đ́nh Pháp lại chọn đúng giây phút đă chọn để tấn công. Ông chợt tiến, chợt lùi, đắm ch́m trong suy tưởng, thôi miên lớp học bằng những chi tiết của sử. Sự kích động của ông Giáp có tác dụng lan truyền, cả lớp thường ngồi im lặng như tờ trong giờ giảng. Ông phục Danton và Robespierre. Ông ngưỡng mộ Napoleon. Những bài giảng của ông về Napoleon cứ lan man dường như chẳng bao giờ dứt.

Song song với môn sử của ông Giáp, ông Phan Thanh, một tư tưởng gia có khuynh hướng Xă Hội, là người dạy chúng tôi văn chương Pháp. Trường không hề đề cập ǵ đến văn chương Việt Nam mà thật sự cũng chẳng học sinh nào để ư chuyện này. Tuy đầu óc các giáo sư lúc nào cũng đầy ắp tư tưởng quốc gia mà hễ cứ nói đến vấn đề giáo dục th́ ngôn ngữ chính của chúng tôi là tiếng Pháp và tổ tiên chúng tôi đích thực là người Gaulois.

Tuy thế, khi 16 tuổi tôi đă biết về những tư tưởng chính trị đang luân lưu, vận chuyển ngấm ngầm dưới bề mặt phẳng lặng của đời sống học đường. Thỉnh thoảng sau mỗi buổi học tôi vẫn có ghé lại nhà ông Giáp. Trong thư viện riêng của ông có quyển Tư Bản Luận của Marx, và nhiều quyển khác nói về Xă Hội Chủ Nghĩa viết bằng tiếng Pháp mà ông Giáp thường khuyên tôi nên đọc. Ngoài ra, tôi c̣n biết thêm về các tin tức khác qua người bạn kèm toán cho tôi. Qua người bạn này tôi đă được đọc cả những tờ tạp chí có nhiều tranh ảnh chụp ở Nga. Trong tất cả những người đi trước, tôi gần gũi ông Trần Văn Tuyên hơn cả. Ông Tuyên vốn là người có tư tưởng độc lập. Ông vẫn thường bảo tôi: "Sẽ có ngày t́nh thế bắt buộc phải thay đổi và chính chúng ta sẽ là những người thay đổi thời thế."

Tuy sống ngay giữa bầu không khí của những người kháng Pháp, ông thân tôi vẫn mang tư tưởng khách quan. Mặc dù bản thân ông đă từ chối không theo Pháp và quan niệm rơ ràng rằng phải có sự đổi mới, bản tính trầm lặng, ít khích động đă khiến ông phản kháng một cách nhẹ nhàng hơn. Ông luôn luôn ủng hộ những giáo viên trẻ bằng những lời khuyên và tinh thần thân hữu. Ông đối xử với họ cũng như đă đối xử với những nhân vật quốc gia ông đă gặp trước đây. Việc họ kết hợp, gây ảnh hưởng và bắt đầu phát động đấu tranh là việc ông hoàn toàn tán đồng. Ông không tự ḿnh dấn thân vào việc chẳng qua là v́ đă thấm nhuần tư tưởng khách quan.

Lúc này ông cụ tôi và ông chú tôi là sử gia Trần Trọng Kim đang chú tâm vào việc bắt đầu soạn bộ Việt Nam Sử Lược. Làm việc cùng nhau mỗi ngày, cả hai thường tranh luận, bàn căi sôi nổi trong nhà về những vấn đề liên quan đến Sử Kư, Văn Chương và Triết Học. Tuy họ cũng yêu nước với tất cả ḷng nhiệt thành như những người khác cùng thời nhưng họ lại quan niệm rằng sở trường của ḿnh nằm trong phạm vi giáo dục và học đường. Họ cũng cho rằng vấn đề xây dựng lại Việt Nam là một vấn đề bao gồm cả văn hóa lẫn chính trị. Th́ giờ của họ hoàn toàn để vào việc viết lách và giảng giải cho những học sinh cũng như các học giả khác. Một trong những đề tài mà họ bàn đến luôn là vấn đề Phật và Lăo Giáo.

Tuy không biết là nguyên tố hỗn hợp nào là nguyên tố chính đă tạo ra con người tôi, tôi biết chắc rằng phần lớn nguyên tố đó đă phát xuất từ cả gia đ́nh lẫn học đường. Tôi đă bị những lư tưởng cuồng nhiệt của các giáo sư ảnh hưởng rất nhiều. Đa số giáo sư lúc này đều cho rằng lúc này là lúc mọi người phải tranh đấu để giải phóng Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của bọn thực dân Pháp hống hách và dành lại chủ quyền. Dầu vậy, những khuôn mẫu Marxist do ông Giáp cùng người bạn kèm toán đưa ra thật sự chẳng có ǵ thú vị hoặc lôi cuốn. Có thể tôi đă thật sự bị những suy nghĩ của ông thân và chú ảnh hưởng rằng cuộc sống chỉ có ư nghĩa khi người ta đă thực sự bước ra khỏi nếp sống hàng ngày và đă thực sự tránh khỏi được những phiền toái của cơi thế gian. Cách mạng dĩ nhiên là một giải pháp khác biệt hơi xa với sự suy tưởng của cả ông thân lẫn ông chú tôi. Dẫu sao ḷng khao khát thật sự của tôi lúc bấy giờ là do vọng tưởng thôi thúc từ thế giới bên ngoài chứ hoàn toàn không phải là do những lời kêu gọi từ các thế giới đạm bạc, thanh cao của những học giả.

Khi mới lớn, đầu óc tôi thường hướng về phía những chân trời xa lạ và về hướng những con người tôi chưa bao giờ gặp. Lúc bấy giờ tuy hăy c̣n đang ở Trung Học mà tôi đă mê đọc báo chí ngoại quốc. Tôi đọc báo Pháp thật tường tận, bị ám ảnh v́ những tin tức của cuộc chiến tranh Nhật đang reo rắc ở Trung Hoa. H́nh ảnh cùng những bài tường thuật từ Nam Kinh đă làm tôi bàng hoàng. Cảm giác ghét thương lẫn lộn về sự kinh hoàng cứ bám riết măi. Một mặt sử sách lúc nào cũng nói đến chuyện phải đề cao cảnh giác đối với những ư đồ thôn tính Việt Nam của người Tàu, nhưng mặt khác, v́ đang học hỏi thêm tiếng Hán từ một ông thày đồ trong mỗi kỳ hè, tôi đă cảm thấy gần gũi với cổ văn và truyền thống luân lư vốn dĩ là một phần ảnh hưởng lớn rộng của Trung Hoa đối với Việt Nam. Tuy có thể đă có lần những người Trung Hoa là kẻ thù trong lịch sử nhưng những nạn nhân đang bị Nhật tàn sát lúc này đều là những người tôi chưa hề biết đến bao giờ.

Vào năm 1939 th́ mọi người đều biết rằng chiến tranh không chỉ giới hạn trong phạm vi Trung Hoa. "Phải chăng chúng ta đă hoàn toàn pḥng vệ?" Đây là nhan đề một cuốn phim Pháp về chiến lũy Maginot đă thôi thúc hàng loạt câu hỏi về khả năng đương đầu của Pháp với Đức. Mầm mống chiến tranh Âu Châu đă thúc đẩy dữ dội những nỗ lực bành trướng tinh thần quốc gia tại Việt Nam. Những cuộc thảo luận về việc chống Pháp bắt đầu lan rộng trên một mức tự do hoàn toàn khác hẳn trước đây. Không khí các khuôn viên học đường tràn đầy những tin đồn về các hội kín và việc họ đang tuyển mộ những thanh niên nhiệt thành yêu nước, sẵn sàng hy sinh v́ tổ quốc. Chẳng ai biết rơ hành tung của các hội bí mật ra sao. Việc liên lạc với họ là một việc hoàn toàn bí mật. Tuy vậy, sự hiện diện của các hội bí mật này là một sự thật hiển nhiên. Khi chiến tranh Âu Châu bùng nổ vào năm 1939, tôi cùng các bạn bè khác đều chứa chan hy vọng. Tất cả đều cảm thấy những nền tảng đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam đang rung chuyển dưới chân.

Chẳng bao lâu sau, cơn rúng động trở thành trận địa chấn kinh hoàng. Pháp, một nước khổng lồ, đầy quyền uy đă khống chế Việt Nam bằng quyền lực từ bấy lâu nay bất thần ngă gục trước quân đội Đức vào ngày 25 tháng 7, 1940 sau một cuộc chiến ngắn ngủi, vẻn vẹn trong ṿng sáu tuần. Thế giới của chúng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thế hệ chúng tôi là thế hệ thứ ba trong suốt ba thế hệ đă nh́n cả ṿm trời vũ trụ là Pháp. Tiếng Pháp, văn hóa Pháp, bộ máy thực dân lố bịch cũng của Pháp. Bỗng nhiên một thế giới khác rộng lớn hơn th́nh ĺnh xen thẳng vào tầm nh́n chúng tôi. Và chúng tôi phải tự mở mắt, lắng tai ghi nhận những làn sóng tín hiệu từ bên ngoài để có thể làm sáng tỏ được ư nghĩa của t́nh thế lúc này.

3. Những Tổ Chức Chính Trị Bí Mật

Chúng tôi chẳng cần đợi lâu. Ngay sau khi Pháp đầu hàng Đức quân đội Nhật bắt đầu đ̣i hỏi chánh quyền thực dân Pháp phải nhượng quyền kiểm soát ở miền biên giới Việt Nam và Trung Hoa. Lúc này, v́ thiếu phương tiện chống trả lại Nhật, Toàn quyền Pháp cố t́m cách tŕ hoăn và cầm chân Nhật càng lâu càng tốt. Sau ba tháng đợi chờ, khi đă chán tṛ tŕ hoăn, kéo dài thời gian của Pháp, Nhật hạ lệnh biểu dương hai lực lượng quân sự để nói rơ thực tâm với Pháp. Sau hai cuộc tấn công của Nhật, một vào Lạng Sơn và một vào Hải Pḥng, Toàn quyền Pháp tuyên bố đầu hàng. Pháp vẫn được quyền tiếp tục công việc nội trị nhưng Nhật có quyền lập đồn và mang quân vào Việt Nam. Mặc dầu chánh quyền thực dân Pháp vẫn tiếp tục cai quản như thể hăy c̣n tiếp tục đời đời với "Sứ Mệnh Văn Hóa" tại Việt Nam, lúc này chẳng ai có thể làm ngơ trước sự hiện diện của Nhật. Quân Nhật ồ ạt dựng trại, ung dung tự tung, tự tác trước đôi mắt căm hờn của Pháp. V́ đă phải chịu đựng nhiều nhục nhă với các quan thày Pháp, đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy rằng việc gạt bỏ chánh quyền Pháp không c̣n là một công việc mơ hồ, xa xăm nữa.

Những hội kín bắt đầu mọc ra như nấm, vẫn bí mật hoặc ngụy trang như những Hội Thể Thao hoặc Hội Du Ngoạn. Một trong những hàng ngũ mạnh mẽ nhất là hàng ngũ Cộng Sản, lúc này chánh thức hoạt động với chiêu bài "Giải Phóng Đất Nước." Cộng Sản đă thiết lập những căn cứ mà họ gọi là "Chiến Khu" ở những vùng núi non hiểm trở ở Cao Bằng và Lạng Sơn. Ông Vơ Nguyên Giáp không c̣n dạy học nữa. Người ta đồn rằng ông đă vào bưng để tổ chức các hoạt động du kích.

Các đảng phái chính trị khác cũng lần lượt xuất hiện, trong số có Việt Nam Quốc Dân Đảng được tổ chức theo chiều hướng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Chính Việt Nam Quốc Dân Đảng đă tổ chức cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong thập niên trước. Sau lần càn quét dă man khi cuộc khởi nghĩa thất bại có nhiều đảng viên đă trốn sang Trung Hoa. Một số đảng viên khác lại lui vào ṿng bí mật. Lúc này lại có tin VNQĐD đang hoạt động trở lại và những đảng viên lúc trước chạy qua Vân Nam đang dàn xếp để xin Tưởng Giới Thạch yểm trợ.

Những đảng phái quốc gia như Hội Phục Quốc và một số những nhóm nhỏ khác hoạt động dưới tên Đại Việt cũng đang thành h́nh. Cũng theo lời đồn th́ một số nhóm nhỏ của Đại Việt có liên kết với Nhật. Mặc dù không ai biết rơ đường lối hoạt động hoặc tên tuổi của những người lănh tụ các đảng phái, chúng tôi vẫn đắm ch́m trong hồi hộp. Tất cả đều cảm thấy đă đến lúc quốc gia có thể đ̣i hỏi và tranh đấu cho tự do. Ai cũng muốn đóng góp một phần vào việc.

Khi các đảng phái đang triệt để củng cố lực lượng th́ Nhật cũng bắt đầu khuấy động. Nhật vốn dĩ là người Á đầu tiên đứng ra đánh đuổi dân da trắng, dành lại chủ quyền với khẩu hiệu "Đại Đông Á" cho những vùng Nhật đang chiếm đóng. Tại Việt Nam đường lối của Nhật cũng không lấy ǵ làm lộ liễu. Ít ra là cũng không có ǵ quá khích vào lúc ban đầu. Vào thời gian này Nhật gửi rất nhiều sinh viên và chuyên viên văn hóa Nhật đến Hà Nội lập Hội Ái Hữu, dạy tiếng Nhật miễn phí, lập Hội Thảo Luận và giao hảo cùng tất cả các tầng lớp trí thức Việt Nam.

Chánh quyền Pháp cay cú đứng ngoài, bất lực trước những hoạt động của Nhật, nhưng Nhật chẳng làm ǵ quá đáng. Vả lại dù mật thám Pháp có muốn can thiệp cũng không đủ sức. Quân đội Nhật đă dũng mănh lại vô cùng kỷ luật. Lật đổ Pháp đối với Nhật có lẽ là một việc rất dễ dàng. Trong lúc đó lính Pháp thật chẳng bơ làm tṛ cười cho dân chúng. Vào thời gian này, v́ cả các đảng phái chính trị lẫn Nhật đều lấy sinh viên làm mục tiêu hoạt động nên môi trường sinh viên bỗng th́nh ĺnh bị đảng phái chia cắt. V́ bất cứ sinh viên nào cũng có thể là người của các đảng chính trị và các đảng phái lại tranh chấp với nhau nên tất cả sinh viên đă cảm thấy nguy hiểm cận kề. Đa số sinh viên đều cố quan sát, nhận định xem có ai theo dơi hành động của ḿnh không.

Lúc này tôi thường xuyên trú ngụ ở nhà ông chú tôi, nơi ông cụ tôi và ông chú tôi đang hợp sức viết sử. Tôi thường ăn cơm cùng cả ông cụ lẫn ông chú. Trong bữa cơm tối cả ba chúng tôi thường bàn luận về hành động của Nhật. Theo ông cụ và ông chú tôi th́ người Nhật không hề thật tâm muốn giúp đỡ người Việt. Hành vi tàn ác của Nhật đă được các báo chí Pháp đăng tải thật chi tiết. Hơn nữa mật vụ Kempeitai của Nhật đă khét tiếng là tàn ác. Người Nhật vốn có tinh thần kỷ luật cao. Khi họ đă bước chân vào việc ǵ th́ rất ít khi chịu làm việc nửa vời. Ông cụ và ông chú tôi cho rằng hợp tác với Nhật lúc này hăy c̣n sớm quá.

Có thể liên kết với Nhật vào lúc này vẫn c̣n quá sớm nhưng đây quả là việc chẳng đặng đừng. Vào một buổi sáng tự dưng có một sinh viên đứng tuổi người Nhật tên Yamaguchi đến nhà xin được phép nói chuyện với ông chú tôi. Yamaguchi diễn tả rất lưu loát bằng tiếng Pháp rằng ông đang nghiên cứu sử Việt Nam và đến t́m ông chú tôi để thỉnh cầu giúp đỡ. Yamaguchi cho biết ông đang t́m hiểu về một giai đoạn đặc biệt trong triều đại Nhà Nguyễn.

Từ đó Yamaguchi thường xuyên lui tới. Ngoài mặt th́ ông đến để phỏng vấn ông chú tôi về sử nhưng ư đồ thực sự của ông là ǵ th́ chẳng ai trong chúng tôi được rơ. Có thể ông ta chỉ muốn giữ mối giao hảo với ông chú tôi. Tuy chẳng làm cách nào rơ được ư đồ của Yamaguchi, chúng tôi biết rơ là ông đến với ư định khác. Bất kể ư định riêng của Yamaguchi là ǵ, chúng tôi vẫn biết rằng ư định đó chắc chắn chẳng liên quan ǵ đến các triều đại Nhà Nguyễn. Trong khi đó Yamaguchi cũng xuất hiện tại nhiều nơi khác. Dường như ông có mặt ở khắp mọi nơi. Ông hoạt động, tổ chức các buổi họp lớn, nhỏ, động viên bạn bè và sinh viên đến tham dự các buổi thuyết tŕnh. Ông liên lạc với các giáo sư, nói về t́nh huynh đệ giữa những người Á, về việc giúp đỡ lẫn nhau dành lại chủ quyền. Ông cũng nhắc nhở, hô hào "Người Á, đất Á" và cố đề cao vai tṛ của Nhật trong các phong trào giúp đỡ, giao hảo với người Việt. Tất cả những điều ông nói đều không có ǵ nóng bỏng, sôi sục hoặc điển h́nh cụ thể. Chỉ có những lời hứa hẹn xa xôi. Chẳng hạn như Nhật và Việt Nam có cùng chung lư tưởng. Nhật là người đáng tin cậy. V́ đă gặp ông nhiều lần tại nhà ông chú tôi nên có lẽ tôi biết ông rơ hơn những sinh viên khác. Có lần Yamaguchi gián tiếp cho tôi biết rằng ông là đảng viên của đảng Hắc Long, một tông phái có tầm hoạt động khắp Á Châu đă từng giúp Tôn Dật Tiên lật đổ chế độ Măn Thanh. Theo lời đồn th́ đảng Hắc Long từng có ảnh hưởng ngầm trong khắp Á Châu. Tôi cũng chẳng biết liệu có nên tin hay không. Lúc này quả thật chúng tôi không biết phải đối xử với Người Nhật cách nào. Chúng tôi chỉ biết rằng họ hoạt động rất mạnh mẽ, họ bàn căi rất nhiều, họ có vẻ đứng đắn, thật t́nh và không hề hứa hẹn điều ǵ cả.

Tuy rằng đang ở vào tuổi 17 và rất đam mê những việc mạo hiểm náo nhiệt, tôi vẫn cố không để chính trị xen vào những chuyện phải làm đang tràn ngập, chờ đợi trước mắt. Công việc của những học sinh sắp sửa tốt nghiệp trung học như tôi là phải chiếm cho được mảnh bằng tú tài. Đây là mảnh bằng học vấn mà học sinh được cấp sau khi vượt qua một kỳ thi vất vả bao gồm tất cả các môn. Không có bằng tú tài th́ cuộc đời học sinh kể như vứt bỏ. Mảnh bằng là bước tiến dẫn đến đại học và những ǵ cao xa hơn ở bên trên. Tôi học ngày, học đêm trong suốt nửa năm đầu của năm 1941 để chuẩn bị cho kỳ thi tháng 7. Khi có tin tôi đậu ngay kỳ thi đầu tiên, nhà tôi mở tiệc ăn khao ở quê làng Phủ Lư. Tôi đă thật sự bước vào đời sống của một thanh niên trên đường trưởng thành.

Bước thứ nh́ là phải quyết định học ngành ǵ ở Đại Học Hà Nội, một ngôi trường đại học độc nhất Pháp dựng lên cho cả toàn cơi Đông Dương. Tôi loại bỏ ngay dự định học Luật v́ cho rằng trông chờ vào những cơ hội cho phép một người Việt Nam được quyền thực thi luật pháp dưới chánh quyền Pháp chỉ là việc hăo huyền. Họa may chỉ c̣n ngành Y Khoa.

V́ ṭ ṃ muốn t́m xem ḿnh có hợp với ngành Y hay không, tôi t́m đến buổi hướng dẫn sinh viên Y Khoa. Chẳng hiểu người xếp đặt chương tŕnh hướng dẫn là ai mà lại có thể tàn nhẫn đến thế! Nhóm chúng tôi gồm 15 người hội đủ tiêu chuẩn khả năng theo học Y Khoa được hướng dẫn vào những khung cảnh khiếp đảm nhất ở bệnh viện Bạch Mai. Đầu tiên chúng tôi phải mục kích một số bệnh nhân đang rên rỉ v́ đau. Sau đó lại phải xem cảnh một số khác đang kêu gào thảm thiết. Chúng tôi c̣n phải xem cả cảnh bệnh nhân đang quằn quại trong những ṿng băng. V́ chẳng thể chịu đựng nổi những điều trông thấy, song song với Luật, Y Khoa cũng bị tôi gạt phắt sang bên.

Cuối cùng, tôi quyết định học toán. Tôi đă thích toán từ lâu. Hơn nữa, ngành này vừa khiến tôi tránh được tiếng cộng tác với thực dân lại vừa khiến tôi thoát được cảnh bị buộc phải mục kích những cảnh đau khổ của người khác. Sau khi đă quyết định, tôi được nhận vào một lớp toán cao cấp cùng 14 sinh viên Pháp và hai sinh viên Việt Nam khác. V́ chương tŕnh toán là chương tŕnh cấp tốc nên chúng tôi phải đến lớp 40 giờ mỗi tuần. Thời giờ dành cho bài tập c̣n nhiều hơn vậy. Chương tŕnh toán đă chiếm hết tất cả thời giờ. Tôi chẳng c̣n đủ thời giờ làm bất cứ chuyện ǵ khác. Thế giới chính trị mới đầy dẫy thu hút đă lại tan dần. Trong những lớp toán chuyên ngành chỉ có toán, toán và toàn toán...

Tôi mê toán vô độ: mê những phức tạp huyền diệu của phương tŕnh, những đan thanh tao nhă của các phương thức trừu tượng. Thế giới toán học là một thế giới thanh tịnh có thể tóm thâu hoàn toàn suy tư và năng lực của tôi. Trong suốt một năm, tuy vẫn c̣n theo dơi tin tức chiến sự và đă biết thêm rằng vận mệnh của Nhật tùy thuộc hoàn toàn vào khả năng oanh tạc của không lực của đồng minh qua bầu trời Việt Nam, tôi chẳng c̣n biết được điều ǵ hơn vậy. Phi cơ Mỹ đă bắt đầu xuất hiện trên những mục tiêu Việt Nam.

Chiếc đầu tiên tôi thấy là một chiếc chiến đấu cơ P-38 lộn ṿng qua bầu trời xanh lơ, tấn công vào đồn trại Nhật gần chỗ trạm hỏa xa ở quê tôi là Phủ Lư. Khi chiến tranh lan tràn rộng hơn đến vùng đất chính Á Châu th́ máy bay đến ngày càng nhiều. Tôi đă quen với tiếng rú của máy bay oanh tạc, với tiếng xe cứu thương chạy vút qua đường chở nạn nhân vào nhà thương. Tuy thế những biến cố này tan ngay trong giây lát và cơn đam mê toán học lại trở về đưa tôi đi sâu vào thế giới trừu tượng bên trong.

Sau khóa toán, các sinh viên Pháp trở lại Pháp để tiếp tục theo học các đại học danh tiếng khác, c̣n tôi và các sinh viên Việt Nam v́ gia đ́nh không đủ sức tài trợ cho đi ngoại quốc và v́ lúc đó chưa có chương tŕnh học bổng nên lại trở lại với chương tŕnh toán phổ thông ở Đại Học Hà Nội.

Chẳng bao lâu sau tôi chuyển từ nhà ông thân đến Đông Dương Học Xá cách bệnh viện Bạch Mai khoảng gần cây số. Việc tôi chuyển nhà lúc này không hẳn chỉ giản dị như việc đơn thuần thay đổi chỗ ở. T́nh h́nh chính trị hỗn loạn tôi tạm bỏ qua lúc trước không hề suy giảm. Ngược lại, nếu ở Trung Học tôi chỉ biết về các đảng phái bí mật qua lời đồn đăi hoặc qua tai người thứ hai chẳng hạn như anh người đó mới gia nhập; cha người đó mới bị bắt v́ là đảng viên th́ hiện tại, mới khoảng một năm sau thời kỳ kể trên, các đảng phái đă thực sự gây được cả sức mạnh lẫn uy tín vượt xa lúc trước. Đông Dương Học Xá đầy những sinh viên Việt Minh, Đại Việt hoặc VNQĐD. Chuyện bàn căi chính trị và tuyển mộ đảng viên xảy ra hàng ngày ngay phía sau bề mặt của Tổng Hội Sinh Viên. Đây là một hội gồm đủ các thành phần từ rất nhiều các tầng lớp có quá khứ khác biệt nhưng thảy đều có tư tưởng quốc gia. Đây cũng chính là Tổng Hội mà tôi đă tham gia từ lúc đầu tiên.

V́ biết rằng nhân viên và những kẻ sách động cho Pháp đang ở khắp mọi nơi nên Tổng Hội Sinh Viên hành động rất cẩn trọng. Hội viên tránh đương đầu trực tiếp bằng cách tổ chức những cuộc đi chơi ngoài mặt có vẻ hồn nhiên nhưng thật sự là để khích động ḷng yêu nước. Những cuộc đạp xe hàng tuần luôn luôn có liên quan hệ trọng đến lịch sử và tinh thần yêu nước ngấm ngầm. Chúng tôi đi thăm Đền Hùng, Đền thờ Hai Bà Trưng và các lăng tẩm của những anh hùng, liệt sĩ đă từng đánh đuổi, đập tan giặc ngoại xâm. Những trùng hợp về thời khắc đôi khi có phần lộ liễu nhưng chánh quyền Pháp không thể làm cách nào để ngăn cản được những cuộc du ngoạn có trật tự như vậy. Chúng tôi cùng ngồi quanh lửa hồng, bàn bạc về cách Hai Bà Trưng lật đổ quyền cai trị của Trung Hoa vào thế kỷ đầu tiên, về Trần Hưng Đạo đập tan quân Mông Cổ 1200 năm sau đó. Sau cùng chúng tôi ca hát vang rừng:

Này anh em ơi!

Đứng lên đáp lời sông núi

Đồng ḷng cùng đi, hy sinh tiếc ǵ thân sống...

Những cuộc họp này gây xúc động sâu xa trong ḷng tất cả chúng tôi. Nh́n Đền Hùng mờ xa trong ánh đêm chúng tôi cảm thấy ḿnh chính là một phần của một gịng liên tục luân lưu, nối tiếp truyền thống Việt Nam. Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi -Tất cả đều đă về đây, tề tựu trong giây phút này để chứng kiến đất nước lại một lần nữa vùng lên tranh đấu cho tự do. Huyền nhiệm thay, sự việc này đang diễn ra ngay trong thế hệ chúng tôi. Thời cơ của chúng tôi đă đến. Qua ánh lửa bập bùng, những khuôn mặt lung linh, chập chờn nhảy múa. Một giây phút thanh cao, thiêng liêng khi tất cả đều đồng ḷng liên kết, tranh đấu cho độc lập và sẵn sàng hy sinh không hề nghĩ đến bản thân, không hề do dự. Một phút giây hồn nhiên nhất. Có lẽ đây là phút giây sau cùng trước khi hai khối Cộng Sản và Quốc Gia bắt đầu mở cuộc tương tàn sát hại lẫn nhau.

Tuy ngoài xă hội, tất cả sinh viên đều tỏ vẻ đoàn kết, khi đi sâu vào lănh vực chính trị của từng sinh viên th́ sự thật lại hoàn toàn khác hẳn. Khối sinh viên lần lần tản ra khi mỗi đứa chúng tôi tự tách ra, chia nhau đi theo những lời hẹn ḥ của đảng về việc đáp lại những nguyện vọng chúng tôi cùng nhau ấp ủ. Vào năm 1943 th́ chỉ có một số rất nhỏ có được tí khái niệm mù mờ về những khác biệt giữa các đảng hoặc có thể nhận định chân thực được thế nào là đảng phái. Mọi đảng đều tuyên bố tranh đấu cho tự do. Thế là đủ. Chủ Trương Xă Hội của VNQĐD thế nào chẳng ai được rơ. Có lẽ chẳng có sinh viên nào có thể cắt nghĩa được rành rọt những khác biệt nổi bật của Đại Việt và Việt Minh. Chẳng hạn như lúc này tất cả đều không biết Việt Minh là do Cộng Sản cầm đầu. Hơn nữa, chưa ai nghe nói đến tên Hồ Chí Minh bao giờ.

V́ thiếu hiểu biết về các đảng phái các sinh viên thường cho là mọi đảng đều như nhau cả. Dĩ nhiên tất cả đều nhận định được rằng có một số đảng ngả theo Trung Hoa trong khi một số đảng khác ngả theo Nhật, nhưng mục đích chung của mọi đảng đều chẳng có ǵ khác hơn là đ̣i hỏi Độc Lập. Kết cục là gia nhập vào các đảng phái hoàn toàn lệ thuộc vào sự móc nối t́nh cờ của bạn bè hoặc người thân. Người ta gia nhập v́ rằng một người bạn hay người thân đă gia nhập rồi. Khi một người trong gia đ́nh họ hàng đă là đảng viên của đảng Đại Việt, VNQĐD hoặc Việt Minh th́ những người c̣n lại trong gia đ́nh có khuynh hướng chính trị thường gia nhập theo.

V́ ông thân và ông chú chẳng ngả theo đảng phái nào, tôi gia nhập đảng Đại Việt là do lời giới thiệu của một người bạn là ông Đặng Văn Sung. Một trong những lư do khác đă khiến tôi gia nhập Đại Việt là v́ đa số các sinh viên lúc này đều gia nhập Đại Việt. Khi tôi thực sự gia nhập là khoảng năm 1944. Trong suốt cuộc chiến tôi đă theo dơi sát từng trận đánh ở Thái B́nh Dương, đọc tin tức qua tờ báo viết bằng tiếng Pháp ở Hà Nội là tờ La Volonté Indochinoise. Suốt thời gian đó vào khoảng 1942, Pháp lấy làm thích thú tường thuật liên tục việc Nhật thất trận. Lúc này tất cả đều cho rằng chiến tranh sắp kết liễu. Bất kỳ kết cuộc ra sao tất cả đều cảm thấy đă đến lúc cùng nhau góp sức. Số người gia nhập nhảy vọt. Ngay cả những người đang phân vân cũng xin gia nhập.

Trong ngày đầu gia nhập đảng Đại Việt ông Đặng Văn Sung dẫn tôi qua một khu dân cư b́nh dân trú ngụ để đến một căn nhà cũng b́nh dân không kém. Khi đă vào trong tôi được gặp người tuyên thệ tôi vào đảng. Chính ông ta cũng là thượng cấp của tôi về sau. Người tuyên thệ tôi trông cũng chất phác chẳng khác nào khu cư ngụ của ông. Khi đă nhận định rơ rệt mọi việc tôi cảm thấy hơi khó chịu. Tôi thực chẳng thể ngờ rằng ḿnh lại có thể đi tuyên thệ trung thành với một đảng phái mơ hồ trước mặt một người chơn chất, giản dị, như người tuyên thệ tôi vào đảng lúc này.

Khó chịu hơn nữa là bên trên chỗ bàn thờ tuyên thệ có dán một bức bản đồ với hai chữ ĐẠI VIỆT. Tấm bản đồ này chẳng những chỉ bao gồm Việt Nam thôi mà c̣n bao gồm cả toàn cơi Đông Dương và rất nhiều phần khác của Đông Nam Á. Hương khói trên bàn thờ tỏa ra làm cho quang cảnh có vẻ đượm phần tín ngưỡng. Trước ngọn nến người tuyên thệ tôi vào đảng Đại Việt đặt một khẩu súng đen. Người tuyên thệ tôi bắt đầu: "Khẩu súng này là biểu tượng cho kỷ luật của đảng. Anh phải thề trung thành với đảng và tổ quốc. Nếu anh phản một trong hai..." Ông ta khẽ nh́n về phía khẩu súng gật nhẹ.

Buổi tuyên thệ thật nghiêm trang, nhưng riêng tôi lại chẳng xem mọi sự nghiêm trang đến thế. Không khí có vẻ đượm màu thế kỷ thứ 19 đă qua mang đầy tính chất bí mật lăng mạn. Tuy vậy tôi vẫn giơ tay tuyên thệ, hứa sẽ trung thành. Với hành động tự nguyện này tôi bước vào thế giới của những người Việt Nam có tư tưởng quốc gia. Thế giới này đă ở cùng tôi trong suốt 40 năm dài cho tới ngày nay.

4. Đảng Đại Việt

Sau khi tuyên thệ vào đảng tôi được giới thiệu với hai đảng viên Đại Việt khác để hợp thành một tiểu tổ. Ngoài mặt, tôi chỉ được biết những bạn cùng tổ và thượng cấp của đảng qua bí danh của họ mà thôi. Tôi chọn tên Kim cho chính ḿnh, Kim là tên một thiếu nữ đă đến xin tôi dạy kèm toán khi tôi c̣n ở nhà ông chú. Cô có nụ cười thật duyên dáng. Lúc này chẳng hiểu sao khi chọn bí danh tự nhiên tôi lại nghĩ đến tên cô.

Khi tiểu tổ đă được thiết lập, chúng tôi hội họp thường xuyên, không bao giờ hai lần ở cùng một chỗ. V́ tiểu tổ chúng tôi thuộc thành phần "trí thức" của Đại Việt, công việc chính của chúng tôi là tuyển mộ đảng viên. Chúng tôi tự luyện ḿnh thành những nhân viên tuyển mộ chính cho đảng và luôn luôn t́m cách thuận lợi để tuyển thêm những người mới. Chúng tôi cố t́m cách để khêu gợi, thúc đẩy ḷng yêu nước của họ, làm họ mang mặc cảm tội lỗi về việc phải "làm ǵ" cho đất nước. Những nhóm Đại Việt c̣n lại th́ được phân công để lo việc an ninh, tin tức và tài chánh. Giờ đây ḷng yêu nước không c̣n trừu tượng như lúc ở với Tổng Hội Sinh Viên nữa mà chuyển thành một phong trào cách mạng. Việc bị cảnh sát Pháp bắt là chuyện b́nh thường, thỉnh thoảng lại có người mất tích th́nh ĺnh. Thường th́ không thể nào nói được sự mất tích là do Pháp hoặc các hội khác tiêu diệt. Tính cách bí mật về hành động của chúng tôi làm gia tăng bầu không khí hiểm nguy và đe dọa. Hung hiểm bỗng nhiên ám ảnh đời sống. Tôi bắt đầu mang một khẩu súng đút vừa vặn vào chiếc túi nhỏ sau lưng.

Đảng Đại Việt tôi gia nhập gồm nhiều nhóm Đại Việt liên lạc thật lỏng lẻo với nhau và với cả VNQĐD. Một trong những nhóm Đại Việt nhỏ là nhóm Đại Việt Quốc Xă, một nhóm có liên hệ mật thiết với Nhật. Một nhóm Đại Việt khác là Đại Việt Dân Chính lại hoạt động theo đúng với chiều hướng cách mạng Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Nhóm Đại Việt này v́ vậy gần gũi nhất với VNQĐD. Mặc dù chưa liên lạc được với chi nhánh chính của Quốc Dân Đảng ở Trung Hoa nhóm này vẫn tự xưng là Đại Việt Quốc Dân Đảng và cũng chính là nhóm Đại Việt mà tôi đă gia nhập trước bàn thờ với khẩu súng ngắn.

Những cương lĩnh dân chủ và tinh thần quốc gia cuồng nhiệt của Đại Việt Quốc Dân Đảng đă thu hút được một thế hệ sinh viên Việt Nam. Rủi thay, ngoài việc cam kết rằng chủ trương của đảng có khuynh hướng Dân Tộc Sinh Tồn, Đại Việt Quốc Dân Đảng chỉ có một khái niệm mơ hồ về những hoạt động thực tiễn trên các lănh vực xă hội và kinh tế. Xuất xứ của đảng Đại Việt Quốc Dân thực sự là do nhiệt tâm tranh đấu cho Độc Lập, do những t́nh cảm cuồng nhiệt đă được tinh thần tranh đấu âm ỉ hun đúc tích tụ suốt 60 năm dưới chánh quyền thực dân. Những cảm xúc mănh liệt ngấm ngầm đó giờ đang tiến đến giai đoạn nổ bùng. Sự hiện hữu của đảng là một biểu tượng diễn tả tinh thần cương quyết chống thực dân. Lư do hiện hữu của đảng là sự đ̣i hỏi tự do. Bởi thế cho nên đảng không có thời giờ hoặc tâm trí để nh́n xa hơn những mục đích chủ chốt lúc đó.

Thiếu lập trường chính trị là một nhược điểm mà Đại Việt Quốc Dân Đảng và nhiều đảng phái khác cùng có chung, ngoại trừ một đảng duy nhất là đảng Việt Minh. Vốn được những thành phần Cộng Sản ṇng cốt, tháo vát và đầy nhiệt tâm ra công tổ chức, Đảng Việt Minh có những ưu điểm mà những đảng phái quốc gia hoàn toàn không có. Một trong những ưu điểm tối quan trọng của Việt Minh là những kinh nghiệm lăo luyện về chiến thuật và chiến lược của chiến tranh phe phái.

Khoảng giữa thập niên 1940, ông Hồ Chí Minh đă là nhân viên của đảng Cộng Sản thế giới tṛn một phần tư thế kỷ. Ông đă góp phần thiết lập đảng Cộng Sản Pháp và đă theo học tại Đông Phương Đấu Tranh Học Viện Stalin. Ngoài ra ông c̣n là một trong những đảng viên của đảng Nông Dân Quốc Tế (Peasant 's International) đă cùng hoạt động với vị lănh tụ khét tiếng Michael Borodin trong sứ mạng giúp đỡ cách mạng Trung Hoa. Khi đảng Đại Việt và các đảng phái khác hăy c̣n trong thời kỳ phôi thai th́ ông Hồ Chí Minh đă hiểu rơ tường tận cả về lề lối cách mạng lẫn cách tiêu diệt các đảng phái chính trị đối lập khác. Cho đến khi các nhân vật tăm tiếng như ông Vơ Nguyên Giáp, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng và Lê Duẩn cùng về hợp tác th́ đảng Việt Minh đă liên kết tạo thành thế răng cưa để nghiền nát các đảng phái quốc gia khác yếu thế hơn.

Chẳng rơ trong lúc đó các lănh tụ Đại Việt có h́nh dung được rơ rệt những thế lực khủng khiếp của các lực lượng đối nghịch hay không, riêng phần tôi và các bạn bè vẫn hoàn toàn không hề mảy may hay biết.

Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, tôi đă cảm thấy vai tṛ của ḿnh trong tiểu tổ thật quá hạn hẹp. Khi nhận thấy khả năng ḿnh có sức làm nhiều hơn những công việc đă được ủy thác, tôi bắt đầu t́m cách gặp ông Trương Tử Anh, lănh tụ đảng Đại Việt, người mà chúng tôi vẫn gọi là Ông Cả Phương.

Lúc đầu công việc hoàn toàn thất bại. Người liên lạc độc nhất giữa tôi và đảng cứ tŕ hoăn bảo rằng chuyện đó không thể làm ngay được và khuyên rằng nếu muốn gặp ông Trương Tử Anh th́ tôi phải kiên nhẫn hơn. Việc chẳng thể vượt qua được đường dây liên lạc độc nhất để tiến xa hơn đă khiến tôi vô cùng thất vọng. Tôi tự thấy ḿnh không thể chịu được đường lối ép buộc khắt khe của đảng và cũng chưa hiểu rơ rồi đây những cảm tưởng khó chịu lúc này sẽ ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa tôi và đảng nặng nề đến mức nào. May thay chỉ một thời gian ngắn sau đó tôi lại t́nh cờ được gặp ông Trương Tử Anh. Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Trương Tử Anh đă dẫn đến những liên hệ mật thiết giữa tôi cùng ông Anh và những xung đột chính trị về đường lối của đảng về lúc sau này.

Cuộc gặp gỡ xảy ra trong một cuộc họp của đảng Đại Việt tại nhà một người bạn cùng lớp. Chuyện tôi không biết người bạn cùng lớp cũng là đảng viên Đại Việt chẳng qua cũng là một chuyện b́nh thường lúc bấy giờ. Tuy vậy, trong lúc đến họp tôi đă nhận ra vài người bạn có mặt tại đó cũng là đảng viên Đại Việt. Mọi người h́nh như đang tựu quanh một người trung niên đầu hói phía trong một căn pḥng ngủ. Khi không nhận ra được người trung niên đầu hói là ai, tôi đă hỏi Phúc. Phúc th́ thào: "Đó là ông Trương Tử Anh."

Vừa nghe xong tôi vội bắt Phúc giới thiệu. Phúc từ chối trong kinh ngạc: "Không được đâu!!! Như vậy không đúng với thông lệ của đảng. Anh phải thông qua trưởng nhóm." Tuy vậy, tôi hết sức nài nỉ. Tôi đă chờ cơ hội này từ lâu. Hiện đang có dịp may, đời nào tôi bỏ lỡ? Sau cùng, phần th́ bối rối, phần th́ v́ cũng chẳng c̣n cách nào khác, Phúc đồng ư.

Ông Trương Tử Anh là người rất dễ dăi và đáng mến. Dường như ông không hề bận tâm chút nào về việc giới thiệu bất ngờ. Ông mỉm cười thân thiện rồi nh́n tôi với đôi mắt sáng long lanh gần như thu hút. Ông khuyên tôi nên bỏ th́ giờ t́m hiểu nguyên tắc của đảng để có thể biết rơ đường lối của đảng đối với quốc gia. Tôi trả lời ngay rằng đây đúng là việc tôi đang thắc mắc muốn t́m hiểu thêm v́ quả thật tôi hoàn toàn chưa có căn bản vững chắc về đường lối và quan niệm của đảng.

Ông Trương Tử Anh vừa ngước đầu về phía cửa chỗ Phúc đi ra ngoài vừa tiếp lời tôi rằng: "Anh có thể học hỏi anh Phúc thêm. Phúc là một lư thuyết gia đứng đắn."

Tôi lấy làm ngạc nhiên: "Phúc? Tuy Phúc quả là một người bạn tôi biết đă từ lâu nhưng làm sao tôi có thể học Phúc thêm về đường lối của đảng được? Khi c̣n là bạn cùng lớp Phúc lúc nào cũng thua tôi về Triết và gần như về tất cả mọi môn khác!!!"

Không rơ sự bạo dạn hay câu phê b́nh thơ ngây của tôi đă khiến ông Anh bật cười. Chúng tôi nói chuyện lâu hơn và ít lâu sau ông Anh tỏ ư muốn gặp riêng tôi. Khi ra về tôi cảm thấy có thể hoàn toàn tin tưởng ông Trương Tử Anh. Hơn nữa tôi biết ḿnh đă gây được ấn tượng tốt với ông.

Trong lần gặp sau đó, ông Anh bảo rằng có rất nhiều việc có thể giao phó cho tôi nhưng việc quan trọng nhất hiện thời là dùng tôi để gây mối liên lạc giữa đảng và ông chú tôi là học giả Trần Trọng Kim. Tuy ông chú tôi chỉ là một sử gia, tác phẩm của ông đă chuyển ông thành một nhân vật quan trọng trọng việc nhận định lại nền văn hóa Việt Nam. Vốn là người nổi tiếng, được nhiều người kính nể, lại không hoàn toàn đứng về bất cứ phe phái nào nên dầu muốn dầu không ông chú tôi cũng đă trở nên một nhân vật của dư luận. Hơn nữa, lúc này ông c̣n được đa số quần chúng ủng hộ nên dù gia nhập đảng nào ông cũng mang lại cho đảng đó rất nhiều uy tín. Ông Trương Tử Anh cho rằng có lẽ phương pháp hay nhất là để tôi gần gũi với ông chú tôi, cho ông chú tôi biết rơ rằng tôi đă gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng và rồi tự t́m cách thuận lợi để biến ḿnh thành một đường dây liên lạc bí mật giữa Đại Việt và ông chú tôi.

Mặc dầu ông chú tôi vẫn chăm chỉ viết sách, cuộc sống của ông thực sự đă thay đổi rất nhiều vào năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị dồn dập đă đẩy ông phần nào ra khỏi tư thế khách quan trong vấn đề tranh đấu cho độc lập. Lúc này ông khách sinh viên Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả mật thám Pháp cũng đă giám sát cẩn mật nơi cư ngụ và các hành động của ông chú tôi.

Tuy đă biết rành rọt mọi chuyện mà vào một hôm đến chơi tôi vẫn bàng hoàng khi được bà mợ cho biết tin chú tôi không c̣n ở nhà nữa. "Chú phải lên đường đi xa," mợ tôi tiếp tục cho thêm tin "v́ mật vụ Pháp ŕnh rập và đă lên đường đi Singapore cùng ông Yamaguchi rồi."

Vào mùa hạ năm 1944, quân đồng minh rầm rộ kéo qua Pháp. Khoảng tháng 8, ngày 23, họ đă chọc thủng tuyến pḥng sông Seine. Hai ngày sau tướng Jacques Philippe Leclerc và quân Pháp dưới quyền chỉ huy của ông đă giải phóng Ba Lê thoát ách bốn năm đô hộ của Đức. Việc chánh phủ Vichy Pháp sụp đổ đă khiến t́nh h́nh phức tạp nội địa Đông Dương suy yếu hơn một tầng, nhất là khi quân Nhật tỏ ư lơ là với những điều kiện khắt khe phải giữ với chánh quyền thuộc địa Pháp trước đây. Đă có lời đồn đăi rằng Nhật đang mưu mô lật đổ Pháp. Do đó khi có tin Nhật đảo chánh chẳng ai lấy làm ngạc nhiên.

Vào trưa ngày 9, tháng 3 năm 1945. tôi nhận được tin từ bà mợ rằng Yamaguchi mời tôi cùng ăn cơm tối tại nhà bà ta. Nhưng tối đó, khi tôi đến th́ không hề thấy bóng Yamaguchi. Ngồi đợi một chút, lúc trời vừa xâm xẩm tối bỗng có tiếng súng nổ từ những khu phố kế cận. Rồi bất thần Yamaguchi tông cửa vào nhà, kéo tay tôi vào một góc pḥng. "Chúng tôi đang tấn công Pháp," Yamaguchi nói, "cuộc tấn công đă bắt đầu rồi. Anh phải giúp tôi. Xin anh đến trường cùng tôi. Sẽ có nhiều tổn thất. Tôi muốn nói cho các anh em sinh viên được rơ rằng chúng tôi cần họ giúp đỡ, nhất là những sinh viên y khoa. Xin anh giúp dùm cho."

Vừa khẩn khoản đốc thúc, Yamaguchi vừa bắt đầu kéo tôi về phía cửa ra vào. Tuy vậy tôi không hề cảm thấy nóng ḷng như Yamaguchi. Tôi không muốn những sinh viên khác nghĩ rằng tôi là người hợp tác với Nhật. Bởi thế tôi gỡ tay Yamaguchi, xoay người đối diện với ông trong tư thế sửa soạn tranh luận về t́nh thế hiên thời...

Nhưng tôi chẳng c̣n đủ cơ hội nữa! "Khổ quá!" Yamaguchi nài nỉ, "Thật không c̣n thời giờ tranh luận nữa mà. Anh thật t́nh không hiểu sao? Chúng tôi đă tấn công rồi. Không phải chỉ có người Pháp thương tổn không thôi mà c̣n nhiều thường dân khác nữa! Xin anh giúp dùm ngay cho!"

Theo lời ông ta th́ thật chẳng c̣n ǵ để lựa chọn. Tôi vẫn c̣n nửa tỉnh nửa mơ th́ Yamaguchi đă đẩy tôi vào xe chạy ṿng vèo qua đường phố đầy lửa đạn. Tôi cũng chẳng hiểu chúng tôi đến được Đông Dương Học Xá bằng cách nào. Khi đến nơi, tuy có giới thiệu Yamaguchi cùng những sinh viên đang t́m hiểu tin tức quanh đó, tôi vẫn cố tránh xa ông ta. Nhiều sinh viên đă biết sơ qua về Yamaguchi. Ông đă theo học nhiều năm tại đại học và đă hoạt động rất tích cực trong việc nối kết t́nh hữu nghị Việt-Nhật. Do đó, tôi nói với mọi người rằng tôi cũng như những sinh viên khác, biết Yamaguchi và hiện ông ta đang ngỏ lời xin giúp đỡ.

Ngay sau khi tôi giới thiệu, Yamaguchi đọc một bài diễn văn ngắn và mở lời nhờ sinh viên săn sóc những người đang gặp hoạn nạn hoặc bị thương do súng ống loạn lạc đang bao trùm thành phố. Nói xong ông ta lên đường. Khi tiếng súng gần kề, chúng tôi cùng nhau bàn bạc về những chuyện phải làm. Như tôi đă tiên đoán, có nhiều học sinh nghĩ là tôi cùng hoạt động với Yamaguchi. Họ muốn biết rơ ông ta yêu cầu ǵ. Tôi bảo với họ rằng tôi cũng chỉ biết Yamaguchi như những sinh viên khác mà thôi. Tất cả chúng tôi đều muốn tránh tiếng hợp tác với Nhật nhưng những tiếng súng bên ngoài cho thấy rằng chắc chắn sẽ có tổn thất lớn về phía dân sự. Chúng tôi chẳng thể khoanh tay không giúp đỡ.

Sau cùng tất cả quyết định giữ tư thế trung lập. Sinh viên y khoa sẽ chia toán đổ ra đường phố, nhưng tất cả đều đeo băng thập tự đỏ cứu thương rơ rệt. Chúng tôi sẽ hết sức giúp đỡ nạn nhân nhưng tất cả cùng cố tránh càng ít liên lạc với người Nhật càng tốt.

Thật sự th́ những dự đoán về chuyện đánh nhau hỗn loạn và tổn thất nặng nề chỉ là chuyện lo xa. Quân Nhật tổ chức đánh chiếm thiện nghệ cho đến nỗi chỉ mới rạng đông Hà Nội đă hoàn toàn ngưng hẳn tiếng súng. Quân Pháp bị diệt sạch vào lúc rạng ngày. Lính Nhật thay thế Pháp đi tuần khắp các nẻo đường phố. Sau hơn sáu mươi năm đô hộ, ách thống trị của Pháp bỗng dưng bị lật đổ.

Khi người Nhật đă nắm quyền th́ câu hỏi chủ yếu là: Họ sẽ làm ǵ? Qua suốt thời gian chiếm đóng họ đă tránh né không nói rơ chủ trương, không hứa hẹn, hoàn toàn nấp ḿnh sau sự điều khiển của những người lai lịch bí ẩn và khôn khéo lợi dụng thời cơ như Yamaguchi. Lúc này chúng tôi đă thấy rơ là Nhật chỉ nắm quyền tạm thời mà thôi. Các lực lượng khủng khiếp của Hoa Kỳ ở Thái B́nh Dương đang tiến dần vào quần đảo Nhật và chương tŕnh Đại Đông Á đang chết dần. Bởi thế dù Nhật có an bài Việt Nam bằng cách nào đi nữa th́ cơ hội lịch sử cũng đă đến.

Bầu không khí hồi hộp bao trùm khắp cả khuôn viên đại học. Ḷng yêu nước chứa chan pha lẫn với những niềm tin vào vai tṛ sinh viên trong xă hội tương lai đă khiến tất cả đều háo hức. Gần như tất cả đều tin rằng dù ǵ đi nữa th́ vai tṛ của sinh viên chắc chắn sẽ là những vai tṛ lớn rộng và phản ảnh rơ rệt được vai tṛ những bông hoa của đất nước. Tất cả những xúc cảm đè nén từ nhiều năm qua bỗng có dịp bùng ra thành những hoạt động cuồng loạn. Tổng Hội Sinh Viên được thiết lập. Báo chí sinh viên cùng những buổi chào mừng tung hô thống nhất nảy ra khắp nơi. Những phong trào yêu nước ngấm ngầm bị cảnh sát Pháp ngăn chận trước đây th́nh ĺnh bộc phát. Tuy chưa có ǵ bạo động xảy ra, chưa có ai tỏ vẻ ra mặt chống đối Nhật nhưng mọi người đều đă có cảm giác là tương lai đă nằm trọn trong tay.

Chẳng bao lâu sau, tất cả những cảm xúc cuồng nhiệt được chuyển dần thành những dự định chuẩn bị cho ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương lúc nào cũng là một trong những dịp để tỏ ḷng yêu nước. Trước đây v́ sợ tinh thần yêu nước sẽ chuyển thành bạo động, chánh quyền Pháp đă cấm những buổi lễ lớn có tính cách cộng đồng. Lúc này, v́ chưa có lệnh chánh thức cấm tụ họp cộng đồng trực tiếp từ Nhật, Tổng Hội sinh viên nô nức tổ chức những buổi gặp gỡ.

Tại Đông Dương Học Xá, những sinh viên kiến trúc dựng đài kỷ niệm khổng lồ để tưởng nhớ Tổ Hùng Vương. Tổng Hội Sinh Viên gởi người đến từng vùng trong thành phố để nhắc nhở và kêu gọi mọi người cùng đến tham gia ngày Giỗ Tổ.

Buổi sáng hôm Giỗ Tổ khoảng đất xung quanh đài kỷ niệm bắt đầu dầy đặc những người đến dự. H́nh như tất cả dân chúng Hà Nội đều tề tựu ở đó. Mỗi gia đ́nh mang một miếng bánh chưng đến đặt ở chân đài thờ Tổ. Càng lúc số lượng người đến càng tăng, chen chúc nhau vây quanh đài kỷ niệm. Bánh chất đống thành núi, mỗi lúc mỗi cao thêm. Có cả hàng loạt diễn văn, mỗi bài đều khẳng định rằng tất cả đều là người Việt Nam, tất cả đều cùng chung tổ quốc và mọi người đều phải hy sinh v́ lợi ích quốc gia.

Có lẽ chỉ những người đă sinh trưởng trong một nước thuộc địa và đă từng bị người ngoại quốc đàn áp dă man mới có thể hiểu được cảm giác của những giây phút đó. Sau mỗi bài diễn văn đám đông lại hô to: "Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!" Trong cùng khắp đám đông, cả đàn ông lẫn phụ nữ đều tràn đầy cảm xúc. Chẳng một ai để ư đến quân Nhật lảng vảng ở ṿng ngoài, đang "chụp h́nh tất cả." Chẳng một ai c̣n tâm trí cho người Nhật hoặc bất cứ chuyện ǵ khác. Đầu óc chúng tôi chỉ có một ư nghĩ: Tổ quốc Việt Nam.

Khi diễn văn bế mạc, tất cả đám đông đổ xuống đường phố Hà Nội, phất cờ và tung hô: "Độc Lập! Độc Lập!" Quân Nhật vẫn đứng im ĺm dọc theo hai bên đường. Mặt họ lạnh lùng khi đám đông tung hô đi qua. Chẳng bên nào tỏ vẻ thù nghịch. Sau cùng đám đông ră dần thành những đám nhỏ, tản ra trên đường về, mệt mỏi v́ những vui mừng, khích động trong ngày.

Vài ngày sau, Yamaguchi lại xin gặp tôi. Ông ta cho biết là chú tôi đă từ Singapore trở về. Vua Bảo Đại đă mời ông chú tôi đứng ra lập chính phủ mới.

5. Cách Mạng Tháng 8

Hoàng Đế Bảo Đại là ông vua cuối cùng của triều Nguyễn. Ông là ông vua trị v́ dưới thời Pháp thuộc, nhưng trên thực tế vai tṛ của ông chẳng qua chỉ là một vai tṛ nghi lễ. Kể từ năm 1932, ông chỉ nắm quyền hành trên giấy tờ mà thôi. Con người của ông rất phức tạp. Vừa thông minh, tinh tế lại vừa thụ động, ham săn bắn, mê đánh bài và thích gần gũi đàn bà. Mặc dù đă cảm thấy rơ ràng trách nhiệm của ḿnh đối với nền độc lập Việt Nam, ông vẫn chỉ tranh đấu bằng một thái độ thật nhu nhược và bất nhất. Từ khi lên ngôi, ông Bảo Đại đă nhiều lần thúc đẩy Pháp cải cách để tiến đến một chánh quyền quốc gia. Tuy vậy ông vẫn luôn trùng tŕnh và không đủ can đảm giữ vững lập trường của ḿnh.

Hiện thời, v́ Nhật đốc thúc, ông đă tuyên bố Việt Nam hoàn toàn độc lập và đang xoay sở để tiến hành việc tạo dựng một chánh phủ quốc gia. Mọi người đều ngạc nhiên khi ông Bảo Đại cử học giả Trần Trọng Kim ra làm thủ tướng. Sự ngạc nhiên chính là v́ ông đă bỏ qua một chính trị gia thực tiễn khác đă sát cánh với người Nhật từ nhiều năm về trước là ông Ngô Đ́nh Diệm, người sau này là tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa. Lúc này, đa số những người hiểu rơ t́nh h́nh đều cho rằng nếu Nhật đảo chánh Pháp chắc chắn ông Diệm sẽ là người đứng ra nắm chánh quyền. Chẳng một ai nghi ngờ ǵ về chuyện ông Diệm đang nóng ḷng chờ đợi biến cố đảo chánh của Nhật. Tuy vậy, v́ lư do riêng Nhật đă quyết định gạt bỏ ông Diệm.

Biến chuyển Bảo Đại đề cử cụ Trần Trọng Kim đến vừa lúc các đảng phái quốc gia đang sửa soạn mở cuộc tranh quyền ồ ạt. Việt Minh đă củng cố được những căn cứ du kích ở Việt Bắc. Ông Trương Tử Anh đă thiết lập căn cứ ở Bắc Giang và Thanh Hóa. Khi tin tức về việc đề cử được truyền ra, tôi đă nhận được lệnh tŕnh diện ở căn cứ Thanh Hóa, nhưng lúc này ông Trương Tử Anh lại có lệnh muốn tôi đến Huế, nơi chính quyền của ông chú tôi sắp được thiết lập. Ở Huế tôi vừa phải theo dơi chánh quyền mới, lại vừa phải đứng ra làm đường dây liên lạc giữa ông chú tôi và ông Trương Tử Anh.

Tự nhiên thế giới của tôi trở nên lớn rộng. Mới đây tôi chỉ là một sinh viên ngành toán, có hoạt động chính trị nhưng chắc chắn không phải là một trong những nhân vật quan trọng. Bỗng nhiên giờ đây tôi trở thành một yếu nhân của chánh quyền Việt Nam với một công tác rơ rệt. Tôi tự hỏi, chẳng hiểu đây là sự thật? Hay sự thật chỉ là h́nh ảnh một Bùi Diễm thúc thủ đang hiện diện ở đâu đây để mỉm cười v́ sự thay đổi chính trị "Lên Ông" này? Chính cảm giác này rồi đây c̣n đến với tôi qua rất nhiều lần khác về sau.

Cuộc viễn du xuống Huế thật là sởn tóc gáy: Ba ngày, có lẽ đúng hơn là ba đêm, lóc cóc qua những con lộ nhỏ hẹp trên chiếc xe buưt chạy than cũ kỹ như cái bẫy chuột. Lúc này Đệ Nhị Thế Chiến c̣n đang tiếp diễn, và những căn cứ của Nhật ở Việt Nam vẫn bị đồng minh dội bom nên oanh tạc cơ của Hoa Kỳ đă biến đại lộ dẫn đến Huế thành một tử lộ trong lúc ban ngày. Bởi thế chúng tôi chỉ đi được từ hoàng hôn cho tới khi rạng đông. Tôi không hiểu là đi đêm trên một chiếc xe như vậy th́ có ǵ khác biệt với những nguy hiểm ban ngày khi Mỹ dội bom? Tuy vậy, trái hẳn với sự dự liệu của tôi, sau ba ngày chiếc xe cọc cạch đến Huế an toàn. Xe vượt qua gịng sông Hương yêu kiều rồi cho chúng tôi xuống ở một trạm xe buưt tỉnh lị.

Trạm xe buưt không phải là chỗ độc nhất có vẻ tỉnh lị ở Huế. So sánh với Hà Nội, thành phố Huế có vẻ yên lặng, u trầm. Những đền đài lăng tẩm tao nhă của thế kỷ 19 bao quanh không khí tĩnh mịch của Huế, nơi hoàng đế thiết triều. Đây cũng là nơi thực dân dựng những dinh thự uy nghi dành riêng cho những nhân vật cao cấp. Những dinh thự này giờ là nơi cư ngụ của chánh quyền mới.

Quẳng gói lên vai tôi bước về mé cầu Tràng Tiền t́m đường tới nơi cư ngụ. Vừa đi đầu tôi vừa vang lên âm hưởng của hai chữ Độc Lập. Tổ quốc đă thật sự tự do. -Ít ra lúc đó tôi tin là vậy. Tôi đang ở đúng vào nơi chánh quyền mới có được tự do suốt từ hồi năm 1884 cho đến nay. Khi đến nơi, tôi hănh diện nói cùng hai người gác cửa: "Tôi là Bùi Diễm, cháu Thủ Tướng, xin phép được gặp Thủ Tướng." Nghe xong một người chạy vào thông báo rồi lại trở ra ngay dẫn lối cho tôi.

Bước vào phía trong tôi sững sờ v́ vẻ đẹp trước mắt. Những hàng hiên dài trang trí tao nhă, những bậc tam cấp bóng loáng, những trần nhà trạm trỗ. Tôi đang ngỡ ngàng v́ vẻ xa hoa diễm lệ th́ ông chú tôi đă đến sau lưng nhỏ nhẻ: "Đấy Diễm, cháu hăy xem kỹ đi để hiểu v́ sao Pháp lúc nào cũng cố bám vào thuộc địa Việt Nam."

Uống trà xong, ông chú tôi ngỏ ư mời tôi ở lại. Tôi cũng chẳng lấy ǵ làm ngạc nhiên. Từ trước tới nay, ông vẫn thích nói chuyện với tôi và lúc nào ông cũng coi tôi là một đứa cháu cưng. Thỉnh thoảng tôi vẫn ở chơi nhà ông ngoài Hà Nội. Hơn nữa, tôi biết rằng v́ hiếm muộn con trai, vợ chồng ông vẫn coi tôi như con ruột. V́ thế, tôi thay đổi quần áo, sửa soạn ở luôn trong dinh thự.

Sau khi mọi chuyện lặt vặt đă hoàn toàn ổn định, cụ Kim kể về chuyện đề cử. Chuyện cũng đă làm cụ ngạc nhiên không kém ǵ những người khác. Liền ngay trước khi lật đổ Pháp, Nhật đă mang cụ Kim từ Singapore về Sài G̣n. Tại Sài G̣n, Nhật giữ cụ ở một căn nhà riêng chờ đợi biến chuyển. Ông Ngô Đ́nh Diệm cũng ở Sài G̣n vào thời gian này và cũng liên lạc thường xuyên với người Nhật trong niềm hy vọng rằng biến chuyển sẽ đưa thời cơ đến với ông.

Ngày nọ bỗng một người Nhật mời cụ Kim đến nói chuyện với Ban Tham Mưu của họ tại văn pḥng trung ương. Khi đến nơi họ bảo rằng vua Bảo Đại yêu cầu được gặp cụ Kim và cụ Kim nên về Huế càng sớm càng tốt. Họ chẳng hề đề cập bất cứ điều ǵ có liên quan đến chánh quyền mới và chỉ nói vắn tắt với cụ Kim rằng Bảo Đại yêu cầu được gặp. Khi tin được chuyển xong th́ cụ Kim ra về, suy nghĩ xem xét về lời nhắn. Lúc bước qua hành lang, cụ Kim th́nh ĺnh gặp ông Diệm, một chính khách đang nôn nóng đợi chờ những tin tức của Nhật. Thấy cụ Kim từ văn pḥng bước ra, ông Diệm chạy vội lại hỏi thăm ngay: "Có tin ǵ không? Có tin ǵ không?" Chính ông Diệm cũng chẳng biết ǵ hơn cụ Kim.

Trưa hôm sau cụ Kim đến Huế, lắng nghe lời ông Bảo Đại mời cụ ra giữ chức thủ tướng và thiết lập chánh phủ. Nghe xong cụ Kim hỏi ngay. "Tại sao ngài lại chọn tôi mà không chọn ông Ngô Đ́nh Diệm?" ông Bảo Đại trả lời rằng: "Là v́ tôi đă cố liên lạc với ông Diệm gần hơn tuần nay, nhưng người Nhật nói với tôi rằng họ không biết ông ta ở đâu. Hiển nhiên là ông Diệm đang trốn tránh và tôi chẳng thể chờ lâu hơn được."

Câu chuyện theo cụ Kim kể th́ quả là Nhật đă giữ cả hai, cả cụ Kim lẫn ông Diệm trong suốt thời gian họ t́m hiểu t́nh h́nh, để tiện việc khi cần. Dẫu rằng ở vào lúc tuổi hăy c̣n nhỏ như thời đó, tôi đă khâm phục những cách họ vận động khéo léo để lợi dụng cả chánh quyền thực dân Pháp lẫn chánh quyền Việt Nam. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao, nhưng rơ rệt là Nhật cho rằng t́nh thế Việt Nam lúc này phải cần một học giả trầm lặng như ông chú tôi làm thủ tướng hơn là một chánh trị gia có nhiều ư chí như ông Ngô Đ́nh Diệm. Kết quả là cụ Trần Trọng Kim đang ở dinh thự Huế trong khi ông Diệm vẫn ở Sài G̣n, hoàn toàn mù tịt về t́nh h́nh chính trị.

Cụ Kim vẫn c̣n bị những khuynh hướng tổ chức theo lối cổ ngày xưa ảnh hưởng rất nhiều. Khi t́m người ra phục vụ, cụ đă mời những người vừa xuất sắc về học vấn, vừa chánh trực thanh liêm về cùng làm việc. Cụ coi đây là những đức tính tiên quyết, bắt buộc phải có ở những người phục vụ đất nước. Khi nh́n lại bằng con mắt hiện thời th́ quả thật lúc loạn ly bấy giờ chưa chắc đă phải là lúc của những đức tính như vậy.

Khuynh hướng chính trị của cụ Kim phản ảnh rơ rệt qua cách cụ mời những nhân viên vào chánh phủ. Tất cả những người cụ mời đều là những phần tử ưu tú nhất. Họ là những tinh hoa của xă hội Việt Nam. Trong số Bộ Trưởng, có vài người là giáo sư cũ của tôi. Chẳng hạn như Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Hoàng Xuân Hăn là thày dạy tôi toán. Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên Phan Anh là thày dạy tôi văn chương Pháp. V́ chánh quyền vừa được thiết lập nên các Bộ Trưởng cùng gia đ́nh đều cùng ở trong dinh thự và đang cố gắng t́m nơi trú ngụ. Mọi người cùng sống chung với nhau tạo ra một bầu không khí lẫn lộn nửa đại gia đ́nh, nửa khuôn viên đại học.

Khi ăn tối, tất cả tề tụ quanh chiếc bàn lớn ở pḥng ăn, chuyện chính trị bàn căi sôi nổi. Tuy thế, hầu hết các nhân viên trong cả chánh phủ đều thiếu kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Khi giải quyết các vấn đề chính trị, họ thường giải quyết dựa vào các quan niệm lư thuyết. Họ sẵn sàng tán thành các giải pháp được đề ra, miễn là những giải pháp đó có vẻ hợp luận lư. Các nhân viên chánh phủ lúc này thường cho rằng một khi họ đă suy nghĩ thấu đáo vấn đề th́ mọi việc c̣n lại đều tùy thuộc vào những sắc lệnh của chánh phủ đưa ra. Họ nghĩ là chỉ cần ra lệnh là lệnh của họ sẽ tự nhiên hoàn thành. Tuy phần đông các nhân viên trong chánh phủ đều giải quyết các khó khăn dựa trên những quan niệm lư thuyết, chẳng một ai trong họ là bù nh́n. Mặc dầu quyền lực đang thực sự trong tay Nhật, họ chưa hề suy nghĩ đến bất cứ điều ǵ vi phạm đến bổn phận hoặc lương tâm.

Nhưng tuy không hề nghe lệnh, họ cũng chẳng hề biết rơ thấu đáo t́nh h́nh chính trị và quân sự đang gây sóng gió chung quanh. Chẳng hạn như việc chánh phủ không có lấy một đại biểu ở Hà Nội. Chính phủ phải nhờ vào điện tín để liên lạc. Họ chẳng biết tí ǵ về người Mỹ, trong khi đó th́ ông Hồ đang cố hết sức dụ dỗ Hoa Kỳ. Theo tôi nhớ th́ h́nh như các Bộ Trưởng chưa bao giờ nói ǵ đến chuyện ông Hồ Chí Minh hoặc Việt Minh. Có lẽ họ đang sống trong một khoảng trống. Hoặc có lẽ v́ theo khuôn mẫu của các triều đ́nh cũ khi trước, họ đă tự cho ḿnh là trung tâm của vũ trụ và vạn vật đều quay quanh họ.

Ngay cả đến người Nhật, mà tôi nghĩ là họ phải hiểu hơn cả, họ cũng chẳng biết rơ ư định của người Nhật. Dường như họ cũng chẳng lo lắng mấy về vấn đề người Nhật sắp sửa thất bại. Tôi c̣n nhớ vào một buổi tối có cuộc bàn căi sôi động về vấn đề Nam Bộ. Lúc đó Nam Bộ c̣n được gọi là CochinChine. Người Nhật lúc này đang chống đối việc trả lại chủ quyền cho Việt Nam. Trong khi bàn luận t́m cách lấy lại Nam Bộ, ông chú tôi cho biết cụ đă thảo luận vấn đề này với đại sứ Nhật là ông Yokahama. Ông chú tôi cho biết đại sứ Yokahama đă hứa sẽ xin chỉ thị của chánh phủ Nhật và hứa "sẽ hết ḿnh." Như vậy vấn đề tạm coi là được giải quyết. Trong khi đại sứ Nhật đang "cố hết ḿnh" th́ chánh phủ Việt Nam lúc này cho rằng chẳng c̣n việc ǵ cần làm thêm nữa.

Đây là lần đầu tiên cụ Kim và các Bộ Trưởng mới bắt tay vào việc thiết lập chánh phủ. V́ không có những khuôn mẫu kinh nghiệm để noi theo họ đă phải tự tổ chức các cơ quan quân sự quốc gia, tự cải tổ giáo dục và tự thiết lập gần như toàn bộ các cơ quan cần thiết cho một chánh phủ mới. Họ cố nhận định lần hồi những khó khăn chính và cố t́m cách giải tỏa. Họ cho rằng sự hiện diện của họ trong chánh quyền là v́ bổn phận. Họ sẵn sàng từ bỏ mọi sự khi có lư do chánh đáng.

Tôi ở Huế khoảng 2 tháng, quan sát các Bộ Trưởng, nghe họ kể chuyện và đi tham quan thành phố cho tới khi tôi hoàn toàn quen thuộc với tất cả những di tích lịch sử. Và sau khi đă xem hết những cảnh ở Huế th́ tự dưng tôi lại thấy nhớ Hà Nội. May thay, ông chú tôi lại vừa đề cử một đại biểu đại diện cho chính phủ ở Hà Nội. (Người đại diện là Khâm sai Phan Kế Toại, một vị quan già mà cả ông thân và ông chú tôi đều biết.) Tôi mừng không thể tả khi ông Toại ngỏ lời mời tôi cùng về Hà Nội. Tôi sẽ là người liên lạc bán chánh thức giữa vị đại biểu mới của Hà Nội và chánh phủ.

Tôi đă biết rơ công việc của một người đưa tin chẳng lấy ǵ làm nặng nhọc. Tôi đă từng làm người đưa tin riêng cho ông Trương Tử Anh và ông chú tôi suốt 2 tháng mà chưa từng đưa tin ǵ cho cả hai bên. Tuy vậy tôi cần có lư do để về Hà Nội. Lư do này hoàn toàn tốt đẹp.

Ngược hẳn với Huế, Hà Nội vào cuối tháng 7 năm 1945 đang xôn xao, v́ cả tin tức, tin đồn lẫn những vận động ngầm. Một điều ai cũng rơ là ngày tàn của đế quốc Nhật đă gần kề. Trong khi ông chú tôi nghĩ rằng c̣n có nhiều thời giờ để thiết lập chính quyền và xếp đặt mọi việc đàng hoàng với Nhật th́ những người khác đang cố củng cố một chỗ đứng vững vàng để có thể mưu mô sửa soạn trước cho giai đoạn sắp tới.

Về đến Hà Nội, tôi liên lạc ngay với ông Trương Tử Anh. Ông Anh bảo rằng lực lượng Đại Việt đă thiết lập căn cứ hoàn toàn vững chắc, nhưng thay v́ đến một trong những nơi căn cứ, tôi nên ở lại với ông tại Hà Nội. Ông cho rằng tại Hà Nội tôi có thể làm các công tác chính trị hữu hiệu hơn.

Càng gần ông Trương Tử Anh tôi lại càng khâm phục tài tháo vát của ông. Điều kỳ bí về ông Trương Tử Anh là chẳng một ai biết chính xác ông quê quán từ đâu hoặc quá khứ ra sao, nhưng ông có vẻ là người có bản lănh. Phía sau những cung cách trầm tĩnh và nghiêm nghị bề ngoài, ông Trương Tử Anh là một người vừa thông minh lại vừa có ḷng tin vô biên vào khả năng của ḿnh trong việc xây dựng tương lai cho đất nước.

Vào tháng 7, ông Anh lại gửi tôi về nhà ông chú tôi ở Huế. Nhiệm vụ của tôi là phải tŕnh bày để ông chú tôi rơ là ông phải tin vào sự hậu thuẫn của Đại Việt nếu có chuyện ǵ trục trặc. V́ vậy tôi lại vượt nguy hiểm trở về Hà Nội bằng đường lộ dọc ven biển vào ban đêm. Nếu so với chuyến đi lần trước, khi tôi đến Huế lần đầu th́ lúc này Mỹ dội bom thường xuyên hơn. Mới đây Bộ Trưởng Y Tế trong chánh phủ đă tử nạn trên đường vào Hà Nội.

Ở Huế t́nh h́nh đă thay đổi rất nhiều. Tôi có nói chuyện với ông chú tôi về những lời dặn ḍ của ông Trương Tử Anh, nhưng h́nh như tâm tư của ông hăy c̣n ở những vấn đề nào khác. Theo tôi thấy th́ có lẽ ông không màng ǵ đến chuyện tranh chấp quyền lực trong tương lai. Ngược lại, ông đă nghe về Việt Minh và đang tự hỏi xem thật sự họ có phải là nhóm người lănh đạo hữu hiệu nhất cho quốc gia vào những ngày khó khăn sắp tới hay không? Ông bảo tôi rằng h́nh như đảng Việt Minh đă được Hoa Kỳ ủng hộ. "Nếu đúng như vậy thật," ông nói tiếp "th́ ta vui ḷng nhượng quyền cho họ."

Lẽ tất nhiên là ông chú tôi đă nghe được những lời tuyên truyền của Việt Minh về những liên hệ giữa họ và Hoa Kỳ. Ông Hồ đang lợi dụng sự liên lạc giữa ông và một đội nhân viên của Văn Pḥng Hoạt Vụ Chiến Lược (tiền thân của Cục T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ) đă nhảy dù xuống khu vực của Việt Minh vào tháng trước đây, để thuyết phục cả bạn lẫn thù rằng ông đă được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Rơ ràng là Hoa Kỳ đă có một tiếng nói rộng lớn ảnh hưởng đến tương lai Việt Nam. Không phải chỉ riêng ông chú tôi mà gần như tất cả các lănh tụ khác cũng đều tin rằng bất kỳ nhân vật nào được Hoa Kỳ hậu thuẫn cũng sẽ là người tốt nhất nên đứng vào cương vị hướng dẫn quốc gia sau thời loạn lạc. Tuy các lănh tụ khác không hẳn cùng có tư tưởng Khổng giáo như ông chú tôi nhưng vẫn cho rằng tất cả đều cùng đặt quyền lợi quốc gia lên trên tất cả v́ dẫu sao họ cũng là người Việt.

Vào ngày mùng 6 tháng 8 năm 1945, tôi vẫn ở Huế khi Hoa Kỳ dội quả bom nguyên tử đầu tiên ở Hiroshima và ba ngày sau, một trái khác ở Nagasaki. Tin tức tường thuật cho biết hàng trăm ngàn người chết ngay tại trận. Một tuần sau th́ có tin Nhật đầu hàng đồng minh. Ở Huế t́nh h́nh chẳng những đă cực kỳ sôi sục, mà c̣n rối ren mù mịt. V́ chưa sửa soạn kỹ lưỡng để nắm quyền, khi định mệnh xô ngă Nhật, chánh quyền của ông chú tôi hoàn toàn bỡ ngỡ, không biết phải hành động ra sao. Ngược lại, ông Hồ Chí Minh vào lúc đó đă có chủ trương rơ rệt trong vấn đề tiến lên nắm lấy chính quyền. Chỉ trong ṿng vài ngày, cụ Kim đă phải đương đầu với cái mà, theo như sự lấp liếm khéo léo của Việt Minh th́ là "một sự đă rồi."

Khi Nhật đă hoàn toàn đầu hàng, Hà Nội trở nên ồn ào v́ biểu t́nh và hội họp của các đám đông do Việt Minh tổ chức. Mọi người đều đổ về thủ đô từ những vùng lân cận, kéo về để hoan hô độc lập. Trong t́nh cảnh Nhật chẳng đang rối ren, Pháp đang vắng mặt và chưa có sự hiện diện của quân đồng minh, Hà Nội thực sự là một khoảng trống chính trị. Khâm sai Phan Kế Toại, đại biểu cho chánh quyền Trần Trọng Kim đă nh́n đám đông với đôi mắt ơ hờ rồi nghe theo lời con trai là một người vốn đă theo Việt Minh từ trước tuyên bố từ chức. Lúc này những tiểu tổ của Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn c̣n thiếu tổ chức, không đủ sức chống lại những đội tuyên truyền được vũ trang, những Hội Đồng Cách Mạng và hàng trăm cán bộ chính trị mà Việt Minh đưa ra để tranh thủ cảm t́nh của dân chúng.

Ngày 17 tháng 8, một đám đông tụ tập tại Nhà Hát Lớn Hà Nội để cổ vơ chánh quyền Trần Trọng Kim. Nhưng những người tổ chức biểu t́nh hoàn toàn bất lực khi các đội vũ trang của Việt Minh đứng ra chiếm lấy diễn đàn. Những toán vũ trang đă tung cờ Việt Minh, hô hào đả đảo "chánh phủ bù nh́n" và đồng thời kêu gọi mọi người đứng lên "chống lại các lực lượng Phát-Xít." Vào ngày 18, Việt Minh mang thêm đảng viên vào thành phố. Khi chẳng c̣n ai chống đối Việt Minh phát động chiến dịch tuyên truyền tối đa để kêu gọi dân chúng. Các đảng viên Việt Minh cố hướng dẫn, lợi dụng triệt để những cảm t́nh phát xuất từ nhiệt tâm của toàn dân. Giữa tiếng reo ḥ khắp các nẻo đường, những người đọc diễn văn tuyên bố chính phủ Trần Trọng Kim là những người nối giáo. Họ kêu gọi liên tục rằng chính Việt Minh mới là đại biểu chân chính của quốc gia đă giành lại được chính quyền từ tay quân Phát-Xít Nhật, chỉ có chánh quyền Việt Minh mới được Hoa Kỳ ủng hộ. T́nh h́nh căng thẳng gần đến độ nổ tung. Vào ngày 19, đám đông tụ họp tại công trường Ba Đ́nh, rồi diễn hành đến chỗ cư ngụ của các công chức chánh phủ gần chỗ Phủ Đại Biểu, nơi làm việc của đại biểu cũ giờ đă từ chức. Chiều đó, Nhật đă hứa không can thiệp và những người lính tự vệ thành đă được lệnh giải tán. Lúc này lại có tin rằng ông Bảo Đại đă nhận được điện tín yêu cầu thoái vị.

Vào ngày 19, cụ Trần Trọng Kim từ chức thủ tướng. Mới đầu, khi nghe tin các biến cố ở Hà Nội, cụ Kim có cảm giác vui buồn lẫn lộn. Cụ buồn v́ t́nh trạng của ḿnh sau cuộc đảo chánh của Việt Minh, nhất là khi cụ đă vui ḷng giao lại chính quyền trong một khuôn khổ hợp pháp, thứ tự. Tuy vậy, cụ không muốn làm điều ǵ hại đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, và ông tin rằng Việt Minh thật sự được Hoa Kỳ ủng hộ. Cụ không hề biết tí ǵ về những hoạch định áp đặt ư thức hệ cách mạng lớn lao của Việt Minh. Điều cụ không biết cũng là điều mà hầu hết những người Việt Nam diễn hành dưới lá cờ Việt Nam qua đường phố Hà Nội cũng chẳng hề hay biết.

Tuy thế sau khi cụ Kim đă quyết định th́ tất cả những cảm giác vui buồn lẫn lộn đều hoàn toàn biến mất. Cụ đă nói với tôi rằng: "Giờ chú hoàn toàn vui mừng như xưa, sẽ có người khác phải gánh trách nhiệm. Thật là nhẹ nhàng vô cùng. Giờ ta lên đường."

Vài ngày sau ông chú tôi cùng một số Bộ Trưởng khác cùng về một làng đánh cá nhỏ ở Vĩ Dạ để xem xét t́nh h́nh. Tôi cũng đi cùng. Lúc này, quyền hạn chánh phủ đă bị hủy bỏ hoàn toàn. Ngoài Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng, chẳng c̣n thế lực nào khác có thể đương đầu với đảng Việt Minh của ông Hồ Chí Minh.

Ngày 21 tháng 8, tại Hà Nội, từng loạt hội thảo do Việt Minh cầm đầu đưa ra những giải pháp đ̣i hỏi ông Bảo Đại phải thoái vị. Lời đ̣i hỏi quan trọng nhất đến từ Tổng Hội Sinh Viên lúc này đang chịu nhiều ảnh hưởng của những phần tử thân Việt Minh. Một phần là v́ muốn đặt lợi ích của toàn thể quốc dân lên trên hết, và một phần khác cũng là v́ chẳng c̣n cách nào khác hơn, Bảo Đại đánh điện trả lời rằng ông đang sửa soạn từ chức. Vào ngày 26 tháng 8, khi một phái đoàn Việt Minh đă đến Huế th́ Bảo Đại chánh thức từ chức nơi điện vua ngay giữa cố đô. Ông tuyên bố rằng: "Thà làm dân một nước tự do c̣n hơn làm vua một nước nô lệ."

Ba ngày sau chánh phủ lâm thời của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời. Thành phần chánh phủ lâm thời bao gồm nhiều cán bộ ṇng cốt của Việt Minh, nhiều Bộ Trưởng có quá khứ Cộng Sản chưa lộ rơ và một số các đảng viên của những đảng khác. Hiển nhiên lúc này các lănh tụ Việt Minh đang cố lợi dụng cảm xúc của toàn dân trong ngày thống nhất, nhưng những hoạt động của họ ở Vĩ Dạ vẫn khiến tôi cảm thấy khó chịu vô cùng. Tất cả làng xóm lúc bấy giờ đều được Ủy Ban Nhân Dân dẫn dắt. Ủy Ban Nhân Dân đốc thúc hội họp liên miên và đánh trống kêu gọi mọi người giúp đỡ chánh quyền mới. Tôi cảm thấy khó chịu v́ giọng kêu gọi có vẻ bắt buộc và những cuộc biểu t́nh thường có tính cách lợi dụng t́nh cảm của người trong làng. Vào ngày 2 tháng 9, ông Hồ đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại Hà Nội. Tuy có đến xem dân làng tụ họp, ca hát, tôi chẳng hề có cảm t́nh nồng nàn đối với chánh phủ lâm thời cùng những Ủy Ban Nhân Dân do chánh phủ lâm thời đề ra. Lúc này tôi bỗng cảm thấy rằng dường như cơ hội ngàn năm đă thực sự vuột mất và cũng ngay trong lúc này tôi đă mơ hồ cảm thấy có điềm ǵ đen tối đang giăng mắc trên không.

 6. Anh, Tàu, và Pháp

  Vài ngày sau ông chú tôi cho phép tôi về Hà Nội. Lúc tôi đến nơi th́ t́nh h́nh chính trị đă biến thành rắc rối, phức tạp. Mặc dầu thế chiến thứ II đă chấm dứt, lúc này vẫn c̣n một lực lượng quân đội Nhật rất hùng hậu đóng ở Việt Nam. Quân đội đồng minh đă chỉ định Anh Quốc đứng ra tước vũ khí Nhật và giữ ǵn an ninh công cộng ở Miền Nam Việt Nam. Ở Miền Bắc những công việc giải giới tương tự được giao cho Trung Hoa.

Đối với tôi và các đảng viên khác trong đảng Đại Việt th́ đây chính là lúc củng cố, tổ chức, dự đoán và sửa soạn cho một tương lai mà ai cũng phải thấy là đầy sóng gió. Các đảng phái quốc gia thấy rằng họ phải đề ra một chiến lược chung, để đối phó với chiến lược của Việt Minh. Lúc này Việt Minh đă biết vận động khéo léo để nắm chính quyền. Nhưng ngay trước khi các buổi thảo luận bắt đầu th́ có tin đồn là quân Anh đă cho phép một đạo quân Pháp đổ bộ vào Sài G̣n. Khoảng giữa tháng 9 đă có những trận đụng độ xảy ra giữa Pháp và Việt Nam. Pháp đă đụng độ với cả Việt Minh lẫn các đảng phái Quốc Gia. Trong khi đó th́ quân Trung Hoa sắp kéo sang Hà Nội. T́nh h́nh phức tạp của thế giới sau thế chiến thứ hai đă khiến các đảng phái quốc gia ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Lúc này quân đội đồng minh bao gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp đă đánh bại quân đội Phát Xít của Đức, Ư và Nhật. Họ đang cử những quốc gia khác chẳng hạn như Trung Hoa sang Việt Nam để giải giới quân đội Nhật. V́ Pháp là đồng minh của Anh và Hoa Kỳ trong thế chiến thứ II nên các phần tử quốc gia ở Việt Nam sợ rằng Hoa Kỳ và Anh sẽ ủng hộ hoặc nhắm mắt làm lơ cho chính quyền thực dân của Pháp được tự do hoạt động ở Việt Nam. Tuy thế, khi có tin rằng quân đội Tàu sẽ sang Việt Nam để giải giới quân đội Nhật th́ các phần tử quốc gia lại lo rằng Tàu sẽ lợi dụng cơ hội này để đem quân sang chiếm đóng ở Việt Nam. Đó là c̣n chưa nói đến vấn đề các đảng phái quốc gia cần phải đề pḥng Việt Minh.

Chỉ mới sau hai tuần nắm chánh quyền, Việt Minh đă phải động viên kêu gọi tất cả cùng giúp đỡ. Trong hoàn cảnh lănh đạo chưa hoàn toàn vững chăi và đồng thời bắt buộc phải đương đầu với Nhật, Tàu, Pháp và Anh Quốc, ông Hồ Chí Minh đă nỗ lực kêu gọi tất cả các đồng minh và cố giữ ḷng dân ở một mức độ cực cao. Những cuộc hội họp chống đối làm đường phố Hà Nội sôi sục. Đă đành rằng biểu t́nh chống Pháp là một cách để phát tiết những căm hờn sâu xa, nhưng ông Hồ đă cố khích động dân chúng dưới mọi h́nh thức. Những vận động của ông Hồ bất chấp cả mục tiêu, chỉ cốt sao tạo được cơ hội vận động dân chúng cùng đoàn kết cho một lư tưởng chung. Đă có cả một cuộc biểu t́nh chống lại lănh tụ độc tài Francisco Franco của Tây Ban Nha, mặc dầu trong cả trăm ngàn người Việt chưa chắc đă có lấy một người nghe đến tên nhân vật này bao giờ.

Trong khi tất cả Pháp, Trung Hoa, Nhật và Anh Quốc đều bị Việt Nam nghi ngờ th́ chỉ có một quốc gia được hoan nghênh là Hoa Kỳ. Cảm t́nh nồng nhiệt của dân chúng Việt Nam đối với người Hoa Kỳ lúc này phát xuất là do một tia hy vọng mong manh rằng: May ra người Mỹ có thể văn hồi được t́nh thế. Kể từ khoảng một năm về trước, mối cảm t́nh đầu tiên của Việt Nam đối với Hoa Kỳ bắt đầu từ lúc có tin đồn rằng tổng thống Roosevelt ủng hộ việc đặt Việt Nam dưới sự quản trị của một ủy ban của Liên Hiệp Quốc để tiến dần tới độc lập. Quan niệm của Tổng Thống Roosevelt truyền đi thật mau lẹ qua các tầng lớp trí thức, chính khách và để lại một ấn tượng sâu xa.

Trong khi Pháp và Tàu đang tranh dành ảnh hưởng ở Việt Nam, chỉ có Hoa Kỳ là một thế lực có thể can thiệp. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đă xuất hiện như một cường quốc giàu mạnh, được thế giới xem là một nước yêu chuộng tự do và không ủng hộ chế độ thực dân. Chúng tôi không hiểu tại sao Hoa Kỳ lại để cho Pháp và Tàu vào Việt Nam. Nhưng chính Hoa Kỳ lại cũng có đại biểu riêng của họ ở Việt Nam. V́ vậy sự hiện diện của họ đă mang lại niềm hy vọng lớn lao là Hoa Kỳ có chú ư đến vấn đề Việt Nam. Và một khi họ đă để ư đến vấn đề th́ họ có thể bị lôi kéo vào cuộc. Tuy đây quả là một nguồn hy vọng vô căn cứ nhưng tin đồn lúc này vẫn có đủ vẻ thực tế để thu hút những kẻ đang cố bám vào hy vọng. Quả t́nh chính tôi cũng không hiểu rơ liệu ông Hồ và những đồng chí của ông có thật sự cho rằng họ có thể cộng tác với Mỹ hay không, nhưng chắc chắn là lúc đó ông Hồ rất muốn cộng tác với Mỹ thay v́ với Tàu hoặc Pháp. Vả chăng, nếu Việt Minh không thể cộng tác với Hoa Kỳ th́ ít ra ông Hồ cũng có thể dùng sự hiện diện của Mỹ để gây uy tín trong nước. Lẽ tất nhiên là cơ quan tuyên truyền của Việt Minh đă lợi dụng tối đa tất cả những thiện cảm phái đoàn Mỹ dành cho họ. Hai vị sĩ quan Mỹ được nhiều người biết đến là Thiếu Tá Archimedes Patti và Tướng Phillip Gallagher lúc này chẳng những đă được toàn thể dân chúng Hà Nội ngưỡng mộ mà c̣n được chánh quyền ông Hồ tâng bốc không tiếc lời. Oái ăm thay, trong một thành phố đầy dẫy những bích chương và khẩu hiệu chống đế quốc, h́nh ảnh chiếc xe díp của Thiếu Tá Patti cắm ngọn cờ Mỹ thường xuyên được những đám người ngưỡng mộ hoan hô. Dân chúng Hà Nội chỉ muốn gặp và chiêm ngưỡng hai vị đại biểu Hoa Kỳ.

Những cán bộ tuyên truyền cho Việt Minh lúc đó tuyên truyền rằng ông Hồ và Vơ Nguyên Giáp đang điều đ́nh với người Mỹ, cốt để được chánh phủ Mỹ chánh thức công nhận. Hội Hữu Nghị Việt-Mỹ được thiết lập và nhiều buổi tiếp tân của Hội Hữu Nghị đă biến thành những dịp tung hô hai ông Patti và Gallagher. Tôi vẫn c̣n nhớ những lá cờ đỏ, trắng và xanh dùng làm màn cho sảnh đường của Hội Hữu Nghị. Hy vọng tỏa ra qua các buổi họp chỉ nhờ sự hiện diện của hai vị sĩ quan Hoa Kỳ. Trong bộ đồng phục cả hai trông thật đẹp trai và lịch sự. Mọi người, trong số có cả tôi đều nô nức đến bắt tay. Trong những buổi họp luôn luôn có những cuộc đàm thoại vây quanh vấn đề thiết lập một Ủy Ban Quản Trị cho Việt Nam. Mặc dầu cả Thiếu Tá Patti lẫn tướng Gallagher đều chẳng nói ǵ thiết thực, chuyện đó vẫn không thành vấn đề. Chỉ cần sự hiện diện của họ cũng đă đủ để mọi người lên tinh thần.

Trong những ngày này, Việt Nam thật chẳng khác nào một cô gái quê mùa bị những người chủ gian ác, bất cần liên tục hà hiếp. Pháp, Nhật và Tàu đều ngược đăi cô ta. Rồi trong lúc đang đau khổ tuyệt vọng, bỗng một hoàng tử hào hoa và đẹp trai hiện ra. Đối với Việt Nam th́ Hoa Kỳ quả là một tiếng sét ái t́nh.

Chẳng may, t́nh yêu này lại không bao giờ được đền đáp. Mặc dù thiếu tá Patti rất ngưỡng mộ các lănh tụ Việt Minh, và mặc dầu những lănh tụ này cố khoa trương sự chú tâm của Hoa Kỳ, rơ ràng sự móc nối với Hoa Kỳ vẫn hoàn toàn chẳng đi đến đâu. V́ lư do này hay lư do khác, Hoa Thịnh Đốn đă khoanh tay nhất định không làm bất cứ điều ǵ có thể thay đổi các biến cố đang ngày càng biến hóa và phức tạp tại Việt Nam. Ông Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp chỉ phải bận tâm đương đầu với Tàu và Pháp, trong khi đó các đảng phái c̣n lại phải lo âu về những toan tính của cả Pháp, lẫn Tàu và Việt Minh.

Vào cuối tháng 9, quân đội Trung Hoa kéo vào Hà Nội. Trông họ thật là thê thảm -bệnh hoạn, rách rưới và đói kém v́ thiếu ăn. Nếu quân Nhật trông gọn gàng, sạch sẽ bao nhiêu th́ quân đội Tàu trông càng giống một đội quân ăn cắp bấy nhiêu. Lúc nào những binh sĩ Tàu cũng sẵn sàng vồ vập kể từ cả những thứ vặt vănh nhất trở đi. Chẳng bao lâu sau, đúng như mọi người tiên liệu, quân đội Tàu ùa vào Việt Nam như thể một bầy châu chấu đói và ăn cắp bất kỳ thứ ǵ để hở.

Quân Tàu đến ồ ạt, làm gia tăng nạn đói đă hoành hành ở miền Bắc kể từ năm trước. Nạn Nhật tịch thu lúa gạo cộng thêm với những vụ mất mùa liên tiếp đă khiến nạn đói hoành hành dữ dội ở những vùng đồng bằng Bắc Việt. Vào mùa thu năm 1945, nạn đói trở thành trầm trọng. Ở Hà Nội, nông dân từ những vùng mất mùa lang thang khắp các nẻo đường phố. Xác người chết đói nằm đầy dẫy hai bên vỉa hè và ở các ngă tư. Tại Đông Dương Học Xá, chúng tôi chia thành từng toán ra thành phố mỗi sáng phụ giúp dọn dẹp những xác chết c̣n sót lại từ ngày hôm trước.

Tuy hoành hành ở khắp mọi nơi khốc liệt là thế mà nạn đói vẫn chẳng hề làm giảm bớt các hoạt động chính trị chút nào. Mỗi ngày Việt Minh vẫn dục trống kêu gọi hội họp v́ chuyện này hay chuyện khác. Khi ngân khố hoàn toàn kiệt quệ, Việt Minh tổ chức chiến dịch Tuần Lễ Vàng, thúc dục mọi người đóng góp nhẫn, đồ trang sức và vàng cho nhà nước. Chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi Tuần Lễ Vàng phát động, ông Hồ Chí Minh đă xoa dịu tướng Lư Hán của Tàu bằng cách biếu vị tướng nghiện thuốc phiện này một bộ ống điếu vàng. Số tiền c̣n lại Việt Minh dùng để mua súng ống.

Song song với việc xoa dịu quân đội Trung Hoa, ông Hồ tiếp tục nỗ lực hô hào dân chúng giúp đỡ Việt Minh. Đối với ông Hồ và Vơ Nguyên Giáp th́ sinh viên đứng vào thành phần ưu tiên. Cả hai đều dành thời giờ thăm viếng Đông Dương Học Xá để vận động lấy ḷng sinh viên. Một buổi tối, khoảng đầu tháng 10-1945, tôi gặp ông Vơ Nguyên Giáp khi ông vào khuôn viên nói chuyện về cách mạng và các biến cố tháng tám. V́ đă biết chuyện Việt Minh lật lọng đối với chính quyền Trần Trọng Kim và c̣n nhớ những Ủy Ban Nhân Dân ở thôn Vĩ Dạ, tôi không hề để tâm lắng nghe. Mặc dầu vậy, tôi rất hân hoan khi gặp lại ông Giáp. Sau khi ông Giáp đă nói chuyện, tôi có đến chào hỏi. Chúng tôi chưa hề gặp nhau đă năm năm qua kể từ ngày ông Giáp bỏ lớp vào bưng.

Sau đó không bao lâu, chính ông Hồ lại đích thân đến thăm Đông Dương Học Xá. Đây là lần đầu mà cũng là lần cuối tôi gặp ông Hồ. Cũng như ông Giáp, ông Hồ đến Đông Dương Học Xá v́ các sinh viên đă không hoàn toàn ủng hộ việc Việt Minh cướp chính quyền. Trong số người hoan nghênh ông Hồ dĩ nhiên cũng có vài lănh tụ sinh viên vốn đă là đảng viên Việt Minh. Tuy vậy cũng có rất nhiều sinh viên khác không tán thành hẳn những chủ trương cùng hành động của ông Hồ.

Khi ông Hồ đến thăm Đông Dương Học Xá th́ hành tŕnh thăm viếng của ông có ghé ngang nhiều ṭa nhà, kể cả ṭa nhà nội trú. Một học sinh ở cùng một dăy hành lang với tôi, tôi c̣n nhớ tên là Hoan, là người không có cảm t́nh với đảng phái ông Hồ, đă cố tâm làm nhục ông Hồ. Tôi cứ nhớ măi câu chuyện khó quên. Khi ông Hồ vừa bước vào căn nội trú của chúng tôi th́ Hoan vào pḥng tắm. Và khi vị chủ tịch của nền dân chủ mới bước vào hành lang th́ cửa pḥng tắm bỗng sịch mở. Hoan đứng ngay chỗ cửa, người hoàn toàn trần truồng và ướt nhẹp. Giả vờ vừa xấu hổ, vừa ngạc nhiên Hoan làm như bối rối, xoay qua xoay lại, cố gắng vừa đắp điếm một cách thô kệch vừa xin lỗi.

Nhưng Hoan hoàn toàn thất bại. Ông Hồ nh́n thẳng vào Hoan cười tủm tỉm: "Các chú th́ lúc nào cũng đùa cợt được!" Tôi cũng đứng đó, chỉ cách ông Hồ vài bước, quan sát thật kỹ lưỡng. Trước mắt tôi, ông Hồ, vị chủ tịch của một nước không hề có vẻ giả dối chút nào. Sau đó, ông đến tận từng pḥng, tự giới thiệu, bắt tay mọi người bằng cử chỉ thân mật quen thuộc. Gặp ai ông cũng có vài câu chuyện hỏi thăm. Chẳng có chuyện nào đặc biệt hoặc đáng nhớ cả. Nhưng tôi có cảm tưởng là ông là một người đóng kịch có tài. Quả thực ông là một chính trị gia và đặc biệt hôm ấy ông đă đóng kịch rất giỏi.

Vào khoảng tháng 11, chẳng bao lâu sau khi quân Tàu kéo đến, tôi từ giă bạn bè ở Hà Nội và ngược lên mạn Bắc về phía Lào Kay để gia nhập trại huấn luyện quân sự của Đại Việt. Việc mà tôi đă phải hoăn lại trước đây khi tôi vào Huế. Lúc này, khi nhận thấy cùng bị Việt Minh đe dọa, các đảng phái quốc gia đă bắt đầu biết đâu lưng để củng cố lực lượng. Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng liên kết quân sự và đă thiết lập trường huấn luyện quân sự chung tại Chapa ở Lào Kay.

Lạ lùng thay, những huấn luyện viên quân sự lại là người Nhật. Bị quân đội Trung Hoa tước vũ khí, đă có vài quân nhân Nhật đến làm việc cho các đảng phái quốc gia. Khi đi họ mang theo cả vũ khí. Tất cả những vũ khí dùng ở Lào Kay đều là của Nhật. Đây là một trong những lúc mà tôi phải gạt phắt mọi sự để thật sự khép ḿnh vào quân kỷ của Nhật.

Những sĩ quan Nhật trông coi việc tổ chức trại đều mặc đồng phục Nhật, nhưng không hiểu v́ lư do ǵ đă lấy tên hoàn toàn Việt Nam. (Không có sĩ quan Nhật nào nói được tiếng Việt. Mọi mệnh lệnh đều được truyền qua thông dịch viên.) Vị Đại Tá chỉ huy người Nhật có bí danh là Hùng. Ông ta ngỏ lời chào 300 sinh viên quân sự như sau: "Chúng tôi đến đây để giúp người Việt các anh trở thành những người lănh đạo nước Việt. Tuy rằng chúng tôi đă mất tất cả, chúng tôi sẽ huấn luyện các anh. Sau khi tốt nghiệp khóa huấn luyện các anh sẽ trở thành những vơ sĩ đạo Việt Nam."

Cuộc huấn luyện vơ sĩ đạo bắt đầu vào ngày hôm sau. Kể từ sáng đó, chúng tôi bị gọi dậy bằng tiếng c̣i xé tai xuyên qua không khí núi rừng lạnh lẽo. Trên thao trường chúng tôi đứng nghiêm, chăm chú nh́n lá cờ hai màu trắng, xanh của VNQĐD được kéo lên cao. Sau đó, quay về hướng mặt trời đang lên, chúng tôi cúi đầu thầm ôn lại những điều tâm niệm đối với quốc gia.

Mặc niệm xong, chúng tôi ráo riết tập luyện thể dục trong nửa giờ, bắt đầu một ngày dài diễn hành, tập luyện xử dụng vũ khí rồi cuối cùng học tập chiến thuật và chiến lược. Chương tŕnh tập luyện kéo dài sáu tháng. Khi chương tŕnh tập luyện hoàn thành Đại Việt và VNQĐD sẽ có một nhóm cán bộ để thiết lập và d́u dắt quân đội chung cho cả hai đảng. Tuy vậy, chẳng có bao nhiêu người trong chúng tôi học hết được chương tŕnh huấn luyện. Biến cố đă không cho phép những người quốc gia có đủ thời gian rảnh rỗi để đào luyện những người lănh đạo cần thiết. Riêng tôi phải về lại Hà Nội vào tháng hai năm ấy, ngay sau Tết Nguyên Đán.

Ông Trương Tử Anh gọi tôi về để giao phó một nhiệm vụ đặc biệt trước khi về Hà Nội. Tôi đoán được rằng thế nào việc cũng sẽ liên quan đến chú tôi. Quả nhiên những tiên đoán của tôi hoàn toàn đúng hẳn. Khoảng ba, bốn tuần sau khi từ chức, chú tôi đă trở về căn nhà trước kia tại Hà Nội. Mặc dầu kể từ khi từ chức, chú tôi chưa hề tham gia chính trị một cách lộ liễu, nhưng v́ là cựu Thủ Tướng nên ông đă trở thành hấp lực của phong trào chống cộng. Về phía Việt Minh th́ v́ đang cần có sự hợp tác của các phần tử quốc gia trong giai đoạn đó nên họ đă nhắm mắt làm ngơ và chưa có hành động ǵ để đối phó với ông chú tôi.

Ông chú tôi lúc này đă thay đổi nhiều và về phương diện chính trị có lẽ đă bắt đầu hiểu cộng sản rơ hơn lúc trước. Khoảng tháng 7, có lúc ông đă nghĩ rằng Việt Minh có thể giúp được nhiều vào việc lấy lại độc lập cho đất nước. Tháng tám, ông từ chức sau cuộc nổi dậy chớp nhoáng của Việt Minh. Rồi đến tháng chín th́ gần như ở vào một t́nh trạng không c̣n ảo vọng ǵ về Việt Minh nữa. Ông dần dần để ư đến những lời thuyết phục của ông Trương Tử Anh, nhất là về vấn đề phải gây một lực lượng để đối phó với Việt Minh Cộng Sản. Ông đă để ư lắng nghe kỹ lưỡng dự tính đối lập Việt Minh của ông Trương Tử Anh. Nhất là khi ông Anh đề cập đến vấn đề phải mượn thêm thế lực hậu thuẫn từ bên ngoài.

Chiến lược của ông Trương Tử Anh lúc đó có thể gồm trong hai điểm cơ bản. Một mặt ở trong nước, ông và các đồng minh bên trong VNQĐD sẽ nỗ lực thiết lập một hệ thống quân sự vững mạnh (Như trại huấn luyện quân sự Lào Kay). C̣n ở ngoài nước th́ ông cố gắng t́m thêm sự ủng hộ từ phía bên ngoài. Việc này ông chú tôi có thể giúp sức. V́ đă từng đứng đầu chính phủ, ông chú tôi được nhiều nhân vật quốc tế biết đến. Ông lại c̣n có tiếng là người liêm khiết. Những lợi điểm vừa kể sẽ khiến ông chú tôi trở thành một nhân vật có thể đứng ra kêu gọi đồng minh nước ngoài ủng hộ. V́ đă hiểu rơ được những mánh khoé cách mạng của ông Hồ, ông chú tôi cảm thấy lănh tụ Đại Việt có thể là một đồng minh đáng tin cậy. Và cũng v́ vậy, ông Trương Tử Anh gọi tôi về để nhờ tôi t́m đường để đưa ông chú tôi sang Hồng Kông.

Trong khi đó th́ ông Bảo Đại cũng trải qua một giai đoạn trưởng thành chính trị tương đương. Chính ông Bảo Đại cũng đă từ chức v́ áp lực của Việt Minh, từ bỏ ngôi vua để trở thành một thường dân. Câu tuyên bố: "Thà là dân một nước tự do c̣n hơn làm vua một nước nô lệ." là một hành động cao thượng và đáng nhớ. Liền ngay sau khi ông Bảo Đại từ chức ông Hồ đă chứng tỏ kinh nghiệm lăo luyện chính trị bằng cách đích thân mời ông Bảo Đại về Hà Nội làm "cố vấn tối cao" cho chánh quyền Việt Minh. Khi mời cố vấn Vĩnh Thụy về cùng hợp tác, ông Hồ đă lợi dụng được triệt để tất cả những ǵ mà ông có thể lợi dụng. Khi mời ông Bảo Đại chẳng những đă mang lại cho ông Hồ h́nh ảnh tốt đẹp của một lănh tụ không mang tâm hiềm khích mà c̣n khiến cho dân chúng tin tưởng rằng chánh quyền của ông đă được Cựu Hoàng ủng hộ. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là một khi ông Bảo Đại đă chấp thuận về cùng th́ việc giám sát và quản cố Cựu Hoàng trở nên dễ dàng như trở bàn tay. Một khi đă về Hà Nội chắc chắn Cựu Hoàng không c̣n cơ hội để ủy thác quyền hành cho bất kỳ đảng phái nào khác.

Khi về Hà Nội ông Bảo Đại được các lănh tụ Việt Minh tiếp đăi thập phần kính trọng. Tuy thế sự kính trọng vẫn chẳng thể làm cho ông Bảo Đại quên được rằng ông đă bị Việt Minh lợi dụng.

Khoảng đầu năm 1946, ông Bảo Đại đă dần dần t́m cách cắt đứt mọi liên lạc với Việt Minh và đang cố t́m một lối thoát thân. Ngay trong lúc này ông Hồ cũng có vẻ chấp thuận sự ra đi của Cựu Hoàng. Có lẽ một phần là do Cựu Hoàng đă đóng hết vai tṛ chính là Hợp Thức Hóa chánh phủ Việt Minh. Chẳng hiểu ông Hồ suy nghĩ thế nào mà lại để cho ông Bảo Đại có cơ hội dẫn đầu một phái đoàn đại biểu đến Trung Hoa. Có thể ông Hồ đă nghĩ rằng ông Bảo Đại sẽ ở lại Trùng Khánh, (lúc bấy giờ là thủ đô Trung Hoa.) Một khi ông Bảo Đại đă ở lại th́ ông Hồ chẳng cần phải lo toan ǵ nữa.

Khi có lời đồn về việc ông Bảo Đại sắp sang Trung Hoa th́ ông Trương Tử Anh quyết định đă đến lúc thời cơ chín mùi để đưa ông chú tôi sang Trung Hoa. Đây là nhiệm vụ tôi được ông Anh giao phó khi ông cho lệnh vời tôi từ trên Chapa trở về.

Mặc dầu ông chú tôi chưa bị Việt Minh đe dọa, cuộc chiến tranh ngấm ngầm giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia đă trở thành những cuộc tàn sát. Vào khoảng cuối năm, Việt Minh đă tổ chức ám sát nhiều người mang khuynh hướng chính trị đối lập. Trong số những người đối lập đă bị Việt Minh ám sát lúc này có lănh tụ Huỳnh Phú Sổ của Ḥa Hảo ở Miền Nam; lănh tụ Đệ Tứ Cộng Sản Tạ Thu Thâu, ông Ngô Đ́nh Khôi, anh của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và học giả Phạm Quỳnh, Thượng Thư của Triều Đ́nh cũ. Trong số những bạn thân của tôi nhiều người cũng lần lượt mất tích. Quản Trọng Ưng và Đặng Vũ Chu ở trường thuốc bị Việt Minh bắt rồi sau đó biệt vô âm tín. Nhiều người bạn của tôi ở trường đại học, trong đó có hai anh em là Đặng Văn Bút và Đặng Văn Nghiên và nhiều người khác bị bắn gục ở Yên Bái. Người bạn giới thiệu tôi với ông Trương Tử Anh là Phúc cũng bị hạ sát tại Hà Nội. Hàng loạt đảng viên Đại Việt lần lượt bị tàn sát. Một đôi khi c̣n t́m được thi thể. Phần nhiều hoàn toàn mất tích.

Trong khi khủng bố bí mật lan rộng th́ ông Hồ vẫn liên tiếp thương thảo mềm dẻo với Pháp và Tàu. Đă nhiều tháng qua toàn bộ Miền Nam đắm ch́m trong chiến tranh du kích. Quân đội Anh với quân số nhỏ nhen chiếm đóng trong nước đă cho Pháp mang quân đội vào Việt Nam. Lúc này đă có rất nhiều thành phố và các tỉnh lớn nằm trong tay Pháp, trong khi các lực lượng chống cự Việt Nam bị đẩy lui về các miền đồng bằng và các căn cứ hiểm trở. Ở phân nửa miền Bắc Việt Nam, 200,000 quân Trung Hoa đang chiếm đóng đă ngăn chận mưu toan trở lại của Pháp. Nhưng vào khoảng cuối tháng hai, có tin rằng đại biểu của Pháp và Tàu đang đàm phán việc cho phép Pháp trở lại miền Bắc để đổi lại việc Pháp sẽ hủy bỏ các điều khoản nhượng bộ ở Tàu trước chiến tranh.

Ông Hồ hiểu rằng t́nh thế sẽ bắt buộc ông phải trực tiếp đương đầu với Pháp. Quân đội chiếm đóng Trung Hoa đă góp phần tiếp trợ ông Hồ, cho Việt Minh gần 6 tháng để củng cố lực lượng. Sự hiện diện của quân đội Trung Hoa đă buộc Pháp không thể vào Miền Bắc. -Đây là một việc mà tại Miền Nam người Anh đă thất bại hoàn toàn. Nhưng thực sự th́ sự liên hệ giữa ông Hồ và người Tàu chẳng khác nào con dao hai lưỡi. Nói chung th́ v́ Việt Nam đă từng bị Tàu đô hộ suốt 1000 năm nên những mưu đồ tối hậu của Tàu không thể che mắt được bất cứ người Việt Nam nào. Và nói riêng th́ v́ những quân đội Tàu sang giải giới Nhật là quân đội của Tưởng Giới Thạch nên họ đă cấp dưỡng viện trợ và khích lệ những đối thủ của ông Hồ như VNQĐD và Đại Việt.

Kết quả là vào tháng 2 năm 1946, ông Hồ mở cuộc đàm phán với đại biểu Jean Sainteny của Pháp. Về phía những người quốc gia, mặc dầu không mấy ai hiểu tường tận những chi tiết của vấn đề nhưng tất cả đều biết đàm phán hiện đang tiến hành. Tất cả đều căm phẫn ông Hồ v́ việc đàm phán và đồng cảm thấy cực kỳ phẫn khích khi biết Pháp sẽ lại một lần nữa quay lại Việt Nam. Tuy các đảng phái quốc gia không thể trách móc việc Tàu rút quân, việc rút quân của Tàu vào giữa lúc các đảng quốc gia hăy c̣n đang củng cố lực lượng đă làm tất cả rúng động. Nguyên khi quân đội Tàu đóng ở Hà Nội để giải giới Nhật th́ cả Việt Minh lẫn Pháp đều phải e dè sự hiện diện của họ. Lúc này, khi quân đội Tàu rút đi th́ hàng rào chống đỡ vô h́nh đó bỗng bi rút đi và các đảng quốc gia bỗng nhiên thấy họ phải trực diện với các lực lượng của Việt Minh và Pháp.

Khoảng tháng 6, ông Hồ và Sainteny cùng kư một thỏa ước. Trong bản ḥa ước kư kết, Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do độc lập "nằm trong khối liên hiệp Pháp" để đổi lại, Việt Nam đồng ư để cho người Pháp chiếm đóng có sự hiện diện quân sự tại một vài nơi trong ṿng 5 năm. Mọi người đều biết lập luận của ông Hồ và Việt Minh về việc kư kết thỏa ước là "Thà ngửi cứt Tây 5 năm c̣n hơn ăn cứt Tàu 1000 năm." Tuy vậy, trong mọi tầng lớp, việc Việt Minh cho phép Pháp trở lại vẫn gây ra ấn tượng sâu xa. Hai tuần sau khi kư kết, lúc tôi đang ở ban công nhà thương Phủ Doăn tại Hà Nội với một nhóm bạn là bác sĩ, trong số có một vài người là đảng viên Đại Việt, th́ ngay phía dưới 15 ngàn quân Pháp đang diễn hành dưới sự thống lănh của tướng Jacques Philippe Leclerc. Nh́n họ, bọn tôi cảm thấy cay đắng dâng trào. Quang cảnh chẳng khác nào Việt Nam đang trở lại thời kỳ nô lệ. Hai bên đường các Pháp kiều ngụ tại Hà Nội đứng tung hô. Trên ban công chúng tôi cố gắng gạt những giọt lệ căm phẫn và tủi nhục.


7. Khủng Bố

Khi quân Pháp vào Việt Nam th́ quân đội chiếm đóng của Tàu đang rút lui. Tất cả những quang cảnh ồn ào, hỗn độn đă cho tôi một cơ hội thuận tiện để đưa ông chú tôi lên đường để vận động ở nước ngoài theo kế hoạch của ông Trương Tử Anh. Đầu tiên tôi liên lạc với người của VNQĐD và định dùng đường dây móc nối sang Tàu của họ. Qua họ tôi sắp xếp để ông chú tôi có thể đi bằng đường hàng không. Khi mọi sự đă xong, tôi cùng ông chú tôi về nhà chờ tin. Nhưng một tuần, rồi 10 ngày nối tiếp trôi qua mà vẫn không thấy động tĩnh ǵ. Sau đó, chúng tôi quyết định không thể đợi lâu hơn được nữa v́ có thể sẽ bị công an Việt Minh phát giác.

V́ vậy, tôi quyết định thử liên lạc trực tiếp với người Tàu. Trong khi Tàu đóng quân đă có nhiều thiếu phụ Việt Nam "thành hôn" với các sĩ quan Tàu. Tôi có quen một thiếu phụ lập gia đ́nh với một vị tướng Tàu và bà ta hứa sẽ cố dùng ảnh hưởng riêng để xin giấy thông hành cho ông chú tôi.

Mọi việc đều tiến hành như dự liệu. Vào một hôm đă hẹn trước, một chiếc xe Citroen ngưng ngay trước cổng nhà ông chú tôi. Phía trong là tài xế, viên tướng Tàu và một vị bác sĩ nguyên là người của đảng Đại Việt đă được phái đi cùng với ông chú tôi. Chúng tôi nhét hai cái va li vào sau xe rồi ngồi chặt trong xe để bắt đầu một chuyến hành tŕnh dài đến biên giới Tàu. Phía ngoài Hà Nội, lính Tàu tụ họp thành hàng chật cả đường phố đang lếch thếch mang trên lưng nào là gà, nồi và những vật dụng lỉnh kỉnh khác. Những toán quân Tàu rút lui về Trung Hoa đem theo gần như tất cả mọi thứ họ đă vơ vét được từ Hà Nội.

Giữa đám đông ồn ào, vô trật tự chẳng ai để ư đến chiếc xe Citroen đen của chúng tôi. Vào lúc chạng vạng chúng tôi đă đến Lạng Sơn. Tại đó, tôi từ giă ông chú tôi và hứa sẽ cố t́m chỗ sắp đặt để gia đ́nh có thể cùng ông xum họp tại Hồng Kông, nơi ông dự định đứng ra vận động.

Sau đó tôi trở lại Hà Nội bàng xe buưt, t́m cách cố đưa mợ tôi và gia đ́nh của con gái mợ tôi ra khỏi nước. Giao thông lúc này ngày càng khó khăn. Mặc dù Việt Minh đang ở giai đoạn đàm phán ḥa b́nh với Pháp, họ vẫn nỗ lực tàn sát các phe phái quốc gia. Khoảng tháng tư và tháng năm, mức độ khủng bố nhảy vọt. Những căn cứ quốc gia vững mạnh ở dọc sông Hồng đều chuẩn bị pḥng thủ chống lại các cuộc càn quét của Việt Minh.

Trong t́nh trạng cuộc chiến giữa Việt Minh và Quốc Gia sắp sửa bùng nổ, chuyện đưa gia đ́nh ông chú tôi ra nước ngoài đă trở thành thập phần cấp bách. Thỏa hiệp ḥa b́nh ngắn ngủi với Pháp đă đủ để ông Hồ có một phút giây thảnh thơi tiêu diệt triệt để những đảng phái đối lập, để làm chủ t́nh h́nh trong nước.

Vào tháng 4, cuộc đàm phán giữa Pháp và Việt Minh đă bắt đầu đi vào đường thất bại. Một viên chức cao cấp của Pháp là Thủy sư Đô Đốc George Thierry d' Argenlieu có vẻ có ư muốn giữ Miền Nam Việt Nam làm thuộc địa. Ông ta từ chối việc định nghĩa cụ thể hiện trạng Việt Nam như "một quốc gia tự do". Sau cuộc đàm phán Đà Lạt, ông Hồ đă hiểu rơ là Pháp chẳng hề có ư chấp hành nghiêm chỉnh những điều khoản mà ông và Sainteny đă cùng thỏa thuận trong cuộc thương thảo. Tuy vậy, vào tháng 5 ông vẫn lên đường đi Pháp để bắt đầu một cuộc đàm phán kéo dài liên tiếp năm tháng. Ông Hồ hy vọng rằng khi đích thân đến Pháp ông sẽ kêu gọi được những người Pháp đă rời Việt Nam góp phần ủng hộ. Mặt khác, ông cố gắng kéo dài thời giờ. Hầu hết các thành phần lănh đạo đều cùng đi với ông Hồ ngoại trừ ông Vơ Nguyên Giáp. Khi ông Hồ ở Pháp th́ chính ông Giáp là người đương đầu với những vấn đề liên quan tới các lực lượng đối lập.

Phương pháp của ông Vơ Nguyên Giáp thật là tàn bạo. Ông cho lệnh các lực lượng Việt Minh tập kích thẳng vào căn cứ của các đảng quốc gia ở các vùng sông Hồng. Cùng lúc đó những công an Việt Minh khác thắt chặt mạng lưới pḥng vệ ở Hà Nội và Hải Pḥng. Những phần tử quốc gia bị buộc phải lui vào ṿng bí mật hoặc phải cố t́m cách trốn tránh thoát khỏi mạng lưới Việt Minh. Nhiều đảng viên quốc gia đă bị bắt và cầm tù, nhiều người khác mất tích. Cơn kinh hoàng bao trùm các đảng phái khi chiến dịch khủng bố của ông Giáp mang một tầm vóc khổng lồ so với các chiến dịch tiểu trừ lẻ tẻ giữa các đảng phái trước đây. Trong khi ông Hồ và các Bộ Trưởng trong chánh quyền thực dân Pháp thong thả d́u nhau trong điệu Minuet ở Fontainebleau trên sàn đàm phán theo một nhịp độ điều đ́nh ngày càng bế tắc th́ tại Việt Nam hàng ngàn phần tử quốc gia âm thầm ngă gục.

Số phận của tôi may mắn hơn những người đă bị hạ sát. Trên bến Hải Pḥng, tôi bí mật liên lạc được với một người thuyền trưởng của một chuyến tàu chở hàng Thụy Điển. Tôi đă dùng cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp để thuyết phục ông ta. Cuối cùng, ông ta cho tôi mang cả gia đ́nh bà cô đến Hồng Kông không hề hỏi han, không hề khai báo, không cả giấy thông hành. -Hễ có tiền là đi. Tiền bạc được dùng để đổi lại một chỗ trống trên bong và chúng tôi có quyền dựng một tấm mái bạt để che mưa tránh nắng.

Chuyến tàu hàng lướt ra khỏi Hải Pḥng giữa lúc trăng tṛn đang giữa độ. Chưa bao giờ đi tàu, tôi có cảm giác đây là lần đầu tiên ḿnh mới làm một chuyến du ngoạn thần kỳ và mơ mộng. Tuy vậy, vừa qua khỏi trạm gác ở bến, tôi đă say sóng ngất ngư. Trên biển Nam Hải, ánh sáng quang đăng của vầng trăng bỗng dưng tan biến rồi một cơn băo theo sát chúng tôi trên cả cuộc hành tŕnh.

V́ phải tránh những quả ḿn gài ngầm c̣n sót lại sau Đệ Nhị Thế Chiến, chuyến tàu hàng buộc phải đi về hướng Phi Luật Tân thay v́ đến thẳng Hồng Kông. Chuyến đi đáng nhẽ chỉ ba ngày bỗng kéo dài thành một hành tŕnh gian khổ dài suốt 7 ngày trên biển. Cuối cùng khi tàu cặp bến, tôi vui mừng chẳng khác nào bắt được vàng.

Khi đă thuê pḥng ngủ cho gia đ́nh người mợ, con gái và người con rể ông chú tôi ở một khách sạn tại Hồng Kông, tôi bắt đầu tự ḿnh đi t́m ông chú tôi và ông Bảo Đại. V́ không giữ liên lạc mà lại cũng chẳng tính toán ǵ trước nên phải rất lâu sau tôi mới biết rơ được rằng họ không phải ở Hồng Kông mà thật sự đang ở Trùng Khánh, kinh đô của Tưởng Giới Thạch. Lúc này, việc thiếu liên lạc chỉ là chuyện thông thường. Hồng Kông đă trở thành một trung tâm tụ tập của những phần tử quốc gia, những người đă thoát ra từ Miền Bắc, nơi Việt Minh đang làm chủ t́nh h́nh. Tuy rằng những phần tử quốc gia có ư muốn lập một trung tâm hoạt động ở ngoại quốc, họ vẫn chưa hề có được tổ chức nào hoàn toàn hiệu lực. Đây là một điểm khởi đầu thật bất lợi.

Về phần mợ tôi th́ thất vọng ê chề. Khi một tuần lễ đă qua mà không có tin tức ǵ về ông chú tôi, chúng tôi chỉ c̣n một ít tiền và cũng không quen biết ai để có thể xin giúp đỡ. Tôi nói với mợ tôi rằng "Cách hay nhất là mợ hăy giữ hết chỗ tiền c̣n lại trong khi cháu quay về Hà Nội t́m cách kiếm thêm tiền. Chắc chẳng c̣n bao lâu nữa chú sẽ trở lại. Cháu tin mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đấy."

Chuyến về cũng chỉ đỡ hơn chuyến đi chút đỉnh. Khi c̣n lênh đênh giữa biển, tôi đă tự thề sẽ chẩng bao giờ đặt chân lên tàu biển lần thứ hai nữa. Khi tàu đáp bến Hải Pḥng, tôi lẩn qua các trạm gác tuần tiễu rồi lẻn về Hà Nội để gặp ông Trương Tử Anh. Tôi tường tŕnh việc thiếu tổ chức ở Hồng Kông và nhấn mạnh việc cần phải thiết lập một đường dây tiếp tế thường xuyên. Nhưng việc khẩn cấp hiện thời là phải có tiền bạc để chu cấp cho mợ và chú tôi.

Ông Trương Tử Anh giải quyết vấn đề này bằng cách giới thiệu tôi với đường dây hoạt động làm bạc giả của Đại Việt. Nhờ vào đường giây này, Đại Việt đă cung cấp được một phần tài chánh cho các hoạt động của đảng. Những đồng tiền làm giả tuy chưa hoàn toàn giống hệt nhưng cũng đủ để có thể bán rẻ lại cho những người có được thị trường trong chốn chợ đen. Một tờ giấy bạc giả 100 đồng có thể đánh đổi lấy được khoảng 60 đồng tiền thật.

Tạm thời th́ tiền trợ cấp cho mợ và chú tôi sẽ được trích ra từ số tiền này. Tôi sẽ phải tự ḿnh đến lấy bạc giả, tự ḿnh đem đi bán lại và t́m cách mang tiền sang Hồng Kông. Chẳng mấy chốc tôi trở nên lanh lợi về cách đổi chác trong nghề. Tôi và một đảng viên khác cùng tới một địa điểm đă được ông Anh cho sẵn. Nhưng khi nh́n thấy xấp bạc giả tôi kinh hăi rụng rời. Xấp bạc hoàn toàn mới toanh, trông thật ḷe loẹt. Đến một đứa bé cũng phải nhận ra là xấp bạc giả vừa mới in xong. Không có cách nào tôi có thể bán được dù là bán cho những người chợ đen dễ dăi nhất.

Trưa đó, tôi và người bạn đi cùng đă bỏ ra rất nhiều thời giờ cố làm cho xấp giấy bạc trông giống thật hơn. Chúng tôi lư luận rằng vấn đề chính là v́ trông nó mới quá và rồi kết luận phải làm thế nào cho nó cũ bớt đi. Cuối cùng chúng tôi nghĩ ra được cách trải những tấm giấy bạc ra sàn rồi dùng gạo chà lên như chà giấy nhám, để biến những tấm giấy bạc thành cũ kỹ, giống thật hơn.

Việc làm bạc giả của chúng tôi kể ra cũng không đến nỗi tệ. Khi giấy bạc đă được chà xong, những tờ hai chục trông gần như thật. Tuy vậy, những tờ 100, dù rằng qua những con mắt không lành nghề như chúng tôi vẫn chẳng trông giống thật tí nào. Cuối cùng, chúng tôi bán số tiền 20 đồng và thâu lại được 80 phần trăm tổng số giá, trong khi tự cho là may mắn đă đổi được chỗ giấy bạc 100 đồng để lấy lại được 50 phần trăm tổng số. Tôi thành công hơn trong vấn đề thiết lập đường dây tiếp tế đến Hồng Kông qua một hăng du lịch Thái Lan có các chi nhánh ở khắp mọi miền.

Chẳng bao lâu sau, khi đă xếp đặt xong việc chuyển tiền, tôi lại được lệnh của ông Trương Tử Anh tổ chức một cuộc đưa người khác sang Hồng Kông. Lần này chuyến đi được tổ chức cho Tư Lệnh Đệ Tam Quân Đỗ Đ́nh Đạo, người đă cầm đầu đoàn quân xấu số của Đại Việt và VNQĐD ở dọc theo sông Hồng. V́ không đủ sức chống trả với ông Vơ Nguyên Giáp, khi lực lượng tan ră, ông Đạo đă được dời về một chỗ ẩn nấp an toàn để có thể củng cố lực lượng. Lần này đă rành rọt về chuyện đưa người, tôi thu xếp thật chu đáo cho chuyến đi của ông Đạo bắt đầu từ Hải Pḥng. Nhưng chuyến này v́ đă nếm đủ mùi vị say sóng trên biển, tôi không đi cùng ông Đạo nữa.

Hè 1946 là một trong những mùa hè khốn khổ của các đảng phái quốc gia. Tuy tại Ba Lê, các cuộc đàm phán của ông Hồ hoàn toàn bế tắc, nhưng ở Việt Nam người thay thế ông Hồ là ông Vơ Nguyên Giáp đă thành công rực rỡ trong việc tiêu diệt các lực lượng đối kháng. Trên chiến trường các lực lượng quốc gia đă bị ông Giáp đập tan hoặc bị ông đàn áp phải rút lui vào những miền rừng núi. Ở thành phố những đội công an Việt Minh đă khiến đời sống trốn tránh trở thành vạn phần khó khăn. Tôi chưa bao giờ ngủ cùng một chỗ hai đêm liên tục. Lúc nào tôi cũng phải cẩn trọng xem xét động tĩnh của mọi người, mọi vật. Tôi đă quen thuộc với cảm giác đưa tay sờ vào báng súng phía sau.

Cuộc sống của ông Trương Tử Anh cũng vậy. Ông bị truy nă gắt gao và cũng phải ẩn nấp mỗi đêm ở một chỗ hoàn toàn khác biệt. Mỗi cuộc họp lúc này gần như chỉ với một hai người. Qua những cuộc gặp gỡ và những lần gần gũi trong suốt mùa hè, tôi ngày càng thân thiết và kính trọng ông Trương Tử Anh.

Vào khoảng đầu tháng 9, sự thất bại của cuộc đàm phán giữa ông Hồ và Pháp tại Fontainebleau đă quá rơ ràng. Kết cục, ông Hồ và Ngoại Trưởng Pháp Marius Moutet đă kư kết một nghị định gọi là tạm ước. Lúc này việc bất đồng ư kiến giữa Pháp và Việt Minh đă rơ rành rành. Bản tạm ước kư kết giữa hai bên chẳng qua chỉ là một thỏa hiệp được đề ra để kéo dài thời gian trước khi động lực chiến tranh có đà phát động toàn độ. Theo những lời đồn đăi đă được thêu dệt thành lịch sử về sau th́ khi kư tên vào thỏa hiệp ông Hồ đă nói rằng ông đang tự tay kư kết bản án tử h́nh của chính ông.

Nếu ông Hồ thật sự đă b́nh luận như vậy th́ đây lại là một biến cố điển h́nh khác chứng tỏ tài lèo lái con thuyền chính trị của ông hơn là sự lo lắng của ông. Thật sự th́ ngay cả khi thỏa hiệp đă được kư kết, ông Hồ cũng chẳng thấy cần phải vội vă quay về Hà Nội. Thay v́ đi đường hàng không, ông Hồ lại trở về trên chuyến tàu Pháp trong một hành tŕnh thong thả từ Toulon đến Hải Pḥng, kéo dài hơn một tháng ṛng. Đây không phải là hành động của một vị nguyên thủ đang bị lúng túng v́ áp lực của những nhân viên cấp dưới. Thực ra th́ lúc nào ông Hồ cũng làm chủ được t́nh h́nh. Tuy rằng mục đích thứ nhất của ông Hồ -Đ̣i hỏi Pháp phải kư kết một thỏa hiệp công nhận Việt Nam độc lập- đă không mang lại kết quả thiết thực, mục đích quan trọng thứ hai -T́m cách ḥa hoăn để ông Giáp rảnh tay tiêu diệt các lực lượng quốc gia đối kháng và củng cố các lực lượng Việt Minh để làm chủ t́nh h́nh Miền Bắc- đă thành công mỹ măn.

Tuy không hề được biết rơ tường tận các diễn biến ở Fontainebleau, tôi đă được mục kích Việt Minh tiêu diệt các đảng phái quốc gia bằng con mắt của một nạn nhân. Vào mùa thu năm 1946, khi Việt Minh chuẩn bị ráo riết để bắt đầu cuộc chiến chống Pháp th́ những đảng viên Đại Việt c̣n sống sót như chúng tôi hoàn toàn không dám lộ mặt. Đây quả là một thời gian bối rối và tuyệt vọng cho tất cả. V́ áp lực mạnh của công an Việt Minh, chúng tôi không đủ thời giờ tổ chức những buổi họp an toàn để có thể liên lạc với nhau hữu hiệu hơn. Đường lối hoạt động của đảng bỗng chốc trở nên những cuộc đếm người. Tổng số c̣n lại là bao nhiêu? Bao nhiêu người c̣n sống? Bao nhiêu người c̣n sống nhưng không dám lộ mặt? Những đường dây nào hăy c̣n hoạt động trong các tỉnh lị? Trong khi ông Hồ vắng mặt, ông Giáp đă làm việc thật kỹ lưỡng. Ông đă tận lực tảo thanh các lực lượng quân sự kết hợp của Đại Việt và VNQĐD và thiết lập một hệ thống an toàn ở khắp nơi trong phạm vi Bắc Việt. Ngay cả trước khi chiến tranh giành độc lập bắt đầu, Bắc Việt đă được chuyển thành một mạng lưới công an vô cùng hữu hiệu.

Giữa t́nh thế khốn cùng, ông Trương Tử Anh đă cố gắng không để lộ sự thất vọng đang ngày càng trào dâng. Ít nhất là ngoài mặt ông ta vẫn tỏ ra rất b́nh tĩnh, -gần như quá b́nh tĩnh- ông thường giữ kín những dự định của ḿnh. Tuy đă đến bước đường cùng, chúng tôi vẫn tin tưởng rằng ông sẽ có cách kết hợp chúng tôi lại với nhau và củng cố để đảng có thể hoạt động lại như xưa. Một trong những giải pháp lúc này là cố gắng củng cố lực lượng ở Miền Nam khi lực lượng Việt Minh chưa hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh. Giải pháp thứ hai là tạm thời chuyển các hoạt động ra ngoại quốc, tới một chi nhánh nhỏ của đảng ở Hồng Kông nơi ông chú tôi đang vận động. Đă có lần ông Trương Tử Anh hỏi tôi liệu có thể về Hồng Kông giúp sức hay không, nhưng tôi vẫn cứ tŕ hoăn. Ông chú tôi đă có hai người khác đang ở cùng là ông Đặng Văn Sung, người đă giới thiệu tôi vào Đại Việt khi trước và thày học cũ của tôi là ông Trần Văn Tuyên. Tôi cho rằng sự hiện diện của ḿnh ở đó chỉ thêm thừa thăi. Mặc dù lúc này áp lực tại Hà Nội đang nặng nề, tôi vẫn không biết ḿnh phải nên rời ông Trương Tử Anh để làm ǵ.

Vào một ngày đầu tháng 12-1946, cũng như những lần họp trước đây, tôi đến gặp ông Trương Tử Anh mà măi không thấy bóng dáng ông đâu. Đă có vài lần như vậy trước đây nhưng lần nào cũng có tin nhắn lại. Lần này hoàn toàn chẳng có ǵ cả. Tôi đă đợi suốt ba tiếng, càng đợi càng sốt ruột, sợ rằng sẽ lọt vào tay công an Việt Minh. Hôm sau, một người bạn nói với tôi rằng chính anh ta cũng có hẹn với ông Anh và cũng chẳng thấy bóng dáng ông Anh đâu cả. Ông Trương Tử Anh hoàn toàn tuyệt tích. Tuy vậy có lẽ mọi người đều biết rơ số mệnh ông sẽ ra sao một khi ông bị lọt vào tay Việt Minh.

8. Trong Ṿng Trốn Tránh

Cái chết của ông Trương Tử Anh là một nhát giáng kinh hoàng. Có lẽ tôi nên nói là "việc ông mất tích" th́ đúng hơn v́ không có bằng chứng ǵ hiển nhiên chứng tỏ rằng ông đă chết. Tôi cùng những đảng viên khác cố nuôi hy vọng là ông vẫn c̣n sống và đang trốn tránh ở đâu đó. Nhưng sau nhiều tuần nuôi hy vọng, tất cả những ảo ảnh đă dần dần tiêu tan. Lúc này rất nhiều bạn bè của tôi đă bị ám sát, một số tại sông Hồng, một số tại Hà Nội. Những người c̣n lại đều trốn sang Trung Hoa, sang Hồng Kông như ông chú tôi hoặc lui vào ṿng ẩn nấp. Tôi sống cuộc đời trốn lánh rất ít liên lạc với thế giới bên ngoài, không bạn bè, không gia đ́nh và tệ hơn nữa là bấp bênh và hoàn toàn vô định. Lúc này tôi là một linh hồn hoàn toàn lạc lơng.

Tôi đến ở tạm với một người bạn cùng đảng ngoài ngoại thành Hà Nội và ít khi bước ra khỏi cửa. Có hai ba đảng viên Đại Việt khác cũng ở đó và chỗ ở biến thành một nơi tụ họp nho nhỏ của đảng. Tất cả đều cảm thấy g̣ bó tâm thần. Chẳng có ǵ để làm, chúng tôi ngồi quanh bàn luận suông những chuyện phải làm trong tương lai. Chẳng có người nào trong chúng tôi có được một đường hướng gọi là đứng đắn. Khi nh́n lại th́ có vẻ như tất cả đều cực kỳ kinh hăi. Thỉnh thoảng một hoặc hai chúng tôi lại lén ra khỏi nhà mua thức ăn hoặc thăm viếng các đồng chí khác cũng đang ở trong t́nh trạng trốn tránh. Nhưng phần lớn chúng tôi đều yên lặng đợi chờ. Khung cảnh tù túng đă khiến ư nghĩ của chúng tôi càng ngày càng thêm g̣ bó.

Rồi một hôm, bỗng dưng tôi và một người bạn quyết định đập tan không khí nhàm chán bằng cách đi thăm một người em họ của anh ta ở một khu làng nhỏ ngoại ô. Cuộc hành tŕnh có thể có vài nguy hiểm nhưng cả hai chúng tôi đều đă dày kinh nghiệm tránh tuần tiễu và thông thạo cách thức vượt qua các trạm gác. Lúc này khung cảnh tù túng khó chịu đă ảnh hưởng đến tâm thần và khiến chúng tôi trở nên một phần tự kỷ ám thị.

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Chỉ cần ra ngoài thôi cũng đủ làm tôi sảng khoái. Tại nhà cô em họ người bạn, chúng tôi dùng trà, nói chuyện và đi dạo với nhau trong vườn. Đây quả thật là một phút nghỉ ngơi mà cả hai chúng tôi đều cùng trông đợi. Tuy thế chuyến về lại không hoàn toàn êm xuôi như dự liệu.

Trên đường quay về tối đó, chúng tôi phải ngừng ở nhiều trạm kiểm soát. Lần nào những đội "tự vệ phố" cũng đều cho chúng tôi qua sau khi xem xét giấy tờ. Tuy nhiên ở trạm cuối, một thiếu niên tự vệ đă nh́n thấy có điều ǵ khả nghi trong giấy tờ và cả hai chúng tôi đều bị điệu về một chỗ đồn địa phương gần đó. Người bạn đi cùng tôi giả vờ giận dữ tột độ. Anh quát to lên cho mọi người xung quanh cùng nghe rằng chính anh là một thẩm phán đến từ Vinh. Tôi là người phụ tá anh ta. Tại sao chánh quyền địa phương lại có thể bắt chúng tôi? V́ không thể chứng minh được lời khai và cũng sợ trách nhiệm khi nghe người bạn tôi đe dọa không chút dấu diếm, sau cùng chánh quyền địa phương quyết định để cho chúng tôi đi.

Vừa về đến nhà chúng tôi vội vơ vét hành trang và trốn ngay sang nhà một đảng viên Đại Việt khác. Sáng sau chúng tôi nghe rằng công an đă đến truy nă chỗ chúng tôi ở. Biết chắc rằng ḿnh đă bị truy nă, tôi cùng người bạn chia tay. Tôi bắt đầu đi từ chỗ này qua chỗ khác trốn tránh trong những căn pḥng chật hẹp hoặc những chỗ ở tối tăm, cùng với họ hàng hoặc bạn bè.

Đúng vào lúc tôi đang bị truy nă gắt gao th́ chiến tranh bùng nổ. Vào mùa thu 1946, khi đàm phán thất bại t́nh h́nh căng thẳng ở Việt Nam đă gia tăng. Hàng loạt biến động ở Hải Pḥng dẫn đến những cuộc đụng độ giữa quân đội Pháp và Việt Minh vào ngày 23 tháng 10 trong khi máy bay Pháp thả bom thành phố và một chiến hạm Pháp đậu ngay tại bến quay súng bắn thẳng vào các làng xóm chung quanh. Vào ngày 19-12, ông Hồ lên tiếng kêu gọi: "Hỡi đồng bào," ông thúc dục, "Hăy đứng lên!... Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất tổ quốc!" Gần như toàn thể dân chúng Việt Nam hưởng ứng đáp lời. Mâu thuẫn thay, vào lúc ông Hồ kêu gọi th́ những người đă đứng ra hưởng ứng việc chống Pháp trước đây đă bị Việt Minh tiêu diệt gần như trọn bộ. Trong số những người không thể "đứng lên chiến đấu cho đất nước" như lời ông Hồ kêu gọi là những đảng viên Đại Việt và VNQĐD đă bị ông Vơ Nguyên Giáp truy nă tàn sát dọc theo sông Hồng hoặc đă bị công an Việt Minh ruồng bố ở Hà Nội và Hải Pḥng.

Tin tức của cuộc chiến tranh Pháp Việt đến với tôi bằng một tiếng nổ long trời mà tôi đă tưởng lầm là tiếng sét. Tôi đang cùng bạn bè tụ họp ngồi quanh chiếc bàn bên trong một căn nhà chúng tôi cùng trốn và đang sửa soạn để ăn tô ḿ th́ bỗng có một tiếng nổ rung chuyển mặt đất làm ngọn đèn lóe lên rồi phụt tắt. Phải khoảng một phút sau đó chúng tôi mới đoán ra là tiếng nổ đă phá hủy trạm điện và một phút sau nữa để hiểu rằng chiến tranh đă thực sự bắt đầu. Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh lúc này đă cho tôi cơ hội thoát khỏi tấm mạng ruồng bố của Việt Minh để tản về quê theo hàng chục ngàn người tản cư. Khi chiến tranh chuyển thành khốc liệt th́ dân chúng Hà Nội túa ra thành một gịng tản cư kéo nhau ra khỏi thành phố. Từng đoàn người kéo lê trong ánh đêm, bỏ lại Hà Nội như một vùng đen thẫm phía sau đă hoàn toàn mất hẳn ánh đèn. Bầu không khí sợ hăi, nghi ngờ tỏa ra ám ảnh đám đông. Thỉnh thoảng lại có tiếng th́ thào "Việt Gian, Việt Gian," (những người Việt Nam phản bội hoặc tiếp tay dẫn đường cho Pháp.) Giữa đường tản cư, tôi gặp được một người bạn. Hai chúng tôi cùng quyết định đi chung mặc dù chưa biết rơ là phải đi đâu.

Tuy tôi rất muốn về Phủ Lư, chỗ gia đ́nh tôi đang c̣n trú ngụ, nhưng tôi biết rơ là tôi đang bị Việt Minh truy nă và nếu về nhà chắc chắn sẽ bị bắt. V́ không biết phải về đâu, chúng tôi cứ lang thang từ làng này qua làng khác đi theo từng gịng người di tản. Sau cùng khi đă cạn hết cả tiền, tôi đổi chiếc áo sơ mi dư lấy tiền đi đ̣ ngang qua sông và mua được hai củ khoai để cùng người bạn chia nhau ăn tối. Chúng tôi cũng chẳng biết bữa cơm lần tới là vào lúc nào. Trời đêm trên sông thật là lặng lẽ và ảm đạm. Đây là đêm đầu tiên trong những chuỗi ngày tôi chung sống với người bạn. Tôi vẫn sống như thế nhiều đêm về sau và sau này khi chia tay bạn, tôi đă sống như thế một ḿnh.

Con đ̣ lênh đênh trên sông Đáy là một loại đ̣ thông thường dùng để chuyên chở, chuyển vận trên sông ng̣i Bắc Phần. Đ̣ dài khoảng 6 thước, phần giữa được che mái đơn sơ, phía dưới là hành khách co ro, ngồi sát vào nhau giữ lấy hơi ấm mặc dầu họ là những kẻ lạ nhau hoàn toàn. Khi đ̣ lướt dần qua làng xóm, tâm sự của tôi cũng cay đắng như mùa đông gió lạnh bên ngoài. Người Việt Nam vào lúc này đang anh dũng chiến đấu chống Pháp trong một cuộc chiến mà chính tôi vẫn khao khát được góp phần. Nhưng "họ" đă ép tôi phải đứng ngoài. Chính Việt Minh là những người đă tàn sát bạn bè tôi và buộc tôi phải xuôi đ̣ về Nam thay v́ được quyền đứng vào cương vị chiến đấu như tôi vẫn hằng ấp ủ.

Cơn thất vọng cứ ngấu nghiến làm tôi lắm lúc bứt rứt gần như không chịu nổi. Tôi lại suy nghĩ về những người xung quanh, người này đang trở về cùng gia đ́nh, người kia sắp về chỗ cũ để tiếp tục buôn bán. Có lẽ chẳng có ai là người phải âm thầm chịu đựng khổ sở như tôi. Tự nhiên tôi nhớ lại cuốn phim Je Suis un Évadé (Kẻ bị Tầm Nă) của Paul Muni. Tôi cảm thấy ḿnh cũng cô đơn và đang bị truy nă chẳng khác nào nhân vật của Paul Muni. Lúc này có lẽ chỉ có những thanh niên đă sống qua cảnh tôi mới có thể cảm thấy hết được những cảm giác mỉa mai của một người phải đứng nh́n lư tưởng của ḿnh đang trôi xa dần mà vẫn đành thúc thủ v́ t́nh thế cấm đoán.

Giữa những người tản cư trên đ̣ và giữa những làng ở hai bên bờ sông chỗ chúng tôi ngừng cơn sợ hăi Việt Gian ngày càng lan tràn. Lúc này Tự Vệ Địa Phương đang ở khắp mọi nơi và bắt tất cả những người bị t́nh nghi. Giữ một tấm gương con cũng đủ để bị bắt v́ tấm gương có thể dùng ra hiệu cho máy bay. Mặc quần áo màu đỏ, trắng và xanh (màu quốc kỳ Pháp) chắc chắn là dấu hiệu chứng tỏ người mặc có cảm t́nh với thực dân Pháp. Những người bị bắt bị tra hỏi không ngừng về gốc gác quá khứ để kẻ tra hỏi biết rơ đích thực họ là ai. Tôi sống trong những cơn sợ hăi chập chùng, lo rằng ḿnh sẽ bị bắt và sẽ bị tra hỏi cho đến khi lộ rơ tông tích. Lắm lúc trong cơn dằn vặt, tôi đă tự hỏi: "Phải chăng tôi là kẻ phản quốc?"

Có lần đ̣ đậu chỉ ở khoảng một ki-lô-mét trong phạm vi Phủ Lư. Tôi cảm thấy vừa thống khổ, vừa giận dữ lại vừa cô đơn. Có lẽ những cảm giác này phát xuất một phần cũng là v́ tôi đă cố hết sức đè nén những quyến rũ ngọt ngào đang thúc đẩy tôi rời thuyền trở lại với gia đ́nh bất chấp hậu hoạn. Mặc dầu vậy, tôi vẫn cố tiếp tục xuôi đ̣ đến bến đ̣ Gián Khuất. Khi tàu đang đậu ở bến, tôi chợt nhớ rằng tôi có một người bạn học cũ. Quê anh ta ở Gián Khuất. Lúc này đ̣ đă qua khỏi khu vực chiến tranh. Hơn nữa, tôi đă cạn sạch tiền và cũng chẳng c̣n ǵ để có thể đánh đổi. T́nh cảnh gian nan lúc này khiến tôi quyết định liều vào làng xem thử họa may có thể t́m gặp được người bạn hoặc gia đ́nh anh ta hay không?

Chẳng bao lâu sau tôi t́m ra chỗ người bạn c̣n đang cư ngụ. Gia đ́nh anh ta vốn giàu có trong làng, làm chủ một căn nhà lớn và giao hảo mật thiết với chánh quyền Việt Minh địa phương. Như vậy là tạm yên cho tôi.

Tôi ở lại Gián Khuất khoảng một tháng. Mặc dầu Pháp đă bắt đầu từ Hà Nội đánh tỏa ra, dồn quân đội vũ trang thô sơ của ông Giáp về phía trước và quân Pháp đang từ từ làm chủ t́nh h́nh. Khi quân Pháp vào gần đến làng, tôi thấy rằng đă đến lúc phải đi. Tôi mượn tiền anh bạn rồi tiếp tục theo đ̣ dọc trên sông Đáy. Mục đích của tôi là tới Bái Thượng, trên biên giới Lào, nơi tôi có một vài người bà con, họ hàng xa cũng là những người ủng hộ Đại Việt. Tôi dự định về đó tạm thời ẩn náu một thời gian.

Ngày nối tiếp đêm, tôi xuôi về hướng Nam, trở lại những ngày lạnh lẽo và cô đơn đă tưởng vĩnh viễn bỏ được sau tháng vừa qua. Nhiều ngày sau tôi đến Phát Diệm là nơi trung tâm công giáo Bắc Việt và cũng là một địa phương không mấy có cảm t́nh với cộng sản. Tại Phát Diệm mạng lưới Việt Minh thưa thớt trông thấy. Tôi thở phào nhẹ nhơm. Đă từ bao lâu nay tôi mới lại có dịp bỏ hẳn được việc phải nơm nớp tự pḥng vệ, canh chừng.

Từ Phát Diệm tôi đi Thanh Hóa bằng xe đ̣. Chiếc xe đ̣ lần này cũng là loại xe Ô Tô chạy bằng than tôi đă có dịp đi từ Hà Nội vào Huế khi trước. Xe chở chúng tôi đi qua những vùng đồng bằng phẳng lặng. Làng mạc và ruộng lúa lộ ra qua những cánh cửa sổ đen nhờ nhợ của xe hàng. Giữa phong cảnh phẳng lặng, dấu hiệu mù mờ duy nhất chứng tỏ đất nước đang có chiến tranh là cảnh thỉnh thoảng lại có những nhóm nông dân tụ tập, diễn hành xa xa dưới bóng cờ Việt Minh. Khi qua Thanh Hóa, vùng đồng bằng chuyển thành đồi và chẳng bao lâu sau những ngọn đồi xoai xoải bỗng nối liền thành những núi non cao nguyên ở ranh giới Lào. Ở Bái Thượng, tôi t́m đến nhà những người họ hàng. Khi đến nơi cả người anh họ lẫn gia đ́nh ông đều ngạc nhiên và chào đón tôi nồng hậu.

Chiến tranh chưa lan tràn đến ngôi làng hẻo lánh này. Ngôi làng nằm trải dọc theo miền đồi thưa thớt dân cư, mỗi nhà cách nhau khoảng ba, bốn ki-lô-mét. Nông dân trồng khoai lang, khoai ḿ và nuôi lợn, nuôi gà. Ở những vùng biên giới quanh đây, các gia đ́nh phần đông sống cuộc sống tự túc. Khung cảnh đời sống đối với hoàn cảnh tôi thật là thuận lợi. Sống với ông anh họ, tôi có thể vừa biết rơ t́nh h́nh làng xóm lại vừa tránh được những cặp mắt ṭ ṃ. Tôi sống cùng pḥng với hai người con của người anh, rẫy ruộng trồng khoai và đọc sách vào những lúc rảnh rỗi.

Trong khung cảnh đời sống của gia đ́nh ông anh họ, tôi đă có dịp quan sát cách Việt Minh làm chủ Bái Thượng. Tôi đă phải ngạc nhiên trước tài tổ chức của Việt Minh dù là ngay ở những vùng xa xôi hẻo lánh như vùng này. Làng được một Ủy Ban Hành Chánh kháng chiến mới thiết lập điều động. Ủy Ban giữ việc hội họp, giảng giải tin tức và tuyên truyền. Ngoài ra Ủy Ban c̣n giữ trách nhiệm trông coi các vấn đề kiểm soát chẳng hạn như t́m hiểu đời sống trong làng xem ai đă đi đâu, người nào đang liên lạc với người nào hoặc gia đ́nh nào có khuynh hướng chính trị ra sao. Đối với những người như anh họ tôi là những người ủng hộ một đảng phái khác th́ Ủy Ban theo dơi kỹ lưỡng. Lâu lâu lại có người từ Ủy Ban đến nhà "ghé thăm." Cứ mỗi lần nghe tiếng "cán bộ, cán bộ" từ dưới đường vọng lên là tôi lại lẻn ra vườn ẩn nấp cho đến khi họ về. Thường th́ họ ngồi hàng giờ, uống trà, thăm hỏi anh tôi về việc con cái, họ hàng trong vùng. Họ hỏi anh tôi nghĩ thế nào về chiến tranh. Những người ghé thăm chẳng có vẻ ǵ thù nghịch rơ rệt trong khi nói chuyện. Ngược lại, anh tôi cũng giữ mối giao hảo với cán bộ. Nhưng phía sau bề mặt của t́nh xóm giềng, Ủy Ban Nhân Dân đang cố kiểm soát đời sống riêng tư của những gia đ́nh ở vùng Bái Thượng.

Tôi ẩn nấp trong làng từ tháng 2-1946 cho đến tháng 1-1947, gần một năm bị buộc phải tù túng nhàn cư. Lúc này tôi chưa biết rơ tương lai rồi sẽ ra sao. Tôi cũng không hiểu rơ liệu có c̣n liên lạc được với Đại Việt hay không hoặc liệu Đại Việt có thật sự c̣n hay đă hoàn toàn chết hẳn. Việc ông Trương Tử Anh mất tích đă khiến Đại Việt kiệt quệ và chính tôi cũng đă mất liên lạc với đảng quá lâu. Lúc này tôi thấy ḿnh đă nhúng tay quá sâu vào các hoạt động chính trị. Nhưng với những tư tưởng quốc gia và đă chống đối Việt Minh như tôi th́ làm ǵ c̣n có tương lai chính trị? Hoặc nói rộng ra th́ làm ǵ c̣n có bất cứ loại tương lai nào khác? T́nh cờ tôi t́m được quyển The Razor 's Edge (Lưỡi Dao Cạo) của Somerset Maugham. Cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao lại có một quyển sách như quyển The Razor 's Edge ở một vùng như vùng Bái Thượng vào lúc đó. Chuyện viết về một thanh niên Mỹ đi t́m chân lư. Hành tŕnh dẫn thành niên này đi qua Đức, Pháp, Hy Lạp và sau cùng đến Ấn Độ để truy nguyên ư nghĩa của những bí ẩn tiềm tàng trong sự sinh và sự diệt. Sau cùng, ở đoạn cuối câu chuyện, nhân vật chính đă t́m được những yên tĩnh cần thiết cho nội tâm, nếu không muốn nói là câu trả lời cho mục đích truy nguyên ban đầu. Tôi đă đọc đi đọc lại quyển Lưỡi Dao Cạo trong ấn bản tiếng Pháp t́m được lúc này và đă thông cảm tột cùng những suy tư của nhân vật chính. Có thể hành tŕnh của tôi chưa hẳn đúng là đi t́m chân lư. Có lẽ tôi vẫn đang lần ṃ cố t́m lấy vai tṛ đích thực của ḿnh trong công cuộc giải phóng đất nước. Nhưng dù sao đi nữa th́ đây là vẫn là một chuyến hành tŕnh vô định và tôi vẫn chưa hề t́m được giải pháp.

Vào năm 1947 cuộc chiến ở vào vị thế dằng co. Các lực lượng Pháp vẫn chiếm đóng tại các thành phố trong khi quân Việt Minh dồn về phía đồng bằng. Tôi đă liên lạc bằng thư được với ông thân, lúc này đang là một nhân vật phụ trách về vấn đề văn hóa cho chính quyền Việt Minh tại "Khu 3" thuộc vùng Phủ Lư. Ông thân tôi viết rằng ông sẽ lo liệu cho tôi trở về b́nh an miễn là tôi t́m cách để "phụng sự tốt cho quốc gia." Những tranh chấp giữa Việt Minh và Quốc Gia lúc này đă tạm yên. Tôi dời đi Yên Mô, một tỉnh nhỏ gần Trung Tâm Công Giáo của Phát Diệm.

Tại đây tôi mở một lớp học tư nho nhỏ dạy toán vừa đủ để kiếm sống. Rồi có tin ông thân cho biết tôi có thể hợp thức hóa t́nh trạng hiện thời. Theo ông thân th́ tôi chỉ cần tham gia vào Ủy Ban Kháng Chiến của Việt Minh tại địa phương. Ủy Ban này đang chờ tiếp nhận tôi. Đây có lẽ là một cách lựa chọn hợp lư nhất. Gia nhập Ủy Ban sẽ cho tôi đủ uy tín thoát khỏi mạng lưới công an và có đủ thời giờ để ḍ hỏi, t́m cách liên lạc lại với bạn cũ.

Ông thân tôi đă hoạch định mọi sự rất chu đáo. Chẳng bao lâu sau tôi được giới thiệu với Việt Minh tại Yên Mô là con trai của nhà nho Bùi Kỷ, một học giả trọng tuổi đang phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Liên Khu 3. Tôi cũng chẳng rơ liệu những người trong ban văn hóa địa phương có biết rơ lai lịch quá khứ của tôi hay không. Nhưng dù có biết hoặc có nghi ngờ th́ hiển nhiên là họ vẫn chịu đựng tôi.

Khi làm các công tác trong Ủy Ban Kháng Chiến Việt Minh, trách nhiệm của tôi có liên quan đến những vấn đề hoạch định những chương tŕnh giải trí, những chương tŕnh tường thuật thời sự và những chương tŕnh tuyên truyền. Tôi đi quanh làng xóm cùng với một số cán bộ để đọc diễn văn, tổ chức triển lăm và cổ động những bài hát yêu nước. Chúng tôi triển lăm h́nh ảnh những cuộc chiến đang tiếp diễn, h́nh ảnh những vùng giải phóng đang tiến triển. Chúng tôi tường thuật những trận đánh, những phát triển kinh tế mới nhất và thảo luận việc "Bác Hồ đang anh dũng dẫn dắt quốc gia tiến đến Độc Lập." Nhưng ngay cả những khi đang tuyên truyền cho Việt Minh, tôi vẫn cố t́m cách thoát thân. Tôi thấy rơ ḿnh đang hoàn toàn giả dối, bịa đặt và tự kết luận rằng ḿnh chẳng thể cứ nhắm mắt múa may như thế măi.

Cách Yên Mô khoảng hơn 10 cây số, Phát Diệm có vẻ là nơi tôi có cơ hội tốt nhất để liên lạc với những phần tử quốc gia chống Cộng khác. Dân cư Phát Diệm gồm khoảng 30,000 người, phần đông là Công Giáo. Bên trong Phát Diệm toàn là Nhà Thờ, những trường học địa phương và các lớp học đạo. Ngoài ra c̣n khoảng 100,000 người công giáo khác sống bao quanh Phát Diệm. Mức độ cư ngụ đông đảo của các tín đồ công giáo tại Phát Diệm đă biến nơi này thành chỗ tụ họp công giáo đông đảo nhất trong toàn thể lănh thổ quốc gia.

Người lănh đạo Phát Diệm là Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, một người nổi tiếng chống cộng. Ảnh hưởng và quyền lực của Đức Giám Mục Từ đối với Phát Diệm và những vùng lân cận được coi như tối thượng. Việt Minh đă có thái độ ḥa hoăn với Đức Giám Mục Từ để tránh những sự đụng độ trực tiếp. Những dễ dăi của Việt Minh đă khiến Phát Diệm ngầm ngầm có được quyền lực gần như tự trị.

Tôi hay lui tới Phát Diệm để t́m kiếm bạn bè trong các đảng quốc gia và t́m hiểu tin tức về những t́nh h́nh chiến sự. Đầu tiên th́ khu Công Giáo có vẻ là một nơi lạ lùng đầy những thày đạo mặc áo the đen, quần trắng cùng những nhà tu mặc áo ḍng. Nhưng sau khi đă đến Phát Diệm vài lần, cảm giác lạ tan lần và tôi bắt đầu suy nghĩ về việc định cư tại đây thay v́ sống với những giả dối múa may ở Yên Mô. Tôi cho rằng nếu liên lạc được đúng chỗ th́ cuộc sống ở Phát Diệm chắc chắn sẽ thoải mái và tôi sẽ thoát được cảnh lúc nào cũng phải canh chừng công an Việt Minh.

Tuy thế khi đă nhiều lần đến Phát Diệm mà không hề liên lạc được với bạn bè cũ tôi lại bắt đầu thất vọng. Ngày kia, khi lang thang trên đường phố chợ, tôi bỗng thấy một thiếu nữ đứng sau quầy hàng bán các vật dụng linh tinh trông rất quen thuộc. Hỏi thăm tôi biết được đây là em của người thiếu nữ mà sau này là nhà tôi. Rồi tôi c̣n được biết thêm rằng v́ hoàn cảnh chiến tranh xua đuổi, nên cả toàn thể gia đ́nh cô cũng đă rời Hà Nội xuôi về Phát Diệm sinh sống. Cả gia đ́nh cô lúc này đang c̣n cư ngụ ở Phát Diệm. Theo như tôi nhớ th́ bà cụ nhạc tương lai của tôi không thích tôi lắm. Bà cho là tôi mạo hiểm nhiều quá và có vẻ là người thích phiêu lưu. Nhưng chuyện này chẳng hề làm tôi giảm bớt hân hoan. Chỉ ít lâu sau tôi đă làm quen trở lại với gia đ́nh bà nhạc tương lai.

Từ đó, bất kỳ lúc nào có dịp rảnh rỗi tôi cũng đi bộ gần 20 cây số để tới Phát Diệm. Khi đă gần gũi hơn với khu công giáo tôi đă bắt đầu t́m được những đường giây liên lạc mong mỏi. Lúc gặp được hai người bạn thân nhất ở đại học lúc này cũng đang trốn tránh như tôi v́ đảng đă tan ră tôi hết sức vui mừng. Gặp được tôi họ cũng vui mừng không kém. Chính họ cũng đă từng sống cuộc đời bấp bênh vô định chẳng khác ǵ tôi khi bị Việt Minh ruồng bố. T́m được hai người bạn tôi thu xếp rời ngay Yên Mô và trốn về Phát Diệm.

Ḥa hợp với người Phát Diệm cũng không lấy ǵ làm khó khăn. Trong khu công giáo tất cả tu sĩ, các vị thày và học sinh mặc áo nhà ḍng hoặc những đồng phục tương tự đều được đối xử như huynh đệ trong tinh thần tôn giáo. Tôi cũng ḿnh mặc áo dài và quần trắng để chuyển vào nhà nơi các bạn tôi đang sống cùng các thày đạo và ḥa hợp được ngay.

Một trong những nhóm chính trị trong khu là một nhóm thuộc ảnh hưởng của ông Ngô Đ́nh Diệm. Ông Diệm là một người công giáo và là một chính trị gia có nhiều tham vọng. Ông cũng chính là người mà ông chú tôi đă đề nghị ông Bảo Đại nên tuyển làm thủ tướng năm 1945. Anh ông Diệm là giám mục địa phận Vĩnh Long và chính bản thân ông Diệm cũng sống một cuộc đời kham khổ. (Nhiều năm sau ông Diệm đă đến một tu viện Mỹ sống cuộc đời Nhà Tu và làm bạn với Đức Hồng Y vùng New York là Hồng Y Spellman.)

Ít lâu sau, tôi và hai người bạn là Lê Quang Luật và Nghiêm Xuân Hồng bắt đầu hội họp với những người ủng hộ ông Diệm. Chúng tôi bắt đầu thảo luận việc tụ họp thành một mặt trận quốc gia. Cả ba chúng tôi đều đă mất liên lạc với đảng Đại Việt khá lâu và đang nóng ḷng tiếp tục công việc. Tất cả đều không muốn khoanh tay nh́n Việt Minh làm chủ t́nh thế. Lúc này ở Phát Diệm đă có rất nhiều người chống đối Việt Minh và chúng tôi cho rằng phải t́m cách hướng dẫn những khuynh hướng này.

Công việc đầu tiên của chúng tôi là tuyển mộ và huấn luyện cán bộ. Nhờ được những người theo ông Diệm ủng hộ, chúng tôi đă thu hút được khoảng 15 đến 20 thày đạo và học sinh rồi bắt đầu mở lớp huấn luyện cho họ. Chương tŕnh của chúng tôi bao gồm cả lư thuyết lẫn thực hành của việc cần thiết phải chống lại chủ nghĩa cộng sản. Cả hai ông Luật và ông Hồng đều ra công đặt hết tâm trí vào việc giảng dạy. Trong lúc giảng, chính chúng tôi cũng cố sức vận dụng luận lư để có thể tạo ra những nguyên tắc căn bản có thể dùng làm cương lĩnh cho một chủ nghĩa quốc gia. Chẳng những chúng tôi chỉ chống đối những áp đặt quyền lực sai lầm của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam mà chúng tôi c̣n đưa ra cả những khuyết điểm của các chính sách kinh tế và chính trị của Cộng Sản khi đem áp dụng vào một nước nhỏ và chưa phát triển hoàn toàn như Việt Nam. Trong khi đó th́ chủ nghĩa tư bản lại thiếu những nề nếp luân lư căn bản thiết yếu cần phải có trong xă hội Việt Nam. Tuy đă cố gắng tột độ mà cả ba chúng tôi vẫn cảm thấy h́nh như giải pháp kiện toàn lúc nào cũng chỉ ở vừa khỏi tầm tay.

Khi đă chán bàn luận chính trị, chúng tôi bàn luận văn chương và khi đă chán bàn luận văn chương chúng tôi lại đọc thơ hoặc ngâm to cho tất cả cùng nghe vào những giờ rảnh rỗi. Thời gian c̣n lại chỉ vừa đủ cho chúng tôi có thời giờ giảng dạy các lớp. Công việc giảng dạy kích thích thần trí và đ̣i hỏi suy tư rất nhiều nên chúng tôi có cảm giác là ḿnh chẳng bao giờ cần ngủ. Thỉnh thoảng, khi rảnh rỗi tôi lại xuống thăm gia đ́nh bà nhạc. Lúc này tôi là một thanh niên vừa bận bịu với công việc, vừa bận bịu với những t́nh cảm yêu đương lần đầu. Đây quả là một thời gian đáng nhớ của tuổi trẻ.

Rất ít người công giáo trong lớp hoặc những người công giáo giao tiếp với chúng tôi biết rơ tôi là không phải là người đạo công giáo. Thấy tôi mặc áo dài the đen, phần đông những học viên đều cho rằng tôi là một vị thày đạo và chắc chắn là một người sắp sửa được phong làm linh mục. Họ gọi tôi là "thày già" và đă có lần xin tôi cầu nguyện trong một buổi lễ hành xác. V́ chẳng nhớ ǵ ngoài câu "Lạy Cha" đă được nghe nhiều lần trong các buổi cầu kinh, tôi điếng người v́ sợ. Suốt buổi cầu nguyện hôm đó tôi ê a bằng một giọng đọc kinh nửa mơ hồ, th́ thào nửa lùng bùng không thành chữ chỉ có những câu "Lạy Cha" ở những đoạn cuối cùng th́ đă vừa to lại vừa rơ.

Vào cuối năm 1948, tin tức lan truyền qua Phát Diệm rằng Pháp tuyên bố sẽ thừa nhận Việt Nam độc lập nhưng không chấp thuận việc để cộng sản cầm đầu. Chi tiết hơn nữa th́ Pháp muốn ông Bảo Đại tiếp tục nắm quyền và h́nh như đă yêu cầu ông Bảo Đại đứng ra thiết lập chánh phủ mới. Tin tức c̣n nói rằng ông Bảo Đại đă nhận lời. Ông Bảo Đại không ủng hộ Việt Minh nhưng cũng tuyên bố rằng ông chỉ chịu đứng ra lập chính phủ nếu Pháp thực sự trao trả độc lập cho Việt Nam.

Trong khi đó những tin tức khác cũng lan truyền khắp nơi. Ông chú tôi cũng đă từ Hồng Kông về lại Việt Nam và đang ở Sài G̣n nơi Pháp hăy c̣n chiếm đóng. Ông Ngô Đ́nh Diệm cũng ở Sài G̣n nhưng vẫn cẩn thận tránh xa những ǵ Pháp chủ trương, ít nhất là ông đang cố tránh xa những điều Pháp chủ trương vào lúc này. Sau hai năm chiến tranh dằng co mà vẫn chưa có giải pháp quân sự thỏa đáng lúc này Pháp đang cố t́m một giải pháp chính trị khác. Nhưng họ sẽ chịu nhượng bộ đến mức nào?

Trong khung cảnh tương đối yên tĩnh của khu công giáo, Hồng, Luật và tôi đều chăm chú lắng nghe t́nh h́nh. Chúng tôi có đủ thông minh để hiểu rằng dự định tổ chức một pḥng trào chính trị do chính chúng tôi phát động chẳng qua chỉ là một chuyện thiếu thực tế phát xuất phần nhiều do thất vọng thúc đẩy. Tuy chúng tôi chẳng thể tự ḿnh đưa ra giải pháp cho các phần tử quốc gia nhưng có thể những dự định của ông Bảo Đại sẽ làm được chuyện đó. Mặc dầu từ trước đến nay, ông Bảo Đại chưa hề có hành động nào chứng tỏ ông có đủ năng lực hoặc quyết tâm và đă hẳn ông quả không phải là một chính khách quả quyết, nhưng ông vẫn được mọi người ủng hộ. Việc ông thoái vị đă chứng tỏ rằng ít ra ông cũng có thể đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân. Tất cả đều c̣n nhớ câu tuyên bố thà làm công dân của một quốc gia tự do c̣n hơn làm vua một nước nô lệ.

Lúc này một vài người trong nhóm chúng tôi trở về Hà Nội, Hải Pḥng để t́m hiểu tin tức. Họ đă gửi đại biểu đến cả Sài G̣n và đến cả chỗ ông Ngô Đ́nh Diệm để tham khảo những nhận xét của ông về t́nh h́nh lúc này. Thật ra vấn đề nan giải nhất của những phần tử quốc gia, những người ủng hộ ông Diệm, những đảng viên Đại Việt và những đảng viên VNQĐD là cần phải t́m người lănh đạo.

Chúng tôi biết rằng ḿnh đang bị đặt vào một t́nh thế khó xử. Một mặt chúng tôi muốn độc lập cho quốc gia; Đây vốn là mục đích của tất cả mọi hành động. Mặt khác chúng tôi lại sợ rằng rồi đây ḿnh sẽ bị cô lập trong cuộc chiến chống Pháp. Tất cả những phần tử quốc gia đều biết rơ rằng nếu để Việt Minh làm chủ t́nh h́nh th́ sau khi độc lập cộng sản sẽ diệt trừ họ đầu tiên. Bất kể họ bất đồng ư kiến ra sao, tất cả các phần tử quốc gia đều cùng đồng quan điểm trên vấn đề này. Tất cả đều đă mục kích rơ ràng các thủ đoạn của Việt Minh chẳng hạn như những Ủy Ban Nhân Dân, những bộ máy công an, những đội ám sát và những ruồng bố, áp đặt để thỏa măn tham vọng nắm trọn quyền hành của họ trước đây. Một khi Việt Minh đă làm chủ t́nh h́nh th́ chẳng bao giờ họ lại để các phần tử quốc gia sống sót.

Trong t́nh thế này chúng tôi có thể miễn cưỡng chấp thuận giải pháp Bảo Đại. Tuy rằng hợp tác với Pháp dù là bằng cách nào cũng làm chúng tôi ghê sợ nhưng nếu chấp nhận đưa tương lai quốc gia và số mệnh của tất cả vào tay những nhân vật như ông Hồ và Vơ Nguyên Giáp th́ sự thể cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.

Trong rất nhiều tháng cả Hồng, Luật lẫn tôi đều phân vân, bối rối không hiểu phải nên theo giải pháp nào. Chúng tôi để hết tâm trí vào những tiếng rè rè của chiếc radio cổ lỗ cố gắng t́m hiểu tin tức. Chúng tôi nghe rằng Pháp đă tuyên bố rơ ràng, hứa sẽ nh́n nhận độc lập của Việt Nam. Đây là một điều mà họ chưa bao giờ đề cập đến khi đàm phán với Việt Minh. Sau cùng chúng tôi cho rằng chẳng thể tin được lời tường thuật của những người khác và đă kết luận tự ḿnh phải t́m hiểu rơ rệt mọi chuyện trước khi có thể quyết định bất cứ điều ǵ. Tự ḿnh t́m hiểu tin tức có nghĩa là phải vượt ra khỏi vùng Việt Minh chiếm đóng. Nhưng tôi quyết định phải gặp ông thân trước đă.

Vào mùa xuân năm 1949, cả gia đ́nh tôi gồm ông thân, mẹ tôi và các anh chị đều chung sống ở một ngôi làng nhỏ gần Phủ Lư. Phủ Lư không c̣n nữa. Ngôi làng đă bị chính dân làng thiêu hủy sau một cuộc chiến tranh tiêu thổ kháng chiến. Lúc này ông thân tôi đă được nhiều người biết đến trong khu Việt Minh. Anh tôi -lớn hơn tôi 7 tuổi đang là giáo sư văn chương- cũng đă làm việc với Việt Minh. Tuy thế chính trị chưa phải là một vấn đề ảnh hưởng đến sinh hoạt và đời sống t́nh cảm trong gia đ́nh chúng tôi.

Khoảng cuối tháng 4 tôi lẻn ra khỏi khu Công Giáo trên một chiếc thuyền con đi ngược ḍng về Phủ Lư. Tôi ở lại nhà ba ngày quây quần bên gia đ́nh. Nỗi hân hoan chỉ bị mất đi phần nào khi chúng tôi biết rằng rồi đây chiến tranh sẽ lại chia cắt chúng tôi và thời gian chia cắt lần tới có thể c̣n lâu hơn nữa. Tôi tŕnh bày với ông thân những lư do tôi cần về Hà Nội và nói thêm rằng tôi đang sửa soạn về Hà Nội, không hiểu ông cụ nghĩ sao? Tôi bảo rằng tôi không thể ở lại bên cạnh gia đ́nh để giả dối rằng ḿnh đang nhiệt tâm ủng hộ một cuộc cách mạng mà trong tâm tôi hoàn toàn chống đối.

Khi nghe nói đến cảnh chia cắt gia đ́nh th́ ông cụ tôi cũng băn khoăn bứt rứt chẳng khác ǵ tôi. Một khi chúng tôi đă ở hai bên của làn ranh giới Pháp-Việt Minh th́ chẳng ai c̣n có thể cả quyết được ngày gặp lại. Tuy vậy, ông thân đă hiểu và hoàn toàn thông cảm cho tôi. Thay v́ cản ngăn ông đă tiễn tôi trên quăng đường đầu của chuyến đi thuyền trở về Phát Diệm. Ông cốt cố kéo dài cuộc đưa tiễn càng lâu càng tốt. Khi chia tay giă từ ông thân tại bến sông Đáy th́ cả tôi lẫn ông thân đều có cảm giác rằng đây là lần chót. Đau buồn thay v́ rồi đây cảm giác này lại chuyển dần thành sự thực. Những biến cố cắt ĺa quê hương chẳng hề bỏ qua hoàn cảnh của chúng tôi cũng như đă chẳng hề bỏ qua cho bao nhiêu trăm ngàn gia đ́nh Việt Nam khác.

Sau khi chia tay ông thân, tôi trở lại khu công giáo để cùng Hồng và Luật hoạch định chương tŕnh hoạt động. Từ Phát Diệm chúng tôi sẽ phải t́m đường vượt qua một khu vực bờ biển nơi Việt Minh canh gác kỹ lưỡng rồi đi thuyền tới Hải Pḥng. V́ khu vực này nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh, chúng tôi quyết định sẽ đi riêng rẽ. Chúng tôi cố đi thành những nhóm thật nhỏ để tránh bị phát giác. Hơn nữa, chúng tôi c̣n chia nhau tản ra để khỏi bị bắt cùng một lúc.

Đến đầu tháng 5 th́ tới phiên tôi lên đường. Trong một đêm mưa âm u, tôi đi theo một cán bộ công giáo mang súng Sten đi về mé bờ biển. Trong bóng tối dày đặc, tôi không nh́n thấy ǵ. Bỗng người dẫn đường dừng bước chăm chú nghe ngóng. Rồi không hề ra hiệu cho tôi, anh th́nh ĺnh nhảy vọt về phía bờ biển. Trong bóng tối tôi nghe giọng anh ta trầm và thật sắc: "Nhân danh phong trào quốc gia Việt Nam, tôi kêu gọi các anh giúp đỡ." Một giây sau tôi đến cạnh anh để cùng phụ đẩy một chiếc thuyền chài do hai người thuyền chài đầy vẻ sợ sệt đang điều khiển. Dưới trời mưa tầm tă, chúng tôi phải mất ba giờ để đến nơi một chiếc thuyền con đang đậu ngoài khơi chờ đợi.

Ngay cả sau khi đă lên thuyền tôi vẫn chẳng thể gạt bỏ được những ám ảnh khốn khổ đă trải qua khi lênh đênh trên biển vào lần trước đây. Sau một ngày đầu tương đối êm dịu, cơn sợ hăi lại chuyển thành sự thật. Mưa làm chiếc thuyền con tṛng trành và biển động dữ dội, xô những con sóng cao đập bổ vào bong. Vào ngày thứ hai, cột buồm chính đă bị sóng đánh găy và thuyền cứ lênh đênh tự trôi dạt vào bờ. Trên thuyền hành khách hoàn toàn náo động. Tất cả hành khách đều sợ tàu sẽ trôi quanh và lọt vào khu vực tuần tiễu của Việt Minh. Nhưng sau đó đội thủy thủ trên thuyền đă cố gắng dựng tạm một cột buồm nhỏ hơn và lại đưa thuyền một lần nữa hướng ra biển.

Nhờ vào buồm phụ, ba ngày sau chúng tôi đến Hải Pḥng. Lúc thuyền cặp bến nỗi vui mừng thoát hiểm bỗng nhiên tắt ngấm khi tôi chợt nhớ rằng ḿnh đang đứng trong một vùng lănh thổ do chính Pháp kiểm soát. Đây quả là một cảm giác khó chịu vô tả.

9. Giải Pháp Bảo Đại

Khi tàu cặp bến Hải Pḥng và thuyền đi vào ṿng kiểm soát của Pháp, cảnh sát đă giữ tôi lại để tra vấn. Cuộc tra vấn chỉ rất qua loa. Tôi vốn đă đến từ Phát Diệm, trên một chiếc thuyền chở đầy những người công giáo tản cư nên cảnh sát đă tin tôi không phải là Việt Minh. Mặc dù vậy, đương lúc điều tra những cảnh sát Việt Nam đang làm việc cho người Pháp đă bắt đầu làm tôi cảm thấy khó chịu. Nh́n những sĩ quan Pháp đi quanh trạm cảnh sát ra lệnh cho mọi người tôi không nén nổi căm giận. Quả là một sự nhục nhă khó tưởng! Trước mắt tôi guồng máy thực dân mặc nhiên hoành hành, như thể chưa từng có ngày độc lập trước đây bao giờ. Lúc này v́ mới từ Phát Diệm trốn vào, khi chứng kiến những điều đang xảy ra trước mắt, tôi tự hỏi: "Phải chăng từ giờ trở đi ḿnh sẽ phải chấp nhận những điều trông thấy?" Khung cảnh trước mắt c̣n khiến tôi phân vân tự hỏi chẳng hiểu quyết định rời Phát Diệm của chúng tôi có đúng hay không? Sau nhiều ngày chịu đựng thống khổ với những cảnh khó chịu ở Hải Pḥng tôi rời Hải Pḥng để về Hà Nội.

May mắn thay tại Hà Nội những điều tôi trông thấy lại hoàn toàn khác hẳn. Tôi được gặp ông Phan Huy Quát gần như lập tức. Ông Quát là vị bác sĩ làm Đổng Lư Văn Pḥng trong chánh phủ của chú tôi lúc trước. Lúc này tuy vẫn đang bận bịu về nghề nghiệp ông vẫn theo sát t́nh h́nh chính trị. Sau khi nói chuyện với ông Quát được giây lát th́ ông thú thực với tôi rằng chính ông cũng là cảm t́nh viên của đảng Đại Việt. Đảng hiện đă chỉnh đốn lại tuy rằng không hẳn thực sự như ngày xưa nữa. Lúc này vẫn chưa ai có đủ khả năng để chấn chỉnh lại guồng máy của đảng hoặc thay thế được ông Trương Tử Anh. Mặc dù vậy, lúc này một chủ trương khác đang được nhiều người ủng hộ là chủ trương ḥa hợp những nguyên tắc Dân Tộc Sinh Tồn của Đại Việt với những nguyên tắc dân chủ. Chủ trương này đang thu hút được nhiều người khác, trong số có cả những người đă từng trải và có quan niệm chính trị sắc bén chẳng hạn như bác sĩ Quát.

Khi bắt đầu gặp những người mới trong đảng Đại Việt, tôi thấy rằng họ ít có khuynh hướng cách mạng so với những sinh viên vốn là thành phần ṇng cốt của đảng trước đây trong những ngày đảng hăy c̣n toan tính đương đầu với Pháp bằng bạo lực. Những đảng viên Đại Việt tôi gặp lúc này đều lớn tuổi và có vẻ nghiêm trang hơn các đảng viên sinh viên khi trước. Trông họ có vẻ giống những nhà nho trong nội các của chú tôi hơn là những người mang súng vận động hăng say, nhiệt tâm làm việc dưới sự lănh đạo của ông Trương Tử Anh. Tuy vậy, những đảng viên cũ của Đại Việt cũng chưa hoàn toàn mất hẳn. Vào mùa thu năm 1949 đă có rất nhiều đảng viên sống sót từ Trung Hoa hoặc những nơi ẩn nấp xa xăm trở về Hà Nội. Họ cũng bị những tin tức về việc Giải Pháp Bảo Đại có thể dành lại độc lập thu hút chẳng khác ǵ tôi. Và cũng như tôi, họ hy vọng có thể t́m được một lối thoát cho họ nói riêng và cho cả tổ quốc nói chung.

Bác sĩ Quát cho tôi biết rằng chú tôi đă từ Hồng Kông về Sài G̣n trở lại nhưng lúc này ông đang ở Nam Vang, thủ đô của Cam Bốt. Lần cuối tôi gặp chú tôi là lần gặp cách đây đă ba năm về trước ở biên giới Trung Hoa, khi tôi thu xếp cho ông thoát khỏi Việt Minh. V́ lúc này hăy c̣n chưa làm ǵ nên tôi rất muốn gặp ông. Qua nhiều năm chung sống, những liên hệ t́nh cảm của hai chúng tôi đă tiến đến mức gần như cha con. Lúc này, tôi cảm thấy chuyện gặp ông thật cần thiết. Tôi muốn biết rơ những việc đă xảy ra sau khi chúng tôi chia tay. Hơn nữa, tôi muốn nghe ông nhận xét những biến chuyển lúc này. Tôi cũng muốn t́m hiểu xem ông định sẽ làm ǵ.

V́ thế tôi đă mượn tiền của một số bạn bè để sửa soạn cho chuyến hành tŕnh sang Cam Bốt. Tôi bắt đầu bay từ Hà Nội vào Sài G̣n rồi từ đó đáp một chuyến bay khác trên chiếc Dakota cổ lỗ của hăng Air France để đến thẳng Nam Vang. Nam Vang là một chỗ yên tĩnh nhất trong tất cả các chỗ mà tôi đă từng đi qua. Đây là một chỗ lư tưởng cho những người muốn t́m yên tĩnh. Chú tôi đă chọn Nam Vang chính v́ lư do này. Ở Nam Vang chẳng ai có thể quấy rối ông trong khi ông đang cần nghỉ ngơi và lượng định t́nh h́nh Việt Nam.

Lúc đến nơi, tôi đến ngay căn nhà nhỏ chú tôi mướn ở ngoại ô. Buổi sáng sau khi đă điểm tâm bằng sầu riêng, chúng tôi cùng nhau tản bộ trong bầu không khí ấm áp và nhàn tản của Nam Vang, đến bên gịng Mê Kông rộng lớn đang lặng lẽ chảy qua thủ đô. Tôi cùng chú tôi ngồi trên bờ sông kể cho nhau nghe chuyện từ ba năm về trước. Tôi kể chuyện ông Trương Tử Anh, chuyện những công việc tôi làm với Việt Minh và những dự định riêng trong việc tổ chức một phong trào tại Phát Diệm trong khi chú tôi kể lại những khó khăn mà ông đă phải trải qua ở Trung Hoa.

Chú tôi cho biết rằng ông đă phải khốn khổ ở Hồng Kông. Đường dây tiếp tế của tôi chỉ hoạt động chập chờn lúc có lúc không đến khi ông Trương Tử Anh mất tích th́ cả đường dây này cũng bị cắt đứt hoàn toàn. Chú tôi hoàn toàn kiệt quệ tài chánh. Đôi lúc ông Bảo Đại có giúp đỡ ông, nhưng nhiều khi chính ông Bảo Đại cũng không có tiền. Cuối cùng khi đă rơ ràng rằng ở Trung Hoa chẳng làm được ǵ, ông chú tôi lại về Sài G̣n để sống chung với gia đ́nh. Nhưng ở Sài G̣n người Pháp nhất định không để ông yên. Họ thúc đẩy làm áp lực buộc ông giữ một vai tṛ chính trị. Tuy đă biết rơ thái độ của ông đối với chánh quyền thực dân, Pháp vẫn cho rằng nếu có thể thuyết phục được ông ủng hộ Giải Pháp Bảo Đại th́ giải pháp này chắc chắn sẽ có nhiều hy vọng thành công.

V́ Pháp nhất định không để ông yên, ông đă phải t́m cách lẩn tránh sang Cam Bốt. Ông có vẻ bi quan khi nh́n t́nh h́nh lúc đó v́ đă thấy rơ cả những lợi điểm của Việt Minh lẫn những nhược điểm của các đảng phái quốc gia. Ông tin rằng Giải Pháp Bảo Đại khó có thể thành công. Nếu thật sự thỏa thuận giữa ông Bảo Đại và Pháp có thể xảy ra th́ ông cho rằng việc đó cũng là việc hăy c̣n xa. V́ quan niệm như vậy nên chú tôi không đặt hết tin tưởng vào giải pháp Bảo Đại.

Mặc dầu đồng quan điểm với chú tôi, tôi vẫn bác bỏ những nhận xét bi quan của ông. Càng ngày tôi càng tin rằng chỉ có hai cách để lựa chọn: Một là bỏ tất cả, hai là hy vọng Giải Pháp Bảo Đại thành công. Sau hai tuần bàn căi những chuyện này với chú tôi ở Nam Vang, tôi bay về Hà Nội chờ xem diễn biến và mong mỏi rằng sự nhượng bộ của Pháp về vấn đề độc lập sẽ ở vào một mức độ đủ để các phần tử quốc gia có thể có lư do ủng hộ ông Bảo Đại.

Qua năm 1948, ông Bảo Đại và Pháp đă trên đà thỏa thuận. Vào tháng 6, họ kư kết một thỏa hiệp gọi là thỏa hiệp Vịnh Hạ Long. Trong thỏa hiệp này Pháp thực sự đồng ư "long trọng nh́n nhận Việt Nam độc lập."

Đây là điểm then chốt và cũng chính là điểm mà tôi cũng như nhiều người khác đă cùng mong mỏi. Trước đây, chưa bao giờ Pháp chánh thức đặt hai chữ "độc lập" vào bất cứ một tài liệu nào. Chẳng hạn như hiệp định giữa ông Hồ và Sainteny vào năm 1946, khi Pháp không chịu kư kết, đă đề cập đến Việt Nam như "một quốc gia tự do... nằm trong khối Liên Hiệp Pháp." Lúc này chúng tôi đă bỏ ra rất nhiều th́ giờ cố xem xét và bàn luận thấu đáo về những ư nghĩa của bản thỏa hiệp. Việc Pháp tuyên bố long trọng nh́n nhận Việt Nam độc lập đă khiến đa số các thành phần quốc gia cho rằng ông Bảo Đại đă dành được bằng đàm phán những điều mà Việt Minh vẫn chưa đoạt được trong suốt cả hai năm chiến tranh, tuy rằng đây mới chỉ là trên giấy tờ.

Chứng cớ ngày một rơ ràng rằng ông Bảo Đại đă thực sự đạt được vài thắng lợi căn bản. Chỉ có một điểm bất lợi duy nhất của sự thỏa thuận giữa ông Bảo Đại và Pháp là: Nam phần, lúc bấy giờ c̣n gọi là CochinChine vẫn lệ thuộc vào Pháp, cho đến khi Hội Đồng Địa Phương của Nam Phần chánh thức bỏ phiếu chấp thuận việc sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Việt Nam. Và v́ đa số nhân viên của Hội Đồng Địa Phương của Nam Phần đều là những người thân Pháp, thể thức bầu cử chỉ là một thủ tục mang vẻ h́nh thức và qui tắc mà thôi. Tuy Pháp đă gây áp lực bắt ông Bảo Đại phải về Việt Nam, (Trong khi đàm phán ông Bảo Đại vẫn ở Pháp) ông Bảo Đại vẫn nhất định đợi chờ cho đến khi Hội Đồng Địa Phương chánh thức bỏ phiếu sát nhập CochinChine vào lănh thổ Việt Nam.

Sau cùng Hội Đồng Địa Phương đă bỏ phiếu vào tháng chạp. Ông Bảo Đại chỉ chịu trở lại chức vụ Quốc Trưởng sau khi ông đă kư kết thỏa hiệp Élysée chính thức công nhận Việt Nam hợp nhất. Sau khi trở lại làm Quốc Trưởng, ông Bảo Đại trở về Việt Nam vào tháng giêng năm 1949 để thiết lập một chánh phủ với nhiệm vụ là đàm phán với Pháp để thực hiện những điều đă kư kết.

Khoảng một thời gian ngắn sau đó, ông Bảo Đại trở về Đà Lạt. Từ Đà Lạt ông Bảo Đại gửi thư cho tất cả các thành phần quốc gia để mời họ cùng về Đà Lạt tham khảo ư kiến. Hưởng ứng lời mời của ông Bảo Đại, tôi cùng bác sĩ Phan Huy Quát và người bạn giới thiệu tôi vào Đại Việt khi trước là bác sĩ Đặng Văn Sung cùng rời Hà Nội bay về Đà Lạt.

Vào buổi sáng ngày hẹn, cả ba chúng tôi cùng đến biệt điện. Khi đến nơi chúng tôi được dẫn vào pḥng khách để chờ cuộc họp. Mặc dầu đă có lần cùng sống với chú tôi ở Huế vào khi ông Bảo Đại c̣n ở hoàng cung, tôi vẫn chưa có dịp chính thức gặp gỡ ông Bảo Đại và cũng rất ṭ ṃ không hiểu ông ta thực sự ra sao.

Lúc chúng tôi bước vào căn pḥng bày biện trang nhă th́ ông Bảo Đại cũng vừa từ một pḥng khác bước ra. Ông ta mặc âu phục trắng. Ngay từ lúc ông Bảo Đại bước vào, tôi đă chú ư đến phong cách nhàn nhă của ông. ông có vẻ thân thiện, ḥa nhă và vô cùng thong thả trong câu chuyện. Ông không hề bỏ qua những câu chào hỏi thông thường để tiến vào vấn đề chính. Trong khi đó th́ chúng tôi lại hết sức nóng ḷng, không biết phải làm thế nào để t́m hiểu ngay về những điều kư kết giữa ông và người Pháp. Chẳng những vậy, chúng tôi c̣n muốn biết rơ thêm ông đang chờ đợi ở chúng tôi những ǵ?

Cuối cùng việc ǵ phải đến đă đến. Ông Bảo Đại đi vào vấn đề. Ông nói: "Chúng ta đă dành được phần nào độc lập. Tuy tôi chưa thể đ̣i hỏi Pháp phải chấp nhận tất cả những điều tôi muốn, nhưng ít ra chúng ta cũng có một cái khuôn. Chúng ta đă có một chánh phủ Việt Nam. Kể từ bước này dĩ nhiên vấn đề vẫn c̣n tùy thuộc vào họ nhiều v́ họ phải thực hiện những điều đă kư kết, nhưng một phần của vấn đề cũng tùy thuộc vào chúng ta nữa... Các ông nghĩ là các ông có thể giúp tôi thành lập chánh phủ được không?"

Đây chính là câu hỏi chúng tôi đă tự hỏi nhiều lần, nhưng ông Bảo Đại cũng không đ̣i hỏi chúng tôi phải trả lời ngay. Ông tiếp lời rằng: "Chúng ta sẽ liên lạc với nhau sau về vấn đề này." Ông Bảo Đại cũng không quên gửi lời hỏi thăm chú tôi. Ông c̣n dặn thêm rằng "Nhớ bảo với cụ Kim là lần này chúng ta phải thận trọng nếu không lại sẽ bị lừa như lần trước đây." Tôi biết ông Bảo Đại đang nói đến vấn đề Việt Minh cướp chính quyền, khi ông vô t́nh bị dụ chánh thức công nhận Việt Minh trong vai tṛ "Cố Vấn Tối Cao" của ông Hồ trước đây. Có lẽ ông muốn ám chỉ rằng chẳng phải chỉ riêng ông mà c̣n rất nhiều các đảng viên quốc gia khác cũng cùng đồng cảnh ngộ. Sau đó ông gián tiếp đề nghị rằng v́ đă cùng bị sa bẫy Việt Minh lúc trước, ông và các phần tử quốc gia lúc này nên cùng nhau hợp tác. Cảm tưởng của tôi lúc bấy giờ là: "Ông vua này có vẻ hờ hững với việc quốc gia, nhưng lập luận của ông cũng không phải là lập luận của người không hiểu biết thời cuộc và nhân t́nh thế thái." Mặc dầu qua lần gặp gỡ đầu tiên ông Bảo Đại có vẻ dễ dăi và thân thiện, trong các cuộc nói chuyện về sau ông có vẻ cương quyết hơn. ông Bảo Đại nói với chúng tôi rằng "Thật ra, chính là v́ những người như các ông và bạn bè các ông mà tôi đă quyết định cùng Pháp điều đ́nh. Việc các ông muốn tôi điều đ́nh là việc đă rơ rành rành. Giờ tôi đă làm xong việc th́ các ông phải giúp tôi. Dù rằng tôi chưa hoàn toàn đ̣i hỏi được tất cả mọi điều như ư muốn nhưng tôi cũng đă làm được một phần! Nếu các ông không chịu giúp tôi th́ tôi phải làm ǵ bây giờ?"

Đây quả là một vấn đề nan giải chẳng những chỉ cho chúng tôi mà c̣n cho cả những người quốc gia khác đă được ông Bảo Đại mời tới Đà Lạt. Chúng tôi thật là ngần ngại với những lời hứa mong manh của Pháp. Tất cả đều biết rơ người Pháp sẽ làm tất cả mọi việc trong phạm vi quyền lực của họ để tŕ hoăn, kéo dài th́ giờ hoặc chối bỏ thỏa hiệp nếu t́nh thế cho phép. Nếu Pháp tráo trở hẳn nhiên tất cả những người cộng tác lúc này sẽ bị coi là tay sai của Pháp.

Mặt khác, Anh Quốc và Hoa Kỳ đă chánh thức công nhận chánh quyền Bảo Đại và chúng tôi đă biết chắc rằng ít nhất Hoa Kỳ cũng là một trong những quốc gia sẽ đứng ra buộc Pháp phải từ từ trả lại chủ quyền cho Việt Nam. Lúc này Hoa Kỳ đă mở ṭa đại sứ ở Sài G̣n và đang đề cử một đại sứ để phục vụ ở Việt Nam. Dĩ nhiên Hoa Kỳ không ủng hộ Pháp. Hơn nữa, v́ Hoa Kỳ chính là nguồn tài trợ cho quân đội Pháp, tiếng nói của họ sẽ có rất nhiều ảnh hưởng. Chúng tôi cho rằng Hoa Kỳ lúc nào cũng ủng hộ việc Pháp trả chủ quyền cho Việt Nam và luôn tin tưởng vào những hậu thuẫn ủng hộ của Hoa Kỳ. Chẳng những vậy chúng tôi c̣n tin rằng sở dĩ Hoa Kỳ từ chối không chịu can thiệp vào năm 1945 chỉ v́ lúc đó họ chưa có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Lúc này, v́ quan hệ ngoại giao đă được thiết lập, họ đă khẳng định rằng họ ủng hộ việc trao trả lại độc lập cho Việt Nam.

Hơn nữa, ông Bảo Đại cũng đang dự định điều đ́nh với Pháp, nếu chúng tôi không chịu nhúng tay vào việc th́ c̣n ai nữa? Lẽ nào chúng tôi có thể không bị lương tâm cắn rứt và khoanh tay chờ đợi người Pháp dâng cái khay Độc Lập lên cho chúng tôi? Đó là chưa nói đến việc nếu chấp nhận việc hợp tác vào lúc này, chúng tôi c̣n có thể đ̣i hỏi thêm về sau. Chánh phủ tương lai có thể làm áp lực bắt Pháp nhường lại quyền lănh đạo của các lực lượng quân sự Việt Nam trong quân đội Pháp. Khi đó, chúng tôi sẽ có thể có một thế đứng vững vàng để đàm phán với Việt Minh. Chúng tôi cũng tin rằng đă đến ngày Pháp phải rời Việt Nam. Đây là một điều khiến chúng tôi bớt đi phần nào ngần ngại khi phải chấp nhận Giải Pháp Bảo Đại.

Cuối cùng khi xem xét rơ t́nh h́nh, chúng tôi nghĩ rằng, một bên là Pháp, một bên là Cộng Sản Việt Minh th́ Giải Pháp Bảo Đại là cơ hội độc nhất c̣n lại. Chúng tôi cùng kết luận rằng lúc này là lúc phải đứng ra chịu đựng tất cả nguy hiểm của một thái độ hợp tác với người Pháp. Tuy đă quyết định liều, chúng tôi vẫn hành động vô cùng cẩn trọng. Sau nhiều ngày bàn luận tôi và ông Sung nói với ông Bảo Đại rằng: "Chúng tôi ủng hộ việc thành lập chánh phủ và bác sĩ Quát sẽ đại diện chúng tôi tham gia chánh phủ."

Mặc dù cả ba chúng tôi đều đồng ư về việc cần hợp tác, bác sĩ Quát vẫn cảm thấy khó chịu chẳng khác ǵ chúng tôi khi phải chấp nhận một chính sách hợp tác với người Pháp.

Khi bắt tay vào việc tất cả chúng tôi đều hiểu rơ những nguy hiểm đang chờ đợi chúng tôi. Cả ba chúng tôi đều biết ḿnh đang mang những gánh nặng trên vai và sẽ khó tránh được những tiếng tăm về sau này. Đây là một tấn thảm kịch cho những phần tử quốc gia. Đang giữa lúc cả nước đều chống đối việc hợp tác với người ngoại quốc mà chính chúng tôi lại phải ra mặt hợp tác với Pháp. Đây cũng chẳng phải là tấn thảm kịch duy nhất trong cuộc đời hoạt động của những phần tử quốc gia lúc này. Rồi đây, trong những thế khó xử họ lại dần dà bị dồn vào thế phải cộng tác với người Ngoại Quốc thêm một lần nữa. Nhưng chúng tôi đă biết quá rơ cộng sản và một khi đă biết rơ về họ th́ hẳn nhiên chúng tôi chẳng c̣n đường chọn lựa. Đây quả là một tấn thảm kịch bắt buộc và không c̣n lối thoát.

Trong tất cả những nhân vật quốc gia có tiếng thời bấy giờ chỉ có ông Ngô Đ́nh Diệm là người duy nhất vẫn giữ khoảng cách với chánh phủ Bảo Đại. Có thể v́ hiểu t́nh thế rơ hơn chúng tôi nên sau vài lần gặp gỡ ông Bảo Đại, ông Diệm đă rời Việt Nam và đi Hoa Kỳ để vận động. Đây là một cuộc vận động giúp đỡ ông rất nhiều sau này.

Chỉ có một biến cố có thể khiến Giải Pháp Bảo Đại gặt hái được đa số ủng hộ và đồng thời mang lại chí phấn đấu cho các phần tử quốc gia là: Độc Lập thật sự. Nếu Pháp có thể bị buộc phải nhượng quyền lập tức th́ t́nh h́nh Việt Nam có thể sẽ thay đổi khác hẳn. Nếu chúng tôi có thể buộc được Pháp giao trả độc lập thật sự th́ những phần tử quốc gia như chúng tôi đă thành công và đạt được bằng đàm phán từ Pháp những ǵ Việt Minh vẫn chưa thể đoạt được sau bốn năm đeo đuổi bằng chiến tranh và xương máu.

Hiển nhiên, Pháp sẽ chỉ chuyển giao chánh quyền khi họ không c̣n chịu nổi áp lực liên kết của cả ông Bảo Đại, lẫn Hoa Kỳ. Tuy thế, khi đă xem xét kỹ t́nh h́nh, chúng tôi nhận ra có một cách để bẻ găy thế khóa của Pháp là để ông Bảo Đại làm áp lực với họ. Thay v́ xin xỏ, Cựu Hoàng có thể lập tức đ̣i hỏi những điều Pháp đă hứa và dồn chánh quyền thực dân vào thế nguy hiểm. Lúc này có hai lư do khiến Pháp phải cần có một chánh phủ như Giải Pháp Bảo Đại đă đề ra. Thứ nhất, họ cần chánh phủ Bảo Đại để thay thế chánh quyền Việt Minh. Thứ hai, họ cần chánh phủ Bảo Đại để thuyết phục Hoa Kỳ rằng họ thực tâm muốn trao trả độc lập cho Việt Nam.

Pháp đă cố t́nh lợi dụng ông Bảo Đại th́ chẳng có lư do ǵ khiến ông Bảo Đại phải ngồi yên mà không lợi dụng họ. Nếu Pháp đă có thể tạo ra được một Quốc Trưởng với bề mặt uy quyền th́ tại sao ông Bảo Đại lại không thể làm áp lực bằng cách tuyên bố từ chức nếu những yêu cầu của ông không được thoả măn? Đây quả là một giải pháp hấp dẫn và có hiệu lực. Nếu ông Bảo Đại có thể làm lớn chuyện th́ Pháp sẽ phải nhượng bộ hoặc Pháp sẽ phải bỏ tất cả những công tŕnh đă đầu tư vào một giải pháp quốc gia. Chẳng những đă vậy, nếu không nhượng bộ, Pháp c̣n để lộ cả dă tâm dùng chiêu bài độc lập để che mắt Hoa Kỳ. Dĩ nhiên mấu chốt của mọi sự hoàn toàn phụ thuộc vào ông Bảo Đại. Cựu hoàng có chịu đóng vai tṛ này hay không?

Càng bàn căi th́ tôi, ông Sung và bác sĩ Quát lại càng đắc ư về giải pháp này. Cuối cùng chính tôi được ủy nhiệm đưa ư kiến đến Bảo Đại. Nhưng trước khi đến gặp ông Bảo Đại tôi muốn gặp chú tôi, lúc này vừa từ Cam Bốt trở về Sài G̣n.

Tôi nói với ông chú tôi rằng: "Thật ra, ai cũng thiếu kiên nhẫn. Ai cũng sợ lâm vào t́nh trạng mất tiếng tăm khi phải hợp tác với Pháp. Ngay trong lúc này th́ ông Bảo Đại lại ung dung ở Đà Lạt nhàn cư, chỉ lo săn bắn và bà nọ, bà kia. Lúc nào ông ta cũng chỉ lo việc vui thú. Lúc này bạn bè đang nhờ cháu tới đó thức tỉnh ông ta. Chú nghĩ sao?"

Chú tôi vẫn chưa bỏ hẳn những nhận xét bi quan, hay nói đúng hơn th́ là chưa bỏ hẳn những nhận xét thực tế. Ông mỉm cười nh́n tôi rồi kiên nhẫn trả lời: "Diễm à, cháu vẫn không hiểu ông Bảo Đại. Ông Bảo Đại là một ông vua chứ nào phải là một con người cách mạng? Từ bé ông ta đă được nuôi nấng để trở thành một người không bao giờ có chủ trương hành động. Cả cuộc đời ông ta là vậy. -Không bao giờ có đủ quyết tâm hành động. Cháu không thay đổi ông ta được đâu!"

Lời chú tôi chẳng khác nào một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt. Tôi biết là ông chú tôi hiểu rất rơ về ông Bảo Đại và chú tôi dĩ nhiên có đủ lư do chính đáng để nghi ngờ. Tuy thế tôi đă quyết định thử.

Phải sau một tháng xếp đặt tôi mới có thể gặp riêng ông Bảo Đại. Một hôm, khi tôi đang ở Đà Lạt ngồi đợi điện thoại th́ bỗng có một tùy viên quân sự của ông Bảo Đại ghé vào chỗ tôi đang trú ngụ báo rằng: "Đức Ngài sẽ đi săn vào ngày mai và có ư muốn ông cùng đi." Sáng sau, tôi đi theo đoàn tùy tùng của ông Bảo Đại đi về mé những khu rừng cao nguyên.

Thú săn bắn là một đam mê của ông Bảo Đại. Ở vùng cao nguyên có những chỗ ẩn nấp được ngụy trang bằng cây bao quanh, chính là những chỗ ông Bảo Đại cùng đoàn tùy tùng ngồi cả ngày trời, đợi con mồi xuất hiện. Trải quanh chu vi hai hoặc ba ki-lô-mét, những người Thượng ở các bộ lạc trong khu vực xung quanh bắt đầu đánh trống để đuổi dần những con thú hoang về mé giữa, nơi cựu hoàng đang chờ đợi và mong rằng sẽ có cọp xuất hiện. Khi tiếng trống ở hai bên khép dần vào tôi cũng chờ đợi ở một chỗ gần ông Bảo Đại. Mặc dù những người đi săn lúc này đều đă thủ thế đứng nhắm mà tôi vẫn ngước về phía ông Bảo Đại cố suy nghĩ t́m cách gặp riêng ông ta.

Tuy đă có nhiều pha náo động trong ngày nhưng ngày đó ông Bảo Đại vẫn không săn được ǵ. Khi đợt săn kết thúc mọi người lại quay về nơi ẩn nấp. Lúc trở lại tôi thấy ông Bảo Đại đang ngồi một ḿnh ngoài hiên uống nước. Mặc dầu đă biết rằng t́nh thế lúc này bất lợi v́ cuộc săn không kết quả trong ngày, tôi thấy rằng chỉ có cơ hội duy nhất này thôi và thu hết can đảm bước ngay đến chỗ ông Bảo Đại. Tôi chuyện gẫu một lúc rồi đi thẳng vào vấn đề rằng: "Thưa Ngài, tôi mới từ Sài G̣n đến đây hôm qua. Tôi phải thưa với ngài rằng có nhiều người than phiền về vấn đề người Pháp không chịu giữ lời. Nếu chúng ta cứ thúc thủ không hành động th́ rồi đây t́nh thế sẽ khó khăn vô cùng."

Ông Bảo Đại trả lời lập tức không chút do dự rằng: "Trong việc chính trị chúng ta phải kiên nhẫn." Rơ ràng là chính ông cũng đă suy nghĩ về vấn đề cần đối phó cho thích nghi. Có thể ông cũng đă đoán ra mục đích chính của tôi khi đến đây là ǵ. Sau một lúc im lặng Bảo Đại lại nói tiếp: "Ừ, tôi cũng thấy rằng người Pháp không thực thi nghiêm chỉnh mọi việc nhưng tôi chỉ có một ḿnh... Theo ông th́ Hoa Kỳ sẽ hành động ra sao?"

Tôi trả lời rằng: "Thưa Ngài, bác sĩ Quát vẫn liên lạc với họ nhưng vẫn chưa có điều ǵ rơ rệt."

"Ừ, tôi cũng nghĩ vậy," Ông Bảo Đại tiếp lời.

Tôi đưa đẩy: "Nhưng mà... thưa ngài, chúng ta sẽ phải bó tay chờ đợi bao lâu nữa?"

"Tôi cũng không rơ," Ông Bảo Đại trả lời, "Có lẽ tốt hơn là ông nên gặp tôi khoảng vài tháng sau. Chúng ta sẽ bàn luận thêm vào lúc đó."

Lúc này tôi đă thấy chẳng thể đẩy cuộc đối thoại đi xa thêm. Có bàn luận thế nào th́ mọi sự cũng chỉ đến thế. Những nghi ngờ của chú tôi quả nhiên không hề sai trệch. Tôi trở về Sài G̣n ḷng thất vọng sâu xa và biết rơ rằng chúng tôi đă bị dồn vào ngơ bí không c̣n lối thoát. Vài ngày sau tin tức đă làm rơ hẳn mọi sự. Tin đồn bên trong chánh phủ Bảo Đại cho biết Pháp đă chuyển một số tiền khổng lồ vào trương mục của ông Bảo Đại ở Ngoại Quốc. Vài ngày sau nữa một tạp chí Cộng Sản đăng tải tin đồn về việc Pháp chuyển tiền. Câu chuyện gần như đă rơ rành rành.

Tin tức đă xác nhận toàn thể chiến lược của Pháp đối với Việt Nam lúc này. Rơ ràng là Pháp không chấp nhận việc trao trả chủ quyền cho Việt Nam. Trên lănh vực chính trị th́ họ ngăn chận, tŕ hoăn các cuộc tranh đấu. Về phương diện cá nhân th́ họ nỗ lực làm mọi chuyện để xoa dịu các đ̣i hỏi của ông Bảo Đại. Nhược điểm trùng tŕnh của ông Bảo Đại đă khiến Pháp có thể lợi dụng ông thật hữu hiệu. Khôn ngoan như ông Bảo Đại mà cũng không thoát khỏi đ̣n phép của Pháp.

Lúc đó, vào lúc 27 tuổi, tôi lại học hỏi được thêm một bài học nữa. Trong cuộc đời chính trị của riêng tôi, tuy một khuôn mẫu rơ rệt đang dần dà lên khuôn thành đậm nét mà tôi vẫn chưa hề hay biết. Tôi biết rơ ông Trương Tử Anh là người tôi có thể về cùng làm việc nhưng sự nghiệp của ông đă bị Việt Minh cắt đứt. Trong một thời gian ngắn, tôi cũng đă tin ông Bảo Đại có thể ngoi lên hàng lănh tụ Việt Nam, nhưng sau khi gặp ông trong cuộc săn bắn, những hy vọng của tôi cũng đă biến thành hăo huyền. Từ nay cho đến suốt hai mươi lăm năm sau, tôi đă từng làm việc với nhiều nhà lănh đạo Việt Nam và vẫn luôn luôn đỏ mất chẳng hề t́m thấy một người đáp ứng đúng nguyện vọng quốc gia. May thay, vào năm 1950 tôi không hề thấy trước như vậy. Cũng nhờ đó tôi chưa hề biết rằng cuộc t́m ṭi của chính tôi cũng như nhiều nhân vật quốc gia khác chỉ là những cuộc t́m ṭi do định mệnh nghiệt ngă xô đẩy.

10. Mùa Nghỉ Alpine

Kể từ năm 1951, cuộc sống tương lai của tôi vẫn hoàn toàn bấp bênh. Tuy đă biết ông Bảo Đại là người thụ động, tôi vẫn gạt bỏ những suy nghĩ bi quan của ông chú tôi và những quan niệm khách quan của ông thân để lao hết ḿnh vào các hoạt động chính trị.

Đầu tiên chúng tôi nỗ lực hoạt động để thiết lập một tổ chức chính trị mới. Tuy lúc này phần lớn tinh thần và nhiệt tâm của Đại Việt đă phục hồi nhưng dường như guồng máy điều hành đă chết hẳn. Chúng tôi cố kết hợp để t́m cách chấn chỉnh lại những tổ chức của đảng Đại Việt ở miền Bắc trước kia. Nỗ lực của chúng tôi đưa đến việc thiết lập một mặt trận quốc gia dân chủ lấy tên là Quốc Gia B́nh Dân. Tờ báo của mặt trận lúc này là tờ Quốc Dân do tôi làm chủ bút.

Đối với tôi đây quả là giai đoạn bận rộn vô kể. Tôi phải t́m người cộng tác cho tờ báo, phải viết bài b́nh luận, phải trông coi việc xuất bản, phải sắp xếp những cuộc hội họp, bàn luận, và phải trông coi đến cả việc quảng cáo. Tờ báo là cơ quan ngôn luận của đảng. Tôi hănh diện v́ có dịp được đứng vào vị trí bênh vực đường lối của đảng, chống lại chủ nghĩa cộng sản và cổ vơ những cuộc tranh đấu đ̣i hỏi Pháp phải giao trả độc lập. Tuy thỉnh thoảng chính phủ cũng có buộc chúng tôi phải dùng những danh từ nhẹ nhàng hơn nhưng chẳng hiểu sao phần nhiều những cuộc kiểm duyệt của chính phủ lại chẳng bao giờ đả động ǵ đến việc chúng tôi lúc nào cũng đ̣i hỏi "tự do lập tức."

Trong khi tờ báo xuất bản những mục b́nh luận và đ̣i hỏi dữ dội việc trao trả độc lập, tôi c̣n có cơ hội mục kích những thủ đoạn chính trị của ông Bảo Đại. Ngay lúc tôi đang loay hoay xoay sở cho tờ Quốc Dân th́ ông Bảo Đại cũng đang âm thầm vận động để đ̣i độc lập. Tuy tôi đă nh́n thấy những khuyết điểm của ông Bảo Đại qua những lần gặp trước, đây mới là lúc tôi bắt đầu nhận chân được khả năng của ông. Cách vận động của ông Bảo Đại cho thấy ông chẳng những là một ông vua Á Châu đă hiểu biết chính trị thấu triệt mà c̣n có tài điều động người khác rất tự nhiên. Lúc này ông Bảo Đại đang tận dụng sở trường của ḿnh để đương đầu với Pháp. Khả năng thiên phú của ông là tài vận động chính quyền, hoặc có lẽ đúng hơn là tài vận động các tổ chức của chánh quyền. Cách vận động của ông phần lớn dựa trên những nhận xét chính trị sắc bén cùng những nhận xét tinh tế của bản thân ông. Bất kỳ lúc nào ông Bảo Đại cũng có thể nhận rơ đích xác được tầm mức giới hạn của việc thúc đẩy Pháp. Ông là quốc trưởng do đó ông có quyền lựa chọn thủ tướng. Theo quan niệm của ông Bảo Đại th́ cách chọn thủ tướng phải ăn khớp với các giai đoạn đàm phán.

Nói chung th́ cách vận động của ông Bảo Đại là t́m mọi cách để gia tăng áp lực với Pháp. Trong giai đoạn đầu, ông Bảo Đại muốn chọn một thủ tướng có thể hợp tác gần gũi với Pháp. Nhiệm vụ của vị thủ tướng đầu tiên là thiết lập những quan hệ hợp tác giữa Pháp và chánh quyền Việt Nam sao cho tất cả mọi việc đều hướng theo ư muốn của ông. Sau đó giai đoạn đàm phán thứ hai lại phải cần những thay đổi khác trong chính phủ. Chẳng hạn như khi đàm phán những vấn đề khó khăn như vấn đề độc lập th́ phải có những thủ tướng cứng rắn, cương quyết. Mặt khác, nếu cần phải rút lui để đổi chiến thuật th́ lại phải t́m những thủ tướng mềm dẻo, uyển chuyển cho phù hợp hơn với chiến thuật. Càng quan sát cách ông Bảo Đại chọn thủ tướng, tôi lại càng tin chắc ông đă soạn sẵn danh sách của một số thủ tướng nhằm đưa ra đúng lúc những nhân vật có thể đáp ứng được những đ̣i hỏi của ông ở những giai đoạn sau. Chẳng những thế, ông Bảo Đại lại c̣n chọn thủ tướng dựa trên một nguyên tắc khác nữa: Ông thường sắp xếp Nội Các để các thủ tướng không thể dùng uy quyền bản thân chế ngự được Nội Các. Ngoài thủ tướng, lúc nào ông Bảo Đại cũng cố ư đặt thêm một nhân vật quốc gia khác có cả thực quyền lẫn óc tự chủ trong chánh phủ. Nhân vật này sẽ hoạt động cho hai mục đích: Thứ nhất, v́ có óc tự chủ ông ta khó thể nhắm mắt tuân theo mọi mệnh lệnh của thủ tướng. Thứ hai, v́ có thực tài, ông ta có thể tiếp tục điều hành chính phủ mỗi khi thủ tướng bị thay đổi và như thế sẽ giữ cho các chánh sách của chánh phủ được liên tục.

Mỗi lần ông Bảo Đại thay đổi chánh quyền là mỗi lần các đảng phái quốc gia lại bàn căi sôi sục. Những câu hỏi chính thường là: "Liệu có nên theo về với chính quyền mới hay không? Liệu chánh phủ mới có đủ cơ sở cho họ hợp tác không, hay hợp tác sẽ chỉ làm hư hao uy tín của đảng? Liệu có nên để người vào tham gia trong mọi chánh phủ không? Liệu ông Bảo Đại đang có dự định ǵ khi thay đổi chính trị trong lần này?" Nhưng bất kể họ quyết định ra sao th́ các đảng viên vẫn cứ bị thay đổi liền liền trong chính phủ Bảo Đại. Trong những chính khách quốc gia bị thay đổi lúc bấy giờ có cả Bác Sĩ Quát và ông Trần Văn Tuyên là giáo sư đă dạy tôi trước đây.

Trong chánh quyền đầu tiên của ông Bảo Đại th́ Bác sĩ Quát, người nổi bật nhất trong nhóm chúng tôi, được cử làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục. Trong chánh phủ thứ hai, ông lại được cử làm Tổng Trưởng Quốc Pḥng. Có lẽ v́ vấn đề chính cần đàm phán lần này là vấn đề phải có một quân đội Việt Nam hoàn toàn không phụ thuộc quân đội Pháp nên cương vị của Bác Sĩ Quát thật là quan trọng. Vấn đề đàm phán lần này quả là nan giải. Một mặt th́ người Pháp biết rơ chánh phủ Miền Nam cần phải có một quân đội riêng. Mặt khác, họ lại tin rằng nếu Việt Nam có quân đội riêng th́ chính quân đội Việt Nam sẽ là một mối đe dọa đối với chính quyền thực dân Pháp. Về phía Việt Nam th́ đương nhiên chánh phủ Bảo Đại cố hết sức làm áp lực để có thể tự thiết lập quân đội riêng. Giữa lúc đàm phán Pháp-Việt đang dằng co th́ một biến cố khác lại kéo tôi ra hẳn bên ngoài những hoạt động chính trị Việt Nam.

* * * * *

Khoảng một năm về trước, tôi đă thành hôn với người thiếu nữ tôi gặp trước đây khi tôi c̣n ở nhà ông chú và rồi lại có dịp gặp vào lúc sau này ở Phát Diệm. Khi tôi về Hà Nội th́ gia đ́nh cô cũng đă chuyển từ khu công giáo Phát Diệm về Hà Nội. Ở Hà Nội chúng tôi lại tiếp tục gặp gỡ tuy rằng cả hai chúng tôi vẫn chưa hề nghĩ ǵ đến vấn đề thành hôn. Ngày nọ, bỗng nhiên chẳng rơ v́ lư do ǵ, ông chú tôi bỗng hỏi riêng tôi rằng: "Tôi đă để ư đến thiếu nữ nào chưa?" Ông muốn biết xem ai là người tôi nghĩ có thể là nhà tôi sau này? Mới đầu tôi trả lời rằng: "Chưa có ai cả," nhưng chỉ vài ngày sau ông chú tôi lại nhắc đi nhắc lại vấn đề. Tuy tôi chưa rơ ông chú tôi suy nghĩ ra sao nhưng những điều ông nài nỉ đă bắt đầu làm tôi chú ư. Tôi cho rằng có thể có vấn đề ǵ đó và biết đâu đă đến lúc tôi nên suy nghĩ đến chuyện lập gia đ́nh? Dầu ǵ đi nữa tôi cũng đă 28 tuổi và nếu đời sống tôi chưa hoàn toàn b́nh thường hẳn th́ ít ra tôi cũng chẳng c̣n phải trốn tránh ở những nơi hẻo lánh hoặc lúc nào cũng phải lăm lăm thủ thế với khẩu súng lục sát lưng nữa. Cuối cùng tôi thú thực rằng tôi có nghĩ đến một người là cô Kim Ngọc, một thiếu nữ tôi đă gặp nhiều năm trước đây. Nếu tôi có lập gia đ́nh th́ cô ta sẽ là người tôi chọn.

Khi nghe tin chú tôi vô cùng hân hoan. Ông có quen với gia đ́nh cô và hoàn toàn đồng ư sự lựa chọn của tôi. Trước khi tôi biết rơ mọi sự cô tôi đă lên đường qua nhà cô Kim Ngọc để chánh thức dạm hỏi. Ít lâu sau, chú tôi sắp xếp và giữ kín mọi sự.

Nếu biết rơ câu chuyện thật đă thúc đẩy ông chú tôi chú ư đến việc hôn nhân của tôi có lẽ tôi c̣n ngạc nhiên hơn. Cũng như nhiều người Việt Nam khác, ông chú tôi cũng để ư đến vấn đề số mệnh. Ngày nọ có ông thày tướng nổi danh ghé thăm nhà ông chú tôi. Hôm đó tôi có đến nhà ông chơi nhưng không hề biết thày tướng đă xem xét kỹ mặt tôi. Khi xem tướng tôi xong, ông có thấy vài điều khác thường và có kể lại cho chú tôi nghe. Nhà tướng số bảo với chú tôi rằng cuộc sống mai hậu của tôi sẽ đầy trắc trở và nguy hiểm. Có thể tôi sẽ không sống quá một năm nữa. Chỉ c̣n một cách là lập gia đ́nh cho tôi. Nếu lập gia đ́nh th́ đường số mệnh của nhà tôi sẽ quyện vào đường số mệnh của tôi khiến nó phải chuyển hướng đi và như vậy tôi sẽ thoát khỏi chuyện dữ. Ngay ngày hôm sau chú tôi bắt đầu hỏi tôi về chuyện lập gia đ́nh.

Không hiểu lời tiên đoán của ông thày tướng số có thật sự đúng hay không nhưng ít nhất chuyện thành hôn của chúng tôi vào lúc đó thật là may mắn. Chẳng bao lâu sau khi chúng tôi thành hôn, tôi nhận được lời nhắn của ông thân rằng mẹ và chị tôi đang từ vùng Việt Minh tản cư lên Hà Nội. Ông thân tôi muốn biết liệu tôi có thể đón hai người được không? Mẹ tôi dường như đă đâm chứng sợ hăi kinh niên v́ tiếng bom rền khi Pháp dội bom ráo riết xuống khu Việt Minh. V́ vậy ông thân đă sắp xếp chuyển mẹ tôi về Hà Nội. Ông hỏi liệu tôi có đủ sức lo nổi cho mẹ và chị tôi hay không? Tôi thư ngay lại rằng ông nên để hai người qua ngay. Như thế gia đ́nh chúng tôi mới hai người bỗng biến ra thành bốn.

Một năm sau, vào tháng 5 - 1952, nhà tôi hạ sinh con gái đầu ḷng là Ngọc Lưu. Tuy việc sinh nở rất b́nh thường và đứa bé thật là khỏe mạnh, chẳng bao lâu sau bỗng nhà tôi nhiễm chứng ho lao. Lúc này, tuy bác sĩ Quát đă bước sâu vào chính trường nhiều năm, ông vẫn là bác sĩ gia đ́nh của chúng tôi. Sau khi xem xét kết quả các cuộc thí nghiệm và chụp h́nh quang tuyến X, bác sĩ Quát bảo rằng bệnh nhà tôi có thể dễ dàng biến thành "Bệnh Lao Cấp Tính." V́ thiếu thốn dụng cụ, chứng lao cấp tính không thể chữa trị tại Việt Nam. Ông khuyên rằng nếu tôi nghĩ đến nhà tôi th́ nên qua Pháp để t́m bác sĩ chuyên khoa điều trị ngay.

Lời bác sĩ Quát làm cả hai chúng tôi dao động dữ dội. Tệ hơn nữa, bác sĩ Quát c̣n nhấn mạnh rằng chúng tôi không nên mang theo con. Nhà tôi không thể tự tay săn sóc đứa bé được. Sau nhiều phen khóc lóc, bàn căi chúng tôi đành chịu. Con chúng tôi là Lưu phải ở lại với mẹ, chị tôi cùng với chú và mợ tôi tạm thời trông coi.

Sau khi đă quyết định, chúng tôi bắt đầu sắp xếp cuộc hành tŕnh. Chú tôi giúp một ít tiền, tôi bán chiếc đồng hồ vàng của ḿnh, mượn thêm tiền bạn bè và xoay sở để t́m giấy thông hành. Chúng tôi ra đi thật gấp trên chiếc Skymaster của hăng Air France và ba ngày sau th́ đến Pháp. Cuối cùng tôi đă thỏa mộng đi xa của buổi ấu thời tuy rằng t́nh cảnh lúc này thật không đúng hẳn như những ước mơ phiêu lưu tôi vẫn hằng ước ao khi trước.

Dẫu sao đi nữa th́ mùa thu 1952 ở Ba Lê đối với tôi vẫn là một điều hoàn toàn mới mẻ. Một mặt, v́ đă thấm nhuần văn hóa Pháp, tôi cảm thấy khung cảnh Ba Lê thật là quen thuộc. Mặt khác, th́ đây quả là lần đầu tôi thực sự ở Ba Lê. Tôi nh́n quanh tháp Eiffel sừng sững, đại lộ Champs Élysée và bảo tàng viện Louvre. Tôi quan sát Ba Lê với một cảm giác vừa lạ vừa quen chẳng khác nào một người đă gần gũi với văn hóa Pháp nhưng lại đang nh́n vào thủ đô qua con mắt của một người dân quê.

Ngay sau khi đến, tôi vào một khách sạn hạng xoàng gần Mont Parnasse và liên lạc với một người anh họ là một bác sĩ đă cư ngụ tại Ba Lê rất nhiều năm. Người anh họ tôi tự chẩn bệnh cho nhà tôi và sau đó sắp xếp cho nhà tôi đến gặp bác sĩ chuyên khoa. Vị bác sĩ này tiến hành ép phổi. Trong khi giải phẫu, buồng phổi yếu đă được chích thuốc mê. Giải phẫu xong, bác sĩ đề nghị đề nghị nhà tôi đến điều dưỡng ở bệnh xá Chamonix.

Chỗ bệnh xá nơi vị bác sĩ giới thiệu là một bệnh xá không những chỉ nhận bệnh nhân mà c̣n nhận cả gia đ́nh bệnh nhân nữa. Chỉ trong một thời gian ngắn, cả hai chúng tôi đều nhập viện. Nhà tôi nhập viện như một bệnh nhân đang cần điều dưỡng bệnh phổi và tôi nhập viện như người đi theo săn sóc. Khung cảnh bệnh xá được thiết lập cốt để giúp bệnh nhân giảm thiểu các hoạt động hàng ngày càng ít càng tốt. Không khí trong bệnh xá lúc nào cũng yên lặng. Tôi đi quanh khu núi non hùng vĩ, quan sát ngọn Mont Blanc sừng sững vươn cao. Tất cả tin tức đều bị cắt đứt. Thế giới bên ngoài bỗng chợt ch́m vào quên lăng. Việt Nam mới đó đang sôi sục v́ những hoạt động chính trị nóng bỏng và các cuộc đụng độ dữ dội đă lại xa dần.

Chẳng c̣n việc ǵ để làm, tôi quyết định đi học toán lại. Trường đại học Grenoble chỉ xa khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ và ban giáo sư tại đó nhận dạy một lớp tự học. Sinh viên chỉ cần thỉnh thoảng ghé vào trường và có mặt trong các kỳ thi là đủ. Tôi theo học và lại một lần nữa đưa ḿnh vào thế giới trừu tượng của toán học. Đền đài và khung cảnh yên tĩnh của Chamonix đă khiến tôi cảm thấy dễ dàng, thoải mái hơn.

Tại bệnh xá, chúng tôi gặp một đôi vợ chồng khác cũng tới đó trong một hoàn cảnh tương tự. Người vợ đang điều dưỡng bệnh lao được người chồng là giáo sư dạy Anh Văn tại Đại Học Berne săn sóc. Chẳng bao lâu sau, tôi cùng nhà tôi đă trở thành bạn thân với vợ chồng giáo sư Jacques Savarit. Ông Savarit đồng ư dạy thêm Anh Văn cho tôi. Trước đây tôi đă học Anh Văn ở Trung Học nhưng rất ít khi dùng tới. Lúc này gặp dịp rảnh rỗi, khi vợ chúng tôi nằm tắm nắng, hít thở không khí trong lành của núi, tôi cùng ông Savarit đi bộ và trèo những ngọn núi ở quanh. Chúng tôi nói tiếng Anh trong suốt cuộc đi.

Khi dạy Anh Văn cho tôi, ông Savarit đ̣i hỏi tôi phải nói tiếng Anh thật đúng. Đối với ông, Anh Văn có nghĩa là tiếng Anh của những khuôn mẫu thuần túy chứ không phải là một thứ "thổ âm Hoa Kỳ." Ông vừa cố sửa giọng cho tôi, vừa bảo tôi: "Anh phải nói tiếng Anh cho đúng." Tôi cũng viết những bài luận ngắn cho ông. Đầu tiên là những bài luận về t́nh thế ở Việt Nam là một vấn đề ông ta hoàn toàn mù tịt, rồi đến những bài luận về Somerset Maugham và cuối cùng là những màn kịch cổ như Hamlet và MacBeth mà ông ta đă bắt tôi phải đọc. Tôi cố gắng nỗ lực, vượt xa những mẫu câu khuôn thước ê a "My tailor is rich" trong quyển Assimil mà tôi đă học khi c̣n cắp sách đến trường ngày trước.

Sau khoảng 3, 4 tháng ở bệnh xá, tôi cùng nhà tôi chuyển tới một chỗ cho mướn pḥng ở một căn nhà kế cận. V́ nhà tôi không thể làm bất cứ việc ǵ ngoại trừ nghỉ ngơi, tôi trở thành người đàn ông nội trợ, nấu nướng, quét dọn, giặt dũ và đi chợ. Cuộc sống thật là phẳng lặng. Trừ một vài chuyến đi Grenoble để học toán, chúng tôi ở ngay căn pḥng mướn, nh́n tuyết rơi vào đầu mồng một tháng 11 (cả hai chúng tôi đều chưa hề thấy tuyết rơi bao giờ) và hoàn toàn ngạc nhiên khi mùa đông đến mang theo từng đợt tuyết chất đống dần dà cao đến ngang tận cửa sổ.

Dầu hoàn toàn cách biệt, tôi vẫn không mất hẳn liên lạc với Việt Nam. Vào đầu mùa đông, tôi giữ liên lạc với chú tôi hàng tuần. Theo những bức thư nhận được tôi chắc chẳng có biến cố ǵ quan trọng. Ít ra là chẳng có chuyện ǵ quan trọng qua những lá thư chú tôi gửi cho tôi. Phần nhiều chú tôi viết trấn an rằng chẳng có vấn đề ǵ đáng lo, rồi nhắc nhở chúng tôi phải ở lại cho đủ thời gian tĩnh dưỡng để nhà tôi có thể hoàn toàn b́nh phục.

Vào mùa thu 1953, nhà tôi đang trên đà b́nh phục trông thấy. Khi chẩn bệnh không thấy ǵ, khoảng đầu tháng 5 nhà tôi theo tôi đi Grenoble, nơi tôi đến thi lần thi cuối. Về chỗ ăn cơm trọ được một lát th́ tôi nhận được điện tín của bác sĩ Quát ở Việt Nam. Bức điện cho hay Bảo Đại lại vừa mới thay đổi chính phủ và bác sĩ Quát lại được cử làm Tổng Trưởng Quốc Pḥng. Hiển nhiên là giai đoạn đàm phán quan trọng đă bắt đầu. Bác sĩ Quát hỏi tôi liệu có thể về được không?

Tôi suy nghĩ suốt đêm. Nếu nhà tôi thấy cần phải ở lâu hơn tôi sẽ phải quyết định một vấn đề thật khó khăn. Mặc dầu chú tôi vẫn quả quyết đều đều rằng không có chuyện ǵ quan trọng, chắc chắn diễn biến ở Việt Nam đă đến hồi quyết liệt. Bác sĩ Quát không bao giờ đánh điện tín nếu không phải vậy. Nhưng làm sao tôi có thể về được khi nhà tôi vẫn c̣n cần tôi ở lại?

Đúng ra, tôi không cần khổ tâm suy nghĩ suốt đêm. Sáng sau, khi uống Cà Phê nhà tôi bỗng nh́n tôi nói rằng nhà tôi biết tôi đang rất mong mỏi muốn về. Nghe nhà tôi nói, tôi biết là nhà tôi đă quyết định cùng về với tôi. Tôi hết sức vui mừng và quên hẳn cả chuyện cần phải lấy chứng chỉ toán cho lớp học tôi đă cố gắng đeo đuổi suốt năm. Chúng tôi trả lại chỗ ăn cơm trọ và trở về căn gác mướn để sửa soạn hành lư cho cuộc hành tŕnh. Vài ngày sau, chúng tôi đă dành được vé trên chiếc Skymaster quen thuộc cho chuyến bay 3 ngày về Sài G̣n.

11. Lập Trường Ngoan Cố Của Pháp

Khi từ Pháp trở về, tôi lại một lần nữa trở lại với những khung cảnh chính trị đang biến đổi ở Việt Nam. Cảm giác bỡ ngỡ của tôi khi về Việt Nam lần này thật chẳng khác nào cảm giác bỡ ngỡ khi tôi từ Việt Nam sang Pháp lúc trước. Ngày về Sài G̣n tôi được cử làm Tham Mưu Phó cho Bộ Quốc Pḥng của ông Quát. Lúc này, với tư cách Bộ Trưởng Quốc Pḥng, bác sĩ Quát đang là một trong những nhân vật chính trong chánh quyền Việt Nam. T́nh h́nh cho thấy những nhận định của ông về vấn đề liệu người Pháp có thật tâm đàm phán hay không hoàn toàn chuẩn xác. Vẫn như bao giờ, những cuộc đàm phán quân sự luôn chiếm phần chủ yếu. Câu hỏi chính bao xung quanh vấn đề liệu Pháp có thể nhượng bộ cho chánh phủ Việt Nam thiết lập một quân đội riêng biệt hay không? Nếu có, tất cả những vấn đề khác sẽ được giải quyết dễ dàng.

Ông Quát lập ra một phái đoàn nhỏ do tôi và đại tá Lê Văn Kim cầm đầu để thương thuyết với Pháp về vấn đề quân sự. (Ông Kim về sau là tướng và cũng chính là một trong ba vị tướng thâm niên đă đảo chánh lật đổ ông Diệm vào năm 1963.) Vào tháng 9 năm 1953, chúng tôi bắt đầu chánh thức thương thảo vấn đề thiết lập những đơn vị độc lập Việt Nam để dần dần trở thành một quân đội riêng biệt của Việt Nam về sau này. Người đại diện thương thảo cho Pháp lúc đó là tư lệnh Henre Navarre. Trước khi cùng tư lệnh Navarre thương thảo, chúng tôi đă đặt rất nhiều hy vọng vào cuộc đàm phán, nhưng càng ngày những phức tạp khó khăn lại trổ ra càng nhiều. Tuy Pháp đă long trọng tuyên bố rằng họ sẽ thương thảo một cách nghiêm chỉnh, mà họ vẫn phân vân cân nhắc khi phải quyết định một vấn đề quan trọng như vấn đề quân sự. Trong trường hợp này, vấn đề chi tiết là việc huấn luyện và chỉ huy các lực lượng cấp tiểu đoàn Việt Nam. Cuối cùng cán cân thắng lợi đă ngả về chúng tôi: Chúng tôi được phép trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn nhưng người Pháp vẫn đ̣i quyền chỉ huy tất cả toàn thể quân đội.

Tuy rằng đây là giai đoạn Pháp đang phải đối phó với những khó khăn của nội bộ sau Đệ Nhị Thế Chiến và chế độ thực dân đă mất gần hết ảnh hưởng Pháp vẫn cố bám vào những mảnh vụn uy quyền c̣n sót lại. Mặc dù chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp đă gần ngày kết thúc mà Pháp vẫn c̣n bàn luận rất nhiều. Chẳng hạn như Pháp vẫn đưa ra giải pháp của một nước Việt Nam độc lập nằm trong "khối liên hiệp Pháp," tuy rằng chẳng ai hiểu đích xác ư nghĩa của Khối Liên Hiệp này là ǵ. Trong giai đoạn đàm phán của năm 1954, chánh quyền Pháp đă phạm phải nhiều lỗi lầm đáng tiếc. Họ không hề có ư rút lui hoặc nhượng quyền cho các phần tử quốc gia và họ cũng chưa hề định nghĩa rơ rệt vai tṛ hoặc quyền hạn của các phần tử quốc gia đă đứng ra tham gia vào chính phủ Bảo Đại. V́ chẳng bao giờ đoái hoài đến việc định nghĩa rơ ràng vấn đề, chánh quyền Pháp đă khiến các phần tử quốc gia nghi ngờ sự thực tâm của họ. Trong khi Pháp tỏ ư muốn đưa Việt Nam vào khối Liên Hiệp Pháp th́ tôi và các bạn bè khác lại nhất định bác bỏ ư kiến đó. Cuộc đàm phán của chúng tôi với Pháp trong năm 1954 thật là chán nản. Chúng tôi đă nh́n rơ được sự ngoan cố của Pháp qua thái độ của Navarre. Nếu đứng trên quan điểm quốc tế mà luận th́ lúc này Pháp nên giao trả lại độc lập cho các quốc gia nằm trong khối thực dân v́ nhiều lư do. Thứ nhất, nếu Pháp không phải lo lắng về vấn đề thực dân th́ họ có thể dồn hết tất cả các nỗ lực vào việc đối phó với các khó khăn nội bộ của chính nước Pháp sau Đệ Nhị Thế Chiến. Thứ hai, nếu Pháp tự ư giao trả lại độc lập cho các quốc gia trong khối thực dân th́ họ có thể gầy dựng được những mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp và bảo tồn được uy tín trên trường ngoại giao quốc tế. Và riêng đối với những quốc gia trong nằm trong khối thực dân bị trị chẳng hạn như Việt Nam th́ đă hẳn việc Pháp giao trả lại độc lập là một cơ hội cho phép các thành phần quốc gia có thể đóng góp một cách thiết thực vào việc xây dựng đất nước. Tuy thế, thay v́ giao trả độc lập lại cho Việt Nam th́ Pháp lại chọn giải pháp bắt buộc Việt Nam phải nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Đây quả là một giải pháp thiển cận và có hại cho cả hai bên. Lúc này, v́ đang phải chống trả với Việt Minh, chúng tôi cần có một nền độc lập thực thụ. Chúng tôi phải chứng tỏ rằng chúng tôi đă chánh thức dành được độc lập để có thể đương đầu với ông Hồ một cách hữu hiệu. Tuy vậy, lập trường ngoan cố của Pháp đă dồn các phần tử quốc gia của Việt Nam vào thế yếu và bắt buộc các tư lệnh Pháp phải bám víu một cách mù quáng vào những uy quyền c̣n sót lại. Dường như Pháp đă tối mắt v́ những nỗ lực đ̣i hỏi bướng bỉnh nhất thời và bất chấp tất cả những hậu hoạn to tát về sau. Cũng vào thời gian này, ông Bảo Đại bắt dầu làm áp lực nặng nề hơn với Pháp để đ̣i hỏi độc lập cho Việt Nam và với mục đích đó, ông chủ trương tổ chức cuộc Hội Nghị Toàn Quốc. Trong cuộc họp Hội Nghị Toàn Quốc, ngoại trừ những người Cộng Sản, tất cả các đại biểu từ những nhóm chính trị và tôn giáo quan trọng ở trong nước đều được mời tham dự. Ông Bảo Đại tỏ ư muốn cụ Kim chủ tọa buổi họp. Ông cho rằng nếu để cụ Kim đứng ở cương vị chủ tọa th́ cụ sẽ có thể dùng cương vị đó để phát động, nâng cao tinh thần quốc gia và khuyến khích, cổ động được ư kiến dân chúng trong cuộc tranh đấu dành lại độc lập.

Lúc cuộc họp mở đầu, tất cả đều phấn khởi v́ ḷng nhiệt thành tranh đấu đ̣i hỏi độc lập của các thành phần tham dự. Vào lúc phiên họp gần kết thúc cuộc bàn luận bao quanh vấn đề Việt Nam gia nhập khối Liên Hiệp Pháp trở nên sôi sục. Những người chống đối Giải Pháp Liên Hiệp yêu cầu ông Bảo Đại phải đ̣i hỏi trọn vẹn chủ quyền. Họ nhất định không chấp thuận để Việt Nam gia nhập vào khối Liên Hiệp Pháp dù là dưới bất cứ h́nh thức nào. V́ cuộc bàn căi quyết liệt diễn ra công khai trước toàn quốc, nên dư luận trong nước đă chú ư rất nhiều đến các điểm thảo luận.

Tuy vậy, có lẽ một trong những yếu tố phức tạp nhất của cuộc tranh luận đă vượt khỏi sự chú ư của toàn thể dân chúng. Yếu tố đó là yếu tố Hoa Kỳ. Lúc này, v́ tôi đang cộng tác với chánh phủ nên theo luật lệ th́ tôi không được phép trực tiếp tham gia hội nghị, nhưng v́ cụ Kim cũng là người nhà nên tôi vẫn ngấm ngầm điều hành tổ chức để giúp cụ. Trong thời gian này tôi vẫn thường có sự liên lạc với Hoa Kỳ qua những nhân viên của ṭa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n và Hoa Kỳ lúc này đă bắt đầu thực sự để ư đến Hội Nghị Toàn Quốc. Trong khi tôi đang tổ chức giúp cụ Kim và những cuộc bàn luận tại Hội Nghị Toàn Quốc đă sắp đến hồi kết thúc, th́ bỗng nhiên Giám Đốc pḥng thông tin Hoa Kỳ (USIA) tại Sài G̣n là ông George Hellyer lại mời tôi đến gặp ông ta. Tại tư thất, ông muốn hỏi tôi liệu những người đến dự hội nghị toàn quốc suy nghĩ thế nào về giải pháp Khối Liên Hiệp Pháp? Tôi tŕnh bày thái độ và những cảm xúc cuồng nhiệt của những thành phần tham dự Hội Nghị rồi nói rằng theo tôi thấy th́ đa số những người đến dự Hội Nghị Toàn Quốc đều chống đối giải pháp Khối Liên Hiệp Pháp. Sau khi nghe tôi tường thuật, ông Hellyer cho biết rằng nếu chúng tôi cần t́m hiểu thái độ của Hoa Kỳ th́ ông có thể dàn xếp cho chúng tôi đến gặp đại sứ Donald Heath. V́ lúc này tất cả đều đang muốn biết rơ thái độ của Hoa Kỳ nên chúng tôi lại hẹn gặp nhau tối hôm đó tại nhà ông Heath.

Sau khi nói chuyện với ông Hellyer, tôi vội t́m bác sĩ Quát và cụ Kim để cố gắng chuẩn bị cuộc họp. Lúc này, cuộc họp giữa chúng tôi và đại sứ Heath chỉ là một cuộc gặp riêng giữa hai bên chứ không hẳn là một cuộc họp chánh thức giữa hai chánh phủ. Tuy thế, tất cả chúng tôi đều biết rơ rằng những điều ông tiết lộ sẽ là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng rất nhiều đến các quyết định của các thành phần quốc gia trong tương lai. Đă từ lâu, ông Quát, cụ Kim, tôi cùng nhiều chính trị gia khác đều coi Hoa Kỳ như một nguồn tiếp trợ tinh thần và theo sự tin tưởng của chúng tôi th́ đồng thời cũng sẽ là một nguồn cấp dưỡng viện trợ trong tương lai. Tuy chúng tôi không rơ chính sách của Hoa Kỳ ra sao nhưng khuynh hướng chống thực dân và yêu chuộng dân chủ của Hoa Kỳ đă khiến chúng tôi xem họ là một đồng minh hiển nhiên trong cuộc tranh đấu thiết lập một đường lối rơ rệt khác với đường lối của thực dân Pháp và đường lối của cộng sản Việt Nam.

Bất kỳ là đúng hay sai, chúng tôi cũng đă đặt một niềm hy vọng lớn lao vào sự móc nối với Hoa Kỳ. Tuy chưa được Hoa Kỳ chánh thức khích lệ, niềm hy vọng của chúng tôi đă manh nha qua những lần gặp gỡ với pḥng thông tin USIA, và với các nhân viên ở toà đại sứ. Những buổi tiếp tân, những cuộc gặp gỡ riêng và những lần thăm viếng xă giao trong quá khứ đă dẫn đến nhiều cuộc tiếp xúc tốt đẹp giữa các nhân viên Hoa Kỳ và Việt Nam. Mặc dù chưa có ǵ là chánh thức trên giấy tờ cả, chúng tôi đă tự nh́n những cuộc gặp gỡ, móc nối chẳng khác nào một chứng cớ về thái độ ủng hộ của họ. Khi nhận định lại vấn đề bằng những nhận xét hiện thời th́ những cảm giác mơ tưởng tự tạo của chúng tôi lúc này nếu không phải thực sự phát sinh từ những ước ao, mong mỏi sự tiếp trợ ấp ủ đă từ lâu th́ cũng là sản phẩm của sự nhạy cảm đặc biệt của người Việt Nam khi đương đầu với những đề nghị gián tiếp. Quả t́nh, kể từ lúc đó cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn cảm thấy rằng chính sách của Hoa Kỳ, ít ra là ở một mức độ tối thiểu nào đó, nhằm vào mục đích thuyết phục những phần tử quốc gia khiến họ tin rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ họ trong việc tranh đấu dành độc lập. Tuy thế, trên một b́nh diện khác, như tôi đă t́m ra tối đó tại nhà đại sứ Heath, chính sách của Hoa Kỳ hăy c̣n rất nhiều khía cạnh phức tạp.

Cứ theo t́nh h́nh quốc tế mà luận th́ Hoa Kỳ và Pháp vẫn là đồng minh. Pháp là một quốc gia trong khối đồng minh đă cùng Hoa Kỳ đánh bại Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến. V́ sự liên kết của khối đồng minh vẫn c̣n mạnh và Đệ Nhị Thế Chiến cũng chỉ mới vừa kết thúc nên Hoa Kỳ vẫn cố tránh đẩy Pháp vào thế bí. Một mặt th́ Hoa Kỳ vẫn tuyên bố rằng họ không ủng hộ chế độ thực dân, nhưng mặt khác th́ họ lại cần duy tŕ các mối liên hệ Ngoại Giao với Pháp và khối đồng minh. V́ sự liên hệ của Hoa Kỳ đối với Pháp phức tạp là thế nên tất cả chúng tôi đều chưa đoán trước được liệu Hoa Kỳ có ủng hộ các phần tử quốc gia Việt Nam khi họ làm áp lực bắt Pháp phải giao trả độc lập cho Việt Nam hay không? Lúc này, cả Bác Sĩ Quát, cụ Kim lẫn tôi đều kết luận rằng cuộc tiếp xúc giữa ông Hellyer và chúng tôi chính là để nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề Liên Hiệp Pháp đối với Hoa Kỳ. Tầm mức quan trọng của vấn đề Liên Hiệp đă buộc họ phải khẳng định những đường lối cơ bản của họ về Việt Nam. Trong buổi họp, đại sứ Heath đă tŕnh bày vô cùng minh bạch những suy nghĩ kín đáo của Hoa Kỳ bằng những phương pháp ngoại giao hết sức khéo léo. Ông nói rằng Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam, ủng hộ những tranh đấu dành chủ quyền của Việt Nam, nhưng đồng thời Hoa Kỳ cũng là đồng minh của Pháp. Theo đại sứ Heath th́ Hoa Kỳ muốn sự hợp tác Pháp-Việt phải là một sự hợp tác tốt đẹp. Ông cho rằng những người chống đối Giải Pháp Liên Hiệp đă đi quá xa. Ông tiếp tục nói thêm rằng mối liên hệ giữa Hoa Kỳ và Pháp là một " mối liên hệ đa diện." Ông đề cập đến vấn đề đồng minh Âu Châu và khuyên rằng chúng tôi nên "mềm dẻo" hơn là "quá khích."

Những tiết lộ của ông Heath làm chúng tôi vô cùng thất vọng. Tôi tŕnh bày với ông Heath rằng chúng tôi khó thể thực hiện được những chủ trương của ông vào lúc này v́ rằng cuộc họp quốc hội đă đi đến giai đoạn chót. Khi cuộc họp với đại sứ Heath kết thúc, chúng tôi cảm thấy chán ngán đến tột cùng. Tôi c̣n nhớ Bác Sĩ Quát đă hầm hừ tức tối: "Vậy mà lúc đầu họ không chịu nói thẳng." Một gánh nặng đă thực sự đè lên tất cả.

Tất cả chúng tôi đều biết rơ tầm quan trọng qua những lời phát biểu của ông Heath. Tầm quan trọng của sự tiết lộ vượt xa phạm vi nhỏ hẹp của cuộc bàn luận về vấn đề Liên Hiệp với Pháp. Mặc dù chưa tuyên bố trực tiếp, khi nói đến Âu Châu và mối "liên hệ đa diện" giữa Hoa Kỳ và Pháp, đại sứ Heath đă đề cập rơ ràng đến giải pháp của toàn Khối Liên Minh Tự Vệ Âu Châu. Nếu áp lực của Hoa Kỳ với các phần tử quốc gia về vấn đề giữa Pháp và Việt Nam quả có ảnh hưởng đến sự hợp tác của Pháp trong việc đoàn kết liên minh th́ Hoa Kỳ nhất định sẽ phải dùng đến áp lực này. Nói một cách khác, th́ những vấn đề sinh tử của chúng tôi chẳng qua chỉ là những vấn đề trả giá của Hoa Kỳ trong quá tŕnh thực thi chánh sách toàn cầu của họ. Vào mùa thu năm 1953, việc phải đối diện trực tiếp với thực tế là một bài học hoàn toàn bất ngờ cho chúng tôi. Sự lầm lạc chẳng qua là v́ chúng tôi đă đặt quá nặng hy vọng vào những chánh sách lư tưởng mà chúng tôi cho rằng Hoa Kỳ sẽ thực thi. Đây là một bài học mà chúng tôi sẽ c̣n phải học lại sau này cùng với một sự mất mát lớn lao hơn gấp bội.

Áp lực của Hoa Kỳ đă khiến các thành viên đến họp cuộc Hội Nghị Toàn Quốc vào ngày hôm sau chấp nhận một giải pháp mềm mỏng hơn. Qua thể thức giơ tay bầu cử, tôi biết rơ rằng ngoài tôi, cụ Kim và bác sĩ Quát Hoa Kỳ cũng đă gặp riêng nhiều người khác. Hoa Kỳ đă chọn đúng thời điểm quan trọng để tiết lộ rơ thái độ của họ. Những điều Hoa Kỳ minh xác ngay trong thời điểm này đă làm các thành viên trong buổi họp mất hẳn tinh thần và thất vọng sâu xa. Lúc này ai cũng cho rằng Hoa Kỳ có thể hành động khác. Hoa Kỳ có thể làm tăng uy tín của các phần tử quốc gia cũng như buộc Pháp phải nhượng bộ thâu hẹp những lập trường bướng bỉnh bằng cách ủng hộ chánh phủ Bảo Đại. Nếu đàm phán Pháp-Việt không đạt được những điểm khả quan đáng kể th́ rất ít người Việt Nam chống cộng dám nhận định rằng giải pháp Bảo Đại khó thể là một giải pháp hữu hiệu mà các phần tử quốc gia có thể dùng để đối phó với Cộng Sản và ông Hồ Chí Minh. Trong cuộc đàm phán để đ̣i hỏi độc lập cho Việt Nam, sự nhu nhược của Bảo Đại và sự bướng bỉnh của Pháp ḥa hợp tạo thành một sự thất bại kéo dài từng bước. Vào những năm đầu của thập niên 1950, ch́a khóa của các diễn biến khác nằm trong tay Hoa Kỳ. Tuy vậy, chính sách của Hoa Kỳ, ở cả lúc đó cũng như về sau này, đều đóng vai tṛ đầy mâu thuẫn, lúc th́ làm cho mọi người tin tưởng rồi có lúc lại làm cho mọi người phải thất vọng hoàn toàn. Ngay sau khi Hội Nghị Toàn Quốc chấm dứt th́ tôi lại phải trở về Ba Lê để tiếp tục tham gia những cuộc đàm phán quân sự. Vào một mùa thu ảm đạm, tôi và đại tá Lê Văn Kim cùng đến Pháp để thương thảo với những nhóm tướng Pháp già nua lẩm cẩm qua những cuộc bàn căi dai dẳng nhàm chán. Trải qua không biết đă bao nhiêu cuộc tranh luận mà hai bên vẫn chưa đi đến một mục tiêu nào đáng kể. Rồi trong tháng 11-1953, vào một ngày rét mướt, những cuộc họp triền miên dai dẳng hốt nhiên bị cắt đứt. Tôi nhận được một bức điện từ Sài G̣n báo tin cụ Kim đă từ trần. Cụ qua đời bất ngờ v́ bệnh tim. Cuộc họp Hội Nghị toàn quốc sôi nổi với kết quả thất vọng vừa qua là hoạt động chính trị cuối cùng của cụ.

Tôi về Việt Nam vừa đúng lúc để kịp thời có mặt trên chuyến bay đưa linh cửu ông chú tôi từ Đà Lạt về Hà Nội làm quốc táng. Đám tang cụ Kim được cử hành tại Hà Nội. Theo sau các vị tăng sĩ và gia quyến, số người đưa tang từ nhà cụ tới nghĩa trang kéo dài nửa dặm. Những người đưa tang đến đọc điếu liên tục trước ngôi mộ chưa lấp và dưới ṿm trời hạ thấp dần. Tất cả những bài phúng điếu đều đề cập đến cụ Kim như một triết gia, sử gia và một người có ḷng ái quốc hơn là một chánh trị gia. Mọi chuyện liên hệ đến chánh quyền ngắn ngủi của cụ dường như đă biến thành những biến cố hoàn toàn xa mờ trong quá khứ khi cụ từ trần. Nhưng những tác phẩm của cụ lúc đó đă được xem là những tác phẩm hàng đầu trong tầng lớp trí thức của quốc gia. Sự liên hệ giữa tôi và cụ Trần Trọng Kim vượt xa sự liên hệ b́nh thường của chú cháu. Chúng tôi đă chia xẻ rất nhiều trong đời sống kể cả về mặt chính trị cũng như về những riêng tư cuộc đời. Đă rất nhiều năm, v́ hoàn cảnh chiến tranh, tôi nghĩ về cụ như người cha tinh thần đă gần gũi tôi c̣n nhiều hơn là chính ông thân sinh ra tôi. Ở một mức độ nào đó, cụ đă bị ảnh hưởng của ông cụ thân tôi trong vấn đề xem thường những thay đổi của cơi đời tạm bợ. Chính ảnh hưởng này đă khiến cụ khó thể trở thành một chính khách vẹn toàn. Trong tận cùng thâm tâm, cụ là một người ngay thẳng khuôn mẫu, cương quyết chối từ những việc cụ cho là không đáp ứng với bổn phận của cụ trong việc phụng sự quốc gia. Vài sử gia cho rằng cụ đă không nắm giữ quyền chủ động cả vào lúc đầu tiên khi tiếp xúc với Nhật lẫn lúc về sau khi cụ tiếp xúc với đảng Đại Việt. Họ cũng đúng về một phương tiện nào đó. Cụ không phải là người lănh đạo cuồng nhiệt của dân chúng hay các phong trào. Chính bản thân cụ cũng không hề nghĩ cụ là người như vậy. Ưu điểm của cụ nằm ở chỗ khác, ở một đời sống thầm kín bên trong, tạo thành do ảnh hưởng sâu đậm bởi truyền thống văn hóa Việt Nam và một tinh thần phục vụ đất nước. Có lẽ cụ đúng là một nhà nho kiểu mẫu cuối cùng của Việt Nam, một mẫu người tượng trưng cho những giá trị cổ truyền đẹp đẽ nhất. Những diễn biến nằm trong phần sau của lịch sử đă chứng tỏ sự thiếu thốn vô hạn của những phẩm chất này.

Sau khi tang lễ xong xuôi, tôi trở lại Ba-Lê để tiếp tục những cuộc đàm phán vô vị với các tướng Pháp. Một lần nữa tôi lại phải tự ḿnh ngồi vào những chiếc bàn dài, nặng nề, bàn căi hàng giờ về những vấn đề tiểu tiết lẩm cẩm. Càng ngày câu chuyện càng biến thành xa vời. Quanh bàn đàm phán người Pháp đang cố kềm hăm tinh thần quốc gia của Việt Nam trong khi ở 10,000 dặm xa cộng sản đă bắt đầu xiết chặt ngọn dây tḥng lọng tại Điện Biên Phủ. Sự thất bại của giải pháp Bảo Đại đă đưa chúng tôi vào những cuộc đàm phán mông lung, trừu tượng, trong khi thực tế chánh trị và quân sự hoàn toàn nằm ở chỗ khác.

12. Sự Lựa Chọn của Cựu Hoàng

Vào đầu năm 1954, mặc dầu cuộc chiến Điện Biên Phủ đang trên đà bất lợi cho Pháp, vẫn chưa ai suy nghĩ ǵ đến vấn đề tan ră quân sự của Pháp (thật sự th́ chưa hề có sự tan ră quân sự nào cả, kể cả sau khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ.) Tuy vậy, những hy vọng thành công bằng đàm phán giữa Pháp và chánh phủ Bảo Đại đă thật sự tiêu tan. Dư luận đă bàn bạc về việc triệu tập một Hội Nghị Quốc Tế tại Geneva để thảo luận về vấn đề Đông Dương. Một hội nghị như vậy sẽ chánh thức nh́n nhận rằng t́nh h́nh đang đ̣i hỏi những giải pháp khác tổng quát hơn. Chẳng những vậy, Hội Nghị c̣n nh́n nhận hiện trạng Việt Nam đă trở thành một vấn đề phức tạp vượt hẳn ra ngoài phạm vi của những cuộc đàm phán giữa Pháp với ông Bảo Đại hoặc Pháp và Việt Minh.

Khi hội nghị Geneva được chánh thức công bố vào tháng 2, chúng tôi không biết nên phản ứng ra sao. Một mặt th́ kiến thức ít ỏi về chánh trị quốc tế đă khiến chúng tôi cảm thấy khó chịu khi phải đương đầu với một diễn đàn lớn rộng. Mặt khác, Hội Nghị Geneva sẽ cho chúng tôi một cơ hội tốt để thoát khỏi ṿng kềm tỏa của Pháp. Kinh nghiệm điều đ́nh vào năm trước cho thấy đàm phán với Pháp là một việc đầy thất vọng và chán nản. Giai đoạn vừa qua là một giai đoạn thập phần quan trọng và theo chủ quan của chúng tôi th́ Pháp đă bỏ lỡ rất nhiều cơ hội. Nếu chấp nhận đàm phán tại Hội Nghị Geneva, chúng tôi sẽ là những thành viên chánh thức. Sau khi giải pháp Bảo Đại thất bại, hội nghị Geneva có thể sẽ cho chúng tôi một cơ hội khác. Chúng tôi có thể có cơ hội để tạo được một chánh phủ quốc gia được cả quốc tế công nhận.

V́ suy nghĩ như tế nên chúng tôi chấp thuận tham gia đàm phán ở Geneva. Cuộc đàm phán lần này ở Geneva đă đưa vấn đề Việt Nam vào trường chánh trị quốc tế nên bản thỏa hiệp mới giữa chúng tôi và Pháp bỗng trở thành quan trọng. Sau khi Pháp và Việt Nam đă đồng ư thỏa thuận tất cả những chi tiết về vấn đề độc lập th́ ông Bảo Đại trở thành quốc trưởng chánh thức đứng đầu chánh phủ. Chúng tôi đến đàm phán tại Geneva cũng với tư cách này.

V́ là quốc trưởng, ông Bảo Đại không tự ḿnh đứng ra điều đ́nh. Ông chọn ông Nguyễn Quốc Định, lúc bấy giờ đang là Ngoại Trưởng và đă từng là giáo sư dạy luật pháp quốc tế ở đại học Ba Lê làm trưởng phái đoàn. Ông Bảo Đại thiết lập căn cứ ở thành phố Evian, một thành phố gần biên giới Pháp. V́ đây là một thành phố cũng gần nơi đàm phán, ông có thể vừa quan sát kỹ lưỡng các thủ tục từ lúc ban đầu lại vừa có thể đồng thời gặp gỡ các đại biểu của nhiều quốc gia. Một trong những nhân vật nổi bật mà ông Bảo Đại đă tiếp xúc tại đây là tướng Bedell Smith, đại biểu của Hoa Kỳ. Tuy từ trước tới nay ông Bảo Đại vẫn chọn các thủ tướng theo từng giai đoạn, lần này chánh phủ mới phải được thiết lập trên một căn bản khác hẳn lúc trước. Lúc này Việt Nam đang cần một chánh phủ quốc gia thực thụ, không những chỉ để điều hành những công việc ở trong nước mà c̣n để chánh thức hoạt động trong môi trường quốc tế. Dù là bằng cách này hay cách khác th́ sau Hội Nghị Geneva Việt Nam cũng phải bước vào một giai đoạn chính trị hoàn toàn mới mẻ.

Vào tháng 7, ông Bảo Đại rời Evian và trở về Cannes, một thành phố ở phía Nam nước Pháp. Theo lời yêu cầu của bác sĩ Quát, tôi cũng theo cựu hoàng về đó để có thể cùng ông thảo luận những vấn đề liên quan đến chánh phủ sau hội nghị. Đương nhiên ông Bảo Đại đă biết rất rơ dự định của tôi về việc vận động cho Bác Sĩ Quát. Ông Quát đă hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng và đă tiếp xúc nhiều với các giới Hoa Kỳ. Uy tín của bác sĩ Quát c̣n quan trọng hơn nữa. V́ là một nhân vật quốc gia có tiếng, ông có thể cùng làm việc với tất cả các phần tử quốc gia nằm trong nhiều nhóm khác biệt để cùng lập một chánh phủ có tính cách đại diện thực thụ. Trong thâm tâm tôi cho rằng bác sĩ Quát là một người xứng đáng có thể làm Thủ Tướng được và tôi nghĩ rằng tôi có nhiều phần có thể thuyết phục được ông Bảo Đại.

Đầu tiên cụ Trần Văn Đỗ cùng đến Cannes để vận động với tôi. Cụ Đỗ vốn là một người ḥa nhă và vô cùng kiên nhẫn. Trong giai đoạn đàm phán giữa Việt Nam và Pháp trước đây, lúc tôi và đại tá Kim thương thảo việc đàm phán quân sự th́ cụ Đỗ chính là người đă tham gia các cuộc đàm phán chính trị với Pháp . Chỉ nội nói riêng về tính t́nh, cụ Đỗ cũng đă kiên nhẫn gấp bội tôi. Trong các cuộc đàm phán cụ đă nhẫn nại chịu đựng việc Pháp dùng dằng trả giá về phương diện chánh trị để có thể giải quyết vấn đề một cách ôn ḥa. Lần này cụ Đỗ đến Cannes để giúp sức và cho tôi thêm ư kiến về việc thuyết phục ông Bảo Đại.

Một hôm, khi cụ Đỗ và tôi đang cùng ăn trưa, chúng tôi bỗng nh́n thấy một người Việt Nam nhỏ thó bước vào quán ăn. Cụ Đỗ kéo tay áo tôi, nói nhỏ: "Anh coi ḱa, ông Ngô Đ́nh Luyện ḱa. Không biết anh ta làm ǵ ở đây vậy?" Ông Luyện nguyên là em út của ông Ngô Đ́nh Diệm và là người tôi chưa hề gặp gỡ bao giờ. Việc ông Luyện hiện diện ở Cannes vào lúc này đă hẳn không phải là việc t́nh cờ. Trong khi tôi ngồi tại bàn chờ đợi th́ cụ Đỗ bước lại nói chuyện cùng ông Luyện và sau đó quay lại giới thiệu hai chúng tôi với nhau. Ông Luyện đến Cannes hiển nhiên là để cố gắng t́m hiểu các kế hoạch của ông Bảo Đại và nếu có thể th́ thuyết phục ông Bảo Đại đề cử ông Diệm làm thủ tướng cho chánh phủ kế tiếp.

Tôi bắt đầu gặp ông Luyện vào hai tuần lễ sau đó. Tuy chúng tôi vẫn thường xuyên đàm luận, cả hai đều không hề đề cập đến vấn đề tranh đua giữa ông Diệm và bác sĩ Quát. Tất nhiên trong thâm tâm tôi vẫn ủng hộ bác sĩ Quát. Nhưng nếu tôi và ông Luyện chỉ tranh căi về vấn đề này th́ cả hai đều chẳng được lợi ích ǵ. Do đó, thay v́ tranh luận về ông Diệm và ông Quát, chúng tôi dành tất cả thời giờ bàn bạc kế hoạch đoàn kết tất cả các phần tử quốc gia để cùng chống cự với cộng sản Việt Minh. Tôi đă thực sự ấp ủ ư định này kể từ những ngày c̣n ở Phát Diệm. Bởi vậy, tôi mở đầu câu chuyện với ông Luyện bằng cách đưa ra ư kiến đă từ lâu ấp ủ: Thật ra, chúng ta cần có một sự đoàn kết giữa các phần tử quốc gia. Chúng ta phải cùng nhau thỏa thuận, ít nhất là về những vấn đề cơ bản trong những dự định cải cách về xă hội và kinh tế. Nếu không có một chánh phủ quốc gia liên hiệp, chúng ta sẽ không đủ sức chống lại kẻ thù chung. Vấn đề quan trọng nhất đối với tôi là vấn đề đoàn kết.

Chẳng bao lâu sau tôi biết rằng ư kiến của ông Luyện hoàn toàn khác biệt. Lần đầu tiên, khi tôi mang vấn đề liên hiệp ra bàn bạc th́ ông có vẻ thờ ơ. Đối với ông, nếu nói về những người quốc gia khác mà ông không hạ thấp phẩm giá của họ quả là việc khó khăn. Ông gọi họ là "Ce sont des intellectuels à la noix," "Những người trí thức vô dụng." Thái độ của ông Luyện thật là cao ngạo. Dưới mắt ông ngoại trừ gia đ́nh cao quí của nhà Ngô ra th́ tất cả mọi người khác đều tầm thường và đáng khinh miệt. Đây là một cá tính mà sau này tôi có dịp biết rơ rằng ông Luyện, ông Diệm và ông Nhu đều có cả.

Nhưng bất kể ông Luyện suy nghĩ thế nào, vấn đề phải đoàn kết các thành phần Quốc Gia là một vấn đề tôi nhất định theo đuổi. Tôi đă mục kích quá đủ để hiểu rơ Việt Minh là những người đối lập khiếp khủng và tàn khốc đến độ nào. V́ đă tận mắt chứng kiến cả thủ đoạn của ông Hồ và Vơ Nguyên Giáp lẫn những cách tổ chức khéo léo của họ, tôi chẳng c̣n nghi ngờ về khả năng, tinh thần phục vụ sức mạnh và sự tàn ác của Việt Minh. Tôi cũng đă thấy rơ sự ủng hộ của dân chúng đối với Việt Minh ở các vùng thôn quê nơi họ đă đánh đuổi Pháp ṛng ră 8 năm vừa qua. Hơn nữa, tôi c̣n rơ cả nhược điểm của những người quốc gia khi họ bị coi là những người hợp tác với thực dân, trong khi Việt Minh lại được cho là những người hoàn toàn yêu nước đang hoạt động để chống ngoại xâm. Đối với tôi th́ tổng kết tất cả các yếu tố cho thấy bất kể kết cục của hội nghị Geneva ngă ngũ ra sao th́ cơ hội chống chỏi trường kỳ với Cộng Sản của chúng tôi vẫn ở cương vị bất lợi. Chỉ có một chính phủ liên hiệp, kêu gọi được sự ủng hộ từ mọi tầng lớp dân chúng mới có thể thành công. Bất đồng ư kiến giữa những người quốc gia là một nhược điểm lớn lao ảnh hưởng đến vấn đề sinh tồn cuả tất cả.

Đây là những vấn đề mà bất cứ lúc nào có dịp tôi cũng cố mang ra bàn luận cùng ông Luyện. Dần dà ông Luyện mềm mỏng hơn. Khi đến giai đoạn chót của khoảng thời gian tôi ở đó th́ chúng tôi đă cùng đồng ư về một vài vấn đề. Mặc dầu giữa hai chúng tôi vẫn chưa ai đề cập đến vấn đề người nào sẽ là Thủ Tướng, cả hai đều đă đồng ư rằng việc thiết lập chánh phủ đoàn kết quả là vấn đề cần thiết. Chúng tôi cũng đă đồng ư về những nguyên tắc cơ bản của một chương tŕnh xă hội và kinh tế mà chính phủ đoàn kết tương lai cần phải thực hiện. Trước khi tôi rời Pháp về Việt Nam, ông Luyện có đưa cho tôi một b́ thơ niêm phong về cho ông Diệm. B́ thơ này, nếu tôi không lầm th́ là để nói rơ với ông Diệm về những vấn đề hai chúng tôi đă cùng thảo luận.

Trong khi chúng tôi bàn luận th́ cả tôi lẫn ông Luyện đều đă có tiếp xúc với ông Bảo Đại. Tôi không hề biết ông Luyện thuyết phục ông Bảo Đại ra sao, nhưng có một điều tôi biết rơ là ông Luyện và ông Bảo Đại là bạn học cũ. Hơn nữa, cả hai có vẻ rất hợp nhau.

Riêng phần tôi th́ những câu chuyện giữa tôi và ông Bảo Đại rất đơn giản và ôn ḥa. Vốn tính kín đáo do cả từ tính nết bẩm sinh lẫn môi trường dạy dỗ, tôi không đi thẳng vào vấn đề và không hề nói rơ tôi ủng hộ Bác sĩ Quát. Hơn nữa, tôi đă biết sơ qua về cách suy nghĩ của ông Bảo Đại. Tôi biết ông là người né tránh tài t́nh những cách đặt vấn đề trực tiếp. V́ vậy, thay v́ đặt vấn đề, tôi cố t́m cách tŕnh bày cho ông Bảo Đại một cách gián tiếp. Chúng tôi nói chuyện chung chung về t́nh h́nh Việt Nam sau hội nghị Geneva và bàn bạc liệu xem ai sẽ là người lănh đạo tốt nhất. "Theo như ngài thấy th́ ông Diệm là người thế nào?" Tôi hỏi.

Ông Bảo Đại trả lời, "À, ông Diệm cũng có thể là người lănh đạo. Anh thấy ông Diệm ra sao? Và theo anh th́ ông Diệm có được Hoa Kỳ ủng hộ không?"

Tôi đưa đẩy: "Tại sao chúng ta không thử t́m hiểu thêm từ Hoa Kỳ?"

Ông Bảo Đại đáp lời: "Có chứ, tôi sẽ làm việc đó, tôi đang làm. Ông có thể cố gắng t́m cách cho tôi biết rơ họ đang suy nghĩ thế nào chăng?"

Những cuộc bàn luận của chúng tôi đại loại thường là như vậy. -Ḍ dẫm, gián tiếp. Chỉ măi đến sau khi ông Bảo Đại đă chọn ông Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng tôi mới thực sự trực tiếp đương đầu cùng ông. Nhưng cuộc tranh căi lại không phải về vấn đề chọn lựa. Tuy rất thất vọng v́ sự chọn lựa của ông Bảo Đại, tôi vẫn chưa hề có bất cứ thành kiến nào về ông Diệm. Hơn nữa, tôi cảm thấy một phần hài ḷng v́ đă đồng ư được với ông Luyện về một vài điều quan trọng trong vấn đề thành lập một chánh phủ đoàn kết. Lúc đó, việc ông Bảo Đại chọn ông Diệm làm Thủ Tướng chỉ có nghĩa là những người c̣n lại như chúng tôi sẽ phải cố gắng hơn mới có thể thực hiện được những điều ấp ủ. Bản thân tôi, cũng như bạn bè và những phần tử quốc gia khác đều không hề có chút nghi ngờ ǵ về chuyện chúng tôi sẽ hợp tác với chánh phủ nếu không bằng cách này th́ cũng bằng cách khác.

Chuyện tranh luận giữa tôi và ông Bảo Đại là về một vấn đề khác hẳn. Sau khi ông Bảo Đại đă chọn Thủ Tướng, tôi có ghé chào ông trước khi lên đường trở về Việt Nam và hỏi rằng bao giờ th́ ông định trở về Việt Nam. Ông Bảo Đại trả lời có vẻ xa xăm: "Khi rời Trung Hoa vào năm 1948, tôi hứa rằng sẽ mang độc lập và thống nhất cho nhân dân. Nhưng theo tôi thấy th́ dường như đất nước đang bị chia đôi. (Hội nghị Geneva lúc đó đă tiến hành để chia đôi hai miền Nam Bắc.) Và ngày nào đất nước c̣n bị chia cắt th́ ngày đó tôi vẫn chưa nghĩ đến chuyện trở lại."

Lời tuyên bố của ông Bảo Đại làm tôi vô cùng khó chịu. Đối với tôi, ông Bảo Đại giữ một vai tṛ quan trọng v́ cương vị của ông là một cương vị môi giới để làm mối nối kết và dung ḥa các đoàn thể chính trị quốc gia. Vai tṛ của ông Bảo Đại lúc này là một vai tṛ thiết yếu trong việc thúc đẩy chánh quyền ông Diệm đón tiếp và hoan nghênh cả những phần tử quốc gia khác. Nếu ông Bảo Đại không chịu về nước th́ chắc chắn t́nh h́nh nội bộ trong nước sẽ có nhiều rắc rối. Không có ông, vai tṛ "Quyền Lực Tối Cao" bên trên dùng phán xét, quyết định những rắc rối trong giai đoạn sắp tới sẽ mất hẳn hiệu lực.

Tôi nghĩ thầm rằng ông Bảo Đại thật sự là một người lười biếng. Ông ta chỉ muốn ở Pháp để khỏi phải đương đầu với những việc khó khăn. Và lần này là lần đầu tiên tôi tự cho phép ḿnh thẳng thắn phát biểu cảm nghĩ riêng tư.

"Thưa ngài," tôi nói với ông Bảo Đại, "tôi xin được phép nói lên ư nghĩ riêng của tôi rằng ngài đang cố tránh trách nhiệm của ngài. Chuyện ngài vừa nói đó chẳng qua chỉ là một cái cớ mà thôi. Xin lỗi ngài nếu tôi quá nặng lời nhưng nếu ngài không trở lại bây giờ, tôi tin rằng ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại." Tôi không ngờ là những lời nói liều của tôi trong một lúc bực tức đó về sau lại có thể trở thành sự thật.

Nghe tôi nói xong, ông Bảo Đại quay mặt qua hướng khác và rồi ngồi thừ người trong im lặng. Khoảng 2, 3 phút sau, tôi nói tiếp để đập tan sự im lặng. "Dầu sao, tôi cũng hy vọng là ngài sẽ trở lại. V́ như vậy th́ ít ra tôi cũng c̣n có dịp gặp ngài." Quyết định của ông Bảo Đại khi chọn ông Ngô Đ́nh Diệm thay v́ chọn bác sĩ Phan Huy Quát là một trong những biến cố lớn lao trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Tuy vào năm 1954 vẫn chưa ai biết ông Diệm về sau sẽ là một người lănh đạo độc tài và đố kỵ, vẫn chưa ai biết sau này những quan niệm sai lệch về quyền lực của ông sẽ là nguyên nhân chính phá hủy cả chánh phủ lẫn bản thân ông ta, nhưng vào lúc này, những quan niệm tổng quát về chánh phủ của ông Diệm và Bác Sĩ Quát thật khác biệt đến độ gần như không có lấy một điểm chung.

Yếu tố nào đă khiến ông Bảo Đại quyết định lưạ chọn ông Diệm? Đây quả là một câu hỏi hấp dẫn của lịch sử. Hẳn nhiên chẳng ai nghi ngờ ǵ về áp lực từ phía Hoa Kỳ. Ông Diệm đă từng sống ở Hoa Kỳ. Tại nơi này ông ông đă nỗ lực tạo dựng, kêu gọi sự ủng hộ của nhiều nghị viên và một nhóm nhỏ gồm những nhân vật tăm tiếng của Hoa Kỳ, trong nhóm người ủng hộ ông có cả Đức Hồng Y Francis Spellman. Thái độ khinh miệt người Pháp của ông Diệm cũng đă giúp ông một phần trong việc vận động ủng hộ. Nhưng dầu là ảnh hưởng của Hoa Kỳ quan trọng thế nào đi nữa, tôi vẫn cảm thấy ông Bảo Đại chưa làm điều ǵ khác hơn những tiêu chuẩn chọn thủ tướng của ông từ trước đến nay: Dùng một người lănh đạo tạm thời cho một giai đoạn nhất định. Tôi biết ông Bảo Đại vẫn xem ḿnh là một cựu hoàng, một nhân vật có kinh nghiệm khéo léo trong việc dùng người cho đúng với thời cơ. Vốn dĩ sinh trưởng trong văn hóa Pháp, ông Bảo Đại đă biết tường tận về người Pháp. Tuy vậy, ông hoàn toàn mù mờ về Hoa Kỳ. Lúc này, mặc dù đă đến giai đoạn của người Hoa Kỳ, ông vẫn chưa hoàn toàn thấy rơ vai tṛ của họ. Trong giai đoạn tối tăm này, ông cần một người hiểu rơ và có thể đương đầu với Hoa Kỳ. Theo ư tôi th́ ông Bảo Đại cho rằng ông Ngô Đ́nh Diệm là người có thể đảm đương việc này -và như thế- ông Diệm đích thực là nhân vật chính của giai đoạn đó.

Những diễn biến về sau đă cho thấy việc ông Bảo Đại đề cử ông Diệm làm thủ tướng là việc đào hố để chôn chính ḿnh. Tuy vậy, chính bản thân ông Bảo Đại lúc bấy giờ cũng chưa hề để tâm ngờ vực ông Diệm. Ông Bảo Đại vẫn cho rằng nếu ông Diệm là một người đă phục vụ trong nội các triều đ́nh vào những năm đầu của thập niên 1930 th́ theo cách cư xử vua tôi ông Diệm chẳng thể nào lại nghĩ đến việc lật đổ ông. Trái lại, ông Bảo Đại lại cho rằng vị tân thủ tướng cũng sẽ chỉ đóng một vai tṛ tạm thời và vai tṛ này rồi đây sẽ được ông thay thế. Đây là việc ông Bảo Đại đă làm nhiều lần. Và chính tôi lúc đó cũng không hề biết ǵ hơn ông Bảo Đại về ông Diệm hoặc những ảnh hưởng của ông Diệm trong chính trường Miền Nam về sau.

Một trong những việc đề cử đầu tiên của ông Diệm là đề cử cụ Trần Văn Đỗ làm Ngoại Trưởng. Đối với tôi việc này chứng tỏ rằng những điểm đại cương trong chính sách do tôi và ông Luyện soạn thảo khi trước đang được thi hành. Cụ Đỗ vốn có họ hàng thông gia với ông Diệm, (Ông là chú của em dâu ông Diệm.) nhưng cụ cũng chính là một nhân vật trong nhóm của bác sĩ Quát. Tôi cũng mong gặp ông Diệm, chuyển cho ông lá thư của ông Luyện và cùng ông xem xét những điểm thỏa thuận giữa em ông và tôi.

Trước khi đến gặp ông Diệm, tôi chưa hề để tâm dự đoán bất cứ điều ǵ. Bản thân tôi đă dành cho vị tân thủ tướng rất nhiều kính trọng và tin tưởng rằng ông là một chính khách thật sự có tài. Tôi đoán rằng trong cuộc gặp gỡ có lẽ ông Diệm sẽ bàn luận chi tiết về những vấn đề mà tôi đă cùng ông Luyện soạn thảo để có thể t́m những phương pháp đoàn kết lực lượng hữu hiệu nhất.

Nhưng trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa tôi và ông Diệm ở dinh Gia Long vào cuối tháng 7, những mong mỏi ngây thơ của tôi hoàn toàn tiêu tan. Lúc vừa mới bước vào văn pḥng của ông Diệm, tôi đă biết ông Diệm không hề có ư định cùng tôi bàn luận hoặc trao đổi tư tưởng ǵ cả. Tuy ông vẫn đối xử với tôi đúng theo lễ của một người khách, ông Diệm chẳng chút dấu diếm rằng ông đang vô cùng bận rộn. Ông Ngô Đ́nh Nhu là em và cố vấn chính của ông Diệm ra vào liền liền, chốc lại cắt đứt câu chuyện của chúng tôi để th́ thào bàn bạc với ông Diệm hoặc lưu ư ông về những giấy tờ mà ông cần kư. Khi tôi chuyển cho ông Diệm lá thư của ông Luyện, ông chỉ xem qua loa rồi đưa ngay cho ông Nhu đọc vội đọc vàng. Tuy thế, cả hai đều không muốn thảo luận ǵ cả. Khi ra về, tôi nhắn rằng Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đang chờ tôi ở Geneva để tiếp tục các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Pháp nên tôi hy vọng cuộc gặp gỡ lần sau được sắp xếp càng sớm càng tốt.

Khoảng 3, 4 ngày sau, tôi về đợi tin, nhưng khi có tin th́ tin tức không hề đả động ǵ đến việc gặp gỡ. Hơn nữa, một tùy viên của ông Diệm c̣n nhắn rằng tôi không nên đi Geneva mà phải ở Sài G̣n chờ thêm chỉ thị. Chuyến đi Âu Châu của tôi v́ vậy đă bị hủy bỏ và tôi tiếp tục ở lại đợi chờ. Chẳng bao lâu sau, tôi tự nhận thấy rằng chẳng c̣n lệnh ǵ nữa. Chính cả hai, ông Diệm và ông Nhu đă không muốn tôi trở về Geneva, lại cũng chẳng muốn bàn bạc ǵ thêm với tôi ở Sài G̣n.

Việc những biến chuyển này đă làm tôi dao động đến thế nào thiết tưởng là việc không cần phải nói. Tuy rằng tôi rất buồn bă khi những vận động ủng hộ cho bác sĩ Quát thất bại, tôi đă dấu diếm thất vọng bằng cách núp sau chiếc mặt nạ hy vọng rằng chúng tôi dầu sao cũng có thể hợp tác với chánh quyền ông Diệm. Lúc này, ngay đến cả ảo ảnh đó cũng bị tước đi khiến những nhược điểm của bản thân tôi bỗng nhiên lộ rơ. Tôi suy ngẫm và tự thấy rằng tuy đă 31 tuổi mà tôi vẫn c̣n là người mới bắt đầu bắt tay vào nghề, tôi hăy c̣n quá chơn chất và lư tưởng. Trong thế giới chính trị, mọi việc luôn luôn biến chuyển khác hẳn với những điều tôi suy đoán. Tuy rằng lúc này mọi người đều thấy rơ rằng Miền Nam cần phải thiết lập một chánh phủ đoàn kết và cần phải có những cải cách xă hội cũng như kinh tế để kêu gọi dân chúng ủng hộ. Nhưng những quan niệm về mục tiêu chính trị và những tham vọng cá nhân của những nhân vật lănh đạo là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Tôi bắt đầu suy nghĩ rằng có lẽ việc phụng sự đất nước chỉ là một nghệ thuật đ̣i hỏi người tham gia phải vận động bằng cách này hay cách khác để chuyển dần ư kiến vào đầu óc của những nhân vật do định mệnh sắp xếp giữ phần quyền thế. Đây là một nghệ thuật mà tôi sẽ có nhiều dịp thực tập sau này khi ông Thiệu và ông Kỳ bước dần lên những nấc thang uy quyền. Sau trận Điện Biên Phủ th́ hiệp định Geneva được kư kết, Việt Nam chánh thức bị chia làm hai phần, một do Việt Minh lănh đạo, một do Pháp cầm đầu gọi là quốc gia Việt Nam dưới quyền Bảo Đại. Có lẽ sau trận Điện Biên Phủ th́ hầu hết các phần tử quốc gia đều mang một cảm giác nửa vui mừng, nửa đắn đo, ngần ngại. Đây là một trong những trận chiến đáng kể mà Pháp bị bại trận hoàn toàn và theo lẽ th́ tất cả những người tham gia vào các phong trào chống Pháp phải lấy làm hănh diện. Tuy thế các phần tử quốc gia lại biết rơ rằng kẻ thắng cuộc chính là đối thủ của tất cả. Nhưng nếu chỉ nói riêng về vấn đề đất nước bị phân đôi th́ vấn đề phân cách hai miền Nam Bắc đối với những người quốc gia là một cơ hội nhiều hơn là một sự mất mát. Đây là cơ hội Miền Nam có thể lợi dụng để thiết lập một chánh quyền không cộng sản được quốc tế ủng hộ. Phân đôi đất nước đă cho những phần tử quốc gia một cơ hội mà trước đây khi Việt Minh nắm quyền, họ vẫn chưa bao giờ đạt được.

Mặc dù vậy, cơ hội này vẫn hoàn toàn tùy thuộc vào thiện chí và tài lănh đạo của ông Ngô Đ́nh Diệm. Buồn thay, kinh nghiệm đầu tiên của tôi với ông Diệm và ông Nhu lại là một kinh nghiệm điển h́nh thể hiện tất cả những hành động hợp tác giữa họ với bất kỳ ai mà họ cho là người ngoài. Và người ngoài, nói tóm lại, là bất cứ ai không thuộc gia đ́nh nhà Ngô. Sau một thời gian, tôi thấy rằng những phương pháp gia đ́nh trị, loại trừ tất cả người ngoài được thể hiện rơ ràng nhất qua ông Nhu mặc dầu chính bản thân ông Diệm cũng không hề tỏ ư bác bỏ những đường lối này. Tất cả những phần tử quốc gia có đầu óc tự lập đều cảm thấy áp lực của một sự khinh miệt nặng nề. V́ vậy, vào những năm 1954, 1955, đáng nhẽ ông Diệm phải cố t́m cách để tận dụng tất cả những ủng hộ của các phần tử quốc gia và gây thêm thiện cảm th́ chính ông và gia đ́nh ông lại t́m cách gạt bỏ các phần tử quốc gia và gây thêm thù nghịch.

Đối với Miền Nam Việt Nam th́ đây là một tấn thảm kịch, một cơ hội bị lăng phí hoàn toàn v́ sự thất bại của các thành phần lănh đạo. Nếu những nhược điểm bẩm sinh của ông Bảo Đại đă phá hủy cơ hội thành công của những phần tử quốc gia trong công cuộc chống Pháp th́ những lỗi lầm của ông Diệm và ông Nhu đă chặn đứng cơ hội xây đắp một nền quốc gia dân chủ để có thể kháng cự hữu hiệu với các lực lượng của Cộng Sản Việt Nam. Hậu quả là Miền Nam Việt Nam bắt đầu khai nguyên một giai đoạn độc tài chỉ có mỗi một điểm son duy nhất đáng kể là khuynh hướng chống Cộng. Rồi đây trong suốt hai thập niên lịch sử dai dẳng, diễn biến ngày càng tỏ rơ rằng nếu muốn đoàn kết tất cả mọi tầng lớp mà lại chỉ có một yếu tố duy nhất là khuynh hướng chống Cộng th́ tự yếu tố này không thể nào hội đủ tất cả các điều kiện cần thiết.

Kể từ khi ông Diệm mới bắt đầu nắm quyền, Hoa Kỳ đă nhận thấy rằng những quan niệm gia đ́nh trị của ông Diệm là nguyên nhân chính khiến việc thiết lập chính quyền biến thành phức tạp. V́ vậy, trong khi giúp đỡ ông thiết lập chính quyền họ đă làm áp lực bắt ông phải mở rộng chánh phủ. Ông Edward Lansdale, cố vấn riêng của ông Diệm đă cẩn thận mở rộng liên lạc với các nhân vật quốc gia khác. Cố vấn Lansdale và đặc sứ Joseph Collins, đại biểu đặc biệt của tổng thống Eisenhower vẫn thỉnh thoảng liên lạc với Bác Sĩ Quát. Tôi cũng thường có mặt trong các buổi gặp gỡ. Theo tôi thấy th́ cả hai viên chức Hoa Kỳ đều tỏ vẻ quan tâm đến những ư kiến hoặc lời phê b́nh của chúng tôi. Mặc dù họ chưa hề đề cập trực tiếp với ông Diệm, cả hai viên chức Hoa Kỳ vẫn cố gắng t́m cách bắt ông Diệm mang thêm những đại biểu bên ngoài vào chánh phủ.

Vào năm 1956, cả cố vấn Lansdale lẫn đặc sứ Collins đều đă toan tính giảng ḥa những mâu thuẫn giữa ông Diệm và bác sĩ Quát. Họ cố thuyết phục ông Diệm bổ nhiệm bác sĩ Quát vào chức vụ Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Bác sĩ Quát đă từng làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng cả hai nhiệm kỳ dưới thời Bảo Đại và đă từng tổ chức thiết lập quân đội Việt Nam chánh qui. Ông là một người có nhiều kinh nghiệm trong việc thiết lập lực lượng quân sự. Việc bổ nhiệm bác sĩ Quát làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng là một việc lưỡng toàn, vừa có thể mang lại những kinh nghiệm cần thiết đang thiếu thốn trong chánh phủ lúc này, lại vừa có thể khởi đầu việc hàn gắn lại sự liên hệ giữa ông Diệm và những nhân vật quốc gia khác. Đă có lúc cố vấn Lansdale viết cho tôi rằng mọi việc đều tiến triển êm xuôi "theo như chúng tôi đă hoạch định." Nhưng cuối cùng, tất cả những nỗ lực của cố vấn Lansdale và đặc sứ Collins đều sụp đổ. Nếu chúng tôi không lầm th́ sự thất bại của cả hai đều do áp lực của ông Ngô Đ́nh Nhu.

Những thất bại lần này đă khiến hy vọng của riêng tôi trong việc tham gia đóng góp vào chánh quyền Miền Nam hoàn toàn chết hẳn. Tôi đă cố gắng ngồi yên đợi chờ, mong mỏi các diễn biến chuyển hướng cho phép tôi đóng góp một phần nào. Nhưng quyết định của ông Diệm về việc gạt bỏ bác sĩ Quát đă khiến tôi thấy rơ rằng những biến chuyển tôi đang đợi chờ thực sự chỉ là ảo ảnh. Tuy tôi đă từng cộng tác với chính quyền nhiều năm, giờ đây sự nghiệp chính trị của tôi bỗng bị cắt đứt. Việc này có nghĩa là tôi phải t́m cách mưu sinh trong những môi trường hoàn toàn khác hẳn môi trường chính trị. Trong khi xoay sở, cố t́m cách mưu sinh, tôi đă có dịp quan sát ông Ngô Đ́nh Diệm cùng gia đ́nh tóm thâu dần guồng máy chính quyền.

13. Ông Diệm và Các Thành Phần Đối Lập

Khi chánh quyền ông Diệm thực sự củng cố chánh quyền th́ những phần tử quốc gia như chúng tôi ở bên ngoài thường vẫn thảo luận với nhau. Tất cả đều cố t́m cách mở rộng các hoạt động chính trị, hoặc t́m cách thúc đẩy Hoa Kỳ lay chuyển ông Diệm đi vào một khuynh hướng nào đó tốt đẹp hơn. Chúng tôi đă tiếp xúc với các nhân viên Hoa Kỳ và ngay cả sau khi những cố gắng Lansdale-Collins đă thất bại, những cuộc tiếp xúc giữa những phần tử quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn liên tục nối tiếp. Chúng tôi hy vọng có được một quốc hội tự do, một cuộc tổng tuyển cử tự do, hoặc là những phương pháp khác cho phép chúng tôi thỏa măn những mong mỏi xây dựng và bảo vệ đất nước. Lúc này, tất cả các thành phần quốc gia đứng ngoài chánh phủ đều bị dồn vào một tư thế thụ động bất đắc dĩ. Kể từ sau đệ nhị thế chiến, họ là những người lúc nào cũng ấp ủ hoài băo xây dựng độc lập cho Việt Nam. Nhưng giờ đây, khi đất nước vừa mới dành được phần nào độc lập th́ chính chánh phủ lại ngăn chận, không cho họ đóng góp.

Tuy tất cả các phần tử quốc gia đều cố gắng thực hiện những điều ấp ủ, chúng tôi vẫn chẳng t́m được kẽ hở nào cả. Ông Diệm đă lấp tất cả mọi cơ hội trong khi ông Nhu thiết lập một guồng máy chính trị cá nhân nhằm chánh thức gạt bỏ tất cả những người có tinh thần tự chủ. Lúc này, tôi đă thật sự là một kẻ bàng quan hơn là một người trong cuộc. Tôi đă chánh thức bị loại khỏi chánh trường từ thời gian này cho đến tận năm 1963. Bởi thế, tôi đă có dịp quan sát giai đoạn phôi thai của chính quyền ông Diệm qua đôi mắt của một kẻ thất vọng đứng ngoài.

Đầu tiên th́ vấn đề chống đối chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm khởi thủy từ nhóm B́nh Xuyên và các giáo phái vũ trang của Cao Đài, Ḥa Hảo. Những nhóm này bị lực lượng của ông Diệm tấn công đè bẹp. Sau đó những đ̣i hỏi tự trị của họ bị tiêu diệt tận gốc. Tôi vốn không ưa những tổ chức với lực lượng quân sự. Đối với tôi th́ việc các lực lượng quân sự riêng rẽ chỉ trung thành với cấp chỉ huy của họ không phải là một việc mà chính quyền có thể chịu đựng được. Tuy vậy, phương pháp đàn áp của ông Diệm đă khiến vấn đề biến thành phức tạp. Theo ư tôi, th́ đàm phán và thuyết phục vẫn là một giải pháp tốt hơn. Nếu biết áp dụng đàm phán đúng mức, chính quyền sẽ đạt được những thỏa thuận tốt đẹp và thu hút được những nhóm đối lập vào guồng máy của chánh phủ. Khi có người nói với tôi rằng phương pháp đàn áp bằng quân sự của ông Diệm rất hữu hiệu th́ tôi trả lời rằng: Có thể ông Diệm đă thành công trong nhất thời nhưng rồi đây những phẫn khích của các đoàn thể bị đàn áp sẽ khiến công cuộc tranh đấu chống cộng, một cuộc tranh đấu lâu dài và đáng kể nhất, phải chịu nhiều bất lợi lớn lao.

Vào mùa hè năm 1955, ông Diệm quyết định lật đổ ông Bảo Đại. Ông Diệm dùng cuộc trưng cầu dân ư để thực thi ư định. Mục đích chính của cuộc trưng cầu dân ư là để chuyển hướng chính trị Việt Nam từ một thể chế quân chủ sang một thể chế dân chủ, nhưng một mục đích khác là để lật đổ ông Bảo Đại. Lúc đó, nhiều nhân vật quốc gia đă cho là chính ông Nhu hoàn toàn chủ động. Chúng tôi đă nh́n rơ người em ông Diệm là một con người thật sự tâm cơ. Có thể chính ông Nhu đă thấy rơ sự đe dọa của ông Bảo Đại hơn là ông Diệm. V́ rằng dù có nghĩ thế nào về Bảo Đại đi nữa th́ chính bản thân ông Diệm cũng đă từng có tiếng là người tôn trọng đạo đức cổ truyền. Nhưng chính người liên lạc giữa ông Diệm và Hoa Kỳ là cố vấn Lansdale cũng đă góp phần quan trọng vào việc vận động cho cuộc trưng cầu dân ư. Lúc này, Hoa Kỳ cho rằng cuộc trưng cầu dân ư là một việc tất yếu (như Lansdale đă tiết lộ với tôi về sau) để củng cố những bước đầu tiên của chính quyền dân chủ Miền Nam. Vào ngày 23 tháng 10, sau cuộc trưng cầu dân ư, 98.2% bầu cho ông Diệm và nền dân chủ mới. Chỉ riêng con số 98.2% cũng khiến người ta thấy rơ dân chúng Miền Nam đă thực sự bỏ phiếu ra sao.

Trong năm đầu tiên của chánh quyền ông Diệm c̣n một biến cố lớn lao khác là một chiến dịch được gọi là "Chiến Dịch Tố Cộng." Đây là một chiến dịch toàn quốc nhằm tiêu diệt những thành phần Việt Minh c̣n sót lại tại Miền Nam sau hiệp định Geneva. Tuy rằng khi Việt Minh quay về Miền Bắc củng cố lực lượng, họ quả có để lại những căn cứ tại Miền Nam, nhưng trong khi tiêu diệt các căn cứ này, ông Diệm đă đàn áp một cách không cần thiết và gây ra những chống đối lớn lao. Chẳng những chiến dịch đàn áp đă ráo riết mà ngay cả các thể thức hành động của các chiến dịch tố cộng cũng làm nhiều người chán ngán. Áp lực tố cộng đă đưa đến nhiều trường hợp hàng xóm và người quen bị buộc phải tố cáo lẫn nhau. Khung cảnh chẳng khác nào những cảnh tuyên truyền và khủng bố mà cộng sản đă phát động trước đây.

Tuy chính sách của ông Diệm là thế mà ông vẫn thành công rực rỡ trong những năm đầu ở nhiều bước quan trọng. Ông đă đập tan các lực lượng quân sự của các đoàn thể đối lập, đă lật đổ được ông Bảo Đại và gạt bỏ được tất cả những người không đồng quan điểm ra ngoài chánh phủ. Trong khi đó ông Nhu thiết lập đảng Cần Lao, một đảng phái chính trị độc quyền trong các hoạt động chính trị và chỉ trung thành với chính cá nhân anh em nhà họ Ngô mà thôi.

Mục kích mọi sự qua đôi mắt của một người ngoài cuộc quả là một kinh nghiệm đặc biệt. Theo tôi thấy th́ những chính sách của ông Diệm lúc này đang chuyển đất nước về một hướng có thể đưa tới nhiều chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia. Thay v́ đoàn kết, mỗi bước ông đi là một bước đưa đến chia rẽ. Thay v́ hỗ trợ lẫn nhau bằng những liên hệ tương quan, mỗi chính sách ông đề ra là một chánh sách nhằm chia cắt mọi đoàn thể. Vào lúc này, việc tự tạo ra những kẻ thù bên trong là việc tự tạo cho ḿnh nhược điểm, nhất là vào khi những kẻ thù bên ngoài lại hoàn toàn hung hiểm và tàn độc. Những chính sách liên tục tiếp liền của ông Diệm ngày càng đem lại sự thất vọng cho những người bị buộc phải bàng quan thúc thủ như chúng tôi, những người vốn dĩ đang ở cương vị hành động bỗng bị chuyển thành những attentistes -những kẻ chùm chăn đợi chờ- Mặc dù đợi chờ được tới mức nào th́ cũng không ai được rơ.

Vào năm 1951, tôi đă không c̣n đủ khả năng để đợi chờ. Lúc này, tôi cùng nhà tôi đă tiêu hết không c̣n lấy một xu để dành. Dù là bằng cách này hay cách khác, tôi cũng phải t́m kế mưu sinh. Trong khi tôi lần ṃ t́m việc th́ một người bạn tôi đề nghị rằng tôi nên làm một cuốn phim. Theo ư người bạn này th́ một cuốn phim về chiến tranh mang nội dung thông điệp chính trị sẽ có nhiều hy vọng thành công, nhất là khi cuộn phim có phẩm chất cao và là kết tinh của một nỗ lực đáng kể. Phim ảnh Việt Nam lúc đó chưa đạt đến mức độ hội đủ tiêu chuẩn của các sản phẩm quốc tế. Nếu có thể ḥa hợp được kỹ thuật tinh vi cùng những nhiều diễn biến và một câu chuyện t́nh tiết biết đâu chúng tôi có thể tạo ra một tác phẩm hấp dẫn đáp ứng đúng với thị trường. Tất cả mọi ư kiến đều đi đôi với sáng kiến của người bạn, rồi th́ những suy tưởng về công việc làm phim đă khiến tôi thích thú. Trước tiên, hẳn nhiên là tôi phải t́m cách xoay tiền.

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy ḿnh có thể mượn tiền rất dễ dàng từ bạn bè và những người đầu tư riêng để tiến hành công việc làm phim. Khi nh́n vào danh sách những người hậu thuẫn ủng hộ, tôi thấy ḿnh dường như đă mượn được tiền của cả nửa thành phố Sài G̣n. Nợ tiền của dân Việt Nam không cũng chưa đủ, v́ vững tin vào những kinh nghiệm kỹ thuật điện ảnh hiện đại của người Phi, tôi c̣n mướn thêm một đạo diễn và một toán chuyên viên Phi Luật Tân để lo liệu về vấn đề kỹ thuật. Hơn nữa, khi mướn các chuyên viên Phi, chúng tôi có thể làm một ấn bản đồng thời bằng tiếng Phi và cuộn phim do đó sẽ có một thị trường rộng răi hơn.

Việc làm phim mất hết một năm rưỡi. Chúng tôi được quân đội Miền Nam hợp tác trong việc dàn cảnh những cuộc đụng độ. Tuy rằng phải đối đầu với những khốn khó trong việc làm một cuốn phim thương mại, cuối cùng chúng tôi vẫn cho rằng ḿnh đă tạo nên một sản phẩm có giá trị: Một cuốn phim đầu tiên của Việt Nam qua kỹ thuật điện ảnh hiện đại, tân kỳ nhất vào lúc bấy giờ.

Cuốn phim mang nhan đề là: Chúng Tôi Muốn Sống. Mặc dù cứ theo những hoàn cảnh thô sơ của điện ảnh thời bấy giờ th́ phẩm chất của cuốn phim rất cao, nhưng việc mang cuốn phim vào thị trường thương măi đă thất bại nặng nề. Do rất nhiều lư do (có vài lư do mà cho đến nay tôi vẫn hoàn toàn chưa hiểu rơ) ấn bản tiếng Phi không hề đem lại bất kỳ lợi tức nào cả. Trong thị trường Việt Nam th́ mặc dầu cuốn phim được hoan nghênh như là một thành công, nhưng số tiền thâu được ở thị trường Việt Nam kém xa số tiền chi dùng vào việc sản xuất. Khi mọi sự đă đâu vào đấy, tôi thấy ḿnh lại tự quàng vào người một món nợ cao đến hàng triệu.

Đây không c̣n là lúc để thử thách những cơ hội mới. V́ phải đương đầu với mọi nợ nần khó khăn, cả nhà tôi lẫn tôi đều phải đi làm. Nhà tôi xoay sở được chân đứng bán thuốc cho một cửa hiệu thuốc tây và tôi t́m được chỗ dạy toán ở một trường tư thục Sài G̣n. Những khổ sở tinh thần thật muôn vàn khó nhọc, nhưng ít ra chúng tôi cũng có một nguồn tài chánh đều đặn. Lần hồi chúng tôi lại t́m đường thoát ra khỏi đáy vực hố sâu mà tôi đă tự đào cho gia đ́nh.

Vào cuối thập niên 1950, v́ những chánh sách độc tài và đố kỵ của ông Diệm, gần như tất cả hoạt động của mọi đoàn thể trong nước đều có dính dáng đến chính trị. Ngay cả ngôi trường trung học tôi dạy cũng không tránh khỏi ngoại lệ này. Mọi người trong ban giảng huấn, kể từ hiệu trưởng trở đi đều chống đối chế độ nếu không ở phương diện này th́ cũng ở phương diện khác. Hoàn toàn do sự t́nh cờ, tôi lại tới dạy tại một nơi với toàn những người chống đối chính phủ. Một trong những giáo sư mà tôi quen biết khá thân là người chống đối ông Diệm dữ dội. Chính anh đă tổ chức một mạng lưới bạo động rất hiệu lực và đă tuyển mộ được nhiều người trong khắp cả Miền Nam gia nhập. Tên anh là Phan Châu và anh phụ trách dạy môn Văn Chương. Tuy vậy, nghề giáo chỉ là một lớp mặt nạ phía ngoài.

Anh Phan Châu trở thành một nhà cách mạng mà nhiều người trong các đoàn thể chống đối biết rơ. Anh đứng đầu một tổ chức hoạt động ở Nha Trang. Anh rất căm hờn ông Diệm và cố tạo mọi cơ hội để có thể tấn công chánh quyền ông Diệm về mọi mặt. Đầu óc anh Châu lúc nào cũng đầy ắp những chuyện cách mạng. Sau khi chúng tôi biết nhau, anh vẫn thỉnh thoảng ghé vào chỗ tôi vào ban đêm, đôi khi anh mang đến một bao đầy ḿn plastique. Mỗi lần anh đến là mỗi lần nhà tôi kinh hăi. -Câu chuyện của anh Châu kết thúc cũng bất ngờ như những câu chuyện tương tự vào lúc đó. Một hôm, chúng tôi không thấy anh đến dạy mà cũng không thấy anh nhắn lại. Đây là một việc chưa hề xảy ra bao giờ. Cả ban giảng huấn đều sợ đă xảy ra chuyện ǵ rồi. Từ đó, chúng tôi chẳng c̣n nghe tin tức ǵ về anh nữa. Ít lâu sau, người ta phát hiện chiếc xe của anh bỏ rơi tại một vùng ruộng dưới miền Lục Tỉnh. Dần dà cảnh sát ch́m ngấm ngầm thừa nhận rằng chính họ đă thủ tiêu anh Châu, một lời đe dọa không chút dấu diếm với những người đối lập khác.

Đối với những người không quen thuộc với t́nh cảnh Việt Nam lúc này th́ câu chuyện Phan Châu có vẻ là một hiện tượng lạ, nhưng thật sự th́ anh ta là một trường hợp điển h́nh cho một lớp người trong xă hội Việt Nam lúc bấy giờ. Vừa là trí thức, cách mạng, vừa hoạt động bất hợp pháp, lại vừa yêu nước, anh Châu chính là một người đă hiến dâng tâm hồn cho lư tưởng và đất nước. Trong một giai đoạn ḥa b́nh nào khác có lẽ anh đă sống một cuộc sống thật b́nh thường, nhưng trong giai đoạn hiện tại t́nh thế đă ngăn cản, không cho phép anh được sống b́nh thường như vậy. Sự bất công làm anh phẫn khích tột độ -và v́ vậy- anh đă tận dụng tất cả khả năng vào những toan tính lật đổ chế độ ông Diệm. Mặc dù một phần đời sống của anh -đời sống của một nhà giáo luôn luôn vắng mặt- đă gắn bó anh với đời sống của xă hội, cơn phẫn khích đă chuyển anh thành một người yêu nước mạo hiểm có thể làm bất cứ chuyện ǵ. Phan Châu là người có lư tưởng hoàn toàn trong sạch, có thể so sánh với những nhân vật của Dostoevski. Tuy trường hợp của anh được nhiều người biết nhất, anh Phan Châu không phải là một người duy nhất sống cuộc đời bạo động. Trong những ngày nhiễu nhương lúc đó, những người sống trong những t́nh trạng tương tự đầy dẫy khắp nơi, trộn lẫn ngay trong đời sống hàng ngày của mọi người.

* * * Vào năm 1960, các chính sách của ông Diệm đă đưa đất nước vào những khó khăn mà các phần tử quốc gia đă tiên đoán trước. Trong khi tuyển mộ các nhân viên chính phủ th́ một trong những điều kiện tiên quyết là người được tuyển phải trung thành với gia đ́nh ông Diệm. V́ thế chánh quyền chuyển hướng trở thành một chánh thể gia đ́nh trị. Cả hai guồng máy điều hành dân sự và quân sự đều bị lũng đoạn v́ các nạn hối lộ, đố kỵ và thiếu khả năng. Đời sống kinh tế của đất nước ngày càng tụ tập vào tay chân, bạn bè và những người ủng hộ ông Diệm. T́nh trạng này đă khơi thêm hố sâu ngăn cách giữa hai tầng lớp kinh tế nghèo giàu rơ rệt. Tuy rằng ở các miền quê chánh phủ vẫn có cải cách nhưng những cải cách lúc đó đă chẳng hiệu lực mà c̣n bị dân chúng ghét cay ghét đắng. Phong trào cải cách thường buộc các nông dân phải tập họp lại thành những toán tự vệ để thiết lập "Khu Trù Mật." Đây là tên gọi của những khu vực nông thôn an toàn mà nông dân bị cưỡng bách phải cư ngụ. Trong khi đó, cảnh sát, công an xuất hiện ở khắp mọi nơi khiến cho bầu không khi trở nên căng thẳng. Nhà tù luôn đầy ắp người và những người đối lập lúc nào cũng bị đàn áp triệt để. Đă vậy, t́nh trạng lại c̣n nghiêm trọng hơn. Chiến tranh du kích do Việt Minh phát động ngày càng lan rộng và Cộng Sản đang mượn dịp thuyết phục tất cả các nhóm chống đối.

V́ không c̣n cách nào khác khả dĩ có thể ảnh hưởng đến chính sách của chính quyền vào tháng 4 năm 1960, một nhóm những chính khách quốc gia có tiếng quyết định cùng tụ họp để kêu gọi ông Diệm. Bác Sĩ Quát, cụ Trần Văn Đỗ (đă từ chức Ngoại Trưởng một thời gian ngắn sau khi được đề cử), ông Trần Văn Tuyên, thày giáo cũ của tôi và khoảng 20 người khác cùng viết một lá thư cho tổng thống. Bức thư được viết thật ḥa nhă, và đă liệt kê tất cả những nhận xét của chúng tôi về t́nh h́nh quốc gia lúc này, những sai lầm trong đường hướng của chính phủ và sau cùng đề nghị với chánh quyền một số biện pháp để cải thiện t́nh h́nh. Tôi đă góp phần soạn thảo lá thơ. Một trong những lời đề nghị bắt đầu như sau: Tổng thống nên mở rộng chánh phủ, thực thi tinh thần dân chủ, bảo đảm một số quyền công dân căn bản, nh́n nhận những thành phần đối lập, giúp nhân dân mạnh dạn tŕnh bày ư kiến để có thể giải tỏa những phàn nàn, phẫn khích... Một khi người dân được hưởng những quyền lợi đó, họ sẽ tự so sánh đời sống của họ với đời sống của những người sống dưới chế độ Cộng Sản Bắc Việt. Họ sẽ nỗ lực để bảo vệ chánh phủ Miền Nam v́ họ thấy rơ rằng họ đang tranh đấu để bảo vệ cho một chánh phủ dân chủ và cho những quyền lợi tự do thật sự của họ.

Lá thư đă được 18 nhân vật có tiếng trong nhóm chúng tôi kư và được gửi riêng cho ông Diệm. Ư kiến của tất cả là cố tạo ra một bầu không khí có thể cho họ gặp riêng tổng thống, để tạo cơ hội đối thoại giữa chính quyền và đối lập. Tuy thế, lá thư được gửi đi không hề có đến một lời đáp ứng. Mọi việc diễn ra chẳng khác nào chúng tôi chưa từng gửi lá thư đi bao giờ. Khi đă rơ rằng ông Diệm nhất định từ chối, lá thư được chuyển đến giới báo chí. Câu chuyện lập tức biến thành sôi động. Một kư giả phụ trách tin tức chính trị gọi những người kư kết là nhóm Caravelle, tên của một khách sạn tại Sài G̣n, nơi những người kư kết đă tụ họp. Lá thư được gọi là Bản Tuyên Ngôn Caravelle. V́ những chính khách kư tên vào bản tuyên ngôn đều có uy tín, và v́ những đề nghị xây dựng của họ lại được tŕnh bày rất ôn ḥa nên đa số nhân dân đều ủng hộ họ.

Ông Diệm phản ứng kịch liệt. Công an ruồng bố, cầm tù tất cả, bất chấp uy tín của những người đă kư vào bản kêu gọi. Ngay cả cụ Trần Văn Đỗ , chú của bà Nhu cũng bị cầm tù. Bác sĩ Quát đă phải trốn tránh tại nơi tôi cư ngụ hơn một tuần lễ trước khi t́nh h́nh lắng dịu để ông có thể về nhà riêng. V́ không kư tên vào bản kêu gọi nên tôi tránh khỏi những ruồng bố nhất thời. Khi những chính khách Miền Nam c̣n đang bị cầm tù th́ một trong những nhân vật quốc gia lớn tuổi là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Tường Tam đă tự vẫn, để lại một lá thư nói rằng ông không thể sống trong một chế độ như chế độ độc tài của Miền Nam. Hành động của ông làm chấn động toàn quốc. Khi đám táng ông cử hành đă có hàng ngàn người theo sau tiễn đưa, tỏ ư thương tiếc.

Lá thư Caravelle chỉ là một trong những dấu hiệu phản ảnh một quan niệm chung rằng chế độ ông Diệm đang đến ngày suy sụp. Trước đây, khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa mới bắt đầu dưới quyền ông Diệm th́ phần đông dân chúng đều ủng hộ ông, nhưng những chánh sách gia đ́nh trị của ông Diệm đă khiến những người ủng hộ ông ngày càng ít đi. Cho tới khi các chính khách quốc gia dưa ra bản kêu gọi th́ gần như chẳng c̣n ai ủng hộ chánh quyền ông Diệm nữa. Lúc này phương tiện đáng kể của ông Diệm chỉ c̣n là vơ lực đàn áp mà thôi. Thay v́ mang lại sự thống nhất và tinh thần tranh đấu giữ vững đất nước, ông Diệm và gia đ́nh đă tạo ra những nhóm chánh trị chỉ hoạt động ở hai thái độ cực đoan: Nếu không phải thúc thủ thất vọng th́ cũng là đương đầu chống đối. Ngoài hai môi trường vừa kể dường như không hề có bất cứ môi trường nào khác có thể giải tỏa được những hoài băo của những người sống vào lúc này.

Vào ngày 11 tháng 11, năm 1960 nhiều đơn vị dù ở Sài G̣n đă tự đứng ra giải quyết vấn đề. Họ bao vây anh em ông Diệm ở Phủ Tổng Thống và bắt đầu nói chuyện với ông Diệm qua điện thoại. Cũng như nhóm Caravelle, họ thúc đẩy ông Diệm phải cải cách mở rộng chánh phủ và thay đổi các chánh sách. Ông Diệm nói chuyện với những người đang làm đảo chánh hàng giờ qua điện thoại. Ông đồng ư chịu nh́n nhận những sự đ̣i hỏi của họ và c̣n bàn luận cả những chi tiết về cách cải tổ chánh phủ. Nhưng những lời lẽ đàm phán dài ḍng chỉ là một chiếc bẫy khéo léo của ông Diệm nhằm duy tŕ ḥa hoăn với các tướng lănh và kéo dài thời gian để cho những lực lượng ở xa có đủ thời giờ kéo về đàn áp các lực lượng phản loạn. Khi mọi sự đă qua, ông Diệm phớt lờ tất cả những lời đă hứa.

Mặc dầu đảo chánh thất bại, những hậu quả tối quan trọng của cuộc đảo chánh quân sự vẫn có ảnh hưởng quan trọng đến sự tồn tại của chánh quyền ông Diệm và ông Nhu. Cho dù những người đảo chánh có tổ chức thiếu khéo léo đến độ nào đi nữa th́ họ cũng đă bao vây được dinh tổng thống suốt 36 tiếng đồng hồ. Tự nhiên những người mưu toan đảo chánh đều thấy được rằng họ có thể thay đổi chánh phủ dễ dàng bằng những đơn vị nhỏ đóng ở thành phố. V́ biết ông Diệm không bao giờ chịu cải tổ chánh phủ, những người chống đối nằm trong các đoàn thể dân sự cũng như quân sự đă bắt đầu bàn bạc không ngớt về những cuộc đảo chánh trong tương lai. Vào tháng 10, 1960 th́ gần như khắp nơi đều bàn luận vấn đề đảo chánh.

Cũng vừa vặn vào thời gian này, những người trong nhóm đối lập đă bắt đầu nghe dư luận đồn đăi về một tổ chức chống chánh phủ gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. MTGP do ông Nguyễn Hữu Thọ là một luật sư Sài G̣n cầm đầu. Tổ chức này qui tụ những người chống đối tại Miền Nam muốn lật đổ ông Diệm. Đối với những người đă từng trốn chạy từ Miền Bắc Việt Nam th́ MTGP rơ ràng là một tác phẩm của Cộng Sản Bắc Việt, một guồng máy chính trị nhằm kêu gọi những người Miền Nam chất phác đang chống đối ông Diệm tham gia vào một tổ chức do đảng Cộng Sản điều động và ngấm ngầm lănh đạo.

Mặt Trận Giải Phóng có tất cả những nét chấm phá huyền thoại do sự tổ chức lăo luyện của ông Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam. Bất kỳ ai đă từng chứng kiến những kỹ thuật này chắc chắn đều khó thể quên nổi. Tất cả những người di cư từ Miền Bắc đều đă trải qua những kinh nghiệm đau thương. V́ chính bản thân đă qua nhiều màn điêu đứng khi c̣n ngoài Bắc, chúng tôi đă nhận ra ngay bản chất và mục đích thực sự của MTGPMN. Ngay chỉ cái tên Mặt Trận Giải Phóng cũng đă gợi lại quá rơ kư ức về những mặt trận khác mà ông Hồ đă tổ chức trong thập niên 1940 để thu hút các phần tử quốc gia. Tuy vậy, chúng tôi không làm cách nào thuyết phục được những bạn bè Miền Nam tin theo. Theo tôi thấy th́ những người Miền Nam chưa hề biết rơ về cả lai lịch ông Hồ lẫn những chủ trương sách động hô hào cổ điển của Cộng Sản với chiến thuật "Sách Động tất cả những người có thể bị sách động." Họ chỉ biết đóng góp những t́nh cảm cuồng nhiệt của ḿnh vào một phong trào mới mẻ, một phong trào cổ động sức mạnh của tập thể chống lại chính quyền áp bức của ông Diệm.

Rủi thay, những cuộc tranh luận về MTGP lại xảy ra trong một khung cảnh nghi kỵ giữa hai miền Nam, Bắc. Một mặt th́ người Nam cho rằng thái độ chống đối MTGP của người Bắc khởi xuất từ những bản tính luôn luôn bi quan và đa nghi bẩm sinh. Mặt khác đối với người Bắc th́ những người Nam lại một lần nữa đặt tất cả hành động trên một lư tưởng hoàn toàn ngây thơ. Thật ra, lư do đă khiến chúng tôi không thể thuyết phục được những người Miền Nam c̣n vượt xa hơn những khác biệt đơn thuần của vị trí địa lư. Nhưng bất kể nguyên nhân khó khăn thực sự là ǵ th́ cũng phải mất một thời gian khá lâu những người Miền Nam mới thấy rơ được mối liên hệ giữa MTGP và đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong khi đó chúng tôi đă cố gắng thuyết phục ông Diệm qua trung gian rằng những chính sách do ông đề ra đă khiến những phần tử quốc gia không đồng ư với ông phải chọn những thái độ cực đoan và nhiều người đang chọn cả những phương pháp chống đối bất hợp pháp. Thiết tưởng cũng không cần nói thêm rằng, cũng như những lần trước, lời cảnh cáo này vẫn chẳng hề được ông Diệm hưởng ứng.

Mặt Trận Giải Phóng chánh thức phát động vào tháng 12 năm 1960. Khoảng một năm về trước, quân đội Việt Minh đă xâm nhập Miền Nam, vượt qua những vùng Phi quân sự và xuôi xuống theo những đường ṃn mà sau này được gọi là đường ṃn Hồ Chí Minh. V́ là người đứng ngoài, tôi không hề biết rơ những chi tiết về các biến chuyển cũng như những tầm mức quan trọng thực sự của các cuộc chuyển quân. Tôi chỉ biết rằng khoảng cuối năm 1960, đầu năm 1961, quân đội du kích đă mở những cuộc tấn công trầm trọng vào đời sống thôn quê. Trước đây, việc đi lại giữa những vùng thôn quê thật là dễ dàng. Vấn đề chuyển vận từ chỗ này đến chỗ khác không hề bị những cuộc tấn công đe dọa. Nhưng khoảng năm 1961, những cuộc đánh úp và giật ḿn là chuyện xảy ra hàng ngày. Những chuyện chuyển vận lúc này nếu tránh được th́ tốt, hoặc nếu cần kíp bắt buộc phải đi th́ cũng phải xem xét rất là cẩn trọng. Biểu t́nh diễn ra thường xuyên. Ở khắp mọi nơi bầu không khí đều căng thẳng.

Tuy rằng bầu không khí Miền Nam ngày càng căng thẳng và chính phủ ông Diệm đă gần đến ngày sụp đổ mà chẳng hiểu v́ lư do ǵ Hoa Kỳ vẫn chẳng hề thay đổi chính sách ngoại giao của họ. Tuy chứng cớ đă rơ rành rành rằng chánh quyền ông Diệm không được dân chúng ủng hộ mà ṭa đại sứ Hoa Kỳ trải qua hết đại sứ Frederick Reinhardt, Elbridge Durbrow và rồi Fredrick Nolting vẫn chịu đứng làm hậu thuẫn cho ông Diệm. (Tuy rằng đại sứ Durbrow thỉnh thoảng cũng có vẻ khó chịu và không đồng ư với những chánh sách thiếu thực tế của Hoa Kỳ lúc đó) Nếu trước đây, cố vấn Landsdale và những nhân viên cao cấp Hoa Kỳ đă công khai giữ liên lạc với bác sĩ Quát và các phần tử quốc gia khác th́ giờ đây Hoa Kỳ lại tránh né tất cả các phần tử quốc gia. Lúc này ṭa đại sứ Hoa Kỳ chỉ muốn giao thiệp với chánh phủ "hợp pháp." của Việt Nam. Họ cho rằng giao thiệp với những người đối lập ở Việt Nam lúc này "không tiện". (Nguyên văn: "not appropriate", một danh từ phổ thông của giới Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc đó.) Hiển nhiên là mật vụ của ông Diệm luôn luôn trông chừng kỹ lưỡng những liên lạc giữa bất kỳ người nào trong nhóm chúng tôi với người Hoa Kỳ. Họ canh gác, thăm ḍ ráo riết quanh khu cư ngụ của bác sĩ Quát, khu cư ngụ của ông Trần Văn Tuyên và nhiều chính khách khác.

Chúng tôi có thể hiểu được hành động của ông Diệm nhưng chúng tôi rất bực bội về việc Hoa Kỳ đă buông thơng, đi đôi cùng với chánh quyền Miền Nam. Tất cả chúng tôi đều hiểu rơ Hoa Kỳ ủng hộ một chế độ dân chủ, ủng hộ những cải cách về mặt xă hội, kinh tế, quân sự. Chúng tôi có thể thông cảm với Hoa Kỳ vào những lúc đầu tiên khi họ giúp đỡ ông Diệm là v́ họ chưa hề biết rơ chánh sách của ông ta. Qua hành động của hai ông Lansdale và Collins, chúng tôi cũng đă biết sơ về những chủ trương của Hoa Kỳ. Họ đă cố gắng thúc đẩy ông Diệm về việc mở rộng chánh phủ. Nhưng giờ việc ông Diệm khăng khăng nhất định theo đuổi những chánh sách gia đ́nh trị, cũng như việc những phương pháp đàn áp của ông đă dẫn đến những khủng hoảng nội bộ trong nước và những kết quả yếu kém về quân sự là việc đă rơ rành rành.

Ở vào t́nh trạng hiện tại, chúng tôi không thể hiểu được tại sao Hoa Kỳ lại ủng hộ anh em ông Diệm mà không hề đả động ǵ đến những người cùng chung lư tưởng dân chủ đang ở ngay sát bên họ. Lúc đó, và cho đến hiện giờ, tôi vẫn nghĩ là Hoa Kỳ, tại thời điểm này nên nói thẳng cho ông Diệm rơ những sự mong đợi của họ. Và nếu những điều này không được đáp ứng, họ nên rút ra ngay, cho dù sự rút lui có mang lại ít nhiều cơ hội thắng lợi cho Cộng Sản. Việc ông Diệm thất bại khi điều hành chánh quyền bằng những phương pháp độc tài là việc đă quá rơ ràng. Chúng tôi không tài nào hiểu được sự vô lư khi Hoa Kỳ vẫn vui ḷng đặt ảnh hưởng và uy tín của ḿnh để ủng hộ một nhân vật như ông Diệm. Khi bàn bạc với nhau chúng tôi đă cho rằng người Mỹ lúc này quả thật mù quáng chẳng khác nào con đà điểu chui đầu trong cát. Mặc dầu có sức mạnh vô biên, họ vẫn bị dụ vào những thế thụ động bất lợi cho chính sách của họ.

Nguyên do phẫn uất của chúng tôi là do t́nh cảnh bất lực. Tất cả chúng tôi đều nh́n thấy những việc phải làm mà không có cách ǵ để xoay sở cả. Biến cố Caravelle đă khiến mọi tầng lớp chống đối phải chịu đựng những áp lực đàn áp nặng nề. Lúc này rất nhiều người bị cầm tù và tất cả những chống đối về mặt chính trị hoặc ngôn luận đều bị kềm kẹp. Dân chúng thận trọng hơn trong lời ăn tiếng nói. Mọi người đều biết họ đang bị canh chừng và hơn nữa họ c̣n biết mật vụ của ông Diệm có thể tùy ư suy diễn những hành động của họ. Bầu không khí căng thẳng đă khiến chúng tôi bắt đầu lư luận rằng nếu muốn làm thay đổi t́nh thế th́ chúng tôi chẳng c̣n cách nào khác hơn là phải dùng những biện pháp quân sự.

Những ư nghĩ về một cuộc đảo chánh khác lại bắt đầu xâm nhập bầu không khí chính trị của Việt Nam. Những người đang phục vụ trong quân đội cũng đă cảm thấy rơ điều này và tự họ cũng bàn bạc để có thể hành động kịp thời khi có đảo chánh. Đây chính là điểm khởi đầu đă đưa đến những mầm mống chống đối Phật Giáo, và thúc đẩy tất cả các hoạt động chống đối chuyển thành bạo động và chống lại chính quyền ông Diệm.

14. Đảo Chánh

Những cuộc chống đối của Phật Giáo khắp nơi tại Việt Nam vào tháng 6 năm 1963 một phần là do chánh sách có vẻ thiên lệch của ông Diệm đối với công giáo. Gia đ́nh ông Diệm là một gia đ́nh công giáo, và trong thời gian cư ngụ tại Mỹ, ông đă vào tu ở một chủng viện Hoa Kỳ. V́ thế, ông cảm thấy dễ gần gũi cũng như dễ tin tưởng những người theo đạo công giáo hơn. Nếu việc chỉ đơn thuần có vậy th́ lại chẳng có ǵ phức tạp. Thật ra th́ chính ông Thục, nguyên là anh cả ông Diệm là giám mục tỉnh Vĩnh Long và Tổng giám mục của Huế mới đúng là người phải chịu trách nhiệm về việc thúc đẩy khiến các đoàn thể Phật Giáo đă đứng ra chống đối vào mùa hè năm 1963.

V́ là người lớn tuổi nhất trong gia đ́nh ông Diệm nên ông Thục vừa được kính nể rất mực lại vừa có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với những công chức cao cấp chánh quyền trong cả hai ngành dân và quân sự. Những người dù theo đạo Phật hoặc không theo tôn giáo nào cũng đều cảm thấy bị buộc phải tham gia các lễ nghi cũng như chứng tỏ sự nể v́ Thiên Chúa Giáo. Trái lại, khi bàn bạc về vấn đề Phật Giáo th́ mọi đ̣i hỏi, dù chỉ là những đ̣i hỏi cơ bản nhất cũng không hề được ông Thục nhượng bộ. Những hành động thiên lệch của ông Thục đă vô h́nh chung làm tổn thương đến bầu không khí giữa các tôn giáo trong nước. Nếu không v́ những kiêu ngạo và thách thức đương đầu của ông Thục, có lẽ vấn đề Phật Giáo chống đối đă không xảy ra. Tuy nhiên, t́nh h́nh đă khiến những diễn biến chuyển hướng cho phép bạo động có dịp phát động.

Ngày 7 tháng 5, Lễ Phật Đản, cũng là ngày mở màn cho cuộc bạo động. Tại Huế, một trung tâm Phật Giáo của Miền Nam Việt Nam, ngày lễ đă thu hút hàng trăm ngàn người đến nghe các vị sư nổi danh thuyết pháp. Tuy vậy, bầu không khí lúc đó thật là căng thẳng v́ chính quyền địa phương đă cấm không cho phép các phật tử treo cờ phật giáo. Trong khi đó, chỉ mới có một vài tuần trước, các đoàn thể công giáo đă được phép tự do treo cờ ăn mừng kỷ niệm lần thứ 25 lễ thụ phong Tổng Giám Mục của ông Thục. Sự phân biệt rơ rệt đă gây công phẫn cho các đoàn thể phật giáo. Một đám đông đă tụ tập trước đài truyền thanh khi chính quyền địa phương ngăn cấm không cho phép phát thanh những bài thuyết pháp. Chẳng bao lâu sau, quân đội chánh phủ đến theo từng loạt xe Jeep cùng những xe vũ trang khác và bắt đầu đàn áp ráo riết những người biểu t́nh. Trong cơn hỗn loạn đă có 8 nạn nhân, kể cả một số trẻ em thiệt mạng. Ngày sau đó, bầu không khí bạo động do những cuộc đụng độ giữa cảnh sát và những đám biểu t́nh bao trùm lấy Huế. Chùa Từ Đàm bỗng biến thành một tiền đồn cố thủ, nơi quân đội bao vây những nhà sư và các vị lănh đạo tôn giáo.

Trong khi những cuộc đụng độ ở Huế đang sôi sục th́ những lănh đạo tôn giáo ở Sài G̣n bắt đầu phát động chiến dịch thuyết pháp công khai, thôi thúc biểu t́nh và xuống đường để ủng hộ những đoàn thể phật giáo ở Huế. Vào đầu tháng 7, Sài G̣n lúc nào cũng xôn xao v́ những cuộc biểu t́nh. Ngày 11, cuộc diễn hành Phật Giáo bắt đầu từ chùa Ấn Quang bỗng ngưng lại ở đường Lê Văn Duyệt gần ṭa đại sứ Cam Bốt. Một vị sư lớn tuổi là Thượng Tọa Thích Quảng Đức bước ra khỏi đám đông, ngồi thụp xuống đường. Ông đổ xăng khắp người rồi châm lửa tự thiêu. Đây là biến cố đầu tiên đánh dấu sự hy sinh của Phật Giáo. Hành động của Thượng Tọa Quảng Đức đă làm dao động tất cả những người nghe tin hoặc được xem những bức h́nh chụp lại. Chính hành động này đă mở màn cho giai đoạn khốc liệt đầu tiên của cuộc đương đầu giữa chánh quyền và Phật Giáo.

Giữa lúc các diễn biến xuống đường đang ào ạt th́ những cuộc bàn bạc dè dặt về đảo chánh lúc trước bỗng nhiên lan tràn và ngày càng sôi sục. Tin tức đầu tiên về những kế hoạch đảo chánh mà tôi được biết là do tướng Lê Văn Kim tiết lộ. Tôi đă biết tướng Kim rất nhiều năm v́ bà Kim vốn là bạn thân của nhà tôi. Khi ông c̣n là đại tá, tướng Kim đă cùng tôi làm việc trong phái đoàn đàm phán hồi 1953 và 1954. Tuy vậy, v́ không phải là người nịnh hót ông Diệm, lúc nào ông cũng bị gạt ra ngoài. Ông bị chánh quyền ông Diệm gạt ra có lẽ là do -hoặc có thể chính là v́- ông rất thành thật và thông minh.

Vào một ngày đầu tháng 7, vẫn như một trong những chuyến viếng thăm thường lệ, tôi và nhà tôi đến dùng bữa tại nhà tướng Kim. Tuy là người rất kín đáo mà tối đó tướng Kim vẫn có vẻ âu lo trông thấy. Khi chúng tôi đang bàn luận th́, tướng Kim bỗng nh́n thẳng tôi hỏi: "Anh Diễm, anh hiểu người Hoa Kỳ rơ hơn tôi. Anh có thể đoán là họ đang suy nghĩ ǵ về những biến cố hiện thời chăng?" Những ư tưởng ngấm ngầm trong câu hỏi của tướng Kim lập tức làm tôi sửng sốt. Tuy dư luận lúc đó đang xôn xao v́ hàng trăm tin đồn bao quanh, chỉ có một điều mọi người sẵn sàng đồng ư: Bất kỳ tổ chức nào toan tính việc đảo chánh thực sự cũng đều cần sự hưởng ứng của Hoa Kỳ. Bởi vậy, theo lẽ khôn ngoan tự nhiên, bất cứ tổ chức nào mưu toan đảo chánh cũng sẽ phải thăm ḍ thái độ của ṭa đại sứ Hoa Kỳ trước tiên. Trong t́nh trạng này, câu hỏi đơn giản của tướng Kim chắc chắn phải đi xa hơn là chỉ nhằm vào việc thỏa măn những sự ṭ ṃ ngây thơ. Lúc này tôi đă bắt đầu tự ḿnh ḍ xét đường đi nước bước. Tôi vốn có quen ông Rufus Phillips đă rất nhiều năm. Lúc này ông Phillips đang là Giám Đốc Viện Trợ Mỹ đặc trách Xây Dựng Nông Thôn và đang điều hành những chính sách xây dựng nông thôn của chương tŕnh U.S. Operation Mission. Ông đến Việt Nam cùng lúc với cố vấn Edward Lansdale lúc trước. V́ coi nhau như bạn, chúng tôi vẫn thường trao đổi ư kiến về những vấn đề thời sự. Câu chuyện bàn luận lúc này của chúng tôi thường xoay quanh các vấn đề về Phật Giáo, về t́nh h́nh nguy ngập ở nông thôn và về thái độ ương ngạnh bướng bỉnh đến gần như tự vẫn của ông Diệm. V́ tôi đă biết ông Phillips không ủng hộ những chủ trương của Hoa Kỳ lúc đó nên việc ḍ hỏi của tôi dễ dàng hơn. Qua ông Phillips, tôi biết Hoa kỳ lúc này đang phân vân về khả năng tồn tại của chính quyền ông Diệm. Hiển nhiên những chánh sách đàn áp của ông Diệm đă gây ra rất nhiều điểm bất lợi. V́ lúc này, Hoa Kỳ vẫn chủ trương không can thiệp nên những chính sách của ông Diệm đă làm giảm uy tín của Hoa Kỳ và Hoa Kỳ đă cảm thấy chủ trương "hợp pháp" của họ có phần không ổn.

Khi gặp gỡ tướng Kim vào những tuần lễ sau, tôi đă hiểu ngay là ông thuộc vào nhóm những người đang mưu toan đảo chánh. Hơn nữa, nhóm này c̣n cho rằng đă đến lúc lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh đă manh nha bắt đầu mặc dù theo lời tướng Kim th́ tổ chức của ông vẫn chưa có kế hoạch nào vững chắc. Họ vẫn đang t́m hiểu thêm về phản ứng của Hoa Kỳ nếu có cuộc đảo chánh và thái độ của Hoa Kỳ đối với t́nh trạng Việt Nam sau cuộc đảo chánh.

Lúc đó tướng Kim đă biết rằng tôi đă tiếp xúc với giới báo chí và quen thuộc nhiều với các kư giả Hoa Kỳ. Số người tôi biết bao gồm cả kư giả Neil Sheehan của UPI, kư giả Malcolm Browne của Associated Press và kư giả David Halberstam của New York Times. Qua họ, ít nhất tôi có thể dự đoán được phần nào bầu không khí Hoa Thịnh Đốn và từ đó suy ra những suy nghĩ của ṭa đại sứ Hoa Kỳ. Lúc đầu tôi cho rằng ṭa đại sứ Hoa Kỳ vẫn c̣n ủng hộ ông Diệm và tôi đă cẩn thận tránh xa các nhân viên ở ṭa đại sứ.

Nhưng vào ngày 20 tháng 8 năm 1963 th́ có lẽ tất cả những sự ủng hộ ông Diệm c̣n sót lại trong ṭa đại sứ Hoa Kỳ cũng đều tiêu tan. Đêm đó, cảnh sát đặc biệt tấn công vào chùa Xá Lợi nằm phía trong thành phố Sài G̣n. Vốn là ngôi chùa lớn nhất thành phố, chùa Xá Lợi là nơi tụ họp của các đầu năo chống đối. Lúc cảnh sát của ông Nhu bất thần bủa vây, phần đông những người lănh đạo chống đối đều c̣n tụ tập bên trong. Sau khi xịt lựu đạn cay, cảnh sát ập vào chùa và tấn công thẳng vào chánh điện. Tại đây, họ thấy khoảng 400 vị sư đang ngồi tham thiền bên cạnh bức tượng Phật khổng lồ. Sát ngay phía trước bức tượng Phật là vị sư trụ tŕ trọng tuổi đang nhắm mắt tham thiền. Cảnh sát đặc biệt bắt hết những người tại đó. Trong những cuộc ruồng bố đồng loạt ở những ngôi chùa khác, nơi các phật tử tụ họp, số người bị bắt đông đến hàng ngàn.

Có lẽ vấn đề ly gián quân đội của ông Nhu trong hành động này c̣n quan trọng hơn là vấn đề ông cố t́nh khiêu khích các đoàn thể Phật Giáo. Trong lúc đàn áp, cảnh sát đă mặc đồng phục quân đội nhằm mục đích đổ tội những hành vi đàn áp cho quân đội. Hành động ly gián của ông Nhu đă khiến những người mưu đồ đảo chánh gạt phắt hết những đắn đo ngần ngại. Những kế hoạch cuối cùng được soạn thảo và phối hợp một cách gián tiếp với Hoa Kỳ. Vào lúc này th́ chính bản thân những người Hoa Kỳ cũng đă hoàn toàn thất vọng v́ các chánh sách của ông Diệm.

Vào tháng 9, cuộc xô xát giữa cảnh sát và các nhóm đối lập diễn ra hàng ngày ngoài phố. Những cuộc biểu t́nh bày tỏ sự phẫn khích trước đây đă chuyển thành những cuộc bạo động đả đảo chánh phủ. Phật Giáo biểu t́nh, học sinh xuống đường và những vụ tự thiêu liên tục đă làm cho đời sống hàng ngày của thành phố trở thành hỗn loạn. Một số lớn dư luận cho rằng cách mạng sắp sửa thành h́nh. Một số khác lại cho rằng cách mạng đă thật sự phát động và t́nh h́nh hỗn loạn lúc đó chính là giai đoạn phát động đă bắt đầu.

Cứ theo t́nh h́nh mà nói th́ có lẽ quả thật giai đoạn đầu của cuộc cách mạng đă thực sự phát động. Khi những kế hoạch tiến triển rơ rệt tôi cho rằng đă đến lúc tướng Kim nên gặp ông Rufe Phillips. Tôi sắp đặt cho cuộc gặp gỡ tay ba tại nhà tướng Kim mà trong tâm lo lắng không cùng. Nơi cư ngụ của tướng Kim nằm ngay trung tâm thành phố. Đây là một vị trí nằm gần như sát bên Phủ Tổng Thống. Có lẽ v́ không ngờ những tổ chức đảo chánh lại sắp đặt kế hoạch ngay sát Phủ Tổng Thống nên đa số cảnh sát đều chẳng để ư ǵ đến những vị trí gần Phủ Tổng Thống. Tôi cho rằng tại vị trí này việc lục soát đă giảm đến mức tối thiểu. Hơn nữa, theo chúng tôi biết th́ tướng Kim vẫn c̣n trong bóng tối và chưa hề bị ngờ vực ǵ cả. Mặt khác, tôi cũng tự biết tôi là một thành viên điển h́nh của các đoàn thể chống đối và v́ vậy, công việc sắp xếp đối với tôi thập phần nguy hiểm. Vào giờ phút này, tôi biết ḿnh đă bị theo dơi.

Hôm chúng tôi hẹn gặp, cả thành phố đều náo động v́ những vụ biểu t́nh. Đường phố đầy nghẹt toàn những nhà sư chống đối, học sinh xuống đường, cảnh sát đàn áp và hàng ngàn người tụ tập đứng coi. Tôi đến nhà tướng Kim một giờ trước giờ hẹn để tránh khỏi bị phát giác đi cùng với ông Phillips. Trên đường đi tôi đă cẩn thận xem xét kỹ lưỡng để tránh khỏi bị theo dơi. Khi ông Phillips đến, chúng tôi bắt đầu duyệt lại t́nh h́nh. Tướng Kim tŕnh bày những nhận xét của ông và hỏi ông Phillips về thái độ của ṭa đại sứ. Đối với cả hai chúng tôi th́ ông Phillips không phải là mối dây liên lạc giữa những người âm mưu đảo chánh và Hoa Kỳ. Chắc chắn là những liên hệ của chúng tôi với ông Phillips khác hẳn những mối liên hệ giữa tướng Trần Văn Đôn và nhân viên t́nh báo Lucien Conein, người đă đứng ra làm liên lạc giữa tướng Đôn với đại sứ Henry Cabot Lodge. Tuy vậy, ông Phillips vẫn là người cho chúng tôi biết tin tức về thái độ của Hoa Kỳ. Qua ông tin tức Hoa Kỳ phản ảnh rơ rệt. Hơn nữa, ông Phillips vốn tính thành thật và lại là bạn riêng của chúng tôi. Cả hai chúng tôi đều biết ông rất thực ḷng và không bao giờ nghĩ rằng ông có thể phản chúng tôi.

Sau khi ông Phillips ra về, tôi đợi thêm khoảng 15, 20 phút nữa rồi đi bộ ra khỏi nhà tướng Kim. Những điều ghi chú tôi chép trong lúc họp mặt vẫn c̣n dồn chặt ở túi sau. Lúc đi ngang qua phía sau Phủ Tổng Thống, khoảng 100 thước dưới phố, tôi vừa dừng lại bật lửa mồi ống điếu hút th́ bỗng nghe tiếng gọi giật: "Này!" Tôi điếng người. Hai người mật vụ mặc thường phục đang bước nhanh lại phía tôi. Thôi chết rồi, họ đă theo dơi rồi! Họ đă biết tất cả! Phải thu hết can đảm tôi mới dám ngước lên nh́n hai người lính gác lúc này đang ch́a những điếu thuốc chỉ về phía chiếc bật lửa Zippo tôi đang cầm ngỏ ư xin lửa. Lúc họ quay đi tôi vẫy chiếc taxi đầu tiên chạy qua, sụm vật ḿnh vào ghế sau, hoàn toàn kiệt lực.

Lúc này tôi đă nhúng tay rất sâu vào việc. Ông Kim đă nhờ tôi tiếp tục lượng định các chính sách khác của Hoa Kỳ. Hơn nữa, ông c̣n muốn tôi hoạch định những chính sách của chánh phủ sau cuộc đảo chánh. -Làm thế nào để thiết lập chánh phủ và những mục đích chính của chánh phủ là ǵ? Tuy đă đồng ư với tướng Kim rằng tôi không cần biết rơ tường tận chi tiết kế hoạch đảo chánh, cách suy xét vấn đề của ông đă làm tôi nể v́. Tướng Kim suy luận rằng nếu sau khi lật đổ chánh phủ mà cuộc đảo chánh không đem lại được ưu điểm nào cho chánh quyền mới th́ cuộc đảo chánh chỉ là một cuộc đảo chánh thất bại mà thôi. Trong chiều hướng lư tưởng th́ cuộc đảo chánh ông Diệm sẽ cho phép chúng tôi thiết lập lại từ đầu một chánh phủ mà quốc gia đă mong mỏi suốt chín năm trường.

Những điều cần thiết hiện thời chẳng lấy ǵ làm bí mật. Bác sĩ Quát, Cựu Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ, ông Đặng Văn Sung, và tôi bắt đầu bàn luận về một chánh phủ quốc gia hợp pháp và đoàn kết. Đây là một hệ thống chánh phủ dân chủ có thể thay thế cho chánh quyền của ông Diệm. Quan niệm chính trị của tôi rất là đơn giản. Tôi tin là không ai có thể bắt buộc người khác phải nghe theo ư ḿnh. Không hiểu v́ do tính t́nh hay lư do ǵ khác mà hễ cứ ai ép buộc tôi, th́ tôi lại chẳng bao giờ để ư ǵ đến ư kiến của họ. Chính tính nết này là điểm đầu tiên khiến tôi không thích Cộng Sản. Tôi đă nhận chân rằng sau lưng ông Hồ là những sợi cương kềm kẹp Ủy Ban Nhân Dân và gọng kềm thép của Vơ Nguyên Giáp. Tính nết này cũng đă khiến tôi không thể nào cùng hợp tác làm việc với ông Diệm. Thái độ độc tài của ông Diệm là một thái độ tôi không thể nào chịu được.

Có lẽ khi bị gạt ra khỏi chính trường tôi đă suy tư nhiều hơn về tính t́nh bẩm sinh của chính bản thân tôi và về những ảnh hưởng bất lợi của những tính nết đó đối với sự nghiệp chính trị. Nguyên tính tôi vẫn thích suy luận, thích thuyết phục và rất ghét cưỡng bức. Tôi tin rằng quan niệm dân chủ sẽ cho phép mọi người được quyền tự do phát biểu ư kiến và hiến pháp sẽ bảo vệ những khuynh hướng này trên lănh vực chính trị. Từ trước đến nay tôi vẫn ủng hộ giải pháp đoàn kết các phần tử quốc gia v́ tôi nghĩ rằng nếu sự sinh tồn của Miền Nam bị đe dọa th́ những người biết suy luận sẽ thấy phần lớn họ cùng đồng quan điểm và những điểm khác biệt của họ chẳng qua chỉ là những điểm khác biệt nhỏ nhoi trong nội bộ.

Rủi thay, Bác Sĩ Quát cùng tôi và những người khác đă không đủ thời giờ soạn thảo những kế hoạch cụ thể và nêu rơ chủ trương trước trước thời gian đảo chánh. Khi kế hoạch đảo chánh tiến hành th́ những cuộc hẹn gặp giữa tôi và tướng Kim trở thành quá nguy hiểm. Tôi bắt đầu liên lạc với ông bằng một thứ mật mă riêng do tôi soạn thảo rồi chuyển cho vợ ông. Đây không phải là một phương pháp hữu hiệu có thể dùng để phối hợp các hoạt động một cách hữu hiệu được. Đến cuối tháng 9 năm 1963, khi tôi bị buộc phải lui vào ṿng trốn tránh th́ ngay cả sự liên lạc mong manh này cũng bị cắt đứt.

Tôi đă biết ḿnh bị theo dơi từ lâu. Tôi đă là đảng viên của đảng Đại Việt, tôi cũng lại là một thành viên của nhóm Caravelle, hơn nữa tôi lại c̣n kết thân với nhiều người Hoa Kỳ. Hiển nhiên là chỉ cần nh́n vào những hoạt động của tôi trong quá khứ tôi cũng biết là đối với chính quyền tôi đă trở thành một nhân vật chính cần được theo dơi. Nhưng điều làm tôi quan tâm nhất là những lời báo trước của ông Trần Kim Tuyến, lúc đó đang là trưởng pḥng cảnh sát bí mật trong chánh phủ ông Diệm. Theo ông Tuyến th́ mặc dù hiện thời tôi đang được khoan dung, tôi vẫn nên cẩn thận đề pḥng. Ông Tuyến không hẳn là bạn nhưng chúng tôi đă biết nhau từ lâu. Ông là một người Bắc công giáo và cũng chính là một trong những sinh viên ở Phát Diệm đă đến dự khóa học của chúng tôi trong thời gian tôi vào Phát Diệm để tránh Việt Minh. Ông Tuyến là một trong những người đầu tiên đă theo học những khóa học mà tôi cùng hai người bạn đảng viên quốc gia đă tổ chức.

Nhưng vào tháng 7, ông Tuyến không c̣n giữ chức vụ cũ. Ông đă lên đường h́nh như để nhận chức Tổng Lănh Sự Miền Nam Việt Nam tại Cairo. Theo những lời đồn trong dư luận th́ có lẽ v́ nghi ngờ ông Tuyến có dính líu đến một âm mưu đảo chánh nên ông Diệm và ông Nhu đă trục xuất ông ra ngoại quốc. Khi ông Tuyến không c̣n giữ chức vụ cũ, tôi cảm thấy tôi ở vào một t́nh trạng hết sức nguy hiểm. Nếu ông Tuyến c̣n là trưởng pḥng th́ ít nhất là dù có chuyện nguy hiểm tôi cũng c̣n được báo trước.

Nhưng mặc dù ông Tuyến đă lên đường, khi việc xảy đến cũng vẫn có người báo trước cho tôi. Vào cuối tháng 9, một người bạn có móc nối với cơ quan mật vụ cho biết rằng viên trưởng pḥng mới đang sửa soạn một cuốn sổ đen liệt kê danh sách những người chống đối cần phải diệt trừ, trong số có tên tôi. Được tin, tôi lập tức t́m cách trốn tránh. Người đầu tiên mà tôi cầu cứu là ông Ogden Williams, lúc đó, đang cư ngụ ở một căn gác thuê phía đối diện chỗ tôi. Ông Williams đang làm việc cho chương tŕnh kinh tế của Hoa Kỳ. Ông hiểu rơ những vấn đề cần thiết đối với một nước đang trên đà phát triển và riêng bản thân ông cũng rất trọng người Việt. Hơn nữa, những ư kiến của ông về chánh quyền ông Diệm hoàn toàn giống tôi. Khi tôi hỏi có vẻ ngại ngùng rằng ông có thể giúp đỡ hay không, ông Williams đă trả lời ngay rằng: "Anh có thể đến ở với tôi được mà!"

Tối đó, tôi lẻn ra khỏi chỗ cư ngụ cố vượt qua chỗ ông Williams. H́nh ảnh của người thày giáo cách mạng Phan Châu chập chờn hiện rơ trong đầu óc, tôi vẫn c̣n nhớ những lần anh Châu đă ở nhà tôi suốt đêm và lại suy nghĩ về số phận của anh ta. Sáng sớm hôm sau, tôi nh́n qua cửa sổ từ pḥng khách của ông Williams vào lúc nhà tôi đi chợ. Nhà tôi mang khăng quàng đỏ. Đây là dấu hiệu mà chúng tôi định trước là không có chuyện ǵ lạ xảy ra. Liên tục suốt một tuần lễ rưỡi sau, nhà tôi vẫn mang khăn quàng đỏ lúc đi chợ. Trong khi đó th́ ông Williams đi làm mỗi sáng và trở lại lúc ban tối cho tôi biết những tin tức mới nhất về t́nh h́nh lúc này. Tôi vẫn tiếp tục yên lặng, những cơn kích động ban đầu tan đi, chuyển dần thành những nỗi chán chường ngấu nghiến và những trận bồn chồn, sốt ruột.

Sau 10 ngày, hai con gái tôi, lúc đó một lên 8 và một đă 12 tuổi cùng đến nhà ông Williams để báo tin. Cả hai đă t́m đường đến nơi bằng cách đi ṿng, len lỏi qua các ngơ ngách và trèo lên cả những mái nhà lân cận để vào bằng ngơ sau nơi tôi trú ẩn. Nhà tôi nhắn rằng chẳng có ǵ khác lạ và có lẽ tôi nên về nhà th́ hơn. Tôi cũng không ham ở lại làm bạn với những khoảng thời gian rỗng tuếch triền miên tại đây. V́ vậy, tối đó tôi lại lẻn ra ngơ sau, cẩn thận tránh khỏi ánh đèn đường và t́m lối về nhà.

Tôi đă trốn trong căn gác mướn từ lúc này cho tới khi đảo chánh thực sự vào khoảng hai tuần lễ sau. Vào buổi trưa ngày 31-10 năm 1963, lúc 1:30 tướng Kim và các đồng nghiệp là tướng Trần Văn Đôn và tướng Dương Văn Minh mở cuộc tấn công. Tôi nghe tiếng súng máy và những tiếng gầm rú của phi cơ. Tôi c̣n nhớ là lúc đó tôi nh́n về phía nhà tôi và thở phào: "Đúng rồi!" Tôi biết chắc rằng đảo chánh sẽ thành công và trong thâm tâm tôi vô cùng kích động. Tôi cho rằng lúc này chúng tôi sẽ có một cơ hội để làm việc một cách đứng đắn.

Khoảng 3:00 giờ chiều, radio đă tràn đầy tin tức. Dường như tất cả mọi tướng tá nếu không góp phần th́ cũng ủng hộ nhiệt liệt cho cuộc đảo chánh. Giọng nói của nhiều tướng oang oang trên đài phát thanh. Họ đă đảo chánh để "đem lại tự do cho đất nước," để mang quốc gia ra khỏi t́nh trạng ngày càng bi đát. Họ đă cùng nhau hợp thành một ủy ban quân sự tạm thời thay thế chính quyền.

Sáng hôm sau mọi sự hoàn toàn kết thúc. Chỉ có một điều làm mọi người dao động là tin ông Diệm và ông Nhu đă bị hạ sát và chưa ai rơ việc xảy ra thế nào. (Theo tin đồn th́ họ tự đầu hàng và sau đó bị ám sát.) Trưa hôm sau, tướng Kim gọi điện thoại ngỏ lời mời tôi cùng ăn cơm tối. Ông Kim cho biết phi cơ đă được gửi đi để đón bác sĩ Quát ở dưới vùng lục tỉnh và chính ông Quát cũng sẽ đến ăn cơm tối với chúng tôi. Sau đó ông Kim tiếp tục nói thêm với tôi: "Anh thấy đó, mọi việc giờ đă tạm xong. Lúc này chúng ta bắt tay vào việc. Chúng ta có thể tiếp tục bàn bạc những kế hoạch chúng ta đă bàn bạc trước đây."

15. T́nh H́nh Sau Đảo Chánh

Vào thời gian đảo chánh th́ tôi đă đứng ngoài chính trường được 9 năm. Tôi đă mục kích ông Ngô Đ́nh Diệm cùng gia đ́nh giết chết dần những hoài băo của các phần tử quốc gia về việc mang lại đoàn kết và dân chủ cho Miền Nam. Khi đảo chánh thành công tôi cảm thấy hy vọng tràn trề. Tôi nghĩ rằng biết đâu những năm tháng lăng phí vừa qua vẫn chưa làm tiêu tan mọi sự. Lúc này chúng tôi vẫn có thể bắt đầu những kế hoạch dự định như đầu năm 1954. Việc tướng Kim tham khảo chúng tôi đă mang lại cho tôi nhiều khích lệ. Nếu chánh phủ mới được thiết lập th́ bác sĩ Quát và những phần tử quốc gia khác sẽ có một môi trường căn bản để dựa vào đó mà hoạt động. Mặc dầu chúng tôi chưa có đủ thời giờ để chánh thức sắp đặt các kế hoạch cho giai đoạn sau đảo chánh, chúng tôi đă dành nhiều thời giờ suy nghĩ kỹ lưỡng về những vấn đề này. Theo chúng tôi được biết th́ vào lúc này có lẽ chưa có ai thực sự chú tâm suy xét những kế hoạch tương tự. Hơn nữa, khi bác sĩ Quát c̣n là Tổng Trưởng Quốc Pḥng, tôi và tướng Kim đă có tham dự những buổi đàm phán với Pháp ở Élysée. Lúc đó, đề tài của những cuộc đàm phán với Pháp cũng là những vấn đề thiết lập chánh phủ dân chủ cho Việt Nam chẳng khác ǵ lúc này. Tôi tin rằng tướng Kim khó thể quên được những đề tài mà chúng tôi đă cùng nhau bàn bạc trong các cuộc đàm phán khi trước.

Khi đến gặp tướng Kim vào buổi ăn tối trong ngày đảo chánh tôi đă ôm ấp rất nhiều hy vọng. Theo lời tướng Kim th́ máy bay đặc biệt đă được gửi đi Vĩnh Long để đón bác sĩ Quát. Tôi đă nghĩ rằng đây là lúc chúng tôi có thể bắt đầu nghĩ đến những kế hoạch đă bàn trước đây. Tuy nhiên, lúc gặp tướng Kim th́ việc xảy ra lại khác hẳn những điều tôi dự định trước. Tôi hỏi ai là người mà các tướng lănh nghĩ sẽ đứng vào cương vị thủ tướng? Tướng Kim trả lời rằng các tướng định đề cử ông Nguyễn Ngọc Thơ phó tổng thống dưới thời ông Diệm làm người đứng ra chấp chưởng quyền hành. Nghe xong tôi không khỏi sững sờ. Tôi hỏi tướng Kim: "Chúng ta đang có một cơ hội lịch sử. Nhưng chúng ta cần những người hoàn toàn phù hợp với t́nh trạng mới. Tại sao ông lại có thể nghĩ đến chuyện mang ông Thơ trở lại?" "À," tướng Kim trả lời, "Theo tôi biết th́ tướng Minh đă đề nghị. Ông Thơ chắc sẽ phải nhận lănh."

Câu trả lời làm tôi mất cả b́nh tĩnh. Tôi lớn tiếng với tướng Kim: Nếu họ đảo chánh chỉ để mang những người trong nhóm họ vào th́ cả cuộc cách mạng c̣n có ích lợi ǵ chứ? Tướng Kim cố gắng khuyên tôi b́nh tĩnh. Ông tŕnh bày những vấn đề phức tạp của nội t́nh hiện tại và nhắc thêm rằng chính bác sĩ Quát cũng sẽ được mời vào làm Bộ Trưởng Y Tế. Tôi nói với tướng Kim rằng đây là chuyện không tưởng: Mời ông Quát -với kiến thức và kinh nghiệm đó,- làm Bộ Trưởng Y Tế th́ có khác ǵ là ném cho chó một khúc xương thừa? Tôi cũng nói thêm rằng chẳng cần phải bàn luận ǵ nữa. Đương nhiên ông Quát sẽ khước từ không chút đắn đo.

Tuần lễ sau đó tôi đă nhiều lần gặp tướng Kim. Theo tôi nhận định th́ tướng Kim đă quyết tâm cộng tác với bác sĩ Quát, tôi và những phần tử quốc gia khác để cùng thiết lập guồng máy chính trị. Đây là việc đă quá rơ ràng, bất kể các tướng tá khác có dự định ǵ khác. Tôi cho rằng nếu chúng tôi không thể chánh thức tham dự vào chánh phủ th́ có thể chúng tôi sẽ tham dự dưới nhiều h́nh thức khác. Chẳng hạn như tham gia các cơ quan nghiên cứu các phương pháp thành lập những cơ cấu dân chủ.

Tuy rất thất vọng về những quyết định của các tướng tá, nhất là về vấn đề bè đảng hiển lộ rơ rệt trong cung cách của họ, tôi vẫn cho rằng việc soạn thảo một hiến pháp mới là một trong những bước tối quan trọng của chế độ mới. Tôi nghĩ rằng dù có ngờ vực chánh quyền tới mức độ nào đi chăng nữa th́ việc hoạch định hiến pháp vẫn không phải là vấn đề chúng tôi có quyền lựa chọn.

Kể từ đó, trong những buổi gặp gỡ với tướng Kim, chúng tôi bàn luận t́m cách mở rộng chánh phủ để mời những người từ mọi phía tham gia chánh phủ. Lúc này bản Hiến Pháp thời ông Diệm đă bị phế bỏ, hội đồng tướng lănh đang điều hành chánh phủ bằng luật nhà binh. Tôi hiểu rằng cuộc đảo chánh đă bắt buộc các tướng lănh phải tạm dùng thể thức này, và việc tổ chức bầu cử là việc không thể làm ngay v́ chẳng có nguyên tắc nào khả dĩ có thể áp dụng được tức thời. (Tự do bầu cử là việc chưa từng có trong lịch sử Việt Nam từ trước tới nay.) Tuy vậy, tôi chủ trương rằng phải có một diễn đàn cho phép mọi người tự do tranh luận về tất cả các vấn đề và cũng để chánh phủ thể hiện những quyết tâm đeo đuổi đường lối dân chủ.

Những cuộc tranh căi dẫn đến việc thiết lập Hội Đồng Nhân Sĩ bao gồm vào khoảng 70 chánh trị gia danh tiếng ở trong gần như mọi đoàn thể quốc gia. Gần như tất cả mọi người trong nhóm Caravelle cũng như những người Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo và những người mà ông Diệm đă đàn áp đều gia nhập.

Mặc dù Hội Đồng Nhân Sĩ không có quyền hành ǵ, nhưng đây là một cơ quan có tính cách dân chủ nhất từ trước đến nay ở Việt Nam. (Đương nhiên khỏi cần nhắc đến Miền Bắc.) Dưới chánh quyền ông Diệm Quốc Hội thật sự chỉ là bù nh́n. Hội Đồng Nhân Sĩ, ngược lại, đầy những thành viên bộc trực, những người có quan niệm chánh trị hoàn toàn khác biệt. Họ không hề có chút đắn đo về việc phê b́nh chánh phủ bằng những lời lẽ thẳng thắn nhất. Họ cũng có thễ t́m đến những cơ quan ngôn luận và báo chí lúc này đă hoạt động trên những diễn đàn có tầm vóc quốc gia. Chẳng bao lâu sau các tướng lănh hiểu rơ việc gạt bỏ tư tưởng của họ không phải là một việc dễ dàng.

Riêng cá nhân th́ tôi rất hài ḷng về việc đă đóng góp thiết lập Hội Đồng Nhân Sĩ. Đối với tôi Hội Đồng Nhân Sĩ là một phương tiện ngăn cản các tướng lănh khỏi lạm dụng quyền thế. Tuy tôi hết sức sốt sắng làm mọi việc để bảo vệ hội đồng, nhưng tôi cũng rất ngần ngại khi thu hút tất cả sự chú ư về phía riêng ḿnh. Chính bản thân tôi vốn là một người Bắc sống tại Miền Nam và những người tôi gần gũi trong lănh vực chính trị phần nhiều lại là người Nam. Gia tăng những đụng chạm ngấm ngầm giữa Bắc Nam là một việc hoàn toàn bất lợi. Nhất là khi tôi lại đang cố thiết lập một chánh phủ liên hiệp. Sau cùng tôi quyết định ứng cử chức phó tổng thư kư Hội Đồng và cùng làm việc với ông Trần Văn Văn, một người Miền Nam giữ chức Tổng Thư Kư. Nước cờ này đă loại trừ tất cả những nghi ngờ về bè cánh các miền. Đây là một trong những lần tôi thành công trong việc xóa bỏ những nghi kỵ Bắc Nam. Tuy thế, về sau này, những nỗ lực của tôi không phải lúc nào cũng hoàn toàn như ư.

Khi Hội Đồng bắt đầu hoạt động, tôi vẫn thúc đẩy tướng Kim về việc cần thiết phải đề cử những người từ phía ngoài vào những chức vụ quan trọng cũng như việc cần phải tiến đến một chánh phủ hợp hiến càng nhanh càng tốt. Tuy cuộc đảo chánh ông Diệm đă mang lại nhiều phấn khởi, những khó khăn trong chánh phủ vẫn c̣n đầy dẫy. Lúc này, cách hữu hiệu nhất để giải tán những khó khăn là thiết lập một chánh phủ dân sự.

Thật sự th́ uy thế của các tướng tá đang ngày càng giảm dần v́ nhiều lư do. Thứ nhất: Việc giết ông Diệm và ông Nhu đă khiến họ phải gặp nhiều điều bất lợi. Hai anh em ông Diệm và ông Nhu đă cầm đầu chính phủ suốt 9 năm và đă bổ nhiệm rất nhiều chân tay cốt cán vào chánh quyền. Việc ám sát hai ông đă tạo ra những chống đối sâu xa và dai dẳng giữa những người cũ và những người mới. Những sự chống đối của các nhân viên chính quyền đă làm tê liệt một phần guồng máy chính phủ trung ương và địa phương. Lúc này, ngoài các cơ quan quân sự, dường như toàn thể guồng máy chính quyền đều tê liệt.

Thứ hai: Cuộc đảo chánh đă vô t́nh gia tăng cuộc xung đột tôn giáo. Cuộc cách mạng vốn dĩ khởi đầu do thái độ đàn áp Phật Giáo. Hơn nữa, v́ các tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn đều là những người theo phật giáo, cuộc cách mạng có vẻ là một hành động để giải cứu các phật tử cũng như để trả thù sự phân biệt tôn giáo dưới chính quyền ông Diệm. Chuyện những người công giáo cảm thấy thù nghịch những vị tướng lănh cũng là chuyện dễ hiểu, nhất là khi họ mục kích sự đối đăi bất nhẫn của những người này đối với ông Diệm và ông Nhu.

Tuy vậy, những khó khăn căn bản là do từ chính các vị tướng lănh mà ra. Những quân nhân trong Hội Đồng tướng lănh chẳng những đă không có quan niệm rơ rệt về chính phủ hoặc xă hội, mà cũng chẳng hề có những suy nghĩ thiết thực về việc xây dựng lại quốc gia. Khung cảnh của các vị tướng lănh lúc này thật đúng như lời tục ngữ: "Đồng Sàng Dị Mộng", họ quả thật là những người cùng chung giường nhưng lại chẳng cùng giấc mơ. Và ngay cả đến những giấc mơ của họ cũng không rơ ràng cụ thể. Kết quả là các vị tướng tá đă đồng ư bỏ mặc guồng máy chính quyền.

Tướng Lê Văn Kim lúc nào cũng phẫn nộ về t́nh trạng buông lơi của các tướng lănh. Vốn dĩ là một người cương quyết và có khả năng; ông không thể chịu được sự lười biếng của tướng Dương Văn Minh. Tướng Kim nói với tôi rằng: Trong Hội Đồng có nhiều phe nhóm quá mà lại thiếu đường lối tổng quát cho nên vẫn chưa có ǵ đáng gọi là thành quả. Lúc này, việc cần thiết là phải t́m những người đứng ra để lănh đạo. Mọi việc đều qua tướng Minh, người đă đặt tay chân của riêng ḿnh vào những cương vị chủ chốt. Tuy thế, chính cướng Minh lại không hề có một chút khả năng nào dù là khả năng thúc đẩy những người do chính ông đưa vào.

Sau cùng, v́ đă quá chán nản, tướng Kim xin từ bỏ những trách nhiệm chính trị để có thể trở về phục vụ quân đội. Kết quả là vào giữa tháng giêng ông được cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội. Khốn thay, ngay cả việc này cũng làm gia tăng nhiều sự ngờ vực. Đă có vài người cho rằng ông Kim đang cố gắng củng cố quyền lực. Hơn nữa, chỉ ít lâu sau đó, tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Tham Mưu Trưởng trước khi ông Kim nhậm quyền, lại c̣n tạo ra một hiềm khích làm vấn đề càng thêm phức tạp. Mặc dầu Hội Đồng Nhân Sĩ vẫn là một điểm sáng, nhưng khung cảnh đất nước lúc này thật là tăm tối và cho đến cuối năm 1963 th́ mọi sự đă rơ ràng rằng những tiến triển trong giai đoạn đầu của cuộc đảo chánh chẳng có ǵ đáng gọi là cách mạng. Tất cả chẳng qua chỉ là việc giao chuyển quyền hành mà thôi. Lại thêm một cơ hội nữa bị lăng phí. Đây có lẽ là cơ hội cuối cùng của chúng tôi.

Sau cuộc đảo chánh, ba tháng trôi qua tay các vị tướng tá hững hờ như nước. Lúc này, những hy vọng của các phần tử quốc gia vào lúc đầu đảo chánh mới thành công đă chuyển thành những nghi ngờ, lănh đạm. Tuần trăng mật của chánh phủ mới trôi qua thật là ngắn ngủi và chưa ai tiên đoán được đất nước sẽ phải chấp nhận cuộc lênh đênh buông thả trong bao lâu nữa. Sự thiếu sáng kiến của giới lănh đạo trong ba tháng cầm quyền đầu tiên đă đủ để mọi người có linh cảm rằng hiểm họa sắp xuất hiện.

Vào ngày 30-11-1964, tai họa mở màn bằng hành động của tướng Khánh. Sáng sớm hôm đó, tướng Nguyễn Khánh và một nhóm tướng lănh khác -kể cả tướng Trần Thiện Khiêm, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng- đứng ra làm một cuộc chỉnh lư lật đổ nhóm tướng lănh đă đảo chánh ông Diệm không cần đến một phát súng. Tuy không làm ǵ hại đến nhóm tướng lănh, sau khi chỉnh lư ông Khánh đă cầm tù họ rồi tự ḿnh đứng ra nắm quyền lănh đạo.

Cuộc chỉnh lư lần này đă thay thế luật nhà binh của nhóm tướng lănh lúc trước bằng những hành động hài hước của một nhân vật hoàn toàn thiếu đứng đắn. Nếu các tướng tá trước ông Khánh chỉ là những người thiếu kiến thức chính trị và thiếu tháo vát th́ tướng Khánh lại chính là một người lănh đạo với khả năng không quá khuôn khổ của những việc toa rập. Theo tôi nhận xét th́ Tướng Khánh là một nhân vật len lỏi vào cuộc đời chính trường phức tạp Miền Nam với những quan niệm bấp bênh đă làm bẽ mặt cả đất nước. Khi ông Khánh ra cầm quyền, tôi nghĩ có lẽ đă đến lúc tôi nên rời chính trường để trở lại với cuộc sống b́nh thường. Trong thời ông Diệm, ở Sài G̣n đă có một tờ báo Anh Ngữ là tờ Times of Vietnam. Tờ Times được coi là cơ quan ngôn luận của chính phủ và thường xuyên đăng những mục chửi bới chống Hoa Kỳ. Tờ báo này lúc trước vẫn được ông bà Ngô Đ́nh Nhu đứng sau làm hậu thuẫn. Sau khi các tướng tá đảo chánh, những văn pḥng của nhà xuất bản bị lục soát và tờ báo phải đóng cửa.

Lúc này tôi cảm thấy dường như thị trường Sài G̣n vẫn c̣n đủ chỗ cho một tờ báo Anh Ngữ. Tôi có biết sơ về công việc báo chí v́ đă có lần làm chủ bút cho một tờ báo ở Hà Nội năm 1951, và đă gom đủ tiền để bắt đầu một tờ báo mới là tờ Saigon Post. Bắt đầy xây dựng một tờ báo từ phút ban đầu là một việc vô cùng khó nhọc. Việc đă thâu hết tất cả công sức của tôi trong nhiều tháng trời. May thay, đây cũng là một sự khó nhọc tôi chẳng nề hà. Thời giờ của tôi được chia đều để viết bài b́nh luận, chọn các tiết mục, xem xét vấn đề thương măi và trông coi cả đến việc sắp chữ. Thông thường th́ khoảng 3 hoặc 4 giờ đêm mỗi ngày tôi bắt đầu duyệt lại lần chót tờ báo trước khi cho lên khuôn để xuất bản vào ngày hôm sau, rồi sau đó về nhà vật ra ngủ vùi một giấc ngắn trước khi một ngày mới bắt đầu.

Tuy lại một lần nữa tôi xa rời chính trường, tôi vẫn chưa bỏ hẳn được mọi hoạt động chính trị. Có lẽ chỉ ngoại trừ việc bị buộc phải nghỉ mát bất đắc dĩ như lần đưa nhà tôi sang Pháp dưỡng bệnh lúc trước th́ chẳng c̣n việc ǵ khác có thể khiến tôi từ bỏ được tất cả những hoạt động chính trị. Chính trị chính là mạch sống của những người mang nghiệp chủ bút hoặc viết b́nh luận như nghề mới chọn của tôi. Cơ nghiệp điện ảnh ngắn ngủi của tôi trước đây cũng có liên quan một phần đến chính trị trong phần chủ đề. Ngay cả khi tôi đi dạy, th́ thời gian đó cũng là vào giữa lúc những phong trào chống đối đang hoạt động mạnh trong giới các giáo sư và rồi nghề giáo của tôi cũng bị những biến cố chính trị làm cho khuất lấp mất đi. Vào thời gian này tôi đă gia nhập chính trường được 20 năm và có lẽ chẳng c̣n bất cứ cách nào có thể làm tôi dứt bỏ được nghiệp chính trị. Về riêng phương diện này, cuộc sống của tôi cũng chẳng khác ǵ cuộc sống của nhiều người Việt Nam khác. Từ khoảng giữa thập niên 1940 về sau, lịch sử đất nước không hề để bất kỳ ai an hưởng trọng vẹn ḥa b́nh hoặc bất kỳ gia đ́nh nào an nhiên không bị đụng chạm. Tất cả chúng tôi đă trở thành những nạn nhân chính trị bằng cách này hay cách khác. Có lẽ vào lúc này, ấn tượng đó c̣n phù hợp với hoàn cảnh hơn là vào năm 1964. Nếu nh́n lại với những biến cố lịch sử đă trôi qua, th́ chính chánh quyền Nguyễn Khánh đă xóa tan những hoài băo của các phần tử quốc gia khi họ cố t́m cách xây dựng một Miền Nam Dân Chủ mạnh mẽ để có thể đương đầu hữu hiệu với Cộng Sản. Theo tôi thấy th́ cho đến giai đoạn này đă có rất nhiều cơ hội có thể cho phép Việt Nam thiết lập một chánh phủ dân chủ như những phần tử quốc gia đă từng ước mơ. Cơ hội đầu tiên là năm 1948, khi Pháp đưa ra "Giải Pháp Bảo Đại." Cơ hội thứ hai là năm 1954, khi hiệp định Geneva tạo thành một Miền Nam Việt Nam độc lập. Cơ hội thứ ba là năm 1963, khi các tướng lănh đảo chánh ông Diệm. Nhưng trong cả ba cơ hội vừa kể, giới lănh đạo Miền Nam đă phá hủy tất cả mọi triển vọng của các phần tử quốc gia và không đáp ứng được nguyện vọng của người dân Việt Nam. Nếu ân sủng may mắn đă đến cho giới lănh đạo Miền Bắc bao nhiêu th́ nghịch cảnh đă khiến giới lănh đạo quốc gia phải chịu đựng khốn khó bấy nhiêu.

Khi suy luận dựa trên quan điểm này th́ chính người Việt Nam đă tự chuốc lấy những khốn khó cho cuộc sống của ḿnh. Chẳng có ǵ khó hiểu về những người như Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm, Big Minh và Nguyễn Khánh. Điều khó hiểu có chăng là ở vào câu hỏi: Tại sao Hoa Kỳ khởi đầu vào Việt Nam với mục đích xây dựng một Miền Nam Dân Chủ và vững mạnh mà lại có thể khiến Việt Nam đi đến những thất bại sâu xa đến thế? V́ rằng mỗi cơ hội dành cho những phần tử quốc gia cũng là một cơ hội dành cho Hoa Kỳ. Nuôi dưỡng ư thức dân chủ tại Việt Nam không phải chỉ là một vấn đề liên hệ đơn thuần đến Việt Nam, mà cũng là vấn đề liên hệ đến Hoa Kỳ. V́ vậy, một khi Việt Nam đă thất bại th́ Hoa Kỳ cũng đă thất bại.

Nếu những thất bại của Việt Nam là do thiếu lănh đạo th́ những thất bại của Hoa Kỳ, theo tôi, là do thiếu chính sách. Qua con mắt những người Việt Nam th́ chính sách của Hoa Kỳ lúc nào cũng đầy mâu thuẫn. Nói một cách chi tiết hơn th́ Hoa Kỳ lúc nào cũng đi dây giữa hai vấn đề can thiệp và không can thiệp. Chính phủ Hoa Kỳ dường như vĩnh viễn chẳng bao giờ có thể khẳng định vấn đề liệu có nên can thiệp hay không. Hậu quả của thái độ đi dây là Hoa Kỳ đă đưa cả ḿnh lẫn đồng minh Việt Nam vào một tư thế bất lợi hơn cả.

Cuộc đảo chánh ông Diệm là một phần thất bại điển h́nh đă ám ảnh cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài G̣n. Các tướng lănh đảo chánh ông Diệm đă cố hết sức thận trọng tránh để cho cuộc đảo chánh có vẻ không phải là "do người Mỹ tổ chức." Nhưng dù các tướng lănh có cố gắng đến mức nào đi nữa th́ biến cố đảo chánh vẫn khó thể xảy ra nếu không có sự đồng ư của Hoa Kỳ. Trong nhiều tháng trước khi họ dự định đảo chánh, các tướng lănh đă hết sức thận trọng ḍ dẫn thái độ của Hoa Kỳ. Các tướng tá cần -hoặc ít ra là cảm thấy cần- được Hoa Kỳ nói rơ với họ rằng dù cho ông Diệm có bị lật đổ, th́ Hoa Kỳ cũng vẫn tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam. Sau cùng Hoa Kỳ đă bật đèn xanh cho họ. Mới đầu là những dấu hiệu ngầm từ Hoa Thịnh Đốn và rồi rơ ràng hơn qua trung gian Lucien Conein, người của CIA.

Mặc dầu những người âm mưu và Hoa Kỳ đă cẩn trọng che dấu tất cả mọi việc, khi biến cố đảo chánh xảy ra, tất cả những người Việt Nam có để ư đến vấn đề chính trị đều nhận định rằng sự dính líu của Hoa Kỳ là chuyện nghiễm nhiên. Do vậy, khi đảo chánh thành công và cả Việt Nam đều vui mừng khi chánh phủ ông Diệm bị lật đổ th́ Hoa Kỳ đă được xem là đồng minh của dân chủ. Đối với Việt Nam, chuyện Hoa Kỳ can thiệp là chuyện hoàn toàn có tính cách tự nhiên. Sự can thiệp được ủng hộ là v́ hành động này đi đôi với mong mỏi chung của dân chúng.

Cuộc đảo chánh của các tướng lănh là việc can thiệp trực tiếp đầu tiên của Hoa Kỳ vào nội bộ Việt Nam. Tuy vậy, như tôi đă tŕnh bày, chính sách của Hoa Kỳ đă ảnh hưởng đến t́nh h́nh chính trị Việt Nam qua rất nhiều năm. Sự can thiệp của Hoa Kỳ bắt đầu từ khi Pháp c̣n đô hộ Việt Nam cho đến khi ông Diệm bị lật đổ. Ở mọi thời điểm, Hoa Kỳ đều không lộ rơ vai tṛ. Tuy thế, tất cả các phần tử quốc gia Việt Nam đều xem Hoa Kỳ là đồng minh. Kể từ ngày thế chiến thứ hai kết liễu Hoa Kỳ đă giúp đỡ, cố vấn và cũng đă nhiều phen cản trở hành động của các phần tử quốc gia.

Vào thời Bảo Đại, Hoa Kỳ đă liên tiếp chối bỏ một giải pháp quốc gia cũng như đă ủng hộ tṛ chơi của Pháp khi Pháp cố tŕ hoăn việc nhượng quyền cho các phần tử quốc gia và như thế Hoa Kỳ đă vô t́nh làm giảm uy tín các phần tử quốc gia rất nhiều. Trong thời ông Diệm, Hoa Kỳ đă ủng hộ nhân vật độc tài này suốt một thập niên cho tới khi ông Diệm công khai chống đối việc mở rộng chính phủ. Hơn nữa, khi chánh phủ ông Diệm đang ráo riết đàn áp các phần tử quốc gia Hoa Kỳ c̣n dùng chiêu bài "Hợp Pháp" để cắt đứt liên lạc với họ. Những chánh sách của Hoa Kỳ chẳng khác nào những nhát giáng đă cướp đi cả những khích lệ lẫn các điểm tựa mà các phần tử quốc gia có thể dựa vào để hoạt động.

Kể từ lúc đó cho đến nay, tôi vẫn nhận xét rằng chánh sách "đi dây" của Hoa Kỳ chứng tỏ họ hoàn toàn không hiểu rơ chủ định của chính ḿnh. Một mặt th́ thực tế về sách lược toàn cầu đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải ủng hộ chánh sách thực dân của Pháp và giúp đỡ ông Diệm củng cố chánh quyền. Nhưng mặt khác, lư tưởng lại đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải chống lại thực dân và bồi đắp cho một nền quốc gia dân chủ. Giữa hai sách lược phải chọn, Hoa Kỳ dường như không thể cả quyết được rằng họ sẽ phải đi theo sách lược nào.

Tôi tự hỏi liệu vào lúc đó hoặc về sau này, Hoa Kỳ có thể nhận thức được rằng bất kỳ chọn lựa cách nào th́ họ cũng vẫn phải can thiệp trực tiếp hay chăng? Vấn đề phải can thiệp là một vấn đề Hoa Kỳ khó thể tránh khỏi! Sau thế chiến thứ hai, cương vị nổi bật của Hoa Kỳ đă khiến họ ảnh hưởng trầm trọng đến chính trị nội bộ Việt Nam bất kể họ hành động ra sao. Chính v́ lư do này nên trong giai đoạn ông Diệm nắm quyền, khi Hoa Kỳ cắt đứt liên lạc với chúng tôi dưới chiêu bài "hợp pháp" và "không can thiệp" tôi vẫn thấy rằng hành động của họ cũng có phần đúng. Ngoài cách bịt mắt không can thiệp, Hoa Kỳ chẳng c̣n cách nào khác để tránh khỏi đương đầu với vấn đề Việt Nam. V́ bất cứ khi nào những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ c̣n tin rằng số phận của các quốc gia tùy thuộc lẫn nhau, bất cứ khi nào họ c̣n tin rằng những quyền lợi quan trọng của Hoa Kỳ luôn luôn phải đi đôi với một thế giới quân bằng ổn định th́ lúc đó dù muốn dù không, Hoa Kỳ vẫn phải vương ḿnh vào cuộc. Một khi đă chấp nhận điều này th́ điều quyết định c̣n lại là phải can thiệp như thế nào. Câu hỏi chính, v́ vậy, chính là: "Phải can thiệp như thế nào?" Chứ không phải, "Liệu có nên can thiệp hay không?"

Măi cho đến khi các tướng tá đảo chánh, Hoa Kỳ vẫn giữ vững chủ trương "không can thiệp." Tuy vậy, vào mùa hè 1963, chủ trương không can thiệp đă khiến Miền Nam rơi vào t́nh trạng tai hại đến nỗi dường như Hoa Kỳ bị buộc phải đi ngược lại các chính sách về trước và trực tiếp can thiệp. Nhưng dù bị buộc phải can thiệp, Hoa Kỳ vẫn vào cuộc đầy vẻ ngần ngại, đắn đo. Sau khi đồng ư để cho những người mưu mô đảo chánh bắt tay vào việc, họ coi như việc can thiệp đă kết liễu. Hoa Kỳ hành động như thể cố nói lên tâm tư ngần ngại của họ rằng: "T́nh thế đă bắt buộc chúng tôi can thiệp, nhưng chúng tôi sẽ cố giảm thiểu mức độ can thiệp và nếu cần chúng tôi sẵn sàng chối bỏ sự can thiệp."

Nhưng vấn đề can thiệp, thật chẳng khác nào vấn đề thụ thai. Một khi đă thụ thai th́ dĩ nhiên chẳng thể có vấn đề thụ thai nửa chừng. Khi Hoa Kỳ nỗ lực giới hạn các hành động can thiệp th́ chánh phủ Hoa Kỳ nói chung -và ông Henry Cabot Lodge nói riêng- đă không chú ư đến vấn đề lănh đạo sau khi ông Diệm bị lật đổ. Họ chẳng hề chú tâm đến những vấn đề khó khăn của tương lai. Hoa Kỳ quyết định đổi ngựa mà không cần biết rơ con ngựa mới như thế nào. Hậu quả là một nhóm quân nhân đă đứng ra đảo chánh và rồi tiếp sau đó là một nhân vật hài hước Nguyễn Khánh lên thay. Cuối cùng chính Hoa Kỳ phải lănh nhận mọi hậu quả của cuộc đảo chánh. Hậu quả này bao gồm cả những thành công lẫn những thất bại của các nhân vật thiếu khả năng đă nắm quyền tại Việt Nam. Cách vào cuộc của Hoa Kỳ thật là vụng về vô kể.

Thật ra những diễn biến kể trên không phải là những vấn đề chẳng thể tránh khỏi. Nếu Hoa Kỳ có đủ can đảm nêu rơ lư tưởng dân chủ th́ những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ có thể sẽ có những giải pháp khác. Hoa Kỳ có thể dùng thời giờ để t́m hiểu kỹ xem mục đích thực sự của họ đối với Việt Nam là ǵ và t́m những giải pháp thiết thực để chuyển Việt Nam về một hướng thuận lợi hơn thay v́ chỉ dùng thời giờ tranh luận về vấn đề làm thế nào để trực tiếp can thiệp vào Việt Nam mà vẫn tránh được vẻ lộ liễu.

Trong diễn biến đảo chánh, đại sứ Lodge đă nhờ nhân viên Conein của CIA chuyển lời với những người âm mưu đảo chánh rằng Hoa Kỳ "không hề toan tính ngăn cản" cuộc đảo chánh. Nhưng ông Lodge cũng có thể nói khác. Ông có thể bàn luận với những người mưu mô qua những lời kín đáo khác chẳng hạn như: "Thực sự, chúng tôi không ủng hộ ông Diệm. Nhưng ủng hộ các ông có thật là một giải pháp hoàn hảo hơn chăng? Chúng tôi không muốn biết rơ chi tiết về việc đảo chánh của các ông. Nhưng các ông sẽ làm ǵ sau đó? Các ông đang bàn luận về tương lai đất nước các ông. Tất nhiên sự việc cũng có liên hệ đến chúng tôi." Các tướng lănh không phải là những người không thông hiểu vấn đề. Họ sẽ phải nghe theo giải pháp ḥa nhă và trực tiếp này. V́ rằng họ chẳng thể lựa chọn.

Cho dù lịch sử đă trôi qua và chúng tôi đang nh́n lại vấn đề, việc phán xét liệu có nên đảo chánh ông Diệm hay không vẫn là việc khó nói. Tuy chẳng ai có thể tiên đoán được những diễn biến tại Việt Nam nếu ông Diệm và gia đ́nh vẫn tiếp tục nắm quyền, nhưng bất kỳ ai cũng có thể nhận định rằng nếu không nỗ lực tiến hành những nhu cầu thiết thực của Miền Nam sau đảo chánh th́ những thành công của cuộc đảo chánh quả không đáng kể. Khi nhóm tướng tá nắm quyền th́ lại có một sự mâu thuẫn tương tự hệt như trước đây giữa họ và Hoa Kỳ. Một mặt, đại sứ Lodge đă tiếp tục thái độ không can thiệp khi các tướng lănh đi từ sự vụng về này qua sự vụng về khác. Mặt khác, tuy đă quyết không can thiệp, Hoa Kỳ vẫn tỏ vẻ phẫn nộ v́ kém nhẫn nại. Họ có cảm giác như một người anh lớn lúc đứng nh́n em ḿnh hành động một cách hoàn toàn vô trách nhiệm. Những tướng lănh chẳng những đă không có chính sách và kế hoạch rơ rệt mà c̣n thiếu cả người lănh đạo chủ chốt. Vào tháng 12 năm 1963, McNamara trong cơn giận dữ đă bước vào pḥng họp với các tướng lănh đạo nh́n quanh từng người và đặt câu hỏi: "Ai trong nhóm các ông đây là người lănh đạo?" Các tướng tá đều ngậm miệng căm hờn. Hành động của McNammara biểu hiện rơ rệt khuynh hướng của Hoa Kỳ là dùng sức mạnh áp chế thay v́ giúp đỡ các đồng minh bằng những phương pháp tốt đẹp khác.

Đă không chịu đưa ra những chủ trương hướng dẫn rơ rệt mà lại tức giận và thất vọng về những hành động vụng về và thiếu kế hoạch của giới lănh đạo Việt Nam, những người lập chính sách Hoa Kỳ quả thật đă chơi tṛ phù thủy đầy bí hiểm. Những xung khắc rơ rệt của Miền Nam khi đi đôi với những chủ trương thật mơ hồ của Hoa Kỳ đă dẫn đến cuộc chỉnh lư của Nguyễn Khánh . Mặc dầu chính bản thân đại sứ Lodge không hề có dính líu ǵ đến cuộc đảo chánh, khi nhóm tướng lănh bị lật đổ, ông đă phát biểu: "Thế là thoát nợ!"

Có thể điều đại sứ Lodge phát biểu đă chứng tỏ ông cảm thấy ngờ vực, bất an khi phải gắn liền uy tín của Hoa Kỳ vào những nhân vật lănh đạo Miền Nam. Nhưng chẳng những đại sứ Lodge mà ngay cả đến ông Johnson cũng chưa hề chú tâm đến vấn đề t́m ṭi những người lănh đạo. V́ chính sách của Hoa Kỳ lúc nào cũng mong mỏi sự ổn định ở Việt Nam nên họ sẵn ḷng chấp nhận bất kỳ ai trông có vẻ hứa hẹn. Họ chẳng cần đoái hoài ǵ tới vấn đề phải cải cách để biến chánh quyền Miền Nam thành một chính quyền mà họ thực sự muốn ủng hộ. Lại một lần nữa họ quyết định đổi ngựa mà chưa hề biết rơ tính nết của một con ngựa lạ.

Những hành động vô ư của Hoa Kỳ dẫn đến hậu quả là ngay từ phút đầu, ông Khánh đă được tiếp đón như một người hùng được Hoa Kỳ ủng hộ triệt để. Để chứng tỏ sự ủng hộ của Hoa Kỳ với vị lănh tụ mới, Hoa Kỳ đă gửi cả Bộ Trưởng Quốc Pḥng sang Việt Nam để vận động ủng hộ ông Khánh. (Cách vận động này vốn không phải là một sách lược tự nhiên đối với McNamara. Có lần ông nắm tay ông Khánh tung hô: "Việt Nam Muôn Năm." Khốn thay, người dạy McNamara khẩu hiệu tung hô lại quên không dạy ông phải đặt dấu nhấn cho đúng nên thay v́ tung hô: "Việt Nam Muôn Năm," ông ta lại hô trệch đi thành "Việt Nam Muốn Nằm!") Thật ra, bề mặt mạnh mẽ của tướng Khánh chỉ có thể che dấu được những nhược điểm to lớn của chánh phủ Miền Nam được nhất thời. Những nhược điểm của chánh quyền tướng Khánh bao gồm nhiều điểm. Nhược điểm thứ nhất là chánh phủ không có một chánh sách tổng quát rơ rệt. Nhược điểm thứ hai là chính bản thân tướng Khánh cũng không đủ khả năng để nhận thấy tầm mức cần thiết của vấn đề này. Khi McNamara giơ tay cùng Nguyễn Khánh, mọi người đều thấy rơ cả Tổng Trưởng Hoa Kỳ lẫn tướng Khánh đều khép chặt những ngón tay xen kẽ. H́nh ảnh này có thể được xem như một biểu tượng đánh dấu mối liên hệ chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng nếu quả những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lúc đó đă nhận định được vấn đề một cách tường tận th́ họ phải kết luận khác. Họ chẳng thể kết luận rằng chỉ cần h́nh ảnh của biểu tượng liên kết là đủ để giải tỏa mọi khó khăn.

16. Chánh Quyền Tướng Khánh

Vào mùa xuân năm 1964, tướng Khánh vẫn chưa hề hoàn thành được điều ǵ đáng kể. Ông chỉ hô hào những câu vô nghĩa về mục đích của ḿnh và thay đổi ṿng ṿng các bộ trưởng, chẳng theo một phương sách hoặc thứ tự nào cả. Một trong những hành động khác của ông là giải tán Hội Đồng Nhân Sĩ vào tháng sáu. Một hôm, Hội trưởng Trần Văn Văn cùng tôi được triệu vào gặp ông Khánh để nghe ông tuyên bố: "Hội Đồng Nhân Sĩ thực sự chẳng có ích lợi ǵ. Tôi đă có những ư kiến khác." Sau đó chúng tôi được mời ra. Sự việc gần như thể chúng tôi chánh thức được báo cáo rằng chính ḿnh đă chết.

Một trong những điểm sáng sủa hơn là tờ Saigon Post đă đi qua giai đoạn lục đục bấp bênh ban đầu và chuyển thành một tờ báo khá vững. Dù rằng đam mê báo chí vẫn c̣n, những ngày tờ báo đ̣i hỏi tôi phải chú tâm đă thật sự đi qua.

Lúc này, gia đ́nh chúng tôi đă giải quyết được những khó khăn về vấn đề tài chánh. Hơn nữa, ở Sài G̣n cũng chẳng có điểm hy vọng nào đáng gọi là sáng sủa trong t́nh h́nh chính trị. T́nh trạng thật là bế tắc và tôi cho rằng có lẽ phải rời bỏ quốc gia, th́ đầu óc mới có thể nghỉ ngơi và nhận định được t́nh h́nh Việt Nam rơ hơn qua một lăng kính khác. Qua ông Barry Zorthian, người điều khiển, hướng dẫn các dịch vụ tin tức, tôi biết rằng thỉnh thoảng pḥng thông tin Hoa Kỳ USIS có mời người ngoại quốc đến viếng thăm Hoa Kỳ dưới một chương tŕnh gọi là Leadership Program. Tôi đă hỏi ư kiến ông Zorthian thử xem ḿnh có thể đủ tiêu chuẩn được tuyển hay không. Ông Zorthian trả lời rằng chẳng có vấn đề ǵ khó khăn cả. Tôi chỉ cần nộp đơn là xong.

Mọi việc được sắp xếp thật nhanh chóng. Chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, tôi nhận được hai bức thư, một của Đại sứ Lodge mời sang Hoa Kỳ và một của British Council mời sang thăm Anh Quốc. Khi chương tŕnh hoạch định xuất dương đă thành tựu, tôi mới thực sự nhận ra ḿnh đă nôn nóng đến độ nào. Tôi chưa hề có dịp du lịch kể từ năm 1954, khi tôi bị buộc phải hủy bỏ chuyến trở lại Thụy Sĩ và kể từ năm đó cho đến nay cuộc sống của tôi lúc nào cũng đầy ắp những chuyện khó khăn và những thất vọng chính trị. Đây sẽ là chuyến du lịch lư thú. Hơn nữa, tôi c̣n có thể quan sát tận mắt đất nước và cuộc sống của Hoa Kỳ.

Nh́n từ một khía cạnh nào đó th́ đây là một điều mong ước đang biến thành sự thực. Thực sự th́ chẳng phải tôi mong được du lịch Hoa Kỳ, nhưng cuộc sống và lư tưởng của người dân Hoa Kỳ đă xâm chiếm tâm hồn tôi từ lâu rồi. Từ khi c̣n cắp sách đến trường tôi đă say mê đọc tiểu sử của Tổng Thống Franklin Delano Roosevelt và những chánh sách ông đề ra để bảo vệ các đồng minh của Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến. Tổng thống John F. Kennedy cũng là một nhân vật khác đă khích lệ rất nhiều những điều tôi ấp ủ. Tôi đă theo dơi cuộc bầu cử khi ông ra ứng cử và rất ngưỡng mộ bài diễn văn ông đọc trong buổi lễ nhậm chức. Trong bài diễn văn đó, Tổng Thống Kennedy tuyên bố Hoa Kỳ sẽ là một quốc gia "mang bất cứ gánh nặng nào, trả bất cứ giá nào để bảo vệ tự do dân chủ ..." câu nói đó tôi vẫn c̣n nhớ măi. Tôi cho rằng bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Kennedy là một bài diễn văn đă diễn tả trọn vẹn được cả vai tṛ quả cảm lẫn lư tưởng của Hoa Kỳ. Có lẽ bài diễn văn của tổng thống Kennedy đă khích lệ những hoài băo của tất cả các phần tử quốc gia ở những nước hăy c̣n kém phát triển và đầy đe dọa vào thời đó.

Bởi thế, tuy ấn tượng tốt đẹp của tôi về Hoa Kỳ trong quá khứ đă bắt đầu bị lu mờ khi tôi mục kích những thực tế chính trị tại Việt Nam, tôi vẫn bị những lư tưởng của Hoa Kỳ thu hút. Tôi hồi hộp mong mỏi cho đến nỗi khi máy bay bay qua California, về hướng Cựu Kim Sơn, tôi đă cảm thấy thất vọng. Khi nh́n xuống thấy những ngọn đồi, những cánh đồng và những thảm cỏ, tôi đă nhủ thầm: "Ừ, dường như cũng chẳng có ǵ khác, quang cảnh nói chung cũng không lấy ǵ làm ly kỳ cho lắm."

Tại Cựu Kim Sơn, tôi lập tức thay đổi máy bay và bay thẳng về Hoa Thịnh Đốn. Tôi xin được đi thăm Nghĩa Trang Quốc Gia tại Arlington trước tiên. Khi đứng trước mộ cố tổng thống Kennedy trong cái nóng mùa hè vùng Hoa Thịnh Đốn tôi cho rằng ông chính là người đă thể hiện những lư tưởng sáng suốt và những khuôn mẫu đạo đức của Hoa Kỳ. Ngay khi đó, tôi cũng suy nghĩ về một khuôn mặt khác của Hoa Kỳ, một khuôn mặt mà tôi mục kích đă quá nhiều lần tại quê nhà.

Trong những tuần lễ sau đó tôi ở lại thủ đô, thăm viếng các nhà báo và bạn bè tôi đă quen biết tại Việt Nam, rồi mướn xe cùng với một người bạn Việt Nam khác chu du băng ngang nước Mỹ. Tôi được mời đến dự đại hội của đảng Cộng Ḥa tại Cow Palace ở Cựu Kim Sơn. Đây quả là một cơ hội lưỡng toàn. Tôi sẽ có cơ hội vừa được xem xét, gần gũi toàn thể nhân dân lại vừa được chính mắt quan sát những hoạt động chính trị của Hoa Kỳ.

Chúng tôi cùng lái chiếc Chevrolet mướn đi ngược lên phía Bắc Hoa Thịnh Đốn, đến thác Niagara rồi quay ngang trở về hướng Tây, trực chỉ Detroit, băng ngang những vùng đồng bằng bát ngát. Những tia nắng ngày hè lấp loáng trên những cánh đồng tạo thành những ảo ảnh trông chẳng khác nào nước trên những mặt đường trải nhựa. Hai bên là cảnh những ruộng ngô và lúa mạch trải dài tít tắp đến tận chân trời. Khung cảnh thật là bao la. Thời tiết vào thời gian này vô cùng nóng nực. Chúng tôi đă đi suốt cả 12, 13 ngày đường, chỉ ngừng lại để ngắm cảnh và trú ngụ qua đêm ở những khách sạn nhỏ bé.

Nhưng vấn đề thực phẩm c̣n quan trọng hơn là vấn đề thời tiết. V́ ăn liên tục toàn Hamburger và Hotdog ở các quầy dọc đường, bụng cả hai chúng tôi đều cồn cào, quặn thắt. Chúng tôi tự hỏi không hiểu làm cách nào để có thể t́m lấy một bát cơm trong suốt một vùng bao la, gần như chỉ gồm toàn những khuôn mặt Mỹ và thực phẩm Mỹ này. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi t́m ra một cách hữu hiệu có thể dùng trong mọi trường hợp. Không cần biết là đang ở đâu, hễ cứ bắt đầu nghỉ tối là chúng tôi đến ngay chỗ điện thoại công cộng, lật những trang màu vàng trong quyển điện thoại niên giám ra t́m các quán ăn Tàu. Đôi khi chỉ có một quán độc nhất ở vùng kế cận. Nhưng gần như lúc nào chúng tôi cũng t́m được một chỗ trong vùng.

Tuy đă theo phương pháp thập toàn này mà khi đến phía Tây Denver chúng tôi vẫn gặp khó khăn. Vùng này vốn là một vùng xa xôi hẻo lánh. Quyển điện thoại niên giám đă không có tên các quán ăn Tàu mà cũng chẳng có bất kỳ tên họ người Tàu nào trú ngụ trong các vùng lân cận. Chẳng có họ Tchang, không có họ Fong mà cũng không có cả họ Lee. Một lần, sau khi đă nhiều ngày vất vả với Hamburger, bột khoai tây và nước sốt, sau khi đă thất vọng v́ quyển điện thoại niên giám và đang lủi thủi đi bộ về khách sạn bỗng chúng tôi trông thấy một chú bé Tàu chạy ngang qua đường. Chúng tôi vội đi theo cậu bé vào đến một tiệm giặt ủi. Khi nghe t́nh cảnh của chúng tôi, cha mẹ cậu bé lập tức làm ngay hai dĩa cơm chiên và chúng tôi sung sướng thưởng thức hương vị thơm ngon của bữa cơm chiên chẳng khác nào hai kẻ lỡ đường bỗng vớ được một thứ thức ăn hiếm có. Chúng tôi đến California trước tiên qua ngả Bakersfield rồi đi ngược bờ biển qua Carmel, Big Sur và đến Cựu Kim Sơn vừa đúng lúc Đại Hội Đảng Cộng Ḥa bắt đầu. Đây chính là nơi tôi học hỏi những kinh nghiệm đầu tiên về các hoạt động thực tiễn của nền dân chủ Hoa Kỳ. Nếu bảo rằng quá tŕnh bầu cử của Hoa Kỳ rất phức tạp th́ đây chỉ là nói một cách nhẹ nhàng nhất. Ngay chính tôi cũng không biết rơ ḿnh đang mong đợi ǵ khi nh́n những đảng viên Cộng Ḥa đi quanh đang đề cử ứng cử viên Barry Goldwater ra ứng cử tổng thống. Theo như tôi suy nghĩ th́ đây chắc hẳn phải là một buổi bầu cử thật nghiêm trọng. Nhưng sự việc lại hoàn toàn khác hẳn. Tôi vô cùng bỡ ngỡ giữa cảnh những đám đông mang mũ, cầm cờ, tụ họp ở các sảnh đường Hoa Kỳ, cứ chốc chốc lại cuồng nhiệt cổ vơ những thiếu nữ nhảy múa thoắt biến, thoắt hiện chẳng hiểu từ đâu. Khi tôi nói với người hướng dẫn viên rằng dường như khung cảnh có vẻ thiếu nghiêm trang ông đă trả lời rằng khung cảnh lúc này chẳng qua chỉ là những màn kịch bao gồm những phần bên ngoài có thể trông thấy được mà thôi. Những quyết định thực thụ vào thời gian này đang diễn ra sau những cánh cửa đóng kín và những việc đó tất nhiên là tôi chẳng thể nào xem được. Tôi rời cuộc họp thầm nhủ rằng cho dù những đảng viên Cộng Ḥa có thực sự chọn ứng cử viên của họ bằng cách nào đi nữa th́ những điều tôi vừa được mục kích thấy vẫn là những hoạt động chính trị rất lạ lùng.

Khi tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn th́ trời đă vào tháng 8. Đài truyền h́nh và báo chí đang rầm rộ về việc Bắc Việt tấn công hai chiến hạm Mađox và Turner Joy tại vịnh Bắc Việt. Lúc này quốc hội đang vội vă soạn thảo một nghị quyết gọi là Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt (Tonkin Resolution) và đang gia tăng quyền hạn chiến tranh Đông Dương cho Tổng Thống Lyndon Johnson. Tôi đă lắng nghe bài diễn thuyết của Tổng Thống Johnson khi ông diễn tả những biến cố và tŕnh bày vấn đề cần thiết phải trả đủa. Tại Cựu Kim Sơn tôi cũng đă lắng nghe ứng cử viên Barry Goldwater tuyên bố lập trường của ông đối với Cộng Sản. Ngay sau khi nghe xong bài diễn thuyết, tôi đă gửi một mục tường thuật về ṭa soạn tờ Saigon Post và tự phong cho ḿnh chức phóng viên đặc biệt. Tôi viết rằng: "Dường như toàn thể Hoa Kỳ, kể cả những đảng viên Dân Chủ lẫn những đảng viên Cộng Ḥa đều chấp thuận một chính sách chống cộng sản ở Việt Nam."

Vào cuối tháng 8, tôi rời Hoa Kỳ sang Anh Quốc ḷng tin tưởng mănh liệt vào nghị quyết Vịnh Bắc Việt. (Nghị quyết Vịnh Bắc Việt thông qua Hạ Viện với trọn vẹn số phiếu và thông qua Thượng Viện chỉ với vẻn vẹn 2 phiếu bất đồng ư kiến.) Rơ ràng là chánh quyền Johnson đă quyết tâm đi sâu vào cuộc. Hơn nữa, về riêng vấn đề này họ c̣n được đảng cộng ḥa ủng hộ.

Khi tôi đến Luân Đôn th́ British Council đă sắp đặt sẵn một chương tŕnh viếng thăm đầy đủ cho tôi. Tuy vậy, chỉ sau một hai ngày đầu tôi đă cảm thấy rằng những thời khắc du lịch sắp sẵn trong thời khóa biểu có phần quá khắt khe. Cảm giác này lại c̣n có phần mạnh mẽ hơn nhất là khi tôi vừa mới được phép chu du tự do ở Hoa Kỳ. Kết cục, người hướng dẫn phải nới rộng thời gian trong chương tŕnh đă sắp để tôi được dịp viếng thăm Anh Quốc như một du khách thực thụ.

Nhưng chẳng bao lâu sau, khi tôi mới ở Luân Đôn vừa được 4 ngày, th́ đă có một bức điện tín khẩn của tờ Saigon Post báo rằng tôi nên về Sài G̣n gấp. Tờ báo đă đăng một loạt bài b́nh luận chỉ trích chính phủ Nguyễn Khánh. Những người viết không hề nhẹ tay và tướng Nguyễn Khánh đang sửa soạn đóng cửa ṭa báo.

Lúc trở lại Việt Nam tôi thấy ḿnh đang nằm trong thế phải đấu tranh toàn lực để giữ tờ Post khỏi bị đóng cửa. Ông Khánh không chút ủng hộ những bài b́nh luận. Hơn nữa, việc ông biết rơ tôi suy nghĩ về ông ra sao lại c̣n khiến mọi việc thêm phần phức tạp. Tuy tôi đă cố gắng hết ḿnh mà tờ báo vẫn phải tạm thời đ́nh bản. May thay lúc này ông Khánh đang tối tăm mặt mũi v́ phải đối phó với những khủng hoảng khác trong chánh quyền. Nếu không th́ có lẽ ṭa soạn tờ Post đă phải đóng cửa vĩnh viễn.

Tuy chính tờ Post đang gặp khó khăn dữ dội, nhưng những khó khăn của tờ Post vẫn chỉ là những cơn gió so với những cơn lốc xoáy đang xoay chuyển làm hỗn loạn Sài G̣n. Suốt từ tháng 9 cho đến tháng 11 chánh phủ tướng Khánh theo nhau thay đổi vùn vụt trong khi biểu t́nh làm xáo trộn đường phố Sài G̣n mỗi ngày. Biểu t́nh của gần như tất cả mọi tổ chức thay nhau bùng ra khắp nơi. Công giáo, Phật giáo, Học sinh, Ḥa Hảo, Cao Đài, các Hội Lao Động. -Ông Khánh đă gây mối bất ḥa với mọi đoàn thể và tất cả đang phẫn nộ đ̣i ông phải thỏa thuận theo những điều họ yêu cầu. T́nh cảnh hỗn loạn lúc này c̣n dữ dội hơn cả t́nh h́nh những tháng cuối lúc ông Diệm c̣n tại chức. T́nh cảnh xáo trộn của Sài G̣n đă khiến ông Khánh phải khốn đốn, lúc th́ ông phải trốn tránh đương đầu với nhóm này, khi th́ ông phải cố giữ vững lập trường với nhóm nọ. Ông Khánh vừa phải ngăn ngừa, đề pḥng Hoa Kỳ, lại vừa phải cố gắng chống chỏi với những mưu mô đảo chánh đang làm rung chuyển chánh quyền.

Toàn thể Miền Nam hầu như đắm ch́m trong khủng hoảng -Khủng hoảng dân sự, hỗn loạn chính trị và nguy hiểm hơn cả là hỗn loạn quân sự. Trong thời gian này các lực lượng cộng sản đă lợi dụng nhược điểm của Sài G̣n để tung ra những cuộc tấn công ăn khớp nhằm mục đích làm chủ lănh thổ, cũng như làm chủ các trung tâm dân cư và chia rẽ đất nước. Vào năm 1964, vốn đă gặt hái được một số kết quả, du kích cộng sản ở Miền Nam lại được tăng cường thêm bằng quân đội chính qui Bắc Việt đổ xuống theo những đường ṃn Hồ Chí Minh đă được sửa sang kể từ năm 1959.

Tại nhiều vùng, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đang anh dũng chiến đấu nhưng những hỗn loạn chính trị và những rối ren ở cấp chỉ huy đă biến những chiến sĩ thành những người chiến đấu trong những t́nh cảnh bấp bênh khó khăn. Lúc này nếu quân đội du kích Bắc Việt biết lợi dụng khó khăn th́ có lẽ cộng sản có thể làm đảo loạn quân bằng của quân đội Miền Nam.

Những mâu thuẫn xung khắc của t́nh cảnh trái ngược đă khiến tôi phải bàng hoàng. Khi Hoa Thịnh Đốn vừa chuẩn bị sẵn sàng nhập cuộc th́ Sài G̣n lại hoàn toàn hỗn loạn. Ngay khi tổng thống Lyndon Johnson vừa quyết định đứng ra vận động để ủng hộ Việt Nam th́ ông Nguyễn Khánh lại đưa chánh phủ Việt Nam vào ṿng đ́nh trệ và hỗn loạn.

Những mâu thuẫn lúc này đă hẳn chẳng phải hoàn toàn do sự t́nh cờ. Nếu Việt Nam không đủ khả năng điều động chiến cuộc th́ dĩ nhiên Hoa Kỳ bị buộc phải hứng lấy gánh nặng. Nhưng nếu nh́n kỹ nguyên nhân của những biến chuyển tai hại đă làm xáo trộn Việt Nam, tôi qui trách nhiệm một phần về phía Hoa Kỳ. Nếu nh́n từ một phương diện nào đó th́ cũng có thể nói rằng chính Hoa Kỳ đă gây ra mọi chuyện. Kể từ khi họ bắt đầu can thiệp, Hoa Kỳ đă không hoàn toàn ủng hộ những lư tưởng dân chủ. Họ chưa bao giờ đặt nặng vấn đề cần phải xây dựng một chánh phủ đoàn kết các thành phần quốc gia ở Việt Nam. Họ cũng chẳng ủng hộ những mục tiêu của một chánh thể dân chủ trên những phương diện khác chẳng hạn như cải cách xă hội, kinh tế. Trái lại, dường như họ chỉ vui ḷng ủng hộ những nhân vật độc tài và các tướng lănh để đổi lấy những ổn định giả tạo nhất thời. Hậu quả là thay v́ đưa ra chính sách để giúp Việt Nam đạt được những quân bằng như họ mong muốn, Hoa Kỳ lại vô t́nh đưa ra những chính sách khiến chánh phủ Việt Nam ngày càng chia rẽ và yếu đuối thêm.

Quá tŕnh dẫn đến sự thất bại của chánh phủ Việt Nam kéo dài suốt một thập niên -Ông Diệm đắc cử vào năm 1954. Lúc này là mùa thu 1964- nhưng t́nh h́nh Việt Nam lại vẫn ở vào một trong những giai đoạn tồi tệ nhất. Khung cảnh rối ren và hỗn loạn tại Việt Nam đă khiến Hoa Kỳ thất vọng. Rồi th́ những nhân viên lănh đạo Hoa Kỳ bắt đầu đặt câu hỏi: Liệu có nên can thiệp hay không? Một trong những nguyên nhân chính khiến Hoa Kỳ phải đặt lại câu hỏi về vấn đề can thiệp là do Bắc Việt đă tăng cường áp lực quân sự, nhưng một lư do khác sâu xa hơn chính là do chánh phủ Sài G̣n lúc này đă hoàn toàn rối ren. Mâu thuẫn thay, t́nh trạng hỗn loạn của Việt Nam phát sinh lại chính là do các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ (hoặc do sự thiếu thốn các chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ.) Trong suốt một thập niên Hoa Kỳ chỉ ủng hộ những nhân vật độc tài và quân phiệt. Họ đă vui ḷng ủng hộ bất kỳ nhân vật nào t́nh cờ nắm được chánh quyền để đổi lại những quân bằng nhất thời tại Việt Nam. Giờ đây chính họ phải gánh chịu những hậu quả của việc đánh đổi đó. Vào mùa thu năm 1964 sau những cơn băo làm xáo trộn nội bộ Việt Nam, nếu quả có một chiều hướng nào đó rơ rệt th́ chiều hướng đó chính là sự xuất hiện của một nhóm tướng tá trẻ gọi là Tướng Trẻ. Trong nhóm Tướng Trẻ, nổi bật nhất là ông Nguyễn Cao Kỳ, một tư lệnh không quân mới 35 tuổi. Nhưng tướng Nguyễn Văn Thiệu cũng là một nhân vật nổi bật khác được cho là trầm tĩnh và già dặn hơn. V́ là người gần gũi với chính trị nên cũng như các bạn khác tôi cũng có nghe về nhóm các tướng trẻ. Tuy vậy, tôi không hề quen biết thân thiết với riêng bất kỳ người nào trong nhóm các Tướng Trẻ cả. Nhóm Tướng Trẻ nguyên là một lực lượng mới xuất hiện. Tuy thế, vào lúc này những thế hệ tướng tá đàn anh như tướng Kim, tướng Trần Văn Đôn, tướng Dương Văn Minh và những người khác đă lui dần vào phía sau, và tôi nghe rằng những tướng trẻ đang làm áp lực bắt ông Khánh loại trừ tất cả những tướng lănh già để đưa vào những lớp lănh đạo có tính cách đại diện cho thế hệ mới của họ.

Tuy những Tướng Trẻ không trực tiếp đương đầu với tướng Khánh, nhưng sự hiện diện của họ vẫn là một trong những yếu tố chính tạo nên khó khăn cho chánh quyền tướng Khánh. Vào tháng 12, các tướng trẻ đă gây ra một biến cố trực tiếp làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của tướng Khánh. Biến cố bắt nguồn từ vấn đề mất uy tín đă từ lâu qua các hành động tùy hứng, không thể nào tiên liệu trước được của tướng Khánh đối với Hoa Kỳ. Lúc này đại sứ của Hoa Kỳ tại Việt Nam là tướng Maxwell Taylor. Ông là đại sứ đến để thay thế đại sứ Henry Cabot Lodge. Đại sứ Taylor nguyên là người lúc nào cũng quan tâm rất nhiều đến vấn đề cần phải thúc đẩy tướng Khánh thiết lập một chính phủ dân sự. Khi đă thúc đẩy trong một thời gian rất lâu mà vẫn chẳng có tiến triển nào đáng kể, đại sứ Taylor ngày càng nóng nảy và đ̣i hỏi liên tục. Cuối cùng, vào tháng 9, ông đă nói thẳng với tướng Khánh rằng Việt Nam cần phải soạn thảo một bản hiến pháp để làm căn bản pháp lư cho việc điều hành chính phủ. Cảm thấy cùng đường, ông Khánh đưa ra một hội đồng mà ông gọi là Thượng Hội Đồng gồm một nhóm nhỏ bao gồm những chánh khách già nua được triệu tập để soạn thảo một bản hiến pháp. Một đảng viên quốc gia trọng tuổi đă tham gia hoạt động trong nhóm Caravelle lúc trước là ông Phan Khắc Sửu được cử làm quốc trưởng.

Chẳng bao lâu sau, khi hội đồng đă được thiết lập, nhóm tướng tá trẻ bắt đầu làm áp lực với tướng Khánh. Họ bắt ông chánh thức ra lệnh buộc các tướng lănh lớn tuổi hơn đang làm họ khó chịu phải về hưu. Tuy tướng Khánh đồng ư, theo thủ tục th́ mệnh lệnh phải được ông Phan Khắc Sửu, nguyên là quốc trưởng lúc này phê chuẩn. Khốn thay, ông Sửu lại khước từ, không chịu phê chuẩn.

V́ sợ rằng ông Khánh chưa hoàn toàn làm chủ được t́nh h́nh khó khăn, đại sứ Maxwell Taylor đă mời các tướng trẻ đến dùng bữa tối ở tư thất của tướng Westmoreland, tư lệnh điều hành toàn thể lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong buổi họp đó, đại sứ Taylor cố tŕnh bày với các tướng trẻ rằng Hoa Kỳ sẽ t́m cách thuyết phục chánh phủ Việt Nam thỏa măn những điều yêu cầu của các tướng trẻ, nhưng dù sao đi nữa th́ Việt Nam vẫn cần phải duy tŕ được một mức độ ổn định tối thiểu nào đó. Trước sự hiện diện của cả tướng Westmoreland và Phó Đại Sứ Alexis Johnson, đại sứ Taylor đă ngấm ngầm đe dọa các tướng trẻ rằng nếu chính phủ Việt Nam không hoàn toàn ổn định th́ Hoa Kỳ khó có thể tiếp tục ủng hộ Việt Nam.

Nhưng những lời can gián trước của đại sứ Taylor hoàn toàn vô hiệu. Hành động ngoan cố của ông Sửu đă khiến những tướng trẻ quyết định thực thi một giải pháp quyết liệt. Vào ngày 20 tháng 12, họ bắt cóc các nhân viên của Thượng Hội Đồng và áp giải họ cùng một số chính khách dân sự khác về giam lỏng ở Pleiku.

Được tin đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Ông triệu tập ông Kỳ, ông Thiệu và các tướng trẻ khác đến ṭa đại sứ để than phiền về việc làm loạn. Ông mở đầu buổi họp bằng cách hỏi các tướng tá có hiểu tiếng Anh hay không? (Trước đây, ở tư thất tướng Westmoreland ông đă nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp.) Khi ông Kỳ chua chát trả lời rằng tiếng Anh của họ cũng đủ để hiểu, ông Taylor nói tiếp rằng buổi ăn tối tại nhà tướng Westmoreland khi trước thực là lăng phí. (Sau đó ông Kỳ có nói lại với tôi rằng khi ông Taylor phát biểu như vậy, ông và ông Thiệu đă tưởng rằng ông Taylor có ư nói rằng họ đă lăng phí thực phẩm trong bữa ăn tối đó.) Đại sứ Taylor than thở: Hành động của các ông thật đă quá tầm mức chịu đựng! Các ông hăy tự xem các ông đă gây ra những hỗn loạn trong chánh phủ nặng đến độ nào? Trong cơn giận dữ và thất vọng đại sứ Taylor đă nhiều lần lớn tiếng.

Chẳng biết đại sứ Taylor đă hy vọng gặt hái được ǵ sau khi than phiền, nhưng một hậu quả tức thời là hành động của ông đă làm nhục ông Kỳ, ông Thiệu và các tướng lănh khác cùng hiện diện nơi đó. Tướng Nguyễn Khánh lúc này đang ngập đầu với những khó khăn v́ phải đối phó với các nhóm quân nhân khác đă chụp ngay lấy cơ hội. Tướng Khánh lợi dụng ngay cách đối xử của đại sứ Taylor với các tướng trẻ để hô hào cảm t́nh của các phần tử quốc gia. Ông Khánh ra mặt bảo vệ các tướng trẻ. Ông công khai chống đối việc Hoa Kỳ đă can thiệp vào nội bộ của Việt Nam. Ông đă đi xa đến mức độ lên tiếng đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải triệu hồi đại sứ Taylor v́ đại sứ Taylor đă xen vào nội bộ của Việt Nam.

Khi nghe tin, đại sứ Taylor, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Ṭa Bạch Ốc đều vẫn giữ lập trường cũ. Những điều ông Khánh phát biểu công khai đă vượt sức tưởng tượng của họ. Tuy việc ông Khánh thiếu khả năng điều hành các chính sách Việt Nam để giữ vững mối bang giao giữa hai nước đă là một việc bất lợi, việc ông tuyên bố lần này quả là việc họ chưa hề nghĩ tới. Hoa Kỳ thông báo với ông Khánh rằng nếu đại sứ Taylor nhất định phải bị triệu hồi th́ sự ủng hộ của họ cũng lập tức chấm dứt. Bằng vào thực tế chính trị th́ việc này có nghĩa là chánh quyền Nguyễn Khánh phải sụp đổ lập tức. Trong khi tấn bi hài kịch Nguyễn Khánh tiếp diễn th́ một cuộc chiến tranh khủng khiếp đang lan dần ra khắp cả Việt Nam và các lực lượng Cộng Sản càng ngày càng trở nên một mối đe dọa trầm trọng.

Cho tới giữa tháng 2 năm 1965 mà tướng Khánh vẫn chưa hề bị đẩy khỏi cương vị quyền hành. Sau khi những cố gắng vận động cảm t́nh của các tướng trẻ đă thất bại hoàn toàn, ông Khánh lại mưu toan cố gắng củng cố quyền hành thêm một lần cuối. Vào ngày 14 tháng 2, ông giải tán chánh phủ đương thời và nhờ bác sĩ Quát thành lập một chánh phủ mới mà trong đó ông sẽ là người nắm giữ quyền hành quân đội. Đây là nước cờ cuối cùng của ông Khánh. Nếu ông Quát có thể thành lập được một chánh phủ uy tín th́ có thể chính phủ này sẽ giúp ông Khánh thoát khỏi những chống đối của Hoa Kỳ, của Phật giáo, Công giáo và những người Việt Nam khác đang hô hào đả đảo ông ta.

Nhưng vào lúc này, những hành động của ông Khánh đă quá trễ. Một ngày sau khi bác sĩ Quát nhậm chức thủ tướng th́ một cuộc đảo chánh quân sự chống lại tướng Khánh được phát động. Những đơn vị do tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo đă bao vây cả tư thất ông Khánh, những cơ quan tổng hành doanh, lẫn đài phát thanh. Trong lúc hỗn loạn ông Khánh chạy thoát đến được tổng hành doanh không quân của ông Nguyễn Cao Kỳ và được ông Kỳ nhận lời bảo vệ.

Dưới sự ḥa giải của Hoa Kỳ, ông Kỳ và những lănh tụ nổi loạn cùng đến gặp gỡ trong một cuộc họp mặt. Sau cuộc họp mặt, tướng Phát và đại tá Thảo đă đồng ư hủy bỏ cuộc đảo chánh để đổi lại việc trục xuất tướng Khánh ra nước ngoài. Những điều kiện mà Hoa Kỳ đề nghị dĩ nhiên đối với ông Kỳ rất hấp dẫn v́ những tướng trẻ phục vụ dưới quyền ông lúc này đang là nhóm quân nhân mạnh mẽ nhất trong chánh quyền mới của ông Quát. Về phía Hoa Kỳ th́ việc trục xuất ông Khánh đă khiến tất cả hoàn toàn nhẹ nhơm. Lúc này, đại sứ Taylor và nhiều người khác, Việt cũng như Mỹ, đều không chịu nổi sự hiện diện của tướng Khánh.

Ngay buổi sáng hôm đảo chánh -đây cũng là ngày đầu tiên mà bác sĩ Quát làm thủ tướng- ông Quát đă mời tôi gặp ông ở văn pḥng và cả hai chúng tôi đều đă bỏ ra rất nhiều thời giờ bàn bạc kế hoạch. Trưa đó, ông Quát được mời về tổng hành doanh không quân để gia nhập buổi họp đang diễn ra bên trong. Khi ông trở lại, vào lúc khoảng 8 giờ tối, th́ tin tức về việc ông Khánh được cử đi ngoại quốc được loan ra.

Ngày hôm sau, tướng Khánh đến Phủ Thủ Tướng để chánh thức từ giă Ông Quát. -Ông Khánh đ̣i hỏi một nghi lễ tiễn biệt. Bác sĩ Quát đă tổ chức nghi lễ nhưng lại từ chối không chịu đi cùng tướng Khánh xuống phía trước văn pḥng thủ tướng để duyệt hàng lính bồng súng chào. Tôi được lệnh đảm đương việc này thay ông. Sau khi xem xét, tôi dẫn ông Khánh lên lầu chào sơ bác sĩ Quát rồi trở xuống xem xét binh lính lần cuối. Lúc nghi lễ hoàn tất, ông Khánh đă nh́n tôi nói: "Maintenant les carted c'est a vous de jouer" - "Hiện thời th́ cả cỗ bài đều hoàn toàn tùy ông sắp xếp." Cho đến giây phút chót, ông Khánh vẫn xem chuyện điều hành chính phủ như một tṛ chơi. Tôi chỉ trút bớt được phần nào cơn giận ngùn ngụt lúc ông Khánh đă xoay người đi khuất. Tuy việc ông Khánh ra đi đă khiến tất cả nhẹ nhơm, vẫn chưa ai dám quả quyết rằng những khó khăn do ông Khánh gây ra có thể được giải quyết trong một thời gian ngắn ngủi.

17. Sự Can Thiệp của Hoa Kỳ

Bác sĩ Quát là một chính khách có kinh nghiệm chánh trị kỳ cựu, có chí quyết tâm, có những xét đoán sâu sắc và những suy nghĩ mẫu mực, đứng đắn. Ông đă là từng là Đổng Lư Văn Pḥng Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ Trần Trọng Kim và đă hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Nếu Nguyễn Khánh thiếu lập trường và kinh nghiệm chính trị bao nhiêu th́ bác sĩ Quát lại tháo vát và vững chắc bấy nhiêu.

Bác sĩ Quát có lẽ là người có thể đảm đương được trách nhiệm khi Nguyễn Khánh bị trục xuất. Nhưng dù ông có khả năng mấy chăng nữa th́ t́nh h́nh lúc đó cũng hết sức khó khăn và khả năng của ông chưa chắc đă làm thay đổi được t́nh h́nh.

Dĩ nhiên chính bác sĩ Quát không hề cảm thấy điều này. Ông là một chính trị gia hết sức tự tin. Trong suốt những năm dài dằng dặc, kể cả những năm bị gạt ra khỏi chính trường, bác sĩ Quát vẫn không hề thối chí trong việc cố gắng tranh đấu để có thể phục vụ ở một cương vị nào đó trong chính quyền. Lúc này, cơ hội đă đến ông nhất định không chịu bỏ lỡ. Hơn nữa, ông tin rằng ông có thể củng cố chính phủ và tạo được cho đất nước một sự ổn định cần thiết cho việc kiến tạo dân chủ và độc lập. Bác sĩ Quát nhận định rằng: Vấn đề chính là t́m cách giải quyết hết những khó khăn quân sự, nhất là vấn đề của các tướng trẻ. Ông cho rằng ông có thể khắc phục được họ.

Nhưng lần này những khó khăn đang chờ đợi bác sĩ Quát thật là khủng khiếp. Nếu vấn đề bắt đầu làm lại từ đầu là việc dễ dàng vào năm 1954 và năm 1963 th́ vào năm 1965 các biến cố đă thay đổi hoàn toàn khung cảnh chính trị của đất nước. Cơ hội dung ḥa những khác biệt giữa các đoàn thể tôn giáo và chính trị bằng một chánh sách đoàn kết trước đây đă hoàn toàn mất hẳn. Đất nước lúc này đang ch́m đắm trong t́nh trạng chia rẽ và xáo trộn. Những tư lệnh cao cấp của quân đội, nguyên là những nhân viên nhận lệnh trực tiếp từ chánh phủ, giờ đây đă xem chánh trường như một vùng chiến địa đ̣i hỏi những nỗ lực đấu tranh chẳng khác nào những đấu tranh ngoài chiến trường. Lúc này, những tướng tá đă tự chia bè, kết phái chống đối lẫn nhau. Dù họ đồng ḷng khinh miệt những nhân viên dân sự, chính bản thân các tướng tá cũng nghi kỵ lẫn nhau. Mặt khác, chính những nhân viên dân sự cũng khinh miệt các tướng tá và các nhân viên quân đội. Công giáo nghi ngờ phật giáo. Phật giáo nghi ngờ công giáo. Những người Miền Nam không c̣n tin tưởng những người miền Bắc đang chung sống với họ. Có lẽ tệ hơn cả là trong khoảng một năm rưỡi kể từ khi ông Diệm bị lật đổ th́ ư kiến thiết lập một chánh phủ đoàn kết các tầng lớp quốc gia đă bị bôi nhọ hoàn ṭan.

Bác sĩ Quát bắt tay vào việc giữa bầu không khí chính trị phức tạp của năm 1965 trong một môi trường không hề có lấy một điểm sáng nào để có thể hy vọng thành công. Tuy ông là một nhà chính trị có nhiều kinh nghiệm, bác sĩ Quát vẫn không có uy quyền ǵ thiết thực để làm hậu thuẫn. Về điểm này, trường hợp của ông cũng giống như trường hợp của những phần tử quốc gia khác. Tất cả đều phải gánh chịu những hậu quả tai hại của một thập niên độc tài ở Việt Nam. Trong suốt thời gian ông Diệm cầm quyền, chưa có bất kỳ nhân vật quốc gia nào có được cơ hội cho phép họ đóng góp hoặc cổ động dân chúng ủng hộ cho các chương tŕnh của họ. Thực ra, v́ cố tránh việc các đảng viên quốc gia có thể vận động ủng hộ, ông Diệm đă ra lệnh cấm nhóm họp đảng phái. C̣n các tướng lănh th́ dĩ nhiên chẳng bao giờ lại có mảy may suy nghĩ về những vấn đề dân chủ như vậy. Kết quả là mặc dù đă nỗ lực nhưng v́ không có uy quyền thiết thực để hành động nên bác sĩ Quát vẫn không giải quyết được khó khăn. Ảnh hưởng thực sự của ông chỉ hoàn toàn nằm trong phạm vi kinh nghiệm và một số người ủng hộ ông.

Trong số những người ủng hộ ông, tôi là người đă từng làm việc với ông lâu nhất. V́ mối liên hệ chặt chẽ từ lâu giữa hai chúng tôi, tôi sẵn ḷng đóng góp mọi đề nghị và ư kiến riêng của tôi với bác sĩ Quát. Nhưng vào ngày 14 tháng 2, khi bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi cộng tác với ông trong chính phủ mà ông đang thành lập, tôi đă cảm thấy vô cùng ngần ngại. Tôi đă thấy rơ những yếu đuối thực thụ của chánh quyền ông Quát, nhưng tôi lại bị lương tâm thúc đẩy và cho rằng ḿnh nên nỗ lực hết sức bất kể thành đạt hay không.

Biết rơ những ư nghĩ của tôi về những sự khó khăn và phức tạp của t́nh h́nh lúc đó, bác sĩ Quát cố thuyết phục tôi. Ông Quát nói rằng ông đă có nhiều kinh nghiệm về việc giải quyết các vấn đề khó khăn trong quân đội v́ ông đă hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Khi giải quyết xong các khó khăn trong quân đội, ông sẽ đứng ra đương đầu với những khó khăn đang xâu xé các đoàn thể tôn giáo và các đoàn thể chính trị. Hơn nữa, chúng tôi c̣n có thể soạn thảo một bản hiến pháp phản ảnh những lư tưởng mà chúng tôi đă từng ôm ấp, hoài băo từ lâu.

Tuy rằng lư luận của bác sĩ Quát vô cùng hấp dẫn, những linh tính của tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Mặc dầu vậy, khi ông Quát đă đi đến mức tận cùng, tôi biết ḿnh chẳng c̣n đường chọn lựa. Ông Quát than rằng: "Vào giờ phút này mà anh c̣n bỏ tôi à?" Hết phương lựa chọn, tôi đành chấp nhận cộng tác với chánh phủ của bác sĩ Quát. Chiếu theo chức vụ lúc này th́ tôi là Bộ Trưởng tại Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ ông Quát.

Chính quyết định tham gia chánh phủ của tôi lúc này đă khiến hàng loạt biến cố dồn dập đẩy tôi bước vào một thập niên sôi động nhất trong đời tôi. Đây là một giai đoạn mà tôi phải tiếp xúc với những nhân vật trong cả chánh trường Việt Nam lẫn chánh trường quốc tế. Đây cũng là giai đoạn tôi có dịp mục kích vấn đề bè phái ở Việt Nam, cũng như vấn đề bè phái trong những đoàn thể Hoa Kỳ phục vụ ở Việt Nam. Lúc tôi nhậm chức th́ chánh phủ của bác sĩ Quát đă vô cùng bấp bênh, không chút hy vọng có thể thành công hoặc trường tồn lâu dài. Cùng những đồng nghiệp khác tôi chia xẻ một cảm giác quyết tâm "cắn răng" làm hết sức ḿnh. Lúc này, tôi chưa hề đoán trước được rằng rồi đây tôi sẽ có dịp mục kích những biến cố lịch sử to tát và bi thảm của Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi chưa hề biết rằng tôi sẽ có dịp mục kích tấn thảm kịch Việt Nam-Hoa Kỳ, và mục kích gần như trọn vẹn từ buổi đầu, từ lúc hy vọng c̣n manh nha, cho đến tận những màn bi kịch rụng rời lúc cuối. Khi nhậm chức tôi cũng chưa biết trước được rằng quyết định mấu chốt nhất, quyết định đáng được đặt vấn đề nhất đă được đưa ra ở Hoa Thịnh Đốn rồi. Tôi lại càng không biết trước rằng sau này, v́ tôi là mối dây liên lạc giữa bác sĩ Quát với người Hoa Kỳ, nên chính tôi lại được mời vào để chánh thức hóa những quyết định đă được Hoa Thịnh Đốn đưa ra từ trước.

Đối với Hoa Kỳ th́ vấn đề can thiệp vào Việt Nam có thể được xem là biến cố quan trọng nhất của họ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Đối với Việt Nam th́ đây quả là một trong những biến cố quan trọng nhất cho toàn thể Việt Nam. Tuy vấn đề Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam quan trọng, lớn lao là thế mà chính sách đó lại được thực thi trong một khung cảnh thật hỗn loạn và vào giữa lúc cả hai chánh phủ gần như hoàn toàn không hiểu nhau. Khoảng thời gian giữa tháng 12 năm 1964 và tháng 6 năm 1965 là một giai đoạn của những quyết định phức tạp và khó hiểu. Trong giai đoạn này, cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều quyết định thỏa thuận những chính sách gần như mâu thuẫn hẳn với những mục tiêu về lợi ích quốc gia và uy tín cho cả hai. Về phía Hoa Kỳ, tuy đă có những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến tranh Đại Hàn, Hoa Kỳ vẫn quyết định lao ḿnh vào chiến tranh lục địa ở Á Châu. Về phía Việt Nam, mặc dù việc đổ quân vào Miền Nam hoàn toàn đi ngược những suy xét của các nhà lănh đạo Việt Nam, và mặc dù mới chỉ thoát ách 100 năm đô hộ của người ngoại quốc, mà Việt Nam vẫn chấp nhận để một quốc gia ngoại quốc đổ quân trấn đóng ngay trên lănh thổ. Tại sao những quyết định mâu thuẫn như vậy lại có thể xảy ra?

Đây là một câu hỏi phức tạp có thể được trả lời bằng nhiều cách giải thích hợp lư khác nhau. Một trong những lời giải thích minh bạch nhất từ phía Hoa Kỳ là những tài liệu chưa in của ông William Bundy. Ông Bundy nguyên là Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách Đông Nam Á và Thái B́nh Dương Sự Vụ và cũng chính là người đă tham dự vào tất cả những cuộc thảo luận đă dẫn đến những quyết định can thiệp của Hoa Kỳ vào cuối năm 1964 ở cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lẫn ṭa Bạch Ốc. Hơn nữa, ông đă tham dự phần lớn các cuộc thảo luận được tổ chức trong giai đoạn Hoa Kỳ sắp đưa ra quyết định can thiệp. Về phía Việt Nam, kể từ khi những cuộc tấn công không lực vừa mới bắt đầu, nhân vật chính là bác sĩ Quát và tôi. Ông Quát không hề để lại bất cứ tài liệu nào nói về các biến cố can thiệp (Bác sĩ Quát chết trong nhà tù thành phố Hồ Chí Minh năm 1981.) Vào thời gian này tôi đang giữ chức bộ trưởng tại phủ thủ tướng và cũng là mối dây liên lạc chánh phủ của bác sĩ Quát với ṭa đại sứ Hoa Kỳ. Những tài liệu chánh thức dùng giải thích những sự kiện sau đây phần nhiều trích ra từ những tài liệu của ông Bundy và tài liệu của riêng tôi tích trữ từ các giấy tờ điện tín, nhật kư, chú thích... cũng như từ những tài liệu riêng do chính tôi thu thập. Những tài liệu khác cũng phần nhiều được trích từ những tài liệu đă được xuất bản như Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Pentagon Papers), tài liệu của Gareth Porter, hồi kư của tổng thống Lyndon Johnson, của đại sứ Maxwell Taylor và Phó đại sứ Alexis Johnson và của các nhân vật khác của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, tôi đă phỏng vấn hầu hết những người Hoa Kỳ tham gia cũng như những người Việt Nam đă ở vào những cương vị hiểu biết trong quá khứ.

Những diễn biến lịch sử dẫn đến việc Hoa Kỳ quyết định can thiệp tường thuật dưới đây phản ảnh suy tư của cả những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lẫn những nhân viên trong chánh phủ Việt Nam. Khung cảnh toàn cuộc được dựng lại bằng nhiều nguồn tin khác biệt từ nhiều khía cạnh. Khi tổng kết những khung cảnh so le và nh́n rơ được sự thiển cận của các chính sách can thiệp, chẳng hạn như thái độ quá tự tin của Hoa Kỳ, như t́nh trạng hiểu lầm giữa hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam, hoặc t́nh cảnh bất lực của chánh phủ Việt Nam, khung cảnh có lẽ khó thể khiến người quan sát tránh khỏi sững sờ. Nếu đem so sánh tầm mức quan trọng của quyết định can thiệp và cách thức Hoa Kỳ can thiệp th́ khung cảnh quả là một tấn thảm kịch hăi hùng. Biến cố đánh dấu sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu khi các cố vấn Hoa Kỳ được gửi sang để giúp đỡ quân đội mới thành h́nh của ông Diệm vào năm 1954. Giữa năm 1961 và năm 1964, số lượng nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam đă nhảy vọt từ 900 lên đến 23,000. Nhưng mặc dầu sự giúp đỡ có phần đáng kể, các huấn luyện viên và các cố vấn Hoa Kỳ chỉ đóng một vai tṛ giảng dạy nhỏ hẹp trong các hoạt động quân sự của Miền Nam. V́ Hoa Kỳ chỉ đóng vai cố vấn nên bất kỳ lúc nào con số nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng có thể tăng hoặc giảm. Sự hiện diện của các nhân viên Hoa Kỳ chỉ đáp ứng đơn thuần những đ̣i hỏi "cố vấn và giúp đỡ," hoàn toàn khác hẳn với những can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ về sau.

Nếu không kể những cuộc oanh tạc trả đủa của Hoa Kỳ đối với Hà Nội sau biến cố vịnh Bắc Việt th́ hành động can thiệp trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu vào tháng 2 năm 1965. Nếu chỉ nói riêng về các kế hoạch quân sự của Hoa Kỳ th́ ngay cả từ trước năm 1964 Hoa Kỳ đă có sẵn những kế hoạch để đối phó với trường hợp leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Tuy thế, những kế hoạch của Hoa Kỳ lại chỉ là những kế hoạch soạn sẵn để đề pḥng những trường hợp bất trắc khẩn cấp chứ không phải là những kế hoạch được soạn thảo để áp dụng ngay trong thực tế nếu chiến cuộc kéo dài. Trong khi Hoa Kỳ vẫn chưa có lập trường rơ rệt về vấn đề liệu có nên can thiệp bằng quân sự hay không th́ Bắc Việt lại gia tăng những cuộc khủng bố ở Miền Nam Việt Nam nhằm thẳng vào các nhân viên và quân đội của Hoa Kỳ. Trong một cuộc khủng bố ở khách sạn Brink trong Lễ Giáng Sinh năm 1964, Việt Cộng đă đặt chất nổ khiến hai nhân viên của Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 58 nhân viên khác bị thương. Rồi vào tháng 2, năm 1965 Việt Cộng lại đặt chất nổ ở một trại lính Hoa Kỳ là trại Holloway khiến 8 binh sĩ Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 100 binh sĩ khác bị thương. Cuộc khủng bố xảy ra ngay giữa lúc cố vấn an ninh của Hoa Kỳ là ông McGeorge Bundy đang ở Việt Nam quan sát t́nh h́nh. Để trả đủa lại những sự khiêu khích trắng trợn của Việt Cộng, Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder . Chiến dịch này chánh thức mở màn sự can thiệp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Lúc bác sĩ Quát bước vào nhậm chức th́ chiến dịch Rolling Thunder đang trên đà phát động. Máy bay của Hoa Kỳ đang dội bom vào những mục tiêu của Bắc Việt ở những đường ṃn Hồ Chí Minh chạy dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt từ Bắc vào Nam.

Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder vào khoảng tháng 12-1965, khi chánh quyền Nguyễn Khánh đang đi vào giai đoạn khủng hoảng cuối cùng. Mục tiêu chính của chiến dịch oanh tạc là cắt đứt những đường giao thông của cộng sản và tiêu diệt những căn cứ Bắc Việt đă thiết lập khi chuyển quân vào Miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, vẫn chưa ai có thể tiên đoán được rằng chiến dịch oanh tạc chính thật là bước đầu tiên của một kế hoạch đang biến dần thành kế hoạch can thiệp quân sự lớn lao của Hoa Kỳ ở Việt Nam.

Riêng về phương diện ngoại giao th́ những nhân viên ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đă thảo luận vấn đề dùng không lực của Hoa Kỳ để đối phó với Bắc Việt từ trước cả khi có biến cố vịnh Bắc Việt. Khi cân nhắc những ưu và khuyết điểm của kế hoạch can thiệp bằng không lực, những người trong nhóm soạn thảo chính sách của Hoa Kỳ vẫn phân vân chẳng hiểu họ có nên can thiệp hay không? Sở dĩ nhóm soạn thảo chính sách của Hoa Kỳ phân vân là v́ họ vẫn chưa cân nhắc được ảnh hưởng của những yếu tố phức tạp khác trên trường chính trị quốc tế.

Nếu đứng trên phương diện chiến lược mà luận th́ Việt Nam quả thật là một sự thử thách của chính sách ngăn chận thế lực cộng sản và bảo vệ tự do dân chủ ở tất cả các quốc gia trong khối đồng minh trên thế giới (containment policy). Dĩ nhiên, khi Việt Nam không thể chống chọi được với Bắc Việt mà Hoa Kỳ vẫn muốn chính sách containment thành công th́ họ phải can thiệp bằng quân sự ở Việt Nam. Mặt khác, Hoa Kỳ vẫn sợ rằng sự can thiệp của họ có thể bị Nga và Tàu cho rằng họ có ư muốn khiêu khích các thế lực cộng sản. Nói rơ hơn th́ họ sợ rằng sự can thiệp của họ ở Việt Nam có thể khiến cuộc chiến Việt Nam bành trướng thành một cuộc thế chiến.

V́ đă thấy rơ những yếu tố phức tạp của sự can thiệp nên Hoa Kỳ muốn giảm thiểu sự can thiệp của họ đến mức tối đa. Có lẽ họ cho rằng giải pháp vẹn toàn nhất là giúp chánh phủ Việt Nam cải thiện và củng cố quân đội Việt Nam để Miền Nam Việt Nam có thể tự đối phó với Bắc Việt th́ họ có thể vẫn áp dụng được chính sách containment mà không cần phải can thiệp bằng quân sự. Chính v́ thế nên lúc nào Hoa Kỳ cũng muốn t́nh h́nh chánh phủ của Việt Nam ổn định để họ có thể áp dụng được giải pháp can thiệp nửa vời như một giải pháp vẹn toàn.

Mặc dầu trong năm 1964, nhóm soạn thảo kế hoạch do ông Bundy đứng đầu có đề ra nhiều giải pháp khác nhau, cho tới hạ tuần tháng 11 năm 1964 vẫn chưa hề có giải pháp nào đáng được gọi là quyết định. Lúc đó, đại sứ Taylor Maxwell vừa từ Sài G̣n trở về Hoa Thịnh Đốn. Ông đă trở lại để thuyết tŕnh cho nhóm soạn thảo kế hoạch làm việc dưới quyền ông Bundy. Lúc này nhóm soạn thảo đang làm việc trong giai đoạn cuối và những giải pháp của họ sắp được đệ tŕnh lên tổng thống.

V́ đại sứ Taylor vừa mới từ Sài G̣n trở về và nhóm soạn thảo kế hoạch lại đang ở vào giao đoạn chót, t́nh h́nh đă khiến đại sứ Taylor đứng vào cương vị chủ chốt và tại thời điểm này, quan niệm của ông thật vô cùng quan trọng. Vào ngày 27 tháng 11, bản báo cáo của ông vừa thành thật lại vừa vô cùng bi quan. Đại sứ Taylor viết rằng t́nh trạng xáo trộn ở Việt Nam có thể được coi như một "chứng bệnh kinh niên" của chánh phủ. Ông cho rằng đây là một "yếu điểm trầm trọng." "Nếu chánh phủ Việt Nam không đủ khả năng để tiếp tay với những nỗ lực của Hoa Kỳ th́ những nỗ lực tiếp trợ của Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những nỗ lực vô ích, chẳng khác nào những nguồn năng lực có thể khiến một chiếc bánh xe quay tṛn, nhưng lại không thể truyền đi được sức mạnh của những ṿng quay." Đại sứ Taylor cho rằng "Nếu muốn thúc đẩy t́nh h́nh biến chuyển th́ phải thiết lập ngay một chánh phủ vững chăi ở Việt Nam."

Khi Ngoại Trưởng Dean Rusk trực tiếp hỏi phải theo phương pháp cụ thể nào để chánh phủ Việt Nam có thể hoạt động khả quan hơn th́ đại sứ Taylor trả lời rằng giới lănh đạo Việt Nam phải được loan báo những "tin tức thiết thực," họ cần phải biết rơ giải pháp của Hoa Kỳ cùng với những dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng "nói chuyện nghiêm chỉnh về vấn đề thực sự đương đầu với Miền Bắc." (Ông nhấn mạnh điều này.) Đại sứ Taylor cho rằng những tin tức thiết thực có thể khích lệ chánh phủ Việt Nam điều hành hữu hiệu hơn. Giữa lúc đại sứ Taylor đang tŕnh bày ư kiến th́ Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara lại nêu câu hỏi: Nếu ngay cả khi những tin tức cần thiết đă được loan báo rồi mà chánh quyền Sài G̣n vẫn không thay đổi th́ liệu Hoa Kỳ có đủ lập luận để oanh tạc miền Bắc hay không? Rồi chính ông McNamara đă trả lời rằng Hoa Kỳ sẽ có đủ lập luận để oanh tạc. Đại sứ Taylor cũng đồng ư với ông McNamara và cho rằng khi t́nh thế đă tuyệt vọng th́ những hành động mạnh mẽ có thể sẽ khiến Việt Nam đoàn kết lại với nhau.

Khi rút tỉa từ những ư kiến phát biểu trong cuộc trao đổi giữa hai ông McNamara và ông Taylor, ông William Bundy đă diễn tả những hành động mạnh mẽ kêu gọi Việt Nam đoàn kết có thể ví như một hiện tượng "chạm điện." Theo ông Taylor th́ "ư kiến về nỗ lực cuối cùng -chữa trị bằng phương pháp 'giật dây,' tương tự như phương pháp giật dây một động cơ cho nổ máy có thể là một giải pháp thích nghi."

Bốn ngày sau, vào ngày 1 tháng 12, Tổng Thống Lyndon Johnson chánh thức chấp nhận đề nghị của nhóm soạn thảo chính sách. Chủ trương của chính sách mới đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải gia tăng áp lực với Bắc Việt. Nếu cần, cách gia tăng áp lực sẽ bao gồm cả việc tấn công bằng không lực vào những căn cứ quân sự quan trọng của Bắc Việt. Nhưng theo ư tổng thống Johnson th́ trước tiên đại sứ Taylor nên cố gắng dùng hết sức tạo sự đoàn kết giữa những người quốc gia Việt Nam. Tổng thống Johnson nhắn nhủ đại sứ Taylor: "Nếu muốn thực thi chánh sách oanh tạc không lực th́ ông phải t́m cách nối kết toàn thể các lănh tụ chánh trị hiện thời." Đây là những lời nhắn nhủ đại sứ Taylor vẫn ghi nhớ khi trở về Sài G̣n, nhưng chỉ một tháng sau ông đă gửi một bức điện tín rất dài về Hoa Thịnh Đốn, báo cáo rằng những cố gắng của ông đă hoàn toàn thất bại. Đại sứ Taylor quay lại Việt Nam để thực thi chỉ định của tổng thống Johnson vào giữa lúc chánh quyền tướng Khánh đang ở trong t́nh trạng khủng hoảng. Lúc này các tướng trẻ đang nổi loạn và vụ bắt cóc các nhân viên Thượng Hội Đồng vừa xảy ra. Tuy đă cố hết sức hàn gắn và hô hào đoàn kết, những nỗ lực của đại sứ Taylor vẫn hoàn toàn vô hiệu. Việt Nam chẳng hề có bất kỳ ư niệm nào về việc cần phải đoàn kết cả. Trái lại, thái độ mạnh ai nấy sống lộ rơ ở khắp các nẻo đường Sài G̣n. Đại sứ Taylor cho rằng Việt Nam có thái độ này v́ họ đă có một cảm giác chung rằng đất nước đă đến hồi bỉ vận và Hoa Kỳ có lẽ cũng chỉ đến khoanh tay đứng nh́n mà thôi. Ông Bundy c̣n nhớ đại sứ Taylor đă phát biểu: "Kể cả những thang thuốc mạnh nhất cũng không đủ hiệu lực. Giờ đây chẳng c̣n cách nào khác hơn là phải giải phẫu con bệnh." Những suy luận của đại sứ Taylor đă khiến ông Bundy nhận định: "Nếu theo chủ kiến của đại sứ Taylor th́ cả vấn đề củng cố tinh thần lẫn vấn đề củng cố những hoạt động chính trị của Việt Nam đều lệ thuộc rất nhiều vào việc thực thi những chương tŕnh oanh tạc không lực."

Vào ngày 1, tháng 12-1964, ngoài những yếu tố vừa kể, những yếu tố khác c̣n lại có ảnh hưởng đến việc tổng thống Johnson chấp thuận quyết định thực thi chương tŕnh oanh tạc là: Vấn đề cần phải trả đủa những cuộc tấn công của Việt Cộng và thể hiện sự quyết tâm của Hoa Kỳ, nhất là vấn đề cần phải gia tăng áp lực để buộc Bắc Việt phải thu nhỏ tầm hoạt động. Tài liệu cho thấy quyết định oanh tạc cũng lệ thuộc rất nhiều vào lập luận "hà hơi tiếp sức" của đại sứ Taylor vào cuối tháng 11, khi ông đưa ư kiến lần đầu và rồi sau đó vẫn tiếp tục giữ vững quan điểm trong những buổi thuyết tŕnh tương tự kế tiếp vào đầu tháng giêng. Tất cả những buổi thuyết tŕnh đều nhấn mạnh vào vấn đề cần phải có một động cơ cấp thiết thúc đẩy những người Việt Nam đoàn kết lại với nhau.

Điều cuối cùng đáng chú ư trong lập luận của đại sứ Taylor về việc đề nghị chương tŕnh oanh tạc Bắc Việt là: Tuy ủng hộ chính sách tấn công bằng không lực, đại sứ Taylor đă chấp thuận một phần cũng là v́ đây c̣n là một phương sách giữ cho Hoa Kỳ khỏi phải đi sâu vào những vấn đề quân sự phức tạp. Phó Đại Sứ Alexis Johnson đă phát biểu: "Thật ra, v́ là những người làm việc ở ṭa đại sứ, chúng tôi c̣n mong mỏi một điều khác. Chúng tôi hy vọng rằng chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder sẽ xoa dịu những yêu cầu, đ̣i hỏi các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ phải trực tiếp can thiệp." Họ nghĩ rằng chương tŕnh oanh tạc sẽ khiến những người hiếu chiến giảm bớt áp lực đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải đổ quân. Vào tháng 2, cả đại sứ Taylor lẫn các phụ tá của ông đều bị áp lực về vấn đề phải đổ quân Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Tuy thế, những suy nghĩ cẩn trọng của Hoa Kỳ lại chẳng hề đi đôi với bất kỳ nỗ lực nào của chính quyền Việt Nam. V́ nằm trong trạng huống của một chánh phủ đầy những rối ren trong nội bộ, ông Nguyễn Khánh làm ǵ c̣n có thời giờ suy nghĩ về biến chuyển của những chương tŕnh oanh tạc. Ông Khánh không hề ở vào cương vị có thể đồng ư hoặc chối từ -Ở vào thời điểm này, ông Khánh gần như không c̣n nói chuyện được với đại sứ Taylor. Hơn nữa, các tướng lănh lại suy nghĩ ngược hẳn với ư kiến của đại sứ Taylor. Họ không hề thấy việc đâu lưng đoàn kết là cần thiết. Thật ra, vào những ngày tàn tạ của chánh quyền Nguyễn Khánh, các tướng lănh chia rẽ chẳng phải do những nguyên nhân xuất phát từ thái độ mạnh ai nấy sống như đại sứ Taylor đă xét đoán mà là do những mâu thuẫn và xung khắc phát xuất từ những đố kỵ và tham vọng cá nhân. Đối với các nhóm quân nhân đang chú tâm vào việc tranh quyền th́ chương tŕnh oanh tạc chỉ là một chuyện tự nhiên Hoa Kỳ phải làm và chẳng ai cần thắc mắc cả. Do đó, nỗ lực tiếp sức mạnh mẽ của Hoa Kỳ vào lúc này là một việc làm đơn phương, không thể nào có thể gọi là quyết định hỗn hợp của cả hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam.

Tuy quyết định oanh tạc ảnh hưởng đến vấn đề can thiệp trầm trọng là thế mà khi bắt đầu nắm quyền vào ngày 18 tháng 2-1965, chánh phủ Việt Nam vẫn chẳng duyệt lại t́nh h́nh. Tôi tin chắc rằng ông Khánh cũng chẳng quan tâm ǵ đến việc báo cáo với bác sĩ Quát về những kế hoạch của Hoa Kỳ. Tôi c̣n nhớ một cuộc đàm thoại ngắn ngủi trong tuần đầu lúc tôi bắt đầu làm việc, khi bác sĩ Quát lưu ư rằng đại sứ Taylor sẽ ghé qua tường tŕnh với chúng tôi về những chương tŕnh oanh tạc. Sau đó, cứ hai tuần một lần, đại sứ Maxwell Taylor và ông Alexis Johnson lại đến phủ thủ tướng mang theo một xấp bản đồ để chỉ cho chúng tôi những mục tiêu đang bị oanh tạc. Vai tṛ hoạt động quân sự đơn phương của Hoa Kỳ được coi là chuyện tự nhiên cho đến nỗi chính phủ Việt Nam không thèm đưa cả vấn đề vào chương tŕnh nghị sự ở mỗi kỳ họp hàng tuần. Vấn đề can thiệp chẳng những đă không nằm trong chương tŕnh nghị sự của chính phủ Việt Nam mà cũng chẳng hề được nhắc nhở ǵ đến trong bất kỳ chương tŕnh nghị sự hỗn hợp Mỹ-Việt nào của tôi và cố vấn ṭa đại sứ Melvin Manfull. Lúc này, tôi và ông Melvin Manfull là hai nhân viên cùng nhận lănh trách nhiệm soạn thảo các chương tŕnh nghị sự cho bác sĩ Quát, đại sứ Taylor và các phụ tá chính của họ.

Quyết định về việc xử dụng không lực Hoa Kỳ trên lănh thổ Việt Nam (khác với quyết định oanh tạc) cũng được tiến hành rập khuôn như trường hợp trước, không hề có sự thỏa thuận hoặc thảo luận đặc biệt nào trước với chánh phủ Việt Nam. Thực thi một chính sách có ảnh hưởng hệ trọng đến toàn thể dân chúng mà lại không cần đếm xỉa ǵ đến vấn đề thương thảo, nhận định chung của cả hai chánh phủ thật là một việc ngoài mức tưởng tượng. Tuy thế, áp lực của t́nh h́nh đă khiến những người lănh đạo của cả hai quốc gia cùng đồng ư rằng: Thực ra, vấn đề vẫn chưa nghiêm trọng đến mức cần phải thảo luận với chính phủ Sài G̣n chứ đừng nói tới việc phải liệu xem mức độ cần thiết thực sự đă đến độ nào! Một bên th́ các nhà chức trách quân sự Hoa Kỳ, dưới áp lực của t́nh h́nh chiến sự, có lẽ đă nghĩ rằng vấn đề không quan trọng và chưa cần phải thảo luận với chánh phủ Việt Nam. Và một bên th́ c̣n đang lặn ngụp, trăn trở với những vấn đề cấp bách, không có đủ thời giờ mà nghĩ quá xa đến những vấn đề phức tạp. Lúc này, chánh phủ Việt Nam đang xoay sở khốn đốn v́ thiếu thốn phương tiện chỉnh đốn lại các hỗn loạn di lại từ trước. Tư thế lặn hụp, trăn trở, cố ngoi đầu lên khỏi mặt nước đă khiến Việt Nam phải để các tổ chức quân sự tự đương đầu với chiến cuộc trong mọi vấn đề.

Dù rằng việc quyết định dùng các lực lượng không quân Hoa Kỳ đă là một vấn đề đáng lưu tâm, việc đổ bộ của Hải Quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 3-1965 lại c̣n đáng chú tâm hơn. Đối với Hoa Kỳ th́ quyết định đổ bộ hải quân là một quyết định đánh dấu giai đoạn khởi đầu nhập cuộc chiến tranh lục địa Á Châu. Đối với dân chúng Việt Nam th́ vấn đề đổ bộ cho thấy quân đội ngoại quốc lại chiếm đóng ở Việt Nam thêm một lần nữa. Vào thời gian này, mối liên hệ giữa tôi và bác sĩ Quát đă vượt xa quan hệ đơn thuần giữa cấp trên và cấp dưới. Mười lăm năm t́nh nghĩa đă biến chúng tôi thành thân thiết gần như "anh em." Chúng tôi vẫn thường bàn luận với nhau về những vấn đề khúc mắc, khó xử. Riêng về vấn đề hiện diện của quân đội ngoại quốc ở Việt Nam th́ chúng tôi cùng đồng quan điểm đă từ lâu. Bất kể tầm mức cần thiết về vấn đề quân sự có quan trọng tới mức nào, cả hai chúng tôi đều dứt khoát cho rằng để quân đội ngoại quốc nhập cuộc là tự chuốc lấy một vấn đề khó khăn vô tả. Vào năm 1953, chúng tôi đă từng ở vào một t́nh trạng hết sức khó xử khi tham gia vào chánh quyền của ông Bảo Đại. Chính kinh nghiệm của những việc khó xử đó đă khiến chúng tôi phải ngần ngại. Chúng tôi sợ rằng rồi đây những người không ở trong t́nh trạng của chúng tôi sẽ lại rơi vào bộ máy tuyên truyền của cộng sản để kết án chúng tôi là bù nh́n. Nếu bị kết án bù nh́n chẳng những cá nhân chúng tôi phải chịu đựng chỉ trích mà cả chính nghĩa của Miền Nam Việt Nam cũng v́ thế mà bị suy tổn. Chúng tôi cho rằng chỉ có thể để Hoa Kỳ can thiệp bằng quân sự nếu quả thật đă đến đường cùng và chẳng c̣n biện pháp nào khác hơn.

Vào tháng 3 năm 1965, tuy trong bụng lo lắng nhưng tôi vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có lẽ sẽ chánh thức yêu cầu chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho họ đổ quân vào Việt Nam. Lúc này, có thể việc Hoa Kỳ yêu cầu đổ quân là một việc hợp lư v́ họ có thể xin chánh phủ Việt Nam chánh thức cho phép họ bảo vệ các căn cứ của Hoa Kỳ đă được thiết lập ở phía bắc bờ biển Đà Nẵng. Tuy đă biết trước vấn đề yêu cầu, nhưng thời khóa biểu chất chồng đă khiến tôi chẳng thể dành hết mọi th́ giờ mà nghĩ tới chuyện này. Tôi chỉ tự nhủ thầm rằng sẽ có lúc tôi t́m cách đưa vấn đề này vào chương tŕnh nghị sự của các buổi họp hỗn hợp hàng tuần giữa đại sứ Taylor và bác sĩ Quát. Như tôi đă tŕnh bày khi trước, phần lớn các chương tŕnh nghị sự đều do tôi và ông Manfull soạn thảo.

Nhưng biến cố đă đi ra ngoài sự tiên liệu của tôi. Rạng ngày mùng 8 tháng 3, tôi bỗng nhận được điện thoại của bác sĩ Quát mời đến nhà ông lập tức v́ có việc cần. Khi tôi đến nơi th́ ông Melvin Manfull đă có mặt. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ trông có vẻ b́nh thản nhưng bác sĩ Quát th́ có vẻ căng thẳng trông thấy. Chưa mời tôi ngồi, bác sĩ Quát đă nói rằng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă đổ bộ vào Đà Nẵng. T́nh h́nh đ̣i hỏi tôi và ông Manfull phải viết một bản báo cáo hỗn hợp để xác nhận là chánh phủ Việt Nam đồng ư cho phép Thủy Quân Lục Chiến của Hoa Kỳ đổ bộ vào Việt Nam. Bác sĩ Quát nhắn tôi: "Biên càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đă đồng ư mà thôi."

V́ tôi đă đoán trước việc tướng Westmoreland sẽ yêu cầu đổ quân, nên những tin tức mới nhất này không hề làm tôi ngạc nhiên, nhưng khung cảnh bất ngờ và thiếu chuẩn bị đă làm tôi bực ḿnh. Tôi nắm tay bác sĩ Quát, dẫn ông vào pḥng kế cận, hỏi: "Có việc ǵ đặc biệt xảy ra mà chúng ta chưa biết không? Tại sao họ lại hành động bất ngờ như vậy?"

Bác sĩ Quát cố giữ b́nh tĩnh, nhưng giọng ông vẫn thật căng thẳng: "Anh ơi, họ đang đổ bộ vào bờ biển. Họ đă lên bờ rồi. Anh hăy thảo ngay bản thông cáo rồi chúng ta sẽ bàn luận chuyện này sau!"

Trong ṿng nửa tiếng đồng hồ, tôi và ông Manfull đă soạn thảo xong bản thông cáo hỗn hợp thông báo việc hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă đổ bộ "với sự thỏa thuận của chánh phủ Việt Nam." Khi nhà ngoại giao Hoa Kỳ vừa đi khỏi, tôi lại trở lại ngay vấn đề và hỏi bác sĩ Quát. Ông Quát cho biết nhiều ngày trước đây, ông và đại sứ Taylor có "trao đổi ư kiến" về vấn đề cần phải gia tăng việc pḥng thủ Việt Nam. Trong cuộc trao đổi ư kiến sơ khởi, đại sứ Taylor có đề cập đến vấn đề Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ. Theo lời bác sĩ Quát th́ đây chỉ mới là vấn đề trao đổi ư kiến tổng quát. Ông cũng cho biết rằng lúc thảo luận ông đă đưa ư kiến rằng ông rất ngần ngại nếu người Mỹ phải trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc thảo luận tuy bác sĩ Quát chưa yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân nhưng ông cũng chưa tỏ ư chống đối. Bác sĩ Quát cho biết đại sứ Taylor đă "đồng ư với phần lớn các quan điểm của ông."

Khi tôi hỏi tại sao chúng tôi lại phải đương đầu với một biến chuyển đột xuất như vừa rồi th́ bác sĩ Quát trả lời rằng: "Tôi nghĩ chính đại sứ Taylor cũng phải ngạc nhiên. Khi sáng ông ta có viện lẽ rằng đây chẳng qua chỉ là một vấn đề do t́nh h́nh ở các căn cứ không lực bắt buộc vào lúc này."

Hôm sau, các tờ báo Sài G̣n đă đăng tải những h́nh ảnh khác hẳn những biến động bất ngờ đă đến với chúng tôi ngày hôm trước. H́nh ảnh các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được các thiếu nữ mặc áo dài mang ṿng hoa đón tiếp nồng nhiệt được đăng ngay trong những trang đầu. Theo các h́nh ảnh đăng tải th́ đây có vẻ là một cuộc đón tiếp chánh thức và trọng thể. Mấy ai biết rơ sự thật ẩn sau những ṿng tay chào đón rộng mở và những khuôn mặt hớn hở tươi vui? Theo tài liệu của ông Bundy, và hồi kư của các ông Alexis Johnson, Taylor và Westmoreland th́ chính bản thân đại sứ Taylor cũng "vô cùng ngần ngại" khi đồng ư việc đổ quân. Vào ngày 22 tháng 2-1965, ông Taylor cũng đă tŕnh bày quan điểm "dè dặt" của ông Quát với bộ ngoại giao. Ông Bundy viết rằng: "Đại sứ Taylor dứt khoát khước từ vấn đề Hoa Kỳ đổ quân. Ông chống đối tất cả mọi cuộc đổ quân bất kể quân số và chỉ đồng ư có thể để một lực lượng an ninh [dùng vào việc pḥng thủ các căn cứ Không Lực ở Đà Nẵng.]"

Theo lời tường thuật của ông Bundy th́ đại sứ Taylor đă suy luận rất minh bạch về những bất lợi gây ra khi quân đội Hoa Kỳ nhập cuộc. Tuy nhiên, vào ngày 24 tháng 2, chỉ 2 ngày sau, tướng Westmoreland đă gửi riêng một đề nghị về Hoa Thịnh Đốn đ̣i hỏi 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến phải đổ bộ cấp tốc vào Đà Nẵng để bảo vệ các căn cứ không lực. Tướng Westmoreland cũng nhắn thêm rằng đại sứ Taylor đă đồng ư với ông về việc này.

Đề nghị của tướng Westmoreland được chuyển đến Bộ Tổng Tham Mưu rồi Bộ Tổng Tham Mưu lại nhân cơ hội yêu cầu một lữ đoàn viễn chinh gần 5000 binh sĩ bao gồm cả pháo binh và chiến đấu cơ yểm trợ. Theo lời Phó đại sứ Johnson th́ khi nghe tin cả đại sứ Taylor cùng ông đều "kinh ngạc." Kế hoạch đổ quân của Bộ Tổng Tham Mưu lần này vượt xa tầm mức quân sự cần thiết và là điều họ chưa hề tưởng đến bao giờ. Họ nhất định bác bỏ đề nghị đổ quân. Đêm đó, một giải pháp dung ḥa được thông qua. Trong giải pháp này, cả Phó đại sứ Johnson lẫn đại sứ Taylor đều đồng ư cho phép 3500 Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ vào Việt Nam. Họ quyết định thật "lưỡng lự" và chỉ thỏa thuận với điều kiện đây là con số tối đa. Hơn nữa, họ c̣n nhấn mạnh khi những đội quân Việt Nam đă đủ sức thay thế th́ những đội quân Hoa Kỳ phải rút lui ngay. Vào ngày 26 tháng 2 Bộ Quốc Pḥng chuyển lời đề nghị lên tổng thống trong một bữa ăn trưa. Trong bữa ăn trưa, tổng thống Johnson đă đồng ư chấp thuận lời yêu cầu. Theo ông Bundy th́ vào lúc này chánh phủ Hoa Kỳ chưa hề tham khảo ư kiến Bộ Ngoại Giao.

Diễn biến cho thấy ngay trong nội bộ Hoa Kỳ đă có một hố ngăn cách lớn lao. Những cơ quan quân sự không hề ngần ngại khi cần hành động ngược lại với quan niệm của các cơ quan dân sự hoặc tự ư liên lạc với tổng thống. Việc đổ bộ hiển nhiên là việc đại sứ Taylor không hề hay biết. Các nhân viên tham mưu chẳng thèm đoái hoài ǵ đến việc thông báo trước với ông. Khi việc đổ quân xảy ra bất ngờ, đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Cuộc căi vă giữa ông và tướng Westmoreland găng cho đến mức ông đă nhắc nhở tướng Westmoreland về vấn đề ai giữ chức vụ quan trọng hơn ai. Đại sứ Taylor c̣n phẫn khích hơn khi khám phá được rằng lúc đổ quân, những đội quân Thủy Quân Lục Chiến đă mang theo cả xe tăng, đại pháo lưu động và nhiều khí cụ nặng khác mà nếu đem dùng vào việc "pḥng thủ căn cứ" th́ quả là một điều hoàn toàn vô lư.

Có lẽ đại sứ Taylor đă cảm thấy ḿnh bị qua mặt. Ông đă bác bỏ giải pháp quân sự, rồi lại gượng gạo đồng ư cho phép một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến pḥng vệ đóng ở Đà Nẵng vào lúc đầu. Sau đó lại cho phép một tiểu đoàn thứ hai đổ vào để bảo vệ tiểu đoàn thứ nhất. Chỉ mới thoáng một cái mà quân số hai tiểu đoàn đă lên đến 3500. Chẳng những thế, cả đại sứ Taylor lẫn Phó đại sứ Alexis Johnson đều cho là ḿnh hăy c̣n may mắn đă giới hạn được con số quân nhỏ như vậy. Chỉ vẻn vẹn hai ngày sau, tin tức về việc đổ quân lại lan ra khiến cho các đồng nghiệp của đại sứ Taylor ở Bộ Ngoại Giao không tài nào có đủ thời giờ hoặc cơ hội xem xét lại những đề nghị của các viên chức tham mưu quân sự. Để kết thúc quá tŕnh, các tham mưu trưởng đă không báo trước với ông về việc đổ bộ. Hơn nữa, khi các đội binh thủy quân lục chiến đổ bộ, họ đă ào ạt ùa vào chẳng khác nào cuộc đổ bộ vào băi biển Iwo Jima hồi Đệ Nhị Thế Chiến thay v́ chỉ đổ bộ một cách kín đáo như đại sứ Taylor đă nghĩ.

Theo các tài liệu th́ dù rằng ở giai đoạn nào, đại sứ Taylor cũng rất ngần ngại khi phải để Hoa Kỳ đổ quân chánh thức tham dự chiến cuộc. Tuy vậy, ư kiến của ông đă bị Hoa Thịnh Đốn bác bỏ và cuối cùng, v́ không c̣n đường chọn lựa, đại sứ Taylor đành phải miễn cưỡng đi theo. Việc đại sứ Taylor đột ngột thay đổi quan niệm chính là v́ ư kiến của ông đă bị bác bỏ. Và cũng v́ vậy mà ông đă phải yêu cầu bác sĩ Quát chấp thuận quyết định của Hoa Kỳ, trong khi trên thực tế th́ quyết định đă được chấp hành trước cả lúc ông bắt đầu ngỏ lời yêu cầu. Hậu quả tai hại của những biến cố bất ngờ ngày càng lộ rơ. Vấn đề liệu bác sĩ Quát có thể tŕ hoăn hoặc bác bỏ được cuộc đổ quân hay không lại là một vấn đề khác. Bản thân bác sĩ Quát cũng là người mới nắm quyền và quyền lực của ông c̣n phụ thuộc rất nhiều vào quân đội. Thực sự th́ tuy bác sĩ Quát chưa chính thức bác bỏ việc đổ quân mà đă bị đặt vào một t́nh trạng của sự đă rồi. Đại sứ Taylor đă tŕnh bày thành thực rằng quân Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng một vai tṛ pḥng vệ hạn hẹp. Hơn nữa, vấn đề đóng quân chẳng qua chỉ là một vấn đề tạm thời. Bác sĩ Quát đă đồng ư thỏa thuận việc đổ quân. -Ít ra cũng là đồng ư thỏa thuận vào giai đoạn này. Có lẽ bác sĩ Quát nên hành động khác, nhưng nh́n lại t́nh h́nh lúc đó, tôi không thể tự dối ḿnh mà bảo rằng nếu bác sĩ Quát có hỏi th́ tôi đă cho ư kiến khác. Trong t́nh cảnh chánh phủ mới lúc đó vừa nắm quyền và hăy c̣n mơ hồ, hẳn nhiên việc chúng tôi có thể chống đối khi Hoa Kỳ tự ư hành động đă hẳn là một việc không hề thực tế.

Tuy nhiên một khi quyết định can thiệp đă được thực thi th́ những diễn biến tuần tự kế tiếp chỉ là những bước cố định nằm trong một tiến tŕnh bắt buộc. Vấn đề can thiệp quân sự và can thiệp chính trị thật chẳng khác nào việc thụ thai. Vấn đề có "thụ thai nửa chừng" chỉ là một vấn đề lệch lạc và ảo tưởng. Chỉ mới hai tuần sau khi 3500 Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào Đà Nẵng th́ Tư Lệnh quân đội Harold K. Johnson đă gửi lời yêu cầu tổng thống Johnson xin phép cho thêm ba sư đoàn bao gồm hai sư đoàn Hoa Kỳ và một sư đoàn Đại Hàn đổ vào Việt Nam để tăng viện. Đại sứ Taylor lại bác bỏ. Khi trót thỏa thuận việc cho phép Thủy Quân Lục Chiến Đổ Bộ, đại sứ Taylor đă bị viễn ảnh can thiệp lớn rộng của Hoa Kỳ ám ảnh dằn vặt và phải chịu đựng rất nhiều đau khổ. Tuy tôi không rơ đích thực bác sĩ Quát cùng ông Taylor bàn luận ra sao nhưng bác sĩ Quát đă nhiều lần cho biết rằng ông và đại sứ Taylor cùng đồng quan điểm về vấn đề phải giới hạn vai tṛ của Thủy Quân Lục Chiến ở Đà Nẵng.

Đại sứ Taylor đă trả lời những yêu cầu của tướng Harold Johnson bằng cách đánh điện tín về Ṭa Bạch Ốc rằng ông nhất định không đi xa hơn con số Thủy Quân đang đóng ở Đà Nẵng. Vào tháng ba, khi được triệu hồi về Hoa Thịnh Đốn, ông vẫn khăng khăng, một mực quyết định giữ vững lập trường. Hiển nhiên là lúc này đại sứ Taylor đanh tranh luận kịch liệt cùng tướng Westmoreland và các nhân viên tham mưu quân sự về vấn đề đổ quân bành trướng các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tuy thế, đại sứ Taylor không phải là người duy nhất ra mặt chống đối. Gần như tất cả những nhân viên dân sự ở Hoa Thịnh Đốn cũng đều chống đối như ông.

Vào ngày 1, tháng 4, trong một cuộc họp hội đồng an ninh quốc gia, tổng thống Johnson đă cho cả hai bên, các cố vấn quân sự cũng như các cố vấn dân sự một phần những điều họ đ̣i hỏi. Thay v́ 2 sư đoàn như những sĩ quan tham mưu đă yêu cầu, tổng thống chỉ thỏa thuận cho phép hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ vào Việt Nam mà thôi. Theo ông Bundy th́ việc giới hạn quân số là do đại sứ Taylor cùng nhiều nhân viên dân sự khác đă hết ḷng can gián. Tuy thế, để đổi lại vấn đề cắt giảm quân số, những đội quân Hoa Kỳ đóng ở Đà Nẵng lại được phép nới rộng hoạt động thay v́ chỉ được phép "pḥng vệ căn cứ" như đă đề ra lúc đầu. Lúc này các đội quân được phép đóng một vai tṛ "chủ động hơn" trong cuộc chiến. Hơn nữa, những đội thủy quân lục chiến mới sẽ được hai mươi ngàn nhân viên binh nhu và quân cụ đi theo yểm trợ. Đây tuy là giải pháp dung ḥa nhưng đại sứ Taylor vẫn giữ được thế thượng phong. Ít nhất ông cũng đă tŕ hoăn được phần nào các cuộc đổ quân khổng lồ của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Trong tất cả các quyết định kể trên, quyết định quan trọng nhất là quyết định cho phép các đội quân Thủy Quân Lục Chiến nới rộng và bành trướng phạm vi hoạt động. Quyết định này đă khiến quan niệm "pḥng vệ căn cứ," nguyên là yếu tố chính của cuộc đổ quân lúc đầu chuyển thành "chiến lược bao bọc," một chiến thuật cho phép các đội quân Thủy Quân Lục Chiến được phép chiến đấu trong phạm vi 80 cây số quanh căn cứ. Hơn nữa, khi t́nh h́nh khẩn cấp, các đội quân của Hoa Kỳ c̣n có thể chiến đấu nếu có lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Đây là lần đầu tiên các lực lượng Hoa Kỳ được phép đóng một vai tṛ chủ động trên chiến trường Việt Nam.

Vào thượng tuần tháng 4, đại sứ Taylor trở lại Sài G̣n để yêu cầu bác sĩ Quát "cùng thỏa thuận" với quyết định của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ về việc gia tăng các đội quân tiếp tế và tăng cường trách nhiệm của các đội quân Hoa Kỳ. Đầu tiên bác sĩ Quát chưa hiểu rơ được t́nh h́nh. Lúc này chúng tôi hoàn toàn mù tịt về việc Hoa Kỳ sắp mang thêm 20,000 quân yểm trợ và sắp bành trướng cả quân số lẫn nhiệm vụ của các đội quân Hoa Kỳ. -Chỉ mới hai tuần lễ trước, chúng tôi đă ngạc nhiên về việc hai tiểu đoàn Hoa Kỳ đổ bộ và đă biết rất rơ đại sứ Taylor không hề hưởng ứng vấn đề đổ quân, thế mà giờ đây chính ông lại đưa ra những chính sách hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm khi trước.

Đại sứ Taylor là người già giặn kinh nghiệm ngoại giao, nhưng dĩ nhiên ông vẫn không cho chúng tôi biết những mâu thuẫn đă đưa đến giải pháp dung ḥa của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ. Hơn nữa, chính chúng tôi cũng chẳng biết đây là giải pháp dung ḥa. Tất nhiên đại sứ Taylor khó thể tiết lộ rằng: "Thật ra, chúng tôi cũng bối rối như các ông về việc lo liệu cho t́nh h́nh được khả quan hơn. Chúng tôi cũng chẳng biết nên làm ǵ và cũng đang bàn căi sôi nổi. Đây có lẽ là giải pháp hoàn hảo nhất của chúng tôi tuy rằng riêng tôi vẫn không ủng hộ giải pháp này." V́ vừa mù tịt về những quá tŕnh dẫn đến kế hoạch của Hoa Kỳ, lại vừa chẳng biết ǵ về những dự định, toan tính thực tiễn của giải pháp cuối cùng nên chúng tôi khó thể lượng định đúng mức hoặc hợp lư được giá trị của những kế hoạch do Hoa Kỳ đưa ra.

Tuy vậy, chúng tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ Hoa Kỳ đang hành động theo một kế hoạch khéo léo kiện toàn nào đó mà họ không muốn thố lộ. Chúng tôi đă chẳng biết rơ chi tiết việc Hoa Kỳ lượng định t́nh h́nh ra sao mà cũng chẳng rơ những nhóm cố vấn đă xét đoán tầm mức cần thiết của chúng tôi là thế nào mặc dù hơn ai hết chúng tôi biết rất rơ những nhu cầu của chính ḿnh. Điều chúng tôi cần nhất là ổn định t́nh h́nh chính trị nội bộ để có thể có cơ hội đóng góp vào những cố gắng chiến tranh. Đây là điều kiện tiên quyết căn bản dẫn đến việc giải quyết những vấn đề khác như kinh tế, chính trị, xă hội và quân sự trong việc xây dựng tương lai lâu dài của đất nước. Chúng tôi phải t́m cách vượt qua những vấn đề đang đe dọa bao trùm lấy tất cả chúng tôi, chẳng hạn như những lủng củng, hỗn loạn nội bộ, do ông Ngô Đ́nh Diệm và các tướng tá đă gây ra. Dĩ nhiên chúng tôi rất cần những giúp đỡ quân sự. Nhưng vào tháng 3 và tháng 4 năm 1965, câu hỏi liệu Hoa Kỳ nên thực thi những chánh sách giúp đỡ ra sao chính là câu hỏi mà chúng tôi vẫn chưa thể tự ḿnh trả lời. Cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều không đồng ư việc phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam nhưng vấn đề phải làm thế nào để có thể xử dụng đúng cách những nỗ lực giúp đỡ của một đồng minh khổng lồ là quả là vấn đề mà cho đến lúc này chúng tôi mới bắt đầu suy nghĩ. Vào giữa lúc đang suy xét vấn đề th́ chúng tôi đă phải đương đầu với những quyết định chuyển quân ào ạt của Hoa kỳ.

Lúc đó chúng tôi không tài nào hiểu được trọn vẹn mục đích thực thụ của những yêu cầu do Hoa Kỳ đưa ra. Mặc dầu tin tưởng vô biên vào khả năng của đồng minh Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn muốn biết họ đang suy nghĩ thế nào, nhất là trong việc t́m hiểu cho rơ ràng, mạch lạc những lời yêu cầu đổ quân ăn khớp ra sao với những kế hoạch lớn lao của toàn cuộc. Bác sĩ Quát cũng đă khổ tâm không kém ǵ đại sứ Taylor v́ việc phải cùng lúc đối phó với cả những rối ren của việc đổ quân lẫn những khó khăn xuất phát từ việc Hoa Kỳ thiếu thành thật. Trong cơn bối rối, ông đă nhờ tôi t́m hiểu dự định của Hoa Kỳ.

Lúc này tuy Việt Nam đă có đại sứ ở Hoa Kỳ, đại sứ lại là tướng Trần Thiện Khiêm, người đă giúp tướng Khánh đảo chánh và cũng chính là người đă đưa ông Khánh sang Hoa Kỳ sau khi chánh quyền tướng Khánh bị lật đổ. Tướng Khiêm nguyên là một nhân vật có nhiều thủ đoạn nhưng lúc đó ông vừa mới tới Hoa Kỳ và lại là một quân nhân nên sự hiểu biết của ông về chính trị Hoa Kỳ thật là giới hạn. Bởi thế, tôi bị buộc phải t́m hiểu từ những nguồn tin phía trong Sài G̣n. Tôi liên lạc với tất cả. Từ các nhân viên Ngoại Giao như đại sứ Taylor, phó đại sứ Alexis Johnson, những bạn bè đang phục vụ trong các chương tŕnh Hoa Kỳ cho đến những nguồn tin từ phía báo chí, nhất là những phóng viên am hiểu t́nh h́nh của cả hai phía Mỹ Việt chẳng hạn như phóng viên Jerry Rose của báo The Saturday Evening Post. Tuy vậy tôi vẫn thấy ḿnh chẳng khác nào một con ếch ngồi đáy giếng trong chuyện ngụ ngôn, chỉ nh́n thấy một phần phiến diện, nhỏ bé của thế giới bên ngoài và đến ngay cả những phần này cũng bị méo mó, thiên lệch.

Dù sao đi nữa th́ ngay khi tôi c̣n đang dự định mở cuộc thăm ḍ rộng răi th́ ṭa đại sứ Hoa Kỳ ngỏ ư muốn chánh phủ Việt Nam trả lời về lời yêu cầu đổ bộ thêm quân. Hậu quả là vào ngày 6 tháng 4 năm 1965, v́ chẳng c̣n làm cách nào khác hơn được, bác sĩ Quát đă bị buộc phải đồng ư thỏa thuận việc để Hoa Kỳ đổ quân thêm và mở rộng tầm hoạt động của các đội quân đă trấn đóng. Khi chánh phủ hai bên đă đồng ư thỏa thuận th́ quyết định tối quan trọng được thông qua: Quân đội Hoa Kỳ sẽ đóng một vai tṛ độc lập trong cuộc chiến Việt Nam. Đây chính là quyết định mà ông William Bundy gọi là "một bước ngoặt" của toàn cuộc. Trong nội bộ Hoa Kỳ th́ yếu tố chính dẫn đến quyết định này là do cả thất vọng lẫn bối rối. Thất vọng v́ không biết phải làm ǵ và bối rối v́ chẳng thể để mặc t́nh h́nh bấp bênh như hiện tại. Lúc này Hoa Kỳ đang phải đương đầu với những đ̣i hỏi phải có hành động thiết thực và giới lănh đạo quân sự -Các tướng William Westmoreland, Harold Johnson và các tư lệnh tham mưu- đă cho rằng vấn đề phải can thiệp quân sự là việc dĩ nhiên. Ngược lại, các lănh đạo dân sự lại cho rằng để quân đội Hoa Kỳ can thiệp không phải là một giải pháp đúng để giải quyết vấn đề. Tuy thế các nhà lănh đạo dân sự lại chẳng biết làm ǵ hơn là tự nhủ thầm phải canh chừng hết sức thận trọng để khi cần th́ đánh đổi những nguyên tắc căn bản ban đầu mà chọn lấy những giải pháp dung ḥa. Trong khi đó th́ chánh phủ Việt Nam lại là một chánh phủ mới vừa nắm quyền, chưa thể củng cố được nội bộ và chẳng thể làm ǵ khác hơn là nhắm mắt đi theo. Chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ thiếu thốn cả từ quyết tâm cho đến khả năng để có thể chịu đựng được áp lực của Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ th́ vấn đề cần phải có sự hiểu biết song phương có lẽ là chuyện không cần thiết, trong khi đối với chúng tôi là những đồng minh nhỏ bé th́ việc đ̣i hỏi phải có sự thông cảm và hiểu biết song phương lại là việc hoàn toàn nằm ngoài tầm với.

Những tiến tŕnh của các kế hoạch do Hoa Kỳ đặt ra cứ nối tiếp theo nhau trong một khung cảnh gần như áp đặt, Hết "Oanh Tạc Không Lực," rồi "Tấn Công Để Pḥng Thủ," và rồi cuối cùng "Trực Tiếp Can Thiệp Bằng Quân Sự." Chỉ khoảng chín tháng sau, các đội quân Thủy Quân Lục Chiến ban đầu đă chuyển thành một quân đội với tổng số 200,000 quân bao gồm cả các binh lính Hoa Kỳ lẫn những binh lính từ những đồng minh khác. Tất cả đều đến Việt Nam v́ những lư do tương tự như những lư do vừa kể. Mục đích chính của quyết định do tổng thống Lyndon Johnson đưa ra vào ngày 1 tháng 4 là tiếp trợ quân nhu, khí cụ, gia tăng quân số và phạm vi hoạt động của những đội quân Thủy Quân Lục Chiến để yểm trợ Việt Nam. Nếu đây quả là một giải pháp dung ḥa th́ cách giải quyết này cũng vẫn không phải là một giải pháp vĩnh cửu. Vào ngày 11 tháng 4, v́ không bằng ḷng với lời yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu, tướng Westmoreland đă điện thoại cho Thủy Sư Đô Đốc Ulysses Grant Sharp, Jr., tổng tư lệnh của hạm đội Thái B́nh Dương, nói rằng ông vẫn cần thêm ít ra là một lực lượng vào cỡ sư đoàn không lực 173 của quân đội Hoa Kỳ lúc đó. Sau những cuộc bàn bạc giữa những nhân vật lănh đạo quân sự cao cấp, vào ngày 14 tháng 4, Bộ Tổng Tham Mưu đă ra lệnh cho sư đoàn không lực 173 đóng quân ở Việt Nam.

Khi trở lại Sài G̣n sau những cuộc tranh căi quyết liệt ở Hoa Thịnh Đốn, đại sứ Taylor cho rằng tổng thống Johnson đă đồng ư giảm thiểu và giới hạn những can thiệp quân sự. Tuy thế, khi nh́n thấy rơ rằng trong thực tế vấn đề lại khác hẳn, đại sứ Taylor cảm thấy vô cùng khó chịu. Trong một bức điện gửi đến Ngoại Trưởng Dean Rusk tuy với lời lẽ nhẹ nhàng, đại sứ Taylor vẫn không dấu hết được cảm giác bực tức. Ông điện rằng: "Gần đây, những hành động liên quan đến việc đổ quân đă khiến tôi có ấn tượng về thái độ nóng nảy của một vài cơ quan về vấn đề cần phải đổ quân vào Việt Nam. Đây quả là một thái độ thật là khó hiểu... Hành động của các cơ quan này hoàn toàn tương phản với những chính sách Hoa Thịnh Đốn đă đề ra [vào ngày 1 tháng 4]."

Hôm sau, đại sứ Taylor nhận được điện tín trả lời của Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng John McNaughton. Lời lẽ của bức điện chẳng hề làm ông suy giảm phẫn nộ: "Giới lănh đạo tối cao tin rằng t́nh h́nh Miền Nam Việt Nam đang tan ră. Để hỗ trợ cho những cuộc tấn công Miền Bắc, chúng ta phải có một hoạt động nào đó giúp Việt Nam đạt được thắng lợi. Ngoài những đề nghị khác bản điện tín c̣n có kèm theo cả những lời đề nghị yêu cầu đại sứ Taylor thỏa thuận việc chuyển quân nhanh chóng của sư đoàn không lực 173. Sau này phó Đại Sứ Alexis Johnson đă viết thêm rằng: "Chúng tôi hoàn toàn tối tăm mặt mũi v́ những hồ sơ đề nghị. Cuộc đổ quân ồ ạt, gần như thể một con đê đă vỡ toang hoác khiến những người 'chậm chạp' như chúng tôi chẳng thể sửa chữa hoặc ngăn chận kịp thời."

Vào ngày 17 tháng 4, để đối phó với những biến chuyển không hoàn toàn như ư, đại sứ Taylor đă gửi một bức thư dài cho cả hai ông Dean Rusk ở Bộ Ngoại Giao và ông McGeorge Bundy ở ṭa Bạch Ốc. Trong bức điện tín, ông tường tŕnh những biến chuyển nhanh chóng và phức tạp của t́nh trạng lúc này. Một trong những vấn đề ông Taylor đă đề cập đến là việc bác sĩ Quát có thể phản đối việc đóng quân. Ông đă viết rằng: "Việc minh xác tầm mức cần thiết trong vấn đề đổ quân thật vô cùng quan trọng. Trước khi đặt vấn đề của chúng ta ra với chánh phủ Việt Nam, tôi phải biết rơ ràng vấn đề là ǵ và lư do ra sao. Việc thuyết phục chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho phép một lực lượng với quân số lớn lao đến đóng ngay trong lănh thổ Việt Nam nhất định sẽ phải gặp nhiều khó khăn trừ khi lư do cần thiết đă trở nên rơ ràng và minh bạch."

Những khác biệt trong quan niệm của đại sứ Taylor và bộ tham mưu đă đưa đến một cuộc họp căng thẳng vào ngày 19 tháng 4 ở Honolulu. Cuộc họp do Bộ Trưởng Quốc Pḥng Robert McNamara chủ tọa và bao gồm nhiều nhân vật lănh đạo như đại sứ Taylor, ông William Bundy và ông McNaughton. Sau hai ngày bàn căi "quyết liệt", đại sứ Taylor đă bị thuyết phục ngả theo ư kiến chung về việc đề nghị gia tăng quân số (tới 82,000) và về sự thỏa thuận đề nghị một số quân khoảng 7250 binh sĩ từ "một đệ tam quốc gia." Theo ông Alexis Johnson th́ đây là một sự "đồng ư miễn cưỡng." Lại thêm một lần nữa đại sứ Taylor đă nhượng bộ những ư kiến riêng của ông để đổi lại một giải pháp dung ḥa. Theo như sự thỏa thuận th́ những lực lượng Hoa Kỳ không được phép tự do tấn công và chỉ có thể hoạt động trong những vùng ven biển quanh căn cứ. Lúc này theo ông Bundy th́ những quân nhân Hoa Kỳ tin rằng việc giới hạn tầm hoạt động của các đội quân sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng ông Bundy cũng nói thêm: "Những giới hạn bắt buộc quân đội phải tự khống chế các hoạt động có thể sẽ khiến những viên chức quân sự phục vụ trong quân đội [Hoa Kỳ] mang một quan niệm bi quan hơn (và thực tiễn hơn) về những ǵ có thể xảy ra." Đối với những người Việt Nam th́ tháng 4 là tháng của những yêu cầu liên tiếp từ phía Hoa Kỳ. Theo như nghị định do Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đưa ra, bác sĩ Quát đă chấp thuận việc đóng quân của những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 20,000 quân tiếp trợ. Một tuần lễ sau đó, dư luận lại đồn đăi về việc đ̣i hỏi các đồng minh khác phải thêm quân tiếp trợ. Trong khi đại sứ Taylor nỗ lực giới hạn những kế hoạch lớn lao đang lũ lượt gởi đến từ Hoa Thịnh Đốn th́ tâm trạng bác sĩ Quát ngày càng lo âu. Cho tới lúc này, tuy vẫn vô cùng ngần ngại, ông vẫn bị buộc phải ngả theo t́nh thế. Theo tôi thấy th́ bác sĩ Quát cũng đă biết rơ ràng sự can thiệp của những đội quân Thủy Quân Lục Chiến là một sự can thiệp chỉ có tính cách tạm thời. Tuy chỉ có rất ít binh sĩ Hoa Kỳ hiện diện ở Việt Nam vào lúc này, việc đ̣i hỏi gia tăng thêm quân lực hiển nhiên là việc sắp đến. Nhưng ngoài cách thỏa thuận ra chúng tôi c̣n có thể phản ứng bằng cách nào khác hơn chăng? Trước tiên th́ câu trả lời dường như phụ thuộc vào việc lượng định t́nh h́nh quân sự của các giới chức quân sự Việt Nam. Nếu ṿng đai pḥng vệ của Việt Nam đang tan vỡ v́ những cuộc tấn công của cộng sản Bắc Việt th́ hẳn nhiên chúng tôi không c̣n đường chọn lựa. Mặt khác, nếu các giới chức quân sự nghĩ rằng t́nh thế vẫn c̣n khả quan hơn vậy th́ chúng tôi sẽ có cơ hội chống trả lại áp lực của Hoa Kỳ một cách hữu hiệu hơn.

Khi đại sứ Taylor từ Honolulu trở về Việt Nam th́ tôi đă bắt đầu tham khảo ư kiến của các tướng lănh Việt Nam. Vào ngày 24 tháng 4, đại sứ Taylor tường thuật cho bác sĩ Quát những ư kiến chung rút ra từ những cuộc tranh căi ở Hawaii. Lúc này bác sĩ Quát đă hiểu rơ sự nghiêm trọng của những biến chuyển sắp tới. Thật sự th́ từ nhiều tuần trước đây, ông đă dành rất nhiều thời giờ để suy nghĩ. Khi đại sứ Taylor đến gặp ông Quát để nâng số quân Hoa Kỳ ở Việt Nam lên đến 82,000, bác sĩ Quát đă trả lời rằng ông cần thời giờ để đo lường những ảnh hưởng chính trị và quân sự nếu Hoa Kỳ gia tăng quân số ở Việt Nam. Ngay sau khi đại sứ Taylor vừa đi khỏi, ông Quát chạy ngay đến văn pḥng tôi. Lúc gặp tôi, dường như ông không c̣n dấu được vẻ hốt hoảng. Ông hỏi ngay như thể cố trút cả nỗi lo âu vào câu hỏi: "Có chuyện ǵ ngoài chiến trường mà chúng ta không biết rồi sao?" Vào lúc này, bác sĩ Quát không c̣n t́m được bất cứ lư do nào khác để giải thích lời yêu cầu đổ quân của Hoa Kỳ với quân số to lớn như vậy vào Việt Nam.

Những suy nghĩ của tôi cũng chẳng lấy ǵ làm khác bác sĩ Quát. Mặc dù vừa mới hội họp với các sĩ quan trước đấy mấy hôm, hiển nhiên chúng tôi lại phải tham khảo với họ chi tiết hơn thêm một lần nữa trước khi có thể quyết định bất cứ chuyện ǵ.

Cuối tuần đó, tôi và bác sĩ Quát liền bắt đầu ngay những buổi họp liên tục với tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Việt Nam. Chúng tôi đă tham khảo ư kiến của riêng từng người về việc lượng định t́nh h́nh quân sự về cả các giai đoạn ngắn hạn cũng như dài hạn. Ngoài ra chúng tôi c̣n tŕnh bày thêm những nghi ngờ của riêng chúng tôi cũng như tham khảo ư kiến của các tướng lănh về vấn đề này. V́ chánh quyền Việt Nam lúc này vẫn chưa có cơ quan nào có thể ví như Hội Đồng An Ninh Quốc Gia để xem xét những vấn đề quan trọng nên những những cuộc thảo luận của chúng tôi không mang tính cách chánh thức. Nhưng dù sao đi nữa th́ những quan niệm của chúng tôi vẫn phản ảnh trung thực ư kiến chung của các chính trị gia và các tư lệnh Việt Nam lúc này. Tuy chẳng có ǵ đáng gọi là thủ tục chánh thức về những cuộc tham khảo, cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều đă biết rằng dù có nh́n t́nh h́nh bằng một nhăn quan chánh trị hoặc quân sự đi chăng nữa th́ việc gạt bỏ những quan niệm của các tướng lănh vẫn không phải là việc dễ dàng. Hơn nữa, chính bản thân chúng tôi cũng có những sự ngần ngại riêng đối với vấn đề để cho Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam. Với tư cách là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng, tôi thường phải đối phó với những vụ khiếu nại và kiện tụng mỗi khi có những vụ rắc rối hoặc tai nạn xe cộ liên quan đến quân đội Hoa Kỳ. V́ thế, tôi đă biết rất rơ những khó khăn đi đôi với vấn đề gia tăng quân đội Hoa Kỳ. Tầm hiểu biết của tôi bao gồm từ những vụ tai nạn đơn giản như những tai nạn do xe nhà binh cán người cho đến những vụ vi phạm luật lệ xảy ra hàng ngày. Hơn nữa, từ khi Pháp c̣n chiếm đóng, tôi đă từng phải đối phó với những khó khăn cũng liên quan đến những vấn đề tương tự như vấn đề phàn nàn Mỹ-Việt lúc này. Trước đây, trong những cuộc đàm phán ở Élysée với Pháp vào đầu thập niên 1950, trách nhiệm của tôi lúc đó là t́m cách giải quyết những vấn đề khó khăn khi phải thiết lập một lực lượng Việt Nam để Pháp có thể giao trả dần độc lập. Những cuộc thảo luận lúc đó cũng là những phàn nàn Pháp-Việt gần giống như vấn đề của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam lúc này. Mặt khác, bác sĩ Quát vốn vừa là Bộ Trưởng Quốc Pḥng, vừa là thượng cấp của tôi lúc trước nên cũng nhạy cảm không kém ǵ tôi. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi th́ có lẽ cả hai chúng tôi đều quá nhạy cảm, có thể việc chúng tôi ráo riết tham khảo ư kiến chẳng qua cũng chỉ là do những kích động của sự nhạy cảm mà thôi.

Việc t́m hiểu những câu trả lời của các giới chức quân sự là việc mà chúng tôi có thể đoán trước được phần nào. Theo t́nh h́nh lúc này th́ những giới chức quân sự nhận định rằng: Tuy những trận chiến lớn sắp sửa mở màn, Việt Nam không hề ở vào bất kỳ t́nh cảnh ngặt nghèo nào đáng kể. Nhưng những nhận định của họ về t́nh h́nh lâu dài của chiến cuộc lại hoàn toàn khác hẳn. Lúc này đă có những đơn vị của ít nhất là hai sư đoàn (sư đoàn 324 và 304) chính qui Bắc Việt đang tấn công ráo riết vào Miền Nam và mức độ xâm nhập đang ngày càng tăng. Hơn nữa, v́ thiếu thốn nhân lực và thời gian để huấn luyện các binh sĩ, việc tăng cường quân đội để chống lại những lực lượng mới của Việt Cộng là một việc vô cùng khó khăn. Sau khi thẩm định t́nh h́nh các tướng lănh đă kết luận rằng: Bất kể sự hiện diện của những đội quân Hoa Kỳ có tạo ra khó khăn ǵ đi nữa th́ việc gia tăng quân đội Hoa Kỳ vẫn là một lợi điểm lớn lao đối với Việt Nam.

Lạ lùng thay, phản ứng của các chính trị gia cũng không khác các tư lệnh quân sự là mấy. Một vài người quá khích đă lấy làm thích thú về viễn ảnh của một cuộc chiến tranh chống cộng quốc tế. Vài người khác lại dễ dăi bỏ qua tất cả những vấn đề thuộc mặt trái của cuộc đổ quân.

Khi lượng định những vấn đề khó khăn bác sĩ Quát đă cho rằng những sĩ quan cao cấp đều chịu ảnh hưởng của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Và v́ vậy nên nếu ư kiến của họ có trùng hợp với ư kiến chung của các viên chức quân sự Hoa Kỳ th́ cũng là một việc dễ hiểu. Chẳng khác ǵ những đồng nghiệp Hoa Kỳ, các tướng lănh Việt Nam cũng chỉ quan sát mọi việc qua ống kính quân sự hạn hẹp. Sự huấn luyện và kinh nghiệm quân sự nghề nghiệp đă làm giảm khả năng suy nghĩ của họ về những vấn đề khác, chẳng hạn như ảnh hưởng xă hội hoặc tâm lư của việc gia tăng quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam. Nhưng nếu lấy tiêu chuẩn an ninh quốc gia làm chuẩn để suy xét th́ việc bác bỏ quan niệm của họ là một việc vô cùng khó khăn. Và nếu lấy những suy xét chính trị làm chuẩn th́ việc bác bỏ những suy xét của họ lại c̣n là việc viễn vông hơn nữa.

Khi phải đương đầu với quyết định cuối cùng, bác sĩ Quát hoàn toàn đơn độc. V́ là thủ tướng của một quốc gia đang giữa lúc chiến tranh, ông đă phải xử dụng uy quyền từ một chỗ đứng mong manh và đầy đe dọa. Đă có lúc bác sĩ Quát nói với tôi rằng ở vào những giây phút hiểm họa, ông chỉ c̣n biết trông chờ vào "lương tâm cùng những linh tính chánh trị của riêng bản thân ông." Có thể ông đă bác bỏ những đề nghị của Hoa Kỳ trên phương diện lư thuyết, nhưng những thực tế chính trường đă khiến ông chẳng thể thoát khỏi những áp lực khủng khiếp của Hoa Kỳ. -Đây là một điều mà những giới chức quân sự phục vụ dưới quyền ông cũng cùng đồng quan điểm.

Ở những giai đoạn cuối, bác sĩ Quát đă thực sự hành động theo linh tính. Ông vẫn ôm ấp hy vọng rằng rồi đây t́nh h́nh sẽ khả quan hơn và lúc đó ông sẽ có khả năng để thay đổi. Lúc đó, ông sẽ có một khả năng khác hẳn trường hợp yếu thế lúc này. V́ suy nghĩ như thế nên vào ngày 28 tháng 4, bác sĩ Quát thông báo với đại sứ Taylor rằng Việt Nam đă thỏa thuận lời yêu cầu mới của Hoa Kỳ. Những cánh cửa ngăn chận giờ đây đă được mở rộng. Công bằng mà luận th́ ngay cả cho đến lúc những gia tăng quân sự đă khởi đầu, Tổng Thống Lyndon Johnson và chánh phủ Hoa Kỳ vẫn muốn đàm phán với Bắc Việt. Nhưng đối với chánh quyền Việt Nam th́ vấn đề bàn bạc những giải pháp ḥa b́nh cũng mờ mịt chẳng kém ǵ những ư định của Hoa Kỳ về phương diện quân sự. Nếu nh́n từ một cương vị nhất định nào đó th́ quyết định không tham khảo ư kiến Việt Nam của Hoa Kỳ chẳng qua cũng dễ hiểu. Những quá khứ hỗn loạn và những tương lai mờ mịt của Việt Nam đă khiến chánh phủ Sài G̣n chẳng thể đóng trọn vai tṛ của một đồng minh mà Hoa Kỳ có thể tham khảo ư kiến về phương diện ngoại giao. Tuy rằng những chánh sách của Hoa Kỳ có liên hệ chặt chẽ đến vấn đề sinh tử của Việt Nam mà v́ hoàn toàn mù tịt về mọi vấn đề, nên chánh quyền Việt Nam vẫn không đóng góp được ǵ nhiều vào việc soạn thảo những giải pháp chính trị cũng như quân sự.

Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn thông báo về những tiến triển của các giải pháp ḥa b́nh đang diễn ra công khai ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn như tin tức về những bài diễn văn của tổng thống Johnson ở đại học John Hopkins vào ngày 7 tháng 4, hoặc những tin tức về quyết định ngưng dội bom vào ngày 10 tháng 5. Ngay cả vào những lúc sớm hơn, như vào khoảng tháng ba, ông Alexis Johnson cũng đă thông báo cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ về những dự định trong việc kêu gọi một cuộc hội nghị khác ở Geneva do Anh Quốc và Liên Xô đứng ra làm chủ tọa. Nhưng chúng tôi chỉ biết rất ít về những việc bí mật quan trọng, chẳng hạn như những vụ thăm ḍ Bắc Việt, những điều mà Hoa Kỳ đă ngầm đưa ra với đại sứ J. Blair Seaborn của Gia Nă Đại, nguyên là nhân viên của phái đoàn kiểm soát quốc tế, hoặc những tiếp xúc của Hoa Kỳ với đại sứ Trung Hoa ở Warsaw, và Mai Văn Bộ, đại diện của Bắc Việt ở Ba Lê. Chúng tôi biết rằng Hoa Kỳ vẫn c̣n cố gắng t́m ṭi, dọ dẫm qua nhiều sự móc nối khác nhau, nhưng chúng tôi chỉ có thể cho rằng những móc nối bí mật chẳng qua chỉ là một trong những giải pháp vận động thông thường mà thôi. Tuy chúng tôi chẳng nghi ngờ ǵ Hoa Kỳ nhưng vấn đề thiếu hiểu biết dường như lúc nào cũng dẫn đến sự nghi kỵ.

Trong những diễn biến vừa kể, mặc cho Hoa Kỳ hết sức dùng cả những biện pháp công khai lẫn các biện pháp bí mật, Hà Nội vẫn lạnh lùng ngoảnh mặt. Rốt cuộc, v́ chẳng thể ảnh hưởng ǵ được Hà Nội nên dư luận lại trở về các đề tài chính trị hoặc quân sự của chánh phủ Sài G̣n. Vào mùa thu 1965, khi Hoa Kỳ đă quyết định Mỹ Hóa Chiến Tranh Việt Nam th́ họ trực tiếp vào cuộc bằng cách áp đặt chính sách can thiệp dưới một khung cảnh đột xuất và cao ngạo. Cách can thiệp khác thường của họ đă khởi nguồn một câu chuyện lịch sử thật dài và vô cùng quan trọng. Họ vào cuộc với những mục tiêu rơ rệt: Giúp đỡ đồng minh và cố gắng nuôi dưỡng, phát triển một nền dân chủ độc lập ở Việt Nam. Giúp Việt Nam ổn định và củng cố để chống lại cộng sản. Nhưng một khi những chánh sách mang mục đích cao đẹp của họ thất bại th́ hậu quả đă di lại những tổn thương trầm trọng và vĩnh cửu. Tôi không có ư kết án rằng Hoa Kỳ phải một ḿnh chịu nhận tất cả mọi trách nhiệm và hậu quả. Đúng ra th́ những người lănh đạo Việt Nam phải chịu phần lớn trách nhiệm. Ngoài những nhân vật lănh đạo ra, trách nhiệm thất bại có thể được qui một phần về những phần tử quốc gia đă chia rẽ quá mức trong thời gian chiến tranh. Hậu quả của sự chia rẽ đă khiến các đoàn thể quốc gia suy nhược đến độ họ chẳng c̣n có thể tiếp tục tự vệ khi họ bị buộc phải tự ḿnh đối phó với cuộc chiến.

Nhưng qua suốt 11 năm Hoa Kỳ can thiệp, nếu đứng trên phương diện ngoại giao mà luận th́ những chính sách của Hoa Kỳ quả đă gây ra rất nhiều hậu quả đáng tiếc. Đầu tiên, trong thời gian vào khoảng đầu thập niên 1950, th́ người Hoa Kỳ nhất định nhắm mắt không can thiệp. Họ đă an nhiên mục kích số phận thăng trầm của cả hai giới độc tài dân cũng như quân sự của Việt Nam. Khi ông Diệm nắm quyền th́ ṭa đại sứ Hoa Kỳ đă đưa ra những chiêu bài "hợp pháp", "chưa hợp thời" và cố t́nh để mặc những phần tử quốc gia tự ḿnh xoay sở trong khung cảnh bất lực. Rồi vào năm 1963, khi các tướng lănh đảo chánh ông Diệm th́ Hoa Kỳ gần như vẫn nhắm mắt làm ngơ và tuy đă chấp thuận với đề nghị đảo chánh của các tướng lănh, nhưng nếu cần, Hoa Kỳ vẫn vui ḷng chối bỏ sự can thiệp. Trong suốt cả một thập niên dường như họ đă cố t́nh bưng mắt đứng ngoài, hoặc chỉ can thiệp nhẹ nhàng cho có lệ. Cuối cùng, vào năm 1965, ngay giữa khi Việt Nam đang gặp những khủng hoảng chính trị và đang ở vào lúc xáo trộn th́ họ lại quyết định rằng đó là lúc họ cần can thiệp trực tiếp. Họ ào ạt đổ quân. Họ ra sức thiết lập các căn cứ và tự đưa ra những chiến dịch oanh tạc. Họ hành động một cách bất chợt và đơn phương, không thèm đếm xỉa ǵ đến việc tham khảo ư kiến của chánh phủ Việt Nam. Những hành động quyết đoán và chủ quan của họ đă khiến họ tự dồn ḿnh vào một phương vị bế tắc. Rồi họ tự đi đến kết luận: Phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam. Và khi chính sách của họ thất bại th́ họ lại tháo lui thật phũ phàng. Họ tự t́m lấy những giải pháp ḥa b́nh dễ dàng cho họ và bỏ mặc đồng minh -bất kể đồng minh của họ là quốc gia nào- phải tiếp tục ở lại chịu trận.

Vốn đă t́nh cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố tự tṛng lấy trách nhiệm vào người, tôi cũng lại t́nh cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố cởi bỏ những trách nhiệm họ đă tự tṛng vào khi trước. Có lẽ ngoại trừ phương pháp can thiệp khác thường này, Hoa Kỳ chẳng thể c̣n bất cứ cách thức can thiệp nào khác có thể hủy hoại đồng minh khốc liệt hơn!

18. Bác Sĩ Quát và Các Tướng Lănh

Vào mùa xuân 1965 tuy những biến chuyển chính trị đă chuyển chiến cuộc Việt Nam nguyên là một cuộc nội chiến, thành một mâu thuẫn có tính cách quốc tế, đây vẫn không phải là biến cố độc nhất chiếm lĩnh tất cả những chú ư của bác sĩ Quát. Khi bác sĩ Quát bắt đầu nhậm chức th́ ảnh hưởng của các tướng lănh và các hội đồng quân sự hăy c̣n rất mạnh do đó ông đă chủ trương rằng phải nỗ lực cầm cự vào lúc ban đầu. Ông đă cố ổn định t́nh h́nh quân sự, cố đương đầu với những vấn đề chia rẽ đảng phái ở Sài G̣n, cố bắt đầu những cuộc ứng cử địa phương và soạn thảo hiến pháp. Tuy bác sĩ Quát đă cố chuyển những nỗ lực đầu tiên về những điều cơ bản trên, t́nh h́nh phức tạp và hỗn loạn của chánh phủ dân-quân sự lúc đó đă rối ren đến mức mọi chuyện gần như xảy ra cùng một lúc. Tầm mức lớn lao của diễn biến đă vượt khỏi cả phạm vi chiến cuộc lẫn phạm vi của những hoạt động mà Hoa Kỳ đă tính toán lúc đó.

Những biến chuyển lúc này dập dồn chẳng khác nào như tất cả mọi chuyện đều xảy ra cùng một lúc. Bác sĩ Quát nhậm chức đă được bốn tháng mà tôi vẫn có cảm tưởng như ông vừa mới nhậm chức chỉ có vài ngày trước. Có lẽ ông Henry Kissinger đă diễn tả đúng hệt tâm trạng chúng tôi khi nói rằng chính trị gia là những người luôn luôn bị buộc phải lựa chọn vào những lúc họ không những chỉ mù tịt về tương lai mà c̣n mù tịt cả về t́nh trạng hiện tại nữa." Vào thời gian này, gần như tôi chưa bao giờ có dịp để nhận định cho rơ được những phương hướng tổng quát để làm việc cho hữu hiệu. Gần như tôi chẳng bao giờ có đủ thời giờ, dù chỉ là những khoảng thời giờ thật ngắn cho phép tôi suy nghĩ thấu đáo về căn nguyên của những vấn đề khó khăn.

Tuy t́nh cảnh rối ren, bận rộn và khó nhọc là thế mà bác sĩ Quát vẫn quyết tâm giữ vững những chủ định ban đầu. Ông Quát nhận định rằng vấn đề khó khăn chính của chính phủ trong thời gian này là vấn đề của các tướng lănh trẻ. Nếu ông có thể thuyết phục các tướng trẻ chú tâm vào t́nh h́nh chiến cuộc thay v́ chính trị th́ ông cho rằng đă tiến được nửa bước. Và nếu ông có thể hô hào khiến họ làm hậu thuẫn th́ đây quả là một bước vẹn toàn. Tuy thế, vấn đề đối phó với các tướng trẻ chẳng phải là nỗi lo âu duy nhất của bác sĩ Quát. Ngoài vấn đề này ra ông c̣n phải t́m cách xoa dịu những lực lượng chánh trị đang hăm he gạt phắt chính phủ của ông ra ngoài.

Khi đương đầu với các tướng lănh, bác sĩ Quát đă có rất nhiều lợi điểm. Lợi điểm đầu tiên của bác sĩ Quát là uy tín của chính ông. V́ đă từng là Bộ Trưởng Quốc Pḥng, ông đă giữ được mối giao hảo với nhiều sĩ quan chủ chốt và rất quen thuộc với những vấn đề quân sự khó khăn. Những kinh nghiệm đặc biệt về quân sự của bác sĩ Quát đă khiến các tướng lănh coi ông khác hẳn các thành viên dân sự khác. Họ xem ông là một người đáng tin cậy và họ sẵn ḷng cộng tác. Lợi điểm thứ hai của bác sĩ Quát là kể từ tháng 2 năm 1965, đại sứ Taylor và ông Alexis Johnson đă nói thẳng với các tướng lănh rằng các tướng lănh chẳng thể vừa phục vụ quân đội, vừa hoạt động chính trị được. Họ chỉ có thể chọn một trong hai, nếu họ muốn làm chính khách th́ cũng chẳng có ǵ khó khăn, chỉ cần họ cởi bỏ quân phục và gia nhập hàng ngũ của những chính khách là xong. Lợi điểm thứ ba và có lẽ cũng là lợi điểm quan trọng nhất của bác sĩ Quát là việc các tướng lănh vẫn chống đối lẫn nhau. Bất kỳ họ suy nghĩ về một chánh phủ dân sự ra sao, các tướng lănh cũng nhất định không để những nhóm quân sự khác nắm được thực quyền. V́ muốn tránh vấn đề phải để một nhóm quân sự khác nắm quyền, họ đă đồng ư để bác sĩ Quát đứng ra điều hành mọi chuyện.

Với ba lợi điểm vừa kể, vào đầu tháng 5 bác sĩ Quát cùng tôi đă hội họp với những sĩ quan cao cấp để thuyết phục họ giải tán Hội Đồng Quân Lực. Hội Đồng Quân Lực nguyên là một tổ chức mà những quân nhân đă dùng làm khí cụ nhằm gây áp lực từ khi tướng Nguyễn Khánh nắm quyền. Tuy giải tán Hội Đồng chưa hẳn đă là chấm dứt hoàn toàn những ảnh hưởng của quân sự vào chính trị nhưng việc này cũng có thể xem là một bước trong tiến tŕnh đó.

Khi đương đầu với những khó khăn trong các đoàn thể dân sự th́ bác sĩ Quát ít thành công hơn. Có thể v́ ông đă giải tán được Hội Đồng Quân Lực và thành công phần nào khi giải quyết những khó khăn quân sự nên bác sĩ Quát đă trở nên lạc quan và do đó thiếu thận trọng. Tuy chẳng ai chỉ trích bác sĩ Quát khi ông đặt trọng tâm vào vấn đề quân sự, nhưng lúc đó có vài người cho rằng bác sĩ Quát có ư xem thường các đoàn thể dân sự đối lập có ảnh hưởng đáng kể. Họ cho rằng bác sĩ Quát cần phải để ư ông Phan Khắc Sửu nhiều hơn. Trước đây, ông Sửu chính là vị quốc trưởng già đă từ chối không chịu kư sắc lệnh chấm dứt nhiệm vụ một vài vị tướng và v́ vậy đă góp phần thúc dục, đẩy mạnh cuộc bắt cóc các thành viên của Thượng Hội Đồng hồi tháng 11, 1964.

Vào tháng 5, ông Sửu già nua vẫn là quốc trưởng và vẫn khó tính giống hệt trước đây. Khoảng cuối tháng 5, ông Sửu lại bắt đầu khởi sự một cuộc khủng hoảng chánh phủ thứ hai. Lúc này nạn thiếu gạo đang bắt đầu hoành hành. Nạn khan hiếm gạo phát sinh là do Việt Cộng đă làm gián đoạn đường liên lạc giữa Sài G̣n và các tỉnh. Giá gạo tại thủ đô bỗng nhiên nhảy vọt và nhiều ngày sau, chánh phủ đă bị buộc phải can thiệp. Tuy thế, trong suốt một tuần và rồi hai tuần mà chánh phủ vẫn không đưa ra được giải pháp nào thiết thực. Vào lúc này những người có trách nhiệm trực tiếp là Tổng Trưởng Nội Vụ và Tổng Trưởng Kinh Tế vẫn chẳng hề quan tâm đến bổn phận của ḿnh. Vào tuần lễ thứ ba, t́nh trạng thiếu khả năng của họ đă khiến bác sĩ Quát vô cùng phẫn nộ khi ông lại phải bắt tay vào việc. Bác sĩ Quát hành động dứt khoát bằng cách thay thế một lúc hai Bộ Trưởng. Đây là một sự chọn lựa có tính cách quyết định ảnh hưởng đến sự sống c̣n của chính phủ của ông.

Nhưng không may, trong những tháng trước đây, ông Quát lại chưa có dịp nào để xoa dịu các chính khách đối lập khác. Những chính khách đối lập với ông Quát đa số là những chính khách của các phe nhóm địa phương, một trong những người đối lập nguy hiểm nhất là những chính khách Miền Nam. Thường th́ những chính khách người Nam vẫn cảm thấy rất khó chịu khi phải để những chính khách người Bắc nắm quyền và lúc nào họ cũng cố t́m cách đảo ngược t́nh h́nh. Việc bác sĩ Quát yêu cầu hai bộ trưởng từ chức đă đem lại cho họ một dịp may hiếm có và con người khó tính của ông Sửu đă khiến họ có được một khí cụ tuyệt vời. Theo nguyên tắc th́ sắc lệnh chỉ có hiệu lực sau khi đă được ông Sửu kư. Nhưng lúc này, v́ ông đang được những đoàn thể "Người Nam" cùng những đoàn thể công giáo ngấm ngầm khuyến khích nên ông Sửu lại không chịu kư. Chẳng bao lâu sau hành động của ông Sửu đă khiến chánh phủ ông Quát sa vào một cuộc khủng hoảng chính trị không có đường giải quyết.

Khi chánh quyền bị rơi vào t́nh thế tiến thối lưỡng nan, bác sĩ Quát đă cố xoay sở để giải quyết vấn đề, nhưng v́ không có hiến pháp nên ông chẳng thể vận động cách nào khác hơn. C̣n ông Sửu th́ lại một mực khăng khăng nhất định không chịu kư. Trước đây ông đă chẳng để Nguyễn Khánh lay chuyển, lúc này ông Sửu cũng nhất định chẳng để ai lay chuyển. Đă thế, sau lưng ông Sửu, những chính khách Miền Nam c̣n mượn dịp để triệt hạ bác sĩ Quát bằng mọi giá. Ông Quát đă phải t́m đến Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ là một người Nam để nhờ giảng ḥa. Tuy cụ Đỗ đă cố gắng thuyết phục nhưng v́ cụ đă từng sống tại Miền Bắc khá lâu nên lại bị coi như người thân Bắc và những lời cụ đưa ra hoàn toàn bị bỏ ngoài tai.

Có lẽ khi cuộc khủng hoảng tiếp diễn và t́nh h́nh chuyển thành tấn thối lưỡng nan th́ việc các tướng lănh tự bước vào giải quyết vấn đề là việc khó thể tránh khỏi. Thật ra th́ trong khi cố gắng xoay sở tháo gỡ t́nh h́nh, bác sĩ Quát cũng có nói chuyện với vài tướng tá nhưng ông vẫn không thuyết phục được họ ủng hộ. Các tướng tá đă lập luận rất rơ ràng: "Đấy, các ông xem, chúng tôi đă rời bỏ chính trường rồi. Vậy mà một khi chúng tôi đi khỏi th́ các ông lại không thể điều hành được mọi chuyện." Có thể bác sĩ Quát cũng có khả năng thuyết phục một vài tướng tá và vận động họ cùng về phe với ông nhưng sau lưng các tướng tá trẻ lại c̣n các tướng tá khác trẻ hơn. Họ là những cấp tá đầy tham vọng và những tư lệnh trẻ chưa hoàn toàn hài ḷng với những chân trời nhỏ hẹp của ḿnh. Đối với họ th́ đây quả là lúc thời cơ hành động đă chín mùi. Những tướng tá trẻ hẳn nhiên là một đoàn thể mà các tướng lănh khác khó thể bỏ qua.

Vào ngày 11 tháng 6, trong một buổi họp kéo dài tại Phủ Thủ Tướng, t́nh trạng tấn thối lưỡng nan chấm dứt. Độ khoảng 40, 50 các tướng lănh, ông Sửu, bác sĩ Quát và các phụ tá đều hiện diện tại cuộc họp. Tất cả chen chúc trong một căn pḥng nhỏ hẹp ở Phủ Thủ Tướng. Tuy bác sĩ Quát vẫn cố toan tính thay đổi hai vị Bộ Trưởng vào lúc cuối, các tướng tá đă đ̣i hỏi chánh phủ phải giải quyết t́nh trạng khó xử ngay tại pḥng họp. Họ tuyên bố sẽ không khoanh tay nh́n chính phủ bế tắc. Biết rằng việc ǵ phải đến đă đến, giữa những lời phát biểu ư kiến sôi động, bác sĩ Quát tuyên bố sẽ từ chức và giải tán chánh phủ. Quyết định từ chức của bác sĩ Quát đă buộc ông Sửu cũng phải từ chức theo. Chính trường lúc này đă được dọn sạch để cho các tướng lănh và các quân nhân bắt đầu nhập cuộc. Chẳng bao lâu họ đă thiết lập hai ủy ban quân sự: Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch và quốc trưởng và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch và Thủ Tướng. Đây quả là một màn kết thúc cay đắng cho cuộc thí nghiệm chính phủ dân sự ở Miền Nam Việt Nam. Ngay sau khi chánh phủ sụp đổ, ông Alexis Johnson đă than rằng ông thật "vô cùng thất vọng!" Vào lúc này Hoa Kỳ đă đặt rất nhiều hy vọng vào bác sĩ Quát. Họ bắt đầu tin rằng ông Quát là người có khả năng ổn định những khó khăn chính trị tại Việt Nam. Khi ông Quát thất bại, Hoa Kỳ đă thất vọng sâu xa. Nỗi thất vọng của họ dường như bao gồm thêm cả cảm giác khó chịu khi họ thấy ḿnh hoàn toàn bất lực. Họ giống như những người phải đứng ngoài nh́n tận mắt những việc ngang tai trái ư mà chẳng thể làm ǵ khác hơn. Lúc này họ lại phải đương đầu với một tầng lớp lănh đạo quân nhân mới. Trước đây, khi tiếp xúc với các tướng trẻ, đại sứ Taylor đă gặp nhiều khó khăn. Chính ông Taylor cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc phải đương đầu với các tướng tá trẻ khi họ đứng vào cương vị lănh đạo quốc gia. Trong hồi kư ông đă ghi lại một cách khô khan rằng: "[Hoa Kỳ] chẳng có lư do ǵ đáng để chào mừng việc [ông Kỳ] nhậm chức thủ tướng cả."

Nhưng cho dù là tương lai đang chờ đón những nhóm người mới nhậm chức có là ǵ đi nữa th́ lúc đó tôi cũng đă sắp sửa kiệt sức. Tôi đă trải qua suốt bốn tháng khủng hoảng và căng thẳng liên tục. Tuy lúc này, cả thể xác lẫn tâm thần đều kiệt quệ, tôi vẫn cảm thấy an ủi là đă trút được gánh nặng. Đă đến lúc tôi cần một thời gian nghỉ ngơi dài hạn và xa rời mọi chuyện.

Nhân dịp niên học của các con tôi sắp hết, tôi quyết định cùng toàn thể gia đ́nh ra nghỉ tại băi biển Nha Trang. Lúc nh́n những bờ cát Nha Trang trắng mịn, tôi thầm nghĩ có lẽ đây cũng là một dịp tốt để nghỉ ngơi cùng gia đ́nh và tạm thời quên đi cả chiến tranh lẫn chính trị.

Khung cảnh Nha Trang lúc này thật tuyệt vời hơn tất cả. Buổi sáng chúng tôi thư thả băng qua con vịnh dẫn đến một ḥn đảo ngoài khơi, nơi cư ngụ của những dân chài. Khi đến nơi, chúng tôi lang thang dọc theo bờ biển, thả bộ dưới những hàng dừa đong đưa, nh́n những người thợ chài đi lưới vào lúc rạng đông khi mặt trời nhẹ tỏa ra những tia sáng linh động, lấp loáng trên mặt biển. Lúc này tôi sống hoàn toàn tự do, chẳng khác nào một kẻ đang thung dung an hưởng những vẻ đẹp tao nhă của đất trời. Niềm phấn khởi dào dạt dâng cao đến mức tôi quên hết mọi sự và chỉ nghĩ đến việc tổ chức lại Ban Điều Hành của tờ Saigon Post. Tôi đă có ư tổ chức lại tờ báo từ hồi tháng 2, trước cả khi bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi vào làm việc với chánh phủ của ông.

Lúc này có lẽ tôi chẳng bao ǵờ có thể ngờ là ḿnh sẽ lại được mời cộng tác với chính quyền mới. Tuy thế chỉ một, hai ngày sau khi đang cùng gia đ́nh nghỉ mát tại Nha Trang, tôi lại nhận được lời yêu cầu của chính quyền mới. Đây là lời yêu cầu của thủ tướng mới là tướng Nguyễn Cao Kỳ, yêu cầu tôi lập tức trở về thủ đô. V́ đă quá gần gũi bác sĩ Quát -gần gũi đến mức nhiều người đă cho rằng tôi với ông chẳng khác ǵ h́nh với bóng- nên việc ông Kỳ đứng ra mời tôi cùng về làm việc là chuyện tôi chẳng thể nào tin được. Thật sự th́ tôi vô cùng ngờ vực. Trong quá khứ tôi đă từng gặp ông Kỳ và cũng có thảo luận đôi lần về các vấn đề quân sự nhưng mối liên hệ giữa tôi và ông Kỳ thật chẳng khác ǵ mối liên hệ giữa tôi và đồng nghiệp của ông là ông Nguyễn Văn Thiệu; một mối liên hệ tuy thân mật và đứng đắn nhưng vẫn chẳng thể gọi là gần gũi. Hơn nữa, theo những biến cố vừa xảy ra th́ sự hiện diện của tôi đối với chánh phủ lúc này có thể coi như một bất lợi chính trị rơ rệt. Thứ nhất, tôi không phải là người trong nhóm quân nhân. Thứ hai, tôi đă phục vụ trong một chính quyền dân sự vừa mới sụp đổ. Theo lẽ, th́ tôi nên được "cho phép" ch́m vào quên lăng trong cuộc sống của một cá nhân với đời sống an b́nh.

V́ vậy, khi trở về Sài G̣n tôi đă sững sờ khi nghe ông Kỳ ngỏ lời mời tôi cộng tác. Ông đề nghị tôi làm Phụ Tá Đặc Biệt đặc trách các vấn đề kế hoạch có liên quan đến ngoại viện. Ông Kỳ đă "nói chuyện" với bác sĩ Quát và theo lời ông th́ chắc chắn bác sĩ Quát cũng sẽ liên lạc với tôi về việc này. Ông Kỳ bàn luận về t́nh h́nh chính trị đang căng thẳng và nhấn mạnh vấn đề cần tiếp tục giữ vững mối giao hảo với Hoa Kỳ. Đây vốn là việc mà tôi vẫn làm trước đây. Ông Kỳ cho biết ông muốn tôi tiếp tục nhiệm vụ giữ vững mối giao hảo với Hoa Kỳ. Ông cũng chẳng đoái hoài hỏi xem tôi có nhận lời hay không.

Tôi dùng khoảng thời gian c̣n lại trong ngày để liên lạc với bạn bè trong chính giới và bàn bạc với bác sĩ Quát. Đúng như ông Kỳ đă nói trước. Bác sĩ Quát khuyên tôi nhận lời. Cũng như ông Kỳ, bác sĩ Quát nêu ra những vấn đề cần thiết trong việc giữ vững liên lạc với Hoa Kỳ "vững chừng nào tốt chừng đó." Ông cho rằng việc các tướng lănh tỏ ra chú tâm vào vấn đề này là một điều khả quan. Theo ư kiến riêng ông th́: "Mọi việc sẽ khả quan hơn nếu chúng tôi có thể theo dơi hành động của các tướng lănh." Lời phát biểu của bác sĩ Quát cho thấy ông vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ tất cả sự nghiệp chính trị. Tuy bác sĩ Quát chưa hề phát biểu rơ ràng, tôi cũng đă mơ hồ cảm thấy ông vẫn muốn giữ vững mối dây liên lạc với quân đội. Đây chính là một trong những lư do khiến ông muốn tôi nhận lời. Tôi biết rằng trong thâm tâm các biến cố đă làm ông cay đắng. Có lẽ ông vẫn không thật sự muốn tôi hợp tác với chính phủ mới. Dầu sao đi nữa th́ ông cũng đă quyết định tự rút lui cho các ông Thiệu, Kỳ; ông cũng đă từ chức và giữ được mối giao hảo tốt đẹp với cả hai. Nếu ông c̣n có bất kỳ tia hy vọng nào về vấn đề trở lại chính trường th́ tia hy vọng đó cũng phụ thuộc một phần vào mối dây liên hệ giữa ông và hai ông Thiệu, Kỳ. Vào lúc này, kinh nghiệm cho thấy rằng chính phủ mới có thể sẽ không đứng vững được lâu. Và ai có thể đoán trước được những việc xảy ra về sau? Bác sĩ Quát nói thêm: "Hơn nữa, sau khi gia nhập chính phủ, nếu anh cảm thấy không thể phục vụ được th́ vài tháng sau lúc nào cần anh cũng có thể từ chức với lư do sức khỏe."

Tuy cho rằng ḿnh hiểu bác sĩ Quát, tôi cũng đă tự suy xét kỹ lưỡng. Trước hết, tôi vô cùng ngần ngại về việc phải đứng ra hợp tác cùng với các tướng lănh không hề có chút quan niệm cơ bản thế nào là chính phủ. Thứ hai, tôi biết rằng dù bác sĩ Quát có nói ǵ đi nữa th́ sự kiện người cộng tác gần với ông nhất trong chánh phủ cũ, nay lại làm việc cùng chánh quyền mới vẫn là một việc khó thể chấp nhận. Sự việc này sẽ khiến dư luận hành lang Sài G̣n bàn bạc phê b́nh suốt một đời và tôi sẽ phải chịu đựng rất nhiều điều tiếng v́ những lời nói ra, nói vào của các giới chính trị tại Sài G̣n. Mặt khác, tôi vừa mới lấy lại được phần nào sức lực khi được nghỉ mấy ngày vừa qua ở Nha Trang. Tham gia chánh phủ mới là một ư kiến vô cùng hấp dẫn. Tôi mới 42 tuổi, c̣n quá trẻ để tự nguyện rút lui vào bóng tối của quên lăng. Sau khi trằn trọc thâu đêm về việc lựa chọn, sáng hôm sau tôi đến văn pḥng ông Kỳ chấp nhận lời mời hợp tác. Những tuần đầu làm việc với ông Kỳ thật là khó chịu. Tuy ông và tất cả những người trong nhóm của ông đều cố đối xử thân thiện với tôi, nhưng việc tôi là một "người ngoài," là một "kẻ xâm nhập" vào ṿng thân hữu của họ là việc đă rơ rành rành. Giữa bầu không khí khó chịu này, tôi cố chú tâm vào những trách nhiệm nằm trong lănh vực riêng của công việc, cố soạn thảo những vấn đề có tính cách cấp thiết trong lănh vực ngoại giao. Tôi chỉ gặp ông Kỳ khi có lời yêu cầu.

Nhưng t́nh trạng này không kéo dài được lâu. Tôi được mời hợp tác chính là v́ kinh nghiệm nghề nghiệp trong việc giao dịch với Hoa Kỳ. V́ quen thuộc nên những nhân viên Hoa Kỳ vẫn muốn t́m hiểu mọi việc qua tôi trong lúc t́nh h́nh đang lộn xộn. Do đó, những vấn đề ṭa đại sứ Hoa Kỳ tŕnh bày với tôi toàn là những vấn đề hệ trọng cần được thủ tướng lưu tâm. Mặt khác, ông Kỳ cũng cảm thấy thuận tiện khi dùng tôi làm mối dây liên lạc để ḍ dẫm, t́m hiểu phản ứng của Hoa Kỳ đối với những chính sách do ông đề ra. Ở giữa t́nh thế lúc này, vị tân thủ tướng vốn dĩ chẳng hề quen thuộc với cả những cách điều hành chánh phủ lẫn những phương pháp ngoại giao bắt đầu tham khảo ư kiến tôi. Khi vấn đề hợp tác đă khiến chúng tôi gần gũi nhau hơn th́ vào những lúc tôi phải thuyết tŕnh, ông Kỳ thường mời tôi cùng ăn trưa tại Phủ Thủ Tướng.

Thật trái hẳn với sự dự liệu của tôi, ông Kỳ hiểu vấn đề rất nhanh và cũng rất chịu khó lắng nghe. Mặc dù ông chưa có kiến thức chính trị sâu sắc và vẫn chưa hẳn là một chính khách chững chạc, ông Kỳ rất có duyên và có tính chân thật tự nhiên bẩm sinh dễ gây thiện cảm. Tuy ông Kỳ có một cái tật là hay phát biểu ẩu tả và tuy lối sống đặc biệt của ông hoàn toàn đi ngược với quan niệm riêng của tôi về tư cách của một nhà chính trị cầm đầu chính phủ, tôi vẫn cảm thấy ông Kỳ, dù có tật bộp chộp và thiếu thận trọng, nhưng nói chung th́ vẫn là người có tâm địa tốt và thật thà.

Tôi đă tường tŕnh với ông Kỳ về những biến cố của việc Hoa Kỳ đổ quân trong những tháng về trước. Tôi cũng đă tŕnh bày những quan niệm của bác sĩ Quát về việc đổ quân của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Một mặt ông Kỳ tỏ vẻ nhận biết những nghi ngờ của bác sĩ Quát. Mặt khác, ông lại bị áp lực nặng nề v́ những loạt tấn công của các đơn vị Bắc Việt to lớn vào tháng 7 năm 1965 và những tổn thất do các vụ nổ bom gây ra, chẳng hạn như vụ nổ bom ở nhà hàng Mỹ Cảnh trên bến Sài G̣n. Ông Kỳ lập luận rằng việc quan trọng nhất là việc ổn định t́nh h́nh quân sự và một khi muốn chu tất việc này th́ chúng tôi phải cần những lực lượng bộ binh của Hoa Kỳ.

Chúng tôi không hề biết rằng ngay trước cả khi thay đổi chánh phủ, tướng Westmoreland đă yêu cầu tiếp viện thêm một số quân vượt xa con số mà cả hai chánh phủ đă thỏa thuận vào tháng 4. Vẫn như thường lệ, chúng tôi hoàn toàn mù tịt về những cuộc tranh luận ở Hoa Thịnh Đốn lúc này. Cuộc bàn căi chia làm ba phe gồm những người ủng hộ việc leo thang quân sự như Bộ Trưởng McNamara, những người muốn tiếp tục chánh sách trung dung và Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball. Tuy đơn độc một ḿnh, Thứ Trưởng George Ball là một nhân vật có ảnh hưởng rất mạnh. Ông đă khởi xướng những cuộc thảo luận về vấn đề cần phải giảm dần những can thiệp quân sự và từ từ rút ra khỏi Việt Nam. Từ trước tới nay, cả chánh quyền của ông Thiệu, ông Kỳ lẫn chánh quyền của bác sĩ Quát đều cho rằng Hoa Kỳ biết rất rơ những chính sách của họ và đang hoạch định kế hoạch để chu toàn mục đích. Dĩ nhiên đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm. Quan niệm này đă trở thành yếu tố nổi bật trong mối bang giao giữa hai quốc gia và dần dà chuyễn thành một yếu tố chủ chốt dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại đối với chiến cuộc.

Trong khi đó, quân đội Hoa Kỳ đă thực sự thay đổi tất cả bộ mặt cuộc chiến Việt Nam. Trong những ngày cuối tháng 7, chúng tôi biết rằng sư đoàn không lực 173 của Hoa Kỳ đă tấn công vào những căn cứ của Việt Cộng ở chiến khu Đ, một vùng rừng núi rậm rạp phía Tây Bắc, Sài G̣n. Đây là cuộc tấn công đầu tiên của các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ. Ngoài ra c̣n một vấn đề khác quan trọng không kém là cuộc tấn công đă được những phi đoàn B-52 cất cánh từ Guam oanh tạc trước dọn đường. Những quyết định quan trọng về việc Hoa Kỳ đổ quân trong nhiều tháng trước giờ đây đang được thi hành. Nếu nh́n từ một phương vị nào đó th́ những hoạt động tấn công có vẻ thiếu phần hứng khởi. Những đội quân Hoa Kỳ rất ít khi có dịp đụng độ với đối phương. Hơn nữa, v́ chiến khu Đ chỉ là nơi dân cư thưa thớt nên chẳng ai để ư đến những cuộc oanh tạc chiến lược khổng lồ. Tuy vậy, một khi đă biết về những hoạt động của Hoa Kỳ th́ tất cả Miền Nam đều cảm thấy vững tâm. Chiến dịch oanh tạc cho thấy đồng minh Hoa Kỳ đă chánh thức tham dự chiến cuộc và chúng tôi có thể tin tưởng vào họ. Sự vững tâm đă làm trôi tất cả mọi e dè về việc cho phép người Ngoại Quốc đổ quân vào Việt Nam. Chiến dịch oanh tạc đă phá tan những viễn tượng đe dọa thất bại quân sự do các cuộc tấn công lớn rộng và ráo riết của Bắc Việt trước đây.

Mặt khác, các vấn đề khó khăn đi đôi với việc đổ quân Hoa Kỳ bắt đầu xuất hiện. Những đồ tiếp tế và vật dụng lũ lượt đổ vào Việt Nam làm ứ nghẽn các hệ thống phân phối trong nước. Cảng Sài G̣n đầy dẫy những tàu đợi chờ rỡ hàng trong khi các thuyền trưởng xôn xao tranh căi về quyền ưu tiên. Những công tŕnh xây cất vĩ đại dường như mọc ra khắp nơi đi liền với những khó khăn không thể nào tránh được chẳng hạn như vấn đề khó khăn luật pháp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam khi cùng hợp tác.

Trong hạ tuần tháng 7, trong khung cảnh những hoạt động nhộn nhịp để sửa soạn cho chiến tranh th́ có tin rằng Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara sẽ ghé Sài G̣n vào ngày 16. Để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng, ông Kỳ nhờ tôi soạn thảo một bản ghi chú bao gồm những câu hỏi cần thiết để ông có thể đưa ra khi gặp Bộ Trưởng McNamara. Đây là một công việc tôi chú hết tâm sức để làm ngay. Theo tôi th́ Bộ Trưởng McNamara là một trong những ngôi sao sáng của chánh phủ Hoa Kỳ. Ông có lẽ là cố vấn quan trọng nhất của tổng thống Johnson. Khi suy nghĩ đến bộ trưởng McNamara và những ấn tượng sắp đến của ông về chúng tôi, tôi cảm thấy hơi căng thẳng. Chuyến thăm viếng của bộ trưởng McNamara là một dịp quan trọng để ông Kỳ có thể xem xét toàn thể chánh sách chiến lược của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam. Đương nhiên chúng tôi biết rơ rằng lúc này đang có gần 80,000 binh sĩ Hoa Kỳ đóng tại Việt Nam và ít nhất th́ Hoa Kỳ cũng đang ḍ dẫm thử nghiệm các chiến thuật tấn công. Nhưng thực sự mục đích quân sự của họ là ǵ? Họ muốn chiếm được những ǵ và họ có thể hài ḷng khi đoạt được những kết quả nào? Họ toan tính chiến lược ra sao? Rút tỉa từ những kinh nghiệm từ tháng 3 và tháng 4 -Từ cuộc đổ quân gia tăng tiếp liền sau đó- Tôi đă soạn thảo một bản ghi chú cho ông Kỳ vào ngày 14, bao gồm những câu hỏi về chính sách như sau: * Mục đích chung của Hoa Kỳ về cuộc chiến là ǵ: Thắng lợi quân sự? Đốc thúc đàm phán? * Nếu là đốc thúc đàm phán th́ cương vị và mục đích của cuộc đàm phán là ǵ? * Nếu mục đích là thắng lợi quân sự th́ thắng lợi này được định nghĩa ra sao? Chánh thức bắt Việt Cộng đầu hàng? Chánh thức bắt Miền Bắc phải đầu hàng? Tấn công chiếm Miền Bắc? Hay chỉ ngăn chận những cuộc xâm lăng của Việt Cộng và Miền Bắc? * Mục đích của Hoa Kỳ về vấn đề chỉ huy quân sự hỗn hợp hoặc chỉ huy quân đội hợp nhất là ǵ? * Hoa Kỳ sẽ đổ bao nhiêu quân vào Việt Nam? Thời hạn chiếm đóng là bao lâu?

Những câu hỏi trên và những câu hỏi khác liên quan đến vấn đề liên hệ tới những dự định của Hoa Kỳ, nhất là những dự định có ảnh hưởng đến những biến chuyển kinh tế và chính trị Việt Nam ra sao được soạn thảo nhằm mục đích tạo dịp cho ông Kỳ có thể duyệt xét một cách tổng quát t́nh h́nh chung với vị Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ. Nếu nh́n bằng quan điểm lịch sử th́ có lẽ điểm ly kỳ nhất là chính những câu hỏi mà tôi soạn thảo cho ông Kỳ đă tự diễn tả rơ rệt chiều hướng chính của những nỗ lực quân sự liên hiệp. Vào mùa hạ năm 1965, Việt Nam hoàn toàn mù tịt về những chiều hướng này. Tôi đề nghị ông Kỳ nên thúc dục mạnh mẽ để t́m những câu trả lời mà tôi cho là tối cần thiết trong việc hoạch định đường hướng cho những hoạt động của chúng tôi lúc bấy giờ.

Trong chuyến viếng thăm, Bộ Trưởng McNamara đă sang Sài G̣n cùng ông Henry Cabot Lodge, vị đại sứ mới đến để thay thế đại sứ Taylor. Chúng tôi đă biết ông Lodge từ khi ông bắt đầu cầm quyền tại Sài G̣n vào năm 1963-1964. Bộ Trưởng McNamara cũng đă từng đến Việt Nam năm 1964 khi tổng thống Johnson yêu cầu ông cùng vận động với tướng Khánh. Tuy vậy, vào lúc này uy danh của Bộ Trưởng McNamara đă lừng lẫy đến độ gần như khuất lấp cả con người ông. Ông nổi tiếng là người thông minh xuất chúng với một bộ óc gần như bộ óc của máy điện toán và được xem là nhân vật có ảnh hưởng nhất trong chánh quyền Hoa Kỳ. V́ vậy, lúc đến văn pḥng ông Kỳ để bàn bạc, tôi đă ra công chuẩn bị, tiên liệu rất nhiều.

Khi cuộc họp với phái đoàn Hoa Kỳ bắt đầu, chúng tôi ngồi thành hai phía đối diện: Bên Hoa Kỳ là Bộ Trưởng McNamara, Phó đại sứ Alexis Johnson, ông Lodge và các viên chức phụ tá khác. Phía Việt Nam là ông Kỳ, ông Thiệu, tôi và những tư lệnh quân sự. Tôi được xếp ngồi ở một vị trí thuận lợi để có thể đưa những bản ghi chú cho ông Kỳ khi cuộc họp tiếp diễn.

Tuy vừa mới trải qua một cuộc hành tŕnh dài mà tổng trưởng McNamara dường như vẫn vô cùng sáng suốt. Mới mở màn ông đă chuyển trọng tâm cuộc họp cuộc họp về những điều chính do ông soạn thảo. Những lập luận của tổng trưởng McNamara vừa thân thiện lại vừa rất chính xác. Khi cuộc họp bắt đầu kéo dài, ông luôn luôn ghi chép vào những tờ giấy ghi chú vàng nho nhỏ. Ông đă đưa ra hàng loạt câu hỏi về những con số, tổ chức, chánh trị, quân nhu, quân cụ... như thể ông đang cố thâu thập dữ kiện và yếu tố cho một phương tŕnh toán học khổng lồ. Hiển nhiên v́ đắm ch́m trong những suy nghĩ riêng tư, bộ trưởng McNamara chẳng hề để ư ǵ đến những người xung quanh. Theo tôi thấy th́ dường như ông không hề cảm thấy cần phải lượng định nhân vật đang ngồi đối diện thẳng với ông là ông Nguyễn Cao Kỳ. Tôi tự hỏi phải chăng ông Kỳ đối với ông cũng chẳng có ǵ khác lạ?

Khi cuộc họp kết thúc, tuy đă có đề cập đại cương đến các kế hoạch pḥng vệ, xây dựng nông thôn, tuy đă có khẳng định phần nào rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giúp đỡ, tổng trưởng McNamara vẫn không đả động ǵ đến những câu hỏi tôi đă ra công soạn thảo. Có lẽ ông Kỳ c̣n quá nhút nhát và thiếu kinh nghiệm về cách đưa ra câu hỏi. Theo như diễn biến th́ có lẽ bộ trưởng McNamara và phái đoàn của ông chỉ có ư muốn thâu thập dữ kiện hơn là tŕnh bày rơ hơn về những chánh sách và kế hoạch của họ. Sau buổi họp, tôi đă đề nghị rằng ông Kỳ nên gặp riêng Bộ Trưởng McNamara để khung cảnh nói chuyện được thuận lợi hơn. Tuy ông Kỳ có ngồi lại với Bộ Trưởng McNamara, những câu hỏi trong bản ghi chú của tôi vẫn chẳng có giải đáp nào rơ rệt cả. Khi Bộ Trưởng McNamara rời Việt Nam, chúng tôi gần như chẳng biết ǵ hơn thêm trước khi ông đến.

Tuy vậy, sau này chúng tôi được biết thêm rằng ngay khi ông c̣n ở Việt Nam, Bộ Trưởng McNamara đă nhận được một bức điện tín do phụ tá của ông là ông Cyrus Vance từ Hoa Thịnh Đốn gửi sang, báo rằng Tổng Thống Johnson đă đồng ư thỏa thuận lời yêu cầu của tướng Westmoreland về vấn đề nâng quân số lên đến 125,000. Vào ngày 28 tháng 7, trong một cuộc họp báo tại ṭa Bạch Ốc, Tổng Thống Hoa Kỳ thông báo quyết định gia tăng quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam. Và Đây cũng là một h́nh thức thông báo chánh thức đối với chúng tôi.

19. Con Đường Dẫn Đến Hiến Pháp

Ngày 28 tháng 7, tổng thống Johnson mở cuộc họp báo. Đúng hai ngày sau th́ Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu đổ quân với số quân 193,300. Con số yêu cầu vượt quá con số tổng thống đă đồng ư hồi tháng 4 gần 70,000. Chẳng bao lâu sau, lời yêu cầu này lại được chấp thuận. Thế là đà đổ quân ào ạt như thác tích tụ từ tháng 2 không c̣n chuyển hướng được nữa. Kể từ lúc này, tại Hoa Thịnh Đốn, cuộc xung đột dữ dội giữa phe chủ trương ôn ḥa và phe chủ trương trực tiếp can thiệp đă bắt đầu ngă ngũ. Trong cuộc xung đột ư kiến đó, những người ủng hộ chính sách "ḥa hoăn, trung dung" và "từng bước thận trọng" ở Hoa Thịnh Đốn đă hoàn toàn rớt vào thế hạ phong.

Khi nh́n lại vấn đề lúc đó th́ quả thật những quyết định đổ quân của Hoa Kỳ cũng không lấy ǵ làm khó hiểu. Vào tháng 6, Hoa Kỳ đă bắt đầu thất vọng. Họ đă đầu tư rất nhiều vào Việt Nam và vào rồi khi những khó khăn chính trị vừa mới được giải quyết th́ những khó khăn khác lại bùng ra. Chánh phủ mới của những "Tướng Trẻ" lại xuất hiện. Đây là một chánh phủ của những người không có ǵ bảo đảm cả. Sau này, ông Bill Bundy đă nhận xét rằng: "T́nh thế thật là đen tối và ảm đạm. Nếu vấn đề [Việt Nam] lúc này đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ một đồng minh mà thôi, th́ tôi cam đoan Hoa Kỳ sẽ rút lui v́ cho rằng họ 'đă chịu đựng hết sức rồi.'" Tuy thế những cân nhắc về vấn đề chiến lược đă loại bỏ cách lựa chọn này. Về sau Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNaughton có cho tôi biết rằng khi Hoa Kỳ quyết định can thiệp vào Việt Nam th́ 90% của quyết định đó được đặt căn bản trên vấn đề chiến lược. Nếu quả thật 90% của quyết định can thiệp được đặt trên vấn đề chiến lược của Hoa Kỳ th́ rơ ràng là chiến cuộc Việt Nam đă chuyển thành một vấn đề của riêng Hoa Kỳ.

Vào tháng 7, chánh phủ Sài G̣n đă đóng một vai tṛ gần như thụ động trong những biến động đổ quân lớn lao. Hoa Kỳ mang quân ồ ạt vào Việt Nam như thể vào chỗ không người. (Vào lúc sau này ông Dean Rusk nói với tôi: "Hễ chúng tôi muốn làm điều ǵ, chắc chắn chúng tôi sẽ làm được điều đó!"), và Việt Nam đă để Hoa Kỳ mặc nhiên d́u dắt không một lời phản kháng. Đến sau tháng 7 năm 1965 th́ những cuộc đổ quân của Hoa Kỳ đă ồ ạt và nhanh chóng đến mức chẳng ai c̣n đủ thời giờ để đặt vấn đề hoặc suy nghĩ sâu xa ǵ thêm.

Cuộc biểu dương lực lượng của một cường quốc lớn nhất thế giới quả là một khung cảnh đặc biệt gây nhiều ấn tượng cho người mục kích. Cảnh tượng đổ quân đă khiến Việt Nam hoàn toàn vững tâm. Mới vài tuần trước đây th́ cuộc tấn công phối hợp của Việt Cộng và quân đội chính qui Bắc Việt vào lúc giao mùa Xuân Hạ vẫn c̣n đe dọa. Nhưng giờ đây, trước ấn tượng của cuộc đổ quân, những lo âu đó bỗng nhiên tan biến. Một cảm giác tự tin mới mẻ khác thường th́nh ĺnh bùng ra và rồi đất nước lại chuyển ḿnh để đối phó với những khó khăn khi phải tiếp nhận cuộc đổ quân đó.

Những trại lính thiết lập bằng lều cho quân nhân Hoa Kỳ mọc ra khắp nơi chẳng khác ǵ những khu phố nhỏ. Xung quanh những khu trại là những người Việt Nam trong giới kinh doanh và tiểu thương cạnh tranh lẫn nhau lập những dịch vụ thương măi và lợi dụng hàng ngàn cơ hội do t́nh h́nh đưa đến. Công tŕnh xây cất bùng ra khắp nơi. Dường như Hoa Kỳ muốn làm tất cả cùng một lúc. -Nhà kho, trại, đường, cầu, băi đáp trực thăng, hải cảng, phi trường. Họ muốn thay đổi cả bộ mặt Việt Nam. Các công ty thầu khoán Hoa Kỳ đến Việt Nam giữa lúc quân đội Hoa Kỳ đổ quân đă tuyển mộ một lúc cả hàng ngàn nhân công, thu hút hết tất cả năng lực của giới lao động. Xe cộ lũ lượt như thắt nút trên đường phố, đĩ điếm tràn ngập ở khắp mọi nơi. Phi cơ vận tải và phản lực cơ chiến đấu rầm rĩ đáp xuống phi trường với một nhịp độ đinh tai nhức óc.

Mâu thuẫn thay, nếu tất cả những hoạt động náo nhiệt đă làm phấn khởi toàn dân Sài G̣n th́ chính những hành động này cũng là những hành động đă chuyển hướng nh́n của họ ra khỏi khung cảnh chiến cuộc. Ngoại trừ những tiếng phản lực tại phi trường Tân Sơn Nhất và những binh lính mang đồng phục xanh ngoài đường phố, không c̣n dấu hiệu nào khác có thể chứng tỏ rằng Việt Nam đang giữa lúc chiến tranh. Sài G̣n lúc này giống như một thành phố đang tràn ngập các vật dụng trợ cấp và đang mất phần chủ động. Những dự tŕnh xây cất liên tục c̣n được tăng cường thêm bằng những chuyến hàng hóa ồ ạt, trong số có nhiều thứ mà người dân Sài G̣n chưa hề thấy qua bao giờ. Họ nh́n những kho hàng PX khổng lồ chứa đầy những vật liệu mà họ chưa hiểu cả cách dùng và rồi tự hỏi không hiểu đây là những quân đội thế nào mà lại có thể kéo theo những thứ xa hoa đến vậy? Dĩ nhiên người dân vẫn được nhắc nhở về chiến cuộc. -Bằng những bảng cáo phó đóng khung viền đen đăng tải thường xuyên trên báo chí và bằng những đám tang thỉnh thoảng lại diễn hành quanh co trên những nẻo đường lưu thông của phố thị. Nhưng chẳng hiểu bằng cách nào đó, người ta vẫn có cảm tưởng rằng chẳng có sự liên hệ nào giữa những cuộc đụng độ dữ dội ở nông thôn và những đời sống thịnh vượng tại thủ đô thành thị.

Trong khung cảnh đó, có lẽ chánh phủ Sài G̣n đă được hưởng lợi lộc nhiều nhất. Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều cảm thấy vững tâm ẩn sau tấm khiên chống đỡ của Hoa Kỳ. Khi nh́n thấy tương lai trước mặt, họ cảm thấy phấn khởi và vô cùng tự tin. Đây là lần đầu tiên họ cảm thấy chánh phủ của họ thật là vững chăi. Ông Thiệu và ông Kỳ nguyên là những nhân vật lănh đaọ đứng trong một chính thể bấp bênh. Trong ṿng chỉ mới hai năm chính thể này đă sáu lần thay đổi chính phủ. Thế mà giờ đây họ lại biến thành những người lănh đạo đă giải tỏa được những khó khăn quân sự và có uy tín đối với quốc tế. Bỗng dưng họ trở nên có uy tín đối với quốc dân, bỗng dưng họ trở thành những người có thể nh́n thấy tương lai Việt Nam qua những cuộc viện trợ binh nhu của Hoa Kỳ.

Nhờ vào những thời gian rảnh tay hiện tại, khi các lực lượng quân sự của Việt Cộng đang bị đẩy lui, ông Thiệu và ông Kỳ bắt đầu bắt tay vào một chương tŕnh tăng cường và cải tổ các lực lượng quân đội Việt Nam. Những viện trợ về khí cụ và tài chánh đă đưa đến việc thiết lập những trung tâm đào tạo khổng lồ tại Nha Trang và Vũng Tàu. Những trung tâm này đă tuyển mộ hàng ngàn người để huấn luyện. Quân đội Việt Nam bắt đầu tiến tới một quân số gần bằng quân số Bắc Việt.

Trong khi đó, Hoa Kỳ tự đảm nhận lấy tất cả các trách nhiệm điều hành trận chiến. Họ tuần tự đổ quân và phối trí các lực lượng, tấn công vào các lực lượng chính qui của Cộng Sản và dành cho quân đội Việt Nam nhiệm vụ b́nh định và xây dựng lại nông thôn. Trong nhiều trận đụng độ lớn, các lực lượng Hoa Kỳ đă cắt tỉa các lực lượng Việt Cộng, buộc đối phương phải chuyển đổi chiến lược và rút lui về quanh biên giới Cam Bốt và những vùng rừng già rậm rạp, hiểm trở. Tướng Westmoreland, tổng tư lệnh chiến trường Hoa Kỳ đă soạn thảo một chiến thuật gồm ba điểm "truy nă, tiểu trừ" rồi "quét sạch, giữ vững" và cuối cùng là "b́nh định nông thôn," nhằm mục đích dành cho quân đội Sài G̣n cơ hội thiết lập chánh quyền địa phương cho những khu vực an toàn.

Nếu đứng trên quan điểm chiến thuật mà luận th́ gần như mọi hoạt động trong giai đoạn đầu do những vị tư lệnh cao cấp Hoa Kỳ chủ trương có thể được coi là chiến thắng. Họ đụng độ, gây thương vong và buộc địch quân phải rút lui về căn cứ. Tuy nhiên những thành công này vẫn chưa phải toàn diện. Thường thường, những đội quân chính qui của địch quân vẫn tránh né được những cuộc đụng độ và ngay cả khi phải thực sự đụng độ, những đội quân Bắc Việt vẫn có một khả năng lẩn tránh hữu hiệu. Hơn nữa, v́ chính sách của Hoa Kỳ không cho phép quân đội Hoa Kỳ hoạt động ngoài ranh giới Việt Nam nên quân đội của tướng Westmoreland bị cấm không được phép truy kích vào những căn cứ của quân đội Bắc Việt tại Lào và Cam Bốt. Đây là những nơi các đội quân Bắc Việt có thể nghỉ ngơi, tụ họp lại và nhận thêm tăng cường từ Miền Bắc.

V́ vậy, tính cách lưu động và hỏa lực khổng lồ của quân đội Hoa Kỳ chưa bao giờ nắm phần quyết định chủ chốt. V́ quân đội Bắc Việt vẫn có thể vượt khỏi tầm phát hiện, vẫn có thể tản mác vào rừng rậm, vẫn c̣n có những căn cứ bất khả xâm phạm dọc theo biên giới nên chính họ -chứ không phải là những người Hoa Kỳ- mới là những người có khả năng điều khiển nhịp độ và cường độ của những cuộc chiến tranh. Đối với Cộng Sản th́ cả bán đảo Đông Dương đều là chiến trận, trong khi các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ chỉ được phép loay hoay trong phạm vi Miền Nam Việt Nam.

Nhược điểm lớn lao và tự tạo của Hoa Kỳ đă cho phép kẻ thù giữ thế tiên cơ chiến lược. Nh́n lại 20 năm vừa qua, những chiến lược gia Hoa Kỳ hiện thời cho rằng vào năm 1965 quân đội Hoa Kỳ không nên đổ hàng trăm ngàn quân vào Việt Nam để chiếm lấy chiến trường. Thay vào đó, theo ư những người như đại tá Harry Summers, tác giả quyển Chiến Lược Luận (On Strategy), một tác phẩm được xem như một công tŕnh nghiên cứu chiến tranh th́ những lực lượng Hoa Kỳ nên giới hạn tầm hoạt động của họ trong phạm vi giúp đỡ Việt Nam trước hết trong việc ổn định quân sự và rồi sau đó trong việc thiết lập một hàng rào hữu hiệu để cắt đứt những cuộc đổ quân và khí cụ từ Miền Bắc vào.

Những cách làm việc quyết đoán của Hoa Kỳ đă khiến các tư lệnh cao cấp Việt Nam vô cùng hoài nghi. Nhưng trên lănh vực này, cũng hệt như trên mặt trận chính trị, người Việt Nam hoàn toàn chẳng làm ǵ cả, hoặc nói đúng hơn th́ chẳng thể làm ǵ cả. Riêng về phía Việt Nam th́ tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, là một trong những người độc nhất ủng hộ việc chặt đứt đường ṃn Hồ Chí Minh. Vốn là người có kinh nghiệm đă tham gia các hoạt động tại Lào trong chiến tranh Pháp, ông đă hiểu tường tận các lực lượng Cộng Sản có thể lợi dụng những căn cứ địa hữu hiệu đến mức độ nào. Sau cuộc chiến tôi hỏi tướng Viên tại sao những viên chức quân sự Việt Nam không đẩy mạnh quan điểm của họ với Hoa Kỳ? Câu trả lời của ông đă phản ảnh rơ rệt sự suy nghĩ của các tư lệnh Việt Nam lúc đó. Tướng Viên trả lời rằng: "Chúng tôi không đủ sức mạnh để có thể tự ḿnh quét sạch các căn cứ địa và lời nói của chúng tôi dĩ nhiên chẳng hề có chút ảnh hưởng nào vào việc điều động các lực lượng Hoa Kỳ." Đă vậy, chúng tôi c̣n lệ thuộc nặng nề vào Hoa Kỳ trên mọi phương diện. Ư kiến của chúng tôi đối với Hoa Kỳ gần như không đáng kể."

Thật ra th́ mặc dù cuộc chiến là cuộc chiến của chính chúng tôi và đất nước là đất nước của chính chúng tôi mà khi đất nước lâm vào ṿng nguy hiểm th́ chúng tôi chỉ được phép đóng một vai tṛ thụ động nhỏ nhoi đến nỗi tiếng nói của chúng tôi hoàn toàn vô hiệu lực. Dĩ nhiên, một trong những lư do khiến vấn đề này có thể xảy ra là do mặc cảm của chúng tôi với đồng minh. Một lư do khác nữa là do chúng tôi đă tin tưởng vào Hoa Kỳ một cách mù quáng. Lúc nào chúng tôi cũng cho rằng dù chánh sách của Hoa Kỳ có thế nào chăng nữa th́ khi nh́n từ phương vị toàn cuộc, những kế hoạch thực thi nhất định cũng sẽ ăn khớp khít khao. Đối với chúng tôi th́ Hoa Kỳ nắm giữ những tài nguyên và uy quyền to lớn đến mức họ có thể làm bất cứ điều ǵ họ muốn. Bất chấp mọi sự, chúng tôi tin rằng họ sẽ thành công.

Sự thật th́ tuy chiến thuật của tướng Westmoreland có bị hoài nghi, nhưng chiến thuật đó vẫn mang lại chút ít thành công. Cứ mỗi khi bị buộc phải đụng trận, địch quân lại bị tổn thất nặng nề và bị buộc phải tháo lui. Diễn biến này cho phép chúng tôi có được những giây phút quư giá để tăng cường các lực lượng và mở rộng ảnh hưởng của chánh phủ Việt Nam vào những vùng ngoài tầm với trước đây. Tầm mức hiệu quả tuy không lớn lao nhưng thật là đều đặn. Và khi t́nh h́nh quân sự đă khả quan hơn th́ t́nh h́nh chính trị cũng chuyển hướng khả quan theo. Đúng vào giữa lúc t́nh h́nh khả quan và đă có một vài thành công rơ rệt th́ Tổng Thống Johnson quyết định mời các tướng Thiệu, Kỳ đến tham dự một cuộc họp thượng đỉnh ở Honolulu. Đây là cuộc họp đầu tiên giữa những vị lănh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam. Lúc đó các cơ quan ngôn luận và giới báo chí đă tỏ vẻ nghi ngờ thiện chí của chánh phủ Hoa Kỳ. Nhiều cơ quan ngôn luận Hoa Kỳ cho rằng cuộc họp thượng đỉnh chỉ là một ngón đ̣n của tổng thống Johnson nhằm đánh lạc hướng và khiến dân chúng ít chú tâm đến cuộc hội thảo sắp được truyền h́nh của Ủy Ban Ngoại Giao ở Thượng viện Hoa Kỳ. Ủy Ban Ngoại Giao nguyên là một ủy ban có tầm ảnh hưởng rất rộng lớn do Thượng Nghị Sĩ phản chiến William Fullbright lănh đạo. Những thông báo về cuộc họp thượng đỉnh được chánh phủ Johnson đưa ra chỉ vẻn vẹn một tuần trước khi buổi hội thảo bắt đầu đă cho thấy đây là một sự ngẫu nhiên đáng ngờ. Nhưng dù là do động lực nào thúc đẩy đi chăng nữa th́ đối với chánh quyền Sài G̣n và nhất là đối với hai ông Thiệu, Kỳ có lẽ thời điểm của cuộc họp thượng đỉnh chẳng thể đến vào một thời điểm nào khác tốt hơn được.

Vào tháng 2, năm 1966, ông Nguyễn Văn Thiệu và ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ mới nắm quyền có 6 tháng. Trước sáu tháng này vẫn chưa ai biết rơ về họ. Họ nguyên là những lănh đạo của nhóm Tướng Trẻ và là những người đă đóng góp một phần vào việc đẩy tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chính trường. Rồi sau đó họ lại là người thừa hưởng chính quyền từ chính phủ dân sự của bác sĩ Phan Huy Quát. Mặc dù ông Thiệu và ông Kỳ đă có một số uy tín quân sự, nhưng họ vẫn chưa chứng tỏ được khả năng lănh đạo chính trị. Vậy mà chỉ mới sau nửa năm nắm chính quyền, họ đă thành công đáng kể, nhất là trong việc củng cố vững mạnh quân đội và thiết lập những chương tŕnh b́nh định nông thôn. Hơn nữa, vào lúc này tuy các đoàn thể chánh trị và tôn giáo vẫn chưa bỏ hẳn những ư định chống đối nhưng ít ra họ cũng không c̣n biểu t́nh ngoài đường phố hoặc tổ chức bạo động để chống chánh phủ. Đối với Việt Nam th́ đây quả là một thành công đáng kể. Kết quả là sự nghiệp của ông Thiệu và ông Kỳ bỗng tiến sang một bước ngoặt mới. Họ là những tướng lănh nhà binh đang trở thành những nhân vật lănh đạo chính trị chánh thức. Bởi vậy, cuộc họp thượng đỉnh đối với họ thật sự là một biến cố quan trọng đặc biệt. Cuộc họp đă khiến hai ông Thiệu, Kỳ có cơ hội trực tiếp t́m hiểu ư muốn của Hoa Kỳ qua giới lănh đạo cao nhất. Đây là một cơ hội hiếm hoi từ trước đến nay Việt Nam vẫn chưa bao giờ có được. Cuộc họp thượng đỉnh đă khiến cương vị của hai ông Thiệu, Kỳ trở nên vững vàng. Chính cuộc họp cũng đă góp phần tạo nên h́nh ảnh của họ như những nhân vật lănh đạo của đất nước.

Dĩ nhiên, phản ứng của họ đối với biến chuyển này hoàn toàn khác biệt. Mặc dù từ trước đến nay, ông Thiệu và ông Kỳ vẫn là hai người thông minh và xuất sắc nhất trong nhóm các tướng trẻ, họ vẫn gần như hai nhân vật không có điểm ǵ chung. Vào năm 1966 th́ ông Thiệu, người Nam, mới có 42 tuổi và ông Kỳ, người Bắc, mới có 35 tuổi. Họ đă không phải là bạn cùng học lại cũng chẳng phải là bạn thân thiết với nhau. Từ nhân cách, tính t́nh cho đến cách suy luận vấn đề, họ đều hoàn toàn khác biệt. Những người Việt Nam thường kháo nhau rằng: Nếu có thể bỏ hai ông Thiệu, Kỳ vào cái cối mà giă th́ có lẽ chất hỗn hợp này sẽ hoàn hảo hơn tính t́nh riêng của hai người cộng lại rất nhiều.

V́ bị buộc phải đấu lưng hợp sức, chánh phủ của hai ông Thiệu, Kỳ và các tướng tá đồng nghiệp đă thiếu luật bầu cử mà lại cũng chẳng có hiến pháp. Trong chánh phủ th́ ông Kỳ đóng một vai tṛ nổi bật. Ông là thủ tướng, người đứng đầu Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và là người điều hành công việc hàng ngày trong nước. Tuy vậy, quyền lực thật sự lại thuộc về một nhóm quân sự gọi là Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia do ông Thiệu làm chủ tịch.

Vốn là người trầm lặng và từng trải hơn ông Kỳ, ông Thiệu đă phục vụ lâu năm hơn và có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn. V́ đă mục kích nhiều cuộc thay đổi chính phủ, ông Thiệu cảm thấy rơ ràng hơn ông Kỳ những nguy hiểm của một cương vị nổi bật quá sớm khi t́nh h́nh chưa được hoàn toàn ổn định. Ngược lại, ông Kỳ lại thiếu thận trọng. Ông không chút e dè khi thu hút tất cả những sự chú tâm về phía ḿnh. Chẳng hạn như việc ông Kỳ đă đi làm bằng trực thăng, mặc dù chỉ sống cách Phủ Thủ Tướng có 3 ki-lô-mét. Mỗi sáng khi ông đến th́ cả Phủ Thủ Tướng đều bị chấn động v́ tiếng trực thăng. Đến nơi ông Kỳ lập tức nói chuyện ngay với bất kỳ nhà báo nào đang có mặt tại đó, không hề sửa soạn ǵ trước. Trong khi ông Kỳ điều hành chánh phủ và được đa số quần chúng chú tâm th́ ông Thiệu lại vận động ở hậu trường, củng cố thực quyền và nỗ lực cố đem những ảnh hưởng của ḿnh vào việc hoạch định chính sách. Việc liên minh giữa ông Thiệu và ông Kỳ đă hẳn chỉ là một việc liên minh tạm thời. Ngay từ lúc đầu, họ đă xem nhau như đối thủ và luôn luôn vận động để tranh đoạt ngôi thứ. Tuy vậy, khi tranh ngôi đoạt thứ, họ cũng ngấm ngầm đồng ư rằng ngày nào chiến cuộc c̣n khốc liệt th́ ngày đó họ c̣n cần phải cùng nhau giữ vững chính phủ. Đối với cả hai nhân vật vừa mới bước chân vào cương vị lănh đạo th́ Honolulu là một biến cố trọng đại. Vào ngày nhận được giấy mời, họ đă huy động toàn thể chánh quyền để chuẩn bị cho cuộc họp. Bộ Tổng Tham Mưu được ủy nhiệm phân tích t́nh h́nh quân đội và liệt kê những nhu cầu cấp thiết cần viện trợ. Tướng Nguyễn Đức Thắng, Bộ Trưởng đặc trách xây dựng nông thôn, được lệnh thảo một bản báo cáo tường tận về những chương tŕnh b́nh định nông thôn. Riêng tôi phải lao ḿnh vào việc xếp đặt toàn thể chương tŕnh. Khó khăn hơn nữa, tôi c̣n được ủy nhiệm thảo một bản diễn văn chánh thức để Thủ Tuớng Kỳ đọc tại hội nghị thượng đỉnh.

Trong một thời gian ngắn ngủi, và đang trong hoàn cảnh phải xếp đặt những việc cần phải làm khác th́ việc soạn diễn văn cho ông Kỳ quả là một thử thách lớn lao. Tuy thế, tôi vẫn cho đây là một cơ hội. Lúc này, tôi đă hoàn toàn ḥa ḿnh vào làm việc với một chánh phủ quân nhân. Trong những tháng vừa qua, tôi đă nhận thấy ông Thiệu và ông Kỳ có lẽ là những người có thiện chí. Tuy có đố kỵ và theo đuổi những tham vọng cá nhân, họ vẫn chưa tệ đến nỗi quên cả chánh phủ. Hơn nữa, nhờ có Hoa Kỳ can thiệp, họ đang thành công rực rỡ. Lúc này, họ đang lợi dụng cơ hội. Nhất là những cơ hội để củng cố quân đội quốc gia.

Tuy nhiên, mặc dù đang có nhiều lợi điểm, chánh phủ vẫn thiếu một đường hướng chính trị rơ rệt. Họ vốn là những quân nhân chưa hề suy nghĩ sâu xa về các vấn đề chính trị hoặc xă hội. Nhưng theo tôi thấy th́ họ cũng rất cởi mở và ít nhất là ở một mức độ nào đó, họ cũng là những người c̣n có thể sửa đổi được. Và về riêng phương diện này th́ ông Kỳ có vẻ dễ dàng thay đổi hơn ông Thiệu. Thật sự th́ tôi đă âm thầm bắt đầu làm những việc trong phạm vi khả năng để chuyển hướng chú ư của ông Kỳ vào những quan niệm cải cách xă hội, kinh tế và những vấn đề của một chánh phủ hợp hiến. Tôi đă cố xoay chuyển sự chú tâm của ông về những vấn đề liên quan đến hoài băo của bác sĩ Quát và hoài băo của những người trong nhóm chúng tôi trong suốt gần hai thập niên khi trước. Trong những bài diễn văn soạn thảo cho ông Kỳ, tôi đă nhấn mạnh những chủ đề như cố mang lại công bằng trong xă hội, cố tạo ra những cơ hội phát triển giáo dục, kinh tế, tự do tín ngưỡng và các quyền lợi bất khả xâm phạm của người dân. Tôi cũng đă mạnh dạn đưa ra vấn đề cần phải chuyển hướng chánh phủ để dẫn đến một chánh phủ dân chủ hợp hiến. Đứng vào cương vị của một người soạn thảo diễn văn, tôi đă cố không che đậy những sự thật ác nghiệt rằng chế độ Việt Nam lúc này là một chế độ chưa được gọi là dân chủ. Tôi đă cố không phủ nhận rằng cải cách đang ở một mức độ quá chậm và những căn bệnh quá khứ quả đă gần như nan y. Nhưng theo như một trong những lời viết của bài diễn văn th́ tiền đề quan trọng hơn cả là: "[Chúng tôi đă] có một mục tiêu xứng đáng để tranh đấu không những chỉ để chống lại Cộng Sản mà c̣n để phát triển một quốc gia yêu chuộng tự do cá nhân và đang ở vào một t́nh trạng đang cần phải cải tiến."

Đối với tôi th́ đây không phải chỉ là vấn đề ngôn từ mà chính là những mục tiêu thực thụ cần phải đạt được nếu Việt Nam muốn có những nỗ lực đoàn kết cần thiết để chống cự lại cuộc tàn sát của các kẻ thù hung hiểm giáo điều. Phần lớn ư kiến của tôi vẫn chưa được chuyển thành những chương tŕnh có kế hoạch hẳn ḥi, nhưng đây chẳng qua chỉ v́ ông Thiệu và ông Kỳ cũng vừa mới bắt đầu chú tâm đến các vấn đề mà thôi.

Lạ lùng thay, ông Kỳ lại có vẻ hưởng ứng những cuộc thảo luận về vấn đề cải cách. Có lẽ ở một mức độ nào đó, ông đă bị những quan niệm dân chủ ảnh hưởng. Tầm mức ảnh hưởng có lẽ vừa đủ để ông có thể đề cập thẳng thắn và tự dấn thân dần vào việc. Mỗi lần ông đưa vấn đề ra trước công luận là mỗi bước ông xa rời cương vị độc đoán và tiến gần đến những mục tiêu dân chủ hơn. Những ǵ ông đưa ra trước công luận không phải là những điều có thể dễ dàng rút lại hoặc có thể dễ dàng xem thường.

Trong t́nh trạng vừa kể, tôi bắt đầu thảo bài diễn văn mà ông Kỳ sẽ đọc tại Honolulu. Mặc dù ông Kỳ rất cởi mở với những quan niệm cách mạng xă hội, cả tôi lẫn các cộng sự viên của tôi đều không rơ ông sẽ vui ḷng tranh đấu đẩy mạnh việc thực thi những quan niệm đó đến mức độ nào với các tướng trẻ. Vả chăng nếu Việt Nam công khai hứa sẽ cải cách và công khai đưa ra một thời hạn nhất định với các nhà lănh đạo Hoa Kỳ tại cuộc họp thượng đỉnh th́ hẳn nhiên các biến chuyển về sau không dễ ǵ thay đổi được.

V́ trong tâm suy nghĩ như thế nên tôi đă thảo một bài diễn văn hết sức đầy đủ và thiết tha đưa vấn đề cải cách đi xa đến mức tột cùng cởi mở của ông Kỳ. Trong những vấn đề đưa ra, song song với vấn đề cần thiết phải đạt được chiến thắng trong chiến cuộc tôi cũng đề cập đến những lư tưởng xây dựng quốc gia, thiết lập hiến pháp và quay về với chánh phủ dân sự. Tôi đă ḥa hợp rất khéo những điều tôi muốn nói và những điều ông Kỳ nghĩ là ông có thể sẽ theo. Bài diễn văn vừa đưa ra những khuynh hướng mạnh dạn của ông Kỳ, vừa nêu lên tầm mức cần thiết của những dự định đă được đưa ra. Trong khi đó tôi cũng tránh liên lạc với những người trong nhóm ông Thiệu, những người mà tôi biết sẽ quan niệm lệch lạc khi nh́n thấy những hoạt động của tôi vào lúc này.

Nỗ lực của tôi quả thật mong manh vô độ. Trước đây, ông Thiệu đă nhiều lần xem xét cẩn thận những bài diễn văn tôi soạn thảo cho ông Kỳ. Vốn là người thận trọng, ông Thiệu lúc nào cũng tránh những việc hứa hẹn. Trước đây, trong những bài diễn văn tôi soạn, ông đă không hài ḷng với rất nhiều đoạn. Thường thường, phụ tá của ông gọi tôi để bàn luận nếu không về vấn đề này th́ cũng về vấn đề khác. Họ nêu rơ cả những thay đổi và những đoạn cần phải cắt bỏ. Những lúc như vậy tôi thường t́m đến ông Kỳ, nhờ ông thảo luận lại với ông Thiệu để chúng tôi có thể giữ được những điểm chính. Đôi khi ông Kỳ chấp nhận, có lúc ông chối từ, và một khi ông Kỳ đă khước từ th́ tôi đành phải nhượng bộ. Phần lớn những điều tôi đưa ra đều tùy thuộc vào những liên hệ phức tạp giữa ông Kỳ và ông Thiệu, v́ thế kết quả thường rất khó đoán. Nhưng kết cục th́ trong bài tŕnh bày ở Honolulu, những vấn đề mấu chốt chẳng hạn như vấn đề kinh tế và vấn đề cần phải có một chánh phủ dân sự đă được giữ lại y nguyên.

Ngoài những bản diễn văn, tôi c̣n sửa soạn thêm một bản ghi chú và đă liệt kê tất cả những câu hỏi quan trọng mà tôi nghĩ ông Kỳ nên đưa ra khi nói chuyện với Tổng Thống Johnson. Tương tự như bản ghi chú tôi đă viết cho chuyến thăm viếng Bộ Trưởng McNamara trước đây, bản ghi chú tôi viết cho ông Kỳ lại nhấn mạnh một lần nữa vấn đề chúng tôi cần phải hiểu rơ những chiến lược trường kỳ cũng như phải hiểu rơ những vấn đề Hoa Kỳ cho là hệ trọng. Nói chung th́ sau một tuần lễ tích cực chuẩn bị, tôi đă cảm thấy hài ḷng và tự tin rằng những nỗ lực của chúng tôi sẽ giúp Việt Nam ứng đối trôi chảy trong cuộc họp sắp đến tại Honolulu. Tôi cũng hài ḷng và hồi hộp v́ trong cuộc hội thảo chung bàn luận về những diễn tiến của cuộc họp thượng đỉnh , ṭa đại sứ Hoa Kỳ đă không làm áp lực ǵ mạnh với chúng tôi. Tôi đă cho cả hai người bạn thân tại ṭa đại sứ là ông Edward Lansdale và vị cố vấn chính trị mới là ông Philip Habib rơ về nội dung của những bài diễn văn. Tuy cả hai đều rất hài ḷng v́ những hứa hẹn dự định dân chủ của chúng tôi, họ vẫn có vẻ chú tâm vào các chương tŕnh b́nh định nông thôn. Họ khuyên rằng chúng tôi nên chuẩn bị kỹ lưỡng để đương đầu với các cơ quan báo chí quốc tế tại cuộc họp thượng đỉnh.

Giám đốc pḥng thông tin Hoa Kỳ là ông Barry Zorthian đă bỏ ra rất nhiều thời giờ bàn luận với tôi về cách chuẩn bị trả lời những câu hỏi của các phóng viên báo chí. Ông nhấn mạnh sự bạo dạn của họ khi săn tin và nhắc nhở chúng tôi phải chuẩn bị. Vấn đề phải hội kiến với toàn thể các cơ quan báo chí tại cuộc họp thượng đỉnh là một trong những điều làm tôi hồi hộp. Ngoài những trường hợp tiếp xúc cá nhân với riêng từng kư giả, từ trước tới nay tôi chưa hề phải đương đầu với các kư giả của Hoa Kỳ. Tôi vẫn chưa tin tưởng hoàn toàn vào khả năng Anh Ngữ của ḿnh. Khả năng Anh Ngữ của ông Kỳ lại c̣n tệ hơn. Tôi đă nhắc đi nhắc lại ông Kỳ rằng nếu bất cứ khi nào gặp khó khăn, ông nên hỏi để tôi có thể nhảy vào sửa chữa hoặc bổ sung chi tiết. Tuy thế, tôi biết ông Kỳ không hề sợ hăi. Nhất là đối với phóng viên báo chí th́ lúc nào ông cũng phát biểu thẳng thừng.

Vào ngày 6 tháng 2, chúng tôi rời sân bay Tân Sơn Nhất trên chiếc máy bay đặc biệt của Tổng Thống Johnson. Tất cả chúng tôi đều cùng nửa hồi hộp, nửa hy vọng. Cùng đi với chúng tôi là đại sứ Henry Cabot Lodge và những nhân viên của ṭa đại sứ. Chúng tôi cho đây là một cuộc hội kiến lịch sử. V́ là người mới bắt tay vào việc, tôi rất thán phục cách dự liệu kỹ lưỡng của Hoa Kỳ. Tôi c̣n hồi hộp hơn khi xem bản liệt kê danh sách những nhân vật trong phái đoàn Hoa Kỳ. Ngoài Tổng Thống Johnson, danh sách bao gồm cả Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara, các ông Rostow, Harriman, Wheeler và những nhân vật lừng danh khác. Đây là một cuộc hội tụ của gần hết những người mà về sau kư giả David Halberstam đă gọi là: Những nhân vật kiệt xuất và lừng danh nhất (The Best and The Brightest). Khi đọc qua tên tuổi các đại biểu Hoa Kỳ, bạn thân của tôi là Ngoại Trưởng Trần văn Đỗ đă nửa đùa nửa thật nói rằng: "Tụi ḿnh là những đám người tí hon đang phiêu lưu vào vùng đất Guilliver huyền thoại đây!"

Ấn tượng của chúng tôi c̣n mạnh hơn khi máy bay đáp xuống phi trường quân sự ở Honolulu. Ngay giữa con đường trải nhựa mênh mông là một khán đài chào mừng sừng sững cắm đầy quốc kỳ. Quang cảnh phía hông cho thấy vị Tổng Thống Hoa Kỳ khổ người to lớn vượt hẳn lên khỏi hai vị tướng Việt Nam đứng cạnh trông lồ lộ chẳng khác nào biểu tượng rơ rệt về vai tṛ thực thụ của hai chánh phủ. Nhưng nếu khổ người của tổng thống Johnson vượt khổ bao nhiêu th́ diễn văn chào mừng của ông lại thân mật và hiền ḥa bấy nhiêu. Chẳng những ông nói về "chiến thắng chống xâm lược" và ông c̣n nói đến "khắc phục đói kém, bệnh hoạn và thất vọng." Ông đề cập đến vấn đề "y tế, giáo dục, nông nghiệp và kinh tế," và về "một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân." Hẳn nhiên đây là một bài diễn văn chính trị, nhưng những cảm quan diễn tả dường như phát ra tự đáy ḷng và lời lẽ bài diễn văn đă khích lệ tất cả những người mang tâm hoài băo việc tạo dựng một tương lai tốt đẹp cho Việt Nam sau chiến cuộc.

Thực sự th́ vào lúc này tôi chẳng có bao nhiêu thời giờ để suy nghĩ sâu thêm. V́ là người giữ vai tṛ phối hợp phái đoàn, tôi phải xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề đâu vào đấy cho phiên họp ngày hôm sau. Trời mới vừa chớm tối tôi đă nhập bọn cùng những đồng nghiệp người Hoa Kỳ để cùng soạn thảo một bản thông cáo chung nhằm đưa ra khi cuộc họp thượng đỉnh kết thúc vào ngày hôm sau. Bất cứ ai đă là người tham gia vào những cuộc họp có tính chất quốc tế cũng đều biết việc soạn thảo là một công việc đă đ̣i hỏi rất nhiều công phu và lại chỉ mang lại những kết quả thật nhỏ nhoi. Tuy thế đây là việc những người tổ chức bắt buộc phải làm. Nhất là v́ bản thông cáo phải được soạn ngay trước khi buổi họp bắt đầu, nhưng v́ trước đây tôi chưa bao giờ có dịp tham gia những công việc soạn thảo tương tự nên lúc này chẳng những tôi đă lao hết ḿnh vào cuộc với tất cả nhiệt huyết mà c̣n thực sự tin tưởng rằng tôi quả đang đóng góp vào việc tạo dựng lịch sử.

Không có điều ǵ trong bản tin có thể khiến tôi suy nghĩ khác hơn. Khi việc hoàn tất th́ một bản thảo được gọi là bản tuyên ngôn Honolulu đă bao gồm rất nhiều điều tổng quát. Trong bản tuyên ngôn Hoa Kỳ và Việt Nam cùng cam kết "sẽ bảo vệ Việt Nam chống xâm lược, tranh đấu cải cách xă hội, tạo dựng một chánh phủ tự do, độc lập và xây dựng ḥa b́nh." Đối với Việt Nam th́ vấn đề khó nhất là vấn đề phải cam kết "soạn thảo một bản hiến pháp dân chủ vào những tháng sắp tới, đưa ra cho dân chúng Việt Nam thảo luận và bổ túc rồi hợp thức hóa bản hiến pháp đó bằng phương pháp bỏ phiếu kín và thiết lập chánh phủ dân chủ qua thể thức bầu cử." Việc phải mang bản soạn thảo về cho ông Thiệu và ông Kỳ kư kết đối với tôi quả là một việc ngại ngùng. Những phát biểu hỗn hợp Mỹ-Việt về việc bảo vệ đất nước thoát khỏi ách xâm lược và ngay cả những đề nghị cải cách xă hội có lẽ cũng chẳng gặp khó khăn ǵ, nhưng đ̣i hỏi ông Thiệu và ông Kỳ phải công khai hứa hẹn soạn thảo hiến pháp và chuẩn bị bầu cử lại là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn.

Tuy thế thật là ngạc nhiên và sung sướng cho tôi, việc lại diễn ra khác hẳn như tôi dự liệu. Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều chẳng để ư ǵ đến nội dung của bản soạn thảo mặc dù lời lẽ các điều kiện trong bản soạn thảo thật là chi tiết. Họ đă quá hân hoan v́ các biến cố trong ngày. Việc họ hứa rơ sẽ cải tổ trên giấy trắng mực đen trong một tài liệu quốc tế mà chính họ không thể nào từ bỏ được đă khiến tôi cảm thấy vui mừng vô hạn.

Cuộc họp chánh thức mở màn vào ngày kế tiếp, trong một hội trường tại nơi đặt bản doanh Tư Lệnh Thái B́nh Dương. Hai phái đoàn tản ra quanh một chiếc bàn bầu dục khổng lồ, nhưng đối với những người trong pḥng th́ rơ ràng chỉ có một nhân vật đáng kể. Tổng thống Johnson hoàn toàn chế ngự buổi họp. Phong thái lănh đạo rơ rệt của ông nổi bật qua khổ người to lớn và sự chú tâm nhất loạt của các cố vấn của ông. Mỗi lần ông nghiêng người về phía đối diện để nhấn mạnh những điều muốn nói là mỗi lần ông tạo ra những ấn tượng khó quên cho những đại biểu Việt Nam.

Tổng thống Johnson chú tâm lắng nghe bài diễn văn của ông Kỳ và rồi lại chú tâm nghe tướng Thắng tŕnh bày các chương tŕnh b́nh định nông thôn. Thỉnh thoảng ông lại ngắt lời tướng Thắng để đưa ra câu hỏi hoặc ra lệnh cho những phụ tá ngồi phía sau. Những lời ông nghị luận vừa mạch lạc lại vừa đi rất sát vấn đề. Đôi khi cũng có vài câu văn vẻ. Có lúc ông ngỏ ư "muốn xem Bộ Da Chồn treo trên tường." Đây là một thành ngữ mà cả phái đoàn đều mù mờ. Lúc đó, v́ coi tôi như một chuyên viên Anh ngữ nên nhiều người đă quay lại hỏi tôi rằng: "Ông ấy nói cái ǵ thế?"

Nhưng việc Tổng Thống Johnson dùng chữ thế nào để diễn tả tư tưởng không phải là vấn đề chính. Đại ư toàn thể bản thông cáo đă được tŕnh bày quá rơ ràng. Ông muốn nh́n thấy những kết quả thực tiễn từ cả hai phiá Mỹ Việt. Qua thái độ quả quyết của tổng thống Johnson chẳng ai có thể nhầm lẫn những điều ông mong mỏi. Về phía phái đoàn Việt Nam th́ ông Thiệu có lẽ v́ lư do ǵ riêng muốn ông Kỳ đóng vai tṛ lănh đạo nên đă phát biểu rất ít. Ông Rusk cũng ngồi yên lặng với khuôn mặt nghiêm trang như Phật trong khi Tổng Trưởng McNamara vẫn hí hoáy ghi chép trên những mảnh giấy vàng như bao giờ.

Khi chúng tôi nghỉ trưa, tất cả đều cảm thấy ḿnh đă bắt đầu một hội nghị hết sức hứng khởi. Chiều đó, lúc hai phái đoàn chia thành từng nhóm để tiến hành công việc th́ ông Thiệu và ông Kỳ đến họp riêng cùng tổng thống Johnson.

Theo tôi nhận định th́ dường như vị tổng thống Hoa Kỳ vừa mới tái đắc cử và đang đứng trên đỉnh cao uy quyền gần như chẳng có điểm nào giống với hai vị tướng lănh Việt Nam -ngoại trừ một điểm hiển nhiên là cả ba đều cùng cam kết chống lại một kẻ thù chung.- Tuy thế, những phù hợp cá nhân đă khiến cả ba đều mỉm cười tươi vui, măn nguyện sau suốt hai giờ gặp gỡ. Những cử chỉ thật tâm và thân thiện của tổng thống Johnson đă hoàn toàn thuyết phục được hai nhân vật lănh đạo của Việt Nam. Ông đă gây được thiện cảm của cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Có lúc tổng thống Johnson và ông Kỳ cùng châu đầu bên những tách cà phê như thể họ là đôi bạn thân đă từ lâu.

Mặc dầu các vấn đề tại cuộc họp vẫn chưa được duyệt lại kỹ lưỡng, tất cả chúng tôi đều cho đây là một cuộc họp thành công. Buổi họp ở Honolulu đă cho Tổng Thống Johnson cơ hội gặp gỡ các tư lệnh quân sự cùng các cố vấn cao cấp của ông và nhấn mạnh với họ về tầm quan trọng của vấn đề b́nh định nông thôn. Ông đă có dịp gặp gỡ và thẩm định các tướng tá lănh đạo Việt Nam. Ông c̣n được họ hứa sẽ soạn thảo hiến pháp và tiến hành bầu cử.

Có lẽ yếu tố quan trọng nhất là cuộc họp Honolulu đă giúp tổng thống Johnson tránh được những lời chỉ trích rằng ông chỉ dựa vào bạo lực quân sự để giải quyết vấn đề. Để trả lời cho những chỉ trích của giới phản chiến lên án ông đă dựa vào bạo lực quân sự để giải quyết vấn đề chính trị, tổng thống Johnson đă nhấn mạnh y tế, giáo dục, sách vở, phân bón và điện hóa những vùng thôn quê. Cuộc thảo luận đă khẳng định những cam kết xây dựng nông thôn và đă nhận định lại rằng: Nếu không có những chương tŕnh hữu hiệu để dân chúng có thể ủng hộ th́ dù có tất cả sức mạnh uy quyền trên thế giới cũng chẳng thể nào thành công.

Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều hân hoan tột độ. Họ đă được chánh quyền Hoa Kỳ tận lực ủng hộ. Hoa Kỳ chẳng những chỉ giúp đỡ họ bằng viện trợ quân sự mà c̣n giúp đỡ cả đến việc củng cố chính phủ của Việt Nam. Ông Kỳ đă vui mừng vượt mức. Ông đă làm bạn được với tổng thống Hoa Kỳ và được giới báo chí triệt để chú ư. Nỗi vui mừng dào dạt đến nỗi ông Kỳ chẳng c̣n để ư đến chuyện đặt câu hỏi với những đề tài tôi đă soạn thảo trong bản ghi chú. Khi tôi hỏi ông về các vấn đề trong bản ghi chú th́ ông gạt phắt đi rằng: "Ông xem đấy, lăo già ấy đă thật thà quá mức rồi, làm sao mà ḿnh c̣n nghi ngờ ǵ lăo ta được nữa?"

Mặc dù ông Kỳ chưa hỏi đến những vấn đề tôi đă liệt kê, tôi cũng vẫn cảm thấy có đủ lư do để hài ḷng. Không những bài diễn văn đưa ra đă buộc chặt chánh phủ của hai ông Thiệu, Kỳ phải giữ lời hứa thực hiện những cải cách xă hội như tôi mong mỏi mà cả tổng thống Johnson cũng đặc biệt chú tâm đến nội dung của bản tŕnh bày. Khi gặp riêng ông Kỳ, ông đă ngỏ lời hỏi ông Kỳ cho biết rơ chi tiết hơn về "cuộc cách mạng xă hội" mà ông Kỳ đă đề cập đến trong bài diễn văn. V́ bản diễn văn trùng đúng với ư tổng thống Johnson, ông Kỳ c̣n nhận ra rằng thực sự chính tôi là nhân vật chính đă giúp ông nâng cao uy tín với vị tổng thống Hoa Kỳ. Từ nay trở đi, giữa những nhóm cộng sự của ông Kỳ, tôi không c̣n là người ngoài nữa. Những biến chuyển khả quan đă khiến tôi cảm thấy lâng lâng trên đường trở lại. Lúc này tôi không c̣n phải bận tâm với những nỗi lo lúc nào cũng canh cánh về việc chánh phủ Việt Nam có thể lại xáo trộn như những năm 1963-1964 trước đây. Sau các cơn biến động của những năm về trước, giờ đây tôi đă t́nh cờ bước vào một khúc giao lưu của lịch sử. Đây là một thời điểm hết sức đặc biệt v́ mục tiêu của Hoa Kỳ và những tiến tŕnh của một nền dân chủ đang được cả hai dân tộc ủng hộ. Cuối cùng các biến cố đă chuyển theo khuynh hướng qui tụ và ổn định thay v́ suy sụp và tan ră.



Xem tiếp  trang  2     

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Gọng Kềm Lịch Sử
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt

Trang  [ 1 ]  [ 2 ]