Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Gọng Kềm Lịch Sử

Tiếp theo trang 1


20. Bước Thứ Hai

Vào lúc hội nghị Honolulu kết thúc, chúng tôi c̣n hân hoan hơn v́ được biết Tổng Thống Johnson sẽ cử Phó Tổng Thống Hubert Humphrey sang Việt Nam cùng lúc phái đoàn Việt Nam trở về. Tuy Phó Tổng Thống Humphrey không đến dự hội nghị Honolulu, Tổng Thống Johnson vẫn cho rằng nếu gửi ông sang Việt Nam th́ Hoa Kỳ có thể tiếp tục nâng cao được tinh thần chính phủ Việt Nam. V́ vậy Phó Tổng Thống Humphrey đă được ủy nhiệm sang Á Châu. Ông dự định đến Sài G̣n trước tiên và sau đó sẽ ghé thăm những nước lân cận. Tuy Việt Nam lúc này đang ở vào giai đoạn chiến tranh, vị Phó Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn nh́n t́nh h́nh với đôi mắt khả quan. Chẳng những thế, quan niệm cấp tiến của ông Humphrey lại c̣n trùng đúng với chủ trương nhấn mạnh cải cách xă hội, kinh tế của Tổng Thống Johnson. Sự hiện diện của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ trên chuyến bay trở về đă khiến phái đoàn chúng tôi vô cùng phấn khởi. Những tin tưởng khởi xuất từ cuộc họp thượng đỉnh lại càng vững vàng thêm.

Khổ thay, cả những uy tín của cuộc họp thượng đỉnh cũng vẫn chưa đủ để ông Thiệu và ông Kỳ thoát khỏi được tất cả những khủng hoảng nội bộ đă nhiều phen lật đổ các chánh quyền Việt Nam trước đây. Ít nhất th́ cũng là một lần nữa, những phong trào đảo chánh của đời sống chính trị Việt Nam lúc đó lại khiến hai tướng lănh phải dùng đến áp lực quân sự. Vào tháng 3 năm 1966, chỉ mới chưa tṛn một tháng sau cuộc họp Honolulu th́ những âm mưu đảo chánh lại được phát động. Lần này mưu toan đảo chánh lại do các đoàn thể Phật Giáo. Họ đă hợp tác cùng với một tư lệnh quân đội có nhiều thế lực và tham vọng đang trấn ở quân đoàn I giáp giới Miền Bắc là tướng Nguyễn Chánh Thi.

Sự thật th́ cuộc đụng độ đă ngấm ngầm từ nhiều tháng trước. Tướng Thi là một người háo động đă tham gia rất nhiều vụ dấy động trong suốt cuộc đời binh nghiệp, kể cả những vụ đảo chánh lẫn chống đảo chánh. Ông chính là một trong những người đă cầm đầu cuộc đảo chánh hụt ông Diệm lần đầu vào năm 1960. Cuộc đảo chánh đầu tiên của tướng Thi đă mở màn cho những ư tưởng đảo chánh về sau này. Năm 1964, ông hỗ trợ Tướng Nguyễn Khánh truất phế những tướng tá đă lật đổ ông Diệm. Rồi ông lại liên kết với nhóm Tướng Trẻ để trục xuất tướng Khánh năm 1965. Thành tích quá khứ và oai quyền lănh chúa Miền Bắc đă khiến tướng Thi tự coi ḿnh thừa khả năng điều hành chính phủ. Hoặc giả ít nhất ông cũng cho rằng nếu đem so sánh với ông Thiệu và ông Kỳ th́ khả năng của ông cũng chẳng kém ǵ.

Thủ đô của vùng một là Huế, nguyên là một thành phố thuộc vùng tướng Thi cai quản và cũng là nơi lănh tụ Phật Giáo Thích Trí Quang cùng các lănh tụ Phật Giáo khác cư ngụ. Tuy kể từ khi ông Thiệu và ông Kỳ nắm quyền, các phái đoàn Phật Giáo đă khá im lặng, họ vẫn chưa thực sự hài ḷng. V́ các đoàn thể Phật Giáo vẫn không có chỗ đứng nào trong chánh phủ nên giờ đây thái độ chống quân nhân của họ c̣n mănh liệt hơn. Ông Thiệu là người công giáo. Ông Kỳ tuy là người Phật Giáo nhưng vẫn không đủ kiên nhẫn để xoa dịu những đoàn thể Phật Giáo.

Vào đầu tháng 3-1966, hai nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng nội bộ của Việt Nam là nỗi bất b́nh của Tướng Thi và những thất vọng chánh trị của các đoàn thể Phật Giáo. Cuộc khủng hoảng bắt đầu trong một chuyến ông Kỳ đến Huế. Khi ông Kỳ đến Huế, một lănh chúa tại đây đă quay lại hỏi thuộc hạ: "Ê, anh chàng này đến làm ǵ ở đây vậy?" Trong cơn phẫn nộ, ông Kỳ không chỉ xem đây là một sự nhục mạ cá nhân. Ông lên án hành động của vị tư lệnh miền Trung là một hành động thách thức chánh quyền. Ít nhất th́ đây cũng là nguyên nhân của mọi việc hỗn loạn vào lúc ban đầu. Cũng có thể ông Kỳ đă cố t́nh t́m dịp đương đầu trực tiếp với tướng Thi để giải quyết cho xong vấn đề của một vị tướng hay la lối ầm ỹ. Dù thế nào đi nữa th́ khi quay về Sài G̣n, tất cả những người trong giới lănh đạo ở Sài G̣n cũng hoan nghênh việc ông Kỳ đă đứng ra đương đầu trực tiếp với tướng Thi. Chính những hành động của ông Kỳ với tướng Thi đă khiến các đoàn thể Phật Giáo ở Huế khởi đầu những cuộc biểu t́nh đ̣i hỏi chánh phủ quân nhân phải từ chức. Đây là những cuộc biểu t́nh quái dị do những ám ảnh đảo chánh điên cuồng thôi thúc.

Vào ngày 26 tháng 3 năm 1966, những chuyện xung đột cá nhân mở đầu đă chuyển thành một cuộc nổi loạn toàn bộ ở miền Trung. Những đoàn biểu t́nh và các chánh quyền địa phương đă chiếm giữ những đài truyền thanh ở Huế và Đà Nẵng. Họ tuyên bố trung lập, không về phe nào cả. Nếu ông Kỳ không gửi đại diện đến để hứa rơ với những đoàn thể Phật Giáo rằng chánh quyền sẽ tổ chức một quốc hội lập hiến và sẽ thiết lập một chánh phủ dân sự vào cuối năm th́ có lẽ đă có một cuộc đụng độ quân sự.

Mặc dầu ông Kỳ đă thành công trong việc xoa dịu nổi loạn, những cuộc biểu t́nh c̣n sót lại vẫn chỉ bớt dần ở một mức độ rất chậm. Đă vậy, việc đại sứ Lodge ủng hộ ông Kỳ lúc cuộc khủng hoảng phát động đă khiến sự phẫn nộ của Phật Giáo chuyển hướng thẳng vào Hoa Kỳ. Vào ngày 4 tháng 5, màn cuối của tấn kịch bắt đầu do một lời tuyên bố thiếu cân nhắc điển h́nh của ông Kỳ. Khi được hỏi về thủ tục của cuộc họp quốc hội mà ông đă hứa với các đoàn thể Phật Giáo, ông Kỳ trả lời rằng: Tuy cuộc họp sẽ tiến hành như ông hứa, nhưng chánh quyền sẽ tiếp tục nắm chánh quyền cho đến khi hiến pháp chánh thức được đưa ra. Trong khi chưa ai biết rơ chi tiết những điều ông Kỳ đă hứa trước đây th́ các lănh tụ Phật Giáo bỗng công khai lên án ông Kỳ đă nuốt lời hứa. Những biến cố xuống đường lại phát động.

Lần này th́ xô sát quân sự là việc khó thể tránh khỏi. Ở Đà Nẵng, ông Kỳ đă lẹ làng chuyển những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến để đàn áp. Sau nhiều ngày chiến đấu, đa số Phật Tử và những quân nhân chống đối đă bị đè bẹp. Tuy thế, một t́nh trạng nguy hiểm đă diễn ra khi tướng Lewis chống đối cách dùng Không Quân oanh tạc những toán nổi loạn. Ông dọa sẽ bắn hạ những máy bay đàn áp nếu ông Kỳ phát động oanh tạc. Cuối cùng ông Kỳ đồng ư nhượng bộ và hứa sẽ chỉ dùng Bộ Binh để dẹp những cuộc xuống đường mà thôi. Sau một tuần lễ nghiêm trọng, t́nh h́nh Đà Nẵng trở lại b́nh thường.

Mặc dầu vậy, Huế lại là một câu chuyện khác hẳn. Tại đây những cuộc đụng độ vẫn tiếp tục dâng cao khi một nhóm phật tử xuống đường thiêu hủy ṭa thư viện vào ngày 26 tháng 5 và rồi đă thiêu hủy cả ṭa lănh sự Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 5. Trước đây đă có đôi lúc những cuộc biểu t́nh bắt đầu với những giọng điệu chống Mỹ nên việc hai ṭa Bin-Đinh của Hoa Kỳ bị thiêu hủy cũng chẳng có ǵ ngạc nhiên. Tuy sau biến cố Đà Nẵng những nhóm xuống đường không c̣n hy vọng ǵ thành công, cho măi tận đến tháng 7, những sôi sục ở Huế mới tạm ổn định. Khi mọi sự đă qua th́ người gây ra mọi sự là tướng Thi đă bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, tưởng cũng không cần phải nói thêm rằng ông bị trục xuất sang Hoa Kỳ.

Tuy cuộc nổi loạn ở Huế quả có kéo dài với nhiều cường độ khác nhau trong hơn ba tháng, nhưng sau khi những biến động nổi loạn đă qua th́ giai đoạn có thể gọi nôm na là giai đoạn bạo động của Việt Nam đă thật sự kết liễu. Trong suốt ba năm kể từ sau khi ông Diệm bị đảo chánh th́ nội bộ Việt Nam càng ngày càng lũng đoạn. Sự suy sụp của chánh phủ Việt Nam lúc này phát xuất là do hậu hoạn của một thập niên độc tài và đàn áp di lại. Tuy vậy, khi những giai đoạn khủng hoảng Phật Giáo kết liễu th́ một giai đoạn ổn định mở đầu và đă kéo dài cho đến những ngày cuối của chánh quyền Sài G̣n vào tháng 4 năm 1975. Dĩ nhiên vào lúc này, chưa ai biết rơ rằng đây là điểm khởi đầu của một giai đoạn mới. Ngược lại tất cả đều cho rằng đây là một giai đoạn cần phải cố gắng nỗ lực mà không được quyền đ̣i hỏi ǵ ở tương lai. Cũng vào thời gian này, các biến chuyển phức tạp khác lại xuất phát ngoài chiến trường.

Lúc này, quân đội Việt Nam đă có dịp mục kích cách Hoa Kỳ điều hành quân đội. Chẳng hơn ǵ dân chúng, các quân nhân Việt Nam cũng thấy rơ những số lượng quân nhu đang được chuyển vào để phục vụ các quân nhân Hoa Kỳ. Họ nh́n thấy những kho hàng PX khổng lồ với hàng dẫy đồ lạ lùng, nhằm xoa dịu những nỗi khốn khó của các binh lính viễn chinh Hoa Kỳ đang ở 10,000 dặm xa rời quê hương. Những quân nhân Việt Nam đă mục kích một gịng quân nhu vô tận được chuyển tới các đội quân Hoa Kỳ. Họ biết Hoa Kỳ đang sử dụng những số lượng ḿn và bom khổng lồ. Chẳng những thế, họ c̣n biết Hoa Kỳ đang sử dụng một cách phí phạm. Cách phí phạm đạn dược của Hoa Kỳ gây cho họ nhiều ấn tượng đặc biệt. Một mặt họ lấy làm tức giận, mặt khác họ lại bắt đầu tin rằng đây có thể là một phương pháp hữu hiệu để dẫn đến thắng lợi. Chỉ ít lâu sau họ đă quen ngay. Chính thói quen này là một thói quen chết người về sau, khi Hoa Kỳ th́nh ĺnh rút bỏ viện trợ.

Hơn nữa, khi quân đội Hoa Kỳ ráo riết phát động chiến thuật truy kích và tiểu trừ (Search and Destroy Operation), họ đă gây ra nhiều khó khăn ở miền quê. Thường th́ nguyên tắc của quân đội Hoa Kỳ là "dùng đạn dược để giảm thiểu tổn thất cho binh sĩ." Một trong những thí dụ điển h́nh là tất cả các cuộc hành quân bất kể lớn nhỏ, đều được các đội pháo binh hoặc thủy quân dùng B-52 hoặc những loại yểm trợ tương tự để "bắn dọn đường." Một hậu quả tai hại của chiến thuật này là yếu tố bất ngờ gần như mất hẳn. Những cuộc hành quân lớn thường chỉ đụng độ với một vài toán bắn tẻ của địch quân hoặc tấn công vào những căn cứ địa tàn dư c̣n sót lại. Quan trọng hơn nữa là vấn đề lăng phí đạn dược c̣n gây ra tổn thất lớn lao cho dân quê và các nông dân trú ngụ trong phạm vi của các cuộc hành quân.

Đă đành rằng trong bất kỳ cuộc chiến nào cũng phải có những tổn thất dân sự nhưng có lẽ chiến thuật của Hoa Kỳ đă làm tăng thêm tầm mức thương vong. Đầu tiên th́ chiến thuật của Tướng Westmoreland là t́m cách di chuyển lực lượng về những vùng cao nguyên hẻo lánh hoặc dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt. quân đội Hoa Kỳ cũng có soạn thảo chi tiết những luật lệ chiến đấu (ROEs - Regulation Of Engagement) cùng chánh quyền Việt Nam để có thể giảm thiểu những tổn thất tài vật và nhân mạng cho dân chúng.

Tuy những nỗ lực của Tướng Westmoreland cũng có ích nhưng trên thực tế, vấn đề áp dụng những nguyên tắc được đề ra quả là nan giải. Việc phải truy kích địch quân lẩn trốn trong các làng mạc không phải là việc dễ dàng. Một trong những chiến thuật chính của quân đội du kích là trà trộn chung vào với dân quê để ẩn nấp. Biết được tật thường xuyên dội pháo mỗi khi đụng trận của Hoa Kỳ, du kích Bắc Việt cố chuyển hướng pháo hoặc oanh tạc vào dân chúng để vận động ḷng căm phẫn của họ đối với binh lính Hoa Kỳ. Đă vậy, tuy trên mặt thủ tục tất cả những cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ đều cần phải có các chức trách địa phương cho phép mà trên mặt thực tế vấn đề lại hoàn toàn khác hẳn. Những nhà chức trách quân sự của cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều ít để ư đến các nơi dân chúng địa phương trú ngụ. Hậu quả là những cuộc dội bom lệch lạc và không phân biệt đă gây ra vô số thương tổn đáng tiếc.

Đối với một cuộc chiến như cuộc chiến Việt Nam, v́ không phân biệt rơ ràng được ranh giới và hơn nữa, v́ du kích Bắc Việt lại cố ư trà trộn vào với thường dân nên những tư lệnh quân sự khó thể ngăn ngừa những tổn thất đáng tiếc. Tôi và nhiều người khác đă gặp tướng Westmoreland nhiều lần để tŕnh bày các vấn đề khó khăn của t́nh h́nh. Chúng tôi biết rằng hậu quả của tấn bi kịch thương vong dân sự thật vô cùng lớn lao và những ảnh hưởng xấu đang lan tràn trong dư luận thế giới, nhưng chúng tôi đang tham gia một cuộc chiến mà cả chiến địa lẫn cường độ đều do địch quân định đoạt. T́nh cảnh quả thật mâu thuẫn đến độ khó tưởng: Tuy Việt Cộng và Miền Bắc đang lănh đạo cái mà họ gọi là Chiến Tranh Nhân Dân, nhưng khi chiến cuộc lôi kéo dân chúng vào ṿng máu lửa th́ mọi trách nhiệm lại bị đổ hất lên đầu Hoa Kỳ và Việt Nam Việt Nam. Đây là một gánh nặng mà chúng tôi đă phải mang trong suốt khoảng thời gian c̣n lại của chiến cuộc.

Vào năm 1966 những tổn thất dân sự và những hủy hoại ở miền quê đă khiến dư luận thế giới ngày càng chống đối Hoa Kỳ. Kể từ trước tháng 7, chỉ có những chỉ trích nhẹ nhàng nhưng trong tháng 7, những các đồng minh Âu Châu bỗng nhiên chỉ trích dữ dội, nhất là sau khi máy bay Hoa Kỳ dội bom tấn công vào những khu vực kỹ nghệ và các khu vực xăng gần Hà Nội và Hải Pḥng. Thủ tướng Harold Wilson tuyên bố: Người dân Anh Quốc "không ủng hộ" các chiến dịch oanh tạc và Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle lên án những cuộc dội bom là "một cuộc leo thang thiếu suy xét trong chiến tranh ở Việt Nam."

Rồi đây, trong nhiều năm tới, khi đề tài dư luận bắt đầu đặt câu hỏi "đúng", "sai", khi các cuộc dội bon về sau này thường hướng thẳng vào những vùng đông dân cư và khi dân chúng bị buộc phải tản cư trong những chuyến tản cư đầy bi thảm th́ thế giới lên án gắt gao hơn. Dĩ nhiên khi phải trực diện với những hậu quả kinh hoàng và t́nh cảnh khốn khổ của dân chúng các kư giả khó thể hiểu rằng chiến thuật và chiến lược của Cộng Sản được đặt căn bản trên những lư thuyết sắt máu của bạo động cách mạng. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu được rằng đây là một phương sách chủ trương lợi dụng yếu tố nhân sự để làm bàn đạp tiến đến thắng lợi chiến cuộc. Nếu những phóng viên và kư giả đă không nh́n thấy điểm này th́ những độc giả và khán thính giả của họ c̣n mù mịt hơn. Hậu quả là giữa năm 1966, những cuộc tranh luận khốc liệt, và những chỉ trích có tính cách đạo đức một chiều của những người phản chiến ở Hoa Kỳ đă bắt đầu có tiếng vang.

Trong năm 1966, những khuyết điểm điển h́nh của chiến cuộc Việt Nam đă bắt đầu lộ rơ. (Chẳng hạn như những tổn thất đáng tiếc xảy ra khi Hoa Kỳ áp dụng chiến thuật truy kích và tiêu diệt, những chỉ trích ngày càng nhiều của thế giới khi Hoa Kỳ dội bom vào những vùng đông dân cư). Tuy thế, nếu nh́n từ một khía cạnh khác th́ vẫn có những biến chuyển khả quan. Đă đành rằng lúc này quân đội Hoa Kỳ vẫn chưa tiêu diệt hết được Việt Cộng nhưng t́nh h́nh quân sự tạm được ổn định và vào tháng 7, khi khủng hoảng Phật Giáo kết liễu, chánh phủ Việt Nam đă có thể tiến hành việc bầu cử quốc hội lập hiến như đă hứa vào lúc trước.

Có lẽ đối với các quốc gia có truyền thống dân chủ từ lâu th́ bầu cử chỉ là một vấn đề hết sức đơn giản nhưng đối với Việt Nam th́ đây quả là một ư niệm hăy c̣n rất mới mẻ. V́ vậy, vấn đề đầu tiên cần được thảo luận là làm thế nào để phổ biến quan niệm bầu cử và cho dân chúng thấy đây là một vấn đề quan trọng. Để vận động bầu cử, chánh phủ đă huy động sự đóng góp của các nhà văn nghệ sĩ ở Sài G̣n cũng như ở nhiều địa phương khác. Ư kiến bầu cử được phổ biến khéo léo vào những bài hát để cổ động dân chúng đi bầu. Đài truyền thanh lúc nào cũng đầy những chương tŕnh nhạc cùng những chương tŕnh phác họa đại cương những chủ đề liên quan đến vấn đề bầu cử. Những đoàn kịch nghệ và những gánh hát đă đi khắp các vùng quê, vừa dựng kịch, vừa lập những chương tŕnh văn nghệ nhằm cổ động bỏ phiếu. Theo tôi th́ những nỗ lực này vừa vui lại vừa có hiệu quả. Theo lời điệp khúc của một bài hát mà ai cũng đă nghe đi nghe lại th́: "Tương lai chúng ta tùy thuộc vào nền dân chủ." Trong nhiều tháng ṛng ră lời nhắn nhủ bầu cử đă lan ra khắp cả Việt Nam.

Vào lúc các chiến dịch vận động bầu cử đang phát động mănh liệt th́ một Ủy Ban đặc biệt lo việc soạn thảo các luật lệ bầu cử đă được lựa chọn từ nhiều đoàn thể chính trị và tôn giáo khác biệt. Chẳng bao lâu sau, Ủy Ban đă bắt đầu thảo luận dữ dội về vấn đề xác định những tiêu chuẩn cho các ứng cử viên. Tuy vấn đề loại trừ hoàn toàn các thành phần Cộng Sản là vấn đề không có ǵ rắc rối, nhưng lại có cả những ứng cử viên có khuynh hướng "trung lập." Sau cùng th́ cán cân ngả về phía những người mang lập trường cứng rắn: Bất cứ ai công khai ủng hộ "giải pháp thiên cộng" đều không đủ tiêu chuẩn làm ứng cử viên. Đây là một cách giải quyết vấn đề thật đơn giản, nhưng tôi hoàn toàn chẳng để tâm v́ thật ra cũng chẳng có khó khăn ǵ nhiều liên quan đến vấn đề này. Đây chỉ là một quốc hội tạm thời được ùy nhiệm soạn thảo hiến pháp. Sau khi hiến pháp hoàn tất, tất cả quốc hội lập hiến sẽ tự động giải tán. Cuối cùng những ứng cử viên tự nguyện đă tụ tập thành một cử tri đoàn đông đảo. Họ bao gồm luật sư, giáo sư, nông gia, các cựu quân nhân, và các nhà báo cùng với những chính trị gia và đại biểu của các đoàn thể tôn giáo.

Ngày 11 tháng 9 năm 1966 là ngày bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Mặc dù Việt Cộng đe dọa sẽ có bạo động và các đoàn thể Phật Giáo cảnh cáo rằng cuộc bầu cử có thể bị tẩy chay, dân chúng vẫn hưởng ứng vô cùng nhiệt liệt. Họ đi lũ lượt hàng đoàn đến nơi bỏ phiếu, phần đông đều mặc quần áo thanh lịch như thể quần áo dùng vào mỗi dịp hội hè. Trong một cuộc bầu cử với 630 ứng cử viên và 7 triệu người đăng kư đi bầu, đă có hơn 5 triệu người bỏ phiếu và 117 ứng cử viên đắc cử được tuyển làm đại biểu cho quốc hội lập hiến. Tuy vẫn có một vài trường hợp bất hợp lệ nhưng nói chung th́ cuộc bầu cử vẫn là một thành công đáng kể. Đối với một quốc gia đang lúc chiến tranh và chưa hề có truyền thống bầu cử th́ đây đúng là một biến cố lớn lao có ảnh hưởng quan trọng đến tương lai về sau. Theo lời một người Hoa Kỳ bạn tôi th́: "Quang cảnh [của người Việt Nam] vui vẻ, hội hè vững tin vào tương lai tỏa ra khắp nơi đă mang cho chúng tôi [những người Hoa Kỳ] rất nhiều hy vọng."

Quang cảnh bầu cử cũng đă khiến tôi vô cùng phấn khởi. Một khi tiến tŕnh dân chủ đă bắt đầu th́ đà cải tiến thường một ngày một tăng. Khi mọi người đă biết họ có thể đóng góp tiếng nói của ḿnh vào chánh phủ, khi họ đă thấy rằng những chính trị gia bị buộc phải chú tâm đến họ th́ việc họ tự tạo một guồng máy chính quyền dân chủ là việc không thể nào tránh khỏi. Những nhu cầu cần thiết sẽ khiến quần chúng lấy ư kiến chung làm khuôn mẫu áp dụng. Chính trị sẽ chuyển hướng thành những cuộc tranh luận công khai để cùng t́m giải pháp thay v́ chỉ là những vận động áp dụng bạo lực và thủ đoạn dùng vào việc theo đuổi những tham vọng cá nhân.

Cuộc bầu cử là một trong những bước khởi đầu của tiến tŕnh dân chủ đó. Tuy đây chỉ là một quốc hội lập hiến và chánh phủ quân nhân vẫn giữ quyền thỏa thuận hoặc bác bỏ hiến pháp vào lúc chót, nhưng ông Thiệu và ông Kỳ không dễ ǵ bác bỏ được các tiến tŕnh dân chủ. Những tiến tŕnh này đă bắt đầu và rồi đây chánh phủ quân nhân sẽ chẳng c̣n đường nào chọn lựa. * * * * *




Vào mùa thu năm 1966 Sài G̣n đă thực sự tiến được một bước dài. Đây là lần đầu tiên trong rất nhiều năm đất nước có được một chánh phủ hoàn toàn không phải lo lắng sợ sệt v́ những cuộc đảo chánh sắp tới hoặc v́ những cuộc nổi loạn phe nhóm. Đây là lần đầu tiên đất nước có được một chánh phủ có thể hoạt động b́nh thường trong công việc quản trị cũng như trong công việc điều hành chiến cuộc. Chúng tôi đă đi qua giai đoạn đầu của những tiến tŕnh nhằm chuyển đổi chính phủ Việt Nam thành một chính phủ dân chủ hợp hiến.

Qua nhiều năm cơ cực và thất vọng, giờ đây những thành quả dân chủ đă được cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài G̣n nhiệt liệt hoan nghênh. Tổng Thống Lyndon Johnson đă quyết định lợi dụng t́nh thế để làm giảm bớt ảnh hưởng của các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ và Âu Châu đang ngày càng gia tăng.

Trong những tháng trước, những nhà ngoại giao Hoa Kỳ đă thành công trong nỗ lực tạo dựng một khối liên minh gồm nhiều nước ở Á Châu và Thái B́nh Dương. Tất cả các quốc gia trong khối liên minh này đều đồng ư cùng tham gia tiếp trợ Việt Nam chung với Hoa Kỳ. Thái Lan, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Úc và Tân Tây Lan đă gửi cả binh lính hoặc những đơn vị tiếp trợ giúp đỡ Việt Nam. Thành quả Ngoại Giao của Hoa Kỳ đă đến đúng vào lúc tinh thần dân chúng Việt Nam đang phấn khởi. Những niềm phấn khởi phát sinh là do những cuộc bầu cử quốc hội lập hiến vừa xong. Tuy chiến cuộc vẫn chưa hoàn toàn đến hồi ngă ngũ, Tổng Thống Johnson đă nhận thấy đây là một cơ hội tốt để tỏ cho thế giới rơ Hoa Kỳ đă có đồng minh trong cuộc chiến. Hơn nữa, ông muốn nhấn mạnh rằng công cuộc bảo vệ độc lập của Việt Nam đang mang lại thành quả và Hoa Kỳ không phải là quốc gia duy nhất ủng hộ Việt Nam.

Trước sự thúc đẩy của tổng thống Johnson, Tổng Thống Phi Luật Tân là Ferdinand Marcos đă đồng ư đứng ra tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ở Manila vào cuối tháng 10. Tại đó hầu hết các giới lănh đạo của các quốc gia có gửi binh sĩ sang Việt Nam đều được mời tham dự. Sự thực, trong nỗ lực gom góp thêm viện trợ, Tổng Thống Johnson c̣n sửa soạn chương tŕnh thăm viếng các quốc gia này. Do một sự t́nh cờ, Manila lại rơi đúng vào vị trí trung tâm của cuộc hành tŕnh dài 17 ngày mà Tổng Thống Johnson đă dự định. Manila v́ vậy đă trở thành một nơi hội họp thuận tiện nhất.

Mặc dầu cuộc hội họp thượng đỉnh của 7 quốc gia ở Manila rơ ràng là một trong vận động nằm trong một chánh sách thuyết phục dân chúng lớn lao hơn của Tổng Thống Johnson, đối với chúng tôi đây cũng là một công việc tự nó không kém phần quan trọng và chúng tôi hoan nghênh cổ vơ hết ḿnh cho buổi họp. V́ là một quốc gia đang bị uy hiếp ở tầm mức sinh tử, Việt Nam cần được quốc tế công nhận và bảo đảm. T́nh trạng ổn định mới mẻ ở Sài G̣n và những tiến triển gần đây về vấn đề tự do bầu phiếu đă khiến chúng tôi cho rằng lúc này đúng là lúc để mở màn giai đoạn nâng cao uy tín trên lănh vực ngoại giao cho chánh phủ Việt Nam. Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh tính cách quốc tế của chiến cuộc Việt Nam. V́ bị buộc phải chấp nhận để cho các đơn vị người ngoại quốc đóng quân ở Việt Nam, chúng tôi cảm thấy rằng một lực lượng quốc tế sẽ được xem là ít đe dọa đối với chủ quyền và tự ái của chúng tôi hơn là quân đội của chỉ một quốc gia. Chúng tôi nhận xét rằng: Nếu phải để cho quân đội ngoại quốc đóng quân ở Việt Nam th́ chính phủ Việt Nam vẫn có thể giữ được nhiều uy tín hơn nếu những lực lượng trấn đóng là những lực lượng quốc tế. Đă đành rằng dù chọn cách nào th́ vấn đề chọn lựa của chúng tôi chẳng qua cũng chỉ là những sự chọn lựa bất đắc dĩ, nhưng giữa hai điều bắt buộc phải chọn chúng tôi cho rằng cho phép một lực lượng quốc tế đóng quân ở Việt Nam vẫn là một điều dễ chấp nhận hơn.

Kể từ sau ngày hội nghị Honolulu trở đi th́ càng ngày tôi càng đi sâu vào các quyết định ngoại giao. Vào thời gian này nội các lại cải tổ và tôi được bổ nhiệm làm Phụ Tá Ngoại Trưởng kiêm Phụ Tá Đặc Biệt của Thủ Tướng. Việc thay đổi là do những sự xung đột giữa hai phe quân nhân và dân sự trong chánh phủ của hai ông Thiệu-Kỳ. Một trong những nhân viên dân sự là Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ người mà lúc nào tôi cũng kính trọng và coi như bậc đàn anh của tôi. Cụ Đỗ là một người ôn ḥa và ít đồng ư với những ư kiến táo bạo của giới quân nhân. Nhiều phần tử trong giới quân nhân lại cho là cụ ôn ḥa quá. Vào tháng ba, nhân có dịp cải tổ chánh phủ, nhiều quân nhân không ưa cụ đă vận động để thay thế cụ.

Tuy thế, ông Phillip Habib (cố vấn Bộ Trưởng ở ṭa đại sứ Hoa Kỳ lúc bấy giờ) lại rất trọng cụ Đỗ. Khi nghe dư luận Sài G̣n đồn đăi về việc chính phủ dự định thay thế cụ Đỗ, ông Phillip Habib chạy đến văn pḥng tôi để t́m hiểu thêm. Tôi nói với ông Phillip Habib rằng ông Kỳ và những người trong nhóm quân nhân có ḍ hỏi tôi xem tôi có thể thay thế cụ Đỗ không nhưng tôi đă trả lời là không thể được.

Khi cả hai chúng tôi bàn luận chi tiết thêm th́ ông Habib lại c̣n lo lắng hơn. Cụ Đỗ là người được các giới ngoại giao kính trọng và tôi là một người có tiếng đă hợp tác chung với Hoa Kỳ nhiều năm. Nếu cả hai chúng tôi đều không chịu nhận trách nhiệm ở Bộ Ngoại Giao th́ c̣n ai có thể làm việc được? Biết đâu nhân vật mới chẳng là một nhân vật hội đủ tiêu chuẩn cần thiết của các quân nhân nhưng sẽ khiến ṭa đại sứ Hoa Kỳ phải gặp nhiều khó khăn? Ông Habib có vẻ chống đối việc cải cách. Cuối cùng th́ tất cả những người tham gia đề xướng cải cách đều thỏa thuận như sau: Ông Đỗ vẫn là Ngoại Trưởng nhưng tôi sẽ là Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách những vấn đề đặc biệt. Tuy những tướng lănh mang lập trường cứng rắn vẫn không hoàn toàn hài ḷng nhưng v́ ṭa đại sứ đă bằng ḷng nên họ vẫn phải gật đầu chấp nhận. Đối với tôi th́ đây là một thắng lợi đáng kể. Trong cuộc tranh chấp với các thành phần quân nhân, lần này tôi đă giữ thêm được một đồng nghiệp cùng đồng quan điểm với tôi mà lại có tầm hiểu biết thấu đáo về những chính sách ngoại giao. Ảnh hưởng của tôi trong việc thiết lập chánh sách lại gia tăng thêm. Đây quả là một thắng lợi quư giá trong những cố gắng tiến dần đến để thiết lập một chánh phủ hợp hiến.

Kể từ ngày sau cuộc họp thượng đỉnh ở Honolulu trở đi, tôi đă làm việc ở Bộ Ngoại Giao, cố gắng cải tiến mối bang giao với các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á và t́m cách nâng cao h́nh ảnh Việt Nam trên thế giới. V́ thế, việc chuẩn bị cho cuộc họp ở Manila lại chất chồng lên vai tôi cũng là chuyện tự nhiên.

Ngoài mặt th́ 4 vấn đề chính của chương tŕnh nghị sự ở Manila là: Nhận xét tổng quát về t́nh h́nh chiến sự, duyệt lại những đề nghị ḥa b́nh từ trước tới nay, nhận định những chiến lược nhằm kết thúc chiến cuộc và soạn thảo chương tŕnh an ninh cho các vùng. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi sửa soạn cho cuộc hội nghị tôi đă thấy rơ ràng những vấn đề ưu tiên của 7 quốc gia hoàn toàn khác biệt và những vấn đề quan trọng lại quá nhiều, không thể sắp xếp tất cả mọi vấn đề vào hai ngày hội nghị được. Những vấn đề tiệc tùng, nghi lễ, thủ tục hội họp và những thủ tục khác đă choán hết phần lớn th́ giờ. Khoảng thời gian c̣n sót lại chỉ vừa đủ để 7 quốc gia có thể bày tỏ tinh thần đoàn kết. Thật sự th́ chỉ riêng sự có mặt của 7 vị nguyên thủ quốc gia cùng ngồi lại với nhau để cứu xét các vấn đề khó khăn cũng đủ khiến cuộc họp biến thành quan trọng.

Cuộc họp thượng đỉnh ở Manila cũng chẳng khác ǵ các cuộc họp thượng đỉnh những lần trước đây, nhân vật nổi bật nhất vẫn là tổng thống Johnson. Ông bàn luận hăng say về chánh sách của Hoa Kỳ ở Á Châu, về vấn đề kêu gọi ḥa b́nh và việc cần phải thể hiện quyết tâm chống lại sự xâm lăng của cộng sản. Tổng thống Johnson tuyên bố: "Đối với những người ủng hộ tự do, đối với những người có trách nhiệm, đối với những người có lương tâm, ngoài cách phải đứng lên chống lại những hành động xâm lược có lẽ chẳng c̣n cách nào khác." Tuy không phải tất cả các vị nguyên thủ quốc gia đều là những người có tài hùng biện trôi chảy, nhưng tất cả đều đồng ư với tổng thống Johnson. Trong cuộc họp vị thống chế đầu bạc Kittikachorn của Thái Lan rất ít khi lên tiếng. Tổng thống Phác Chánh Hy của Nam Hàn lại c̣n im lặng hơn nữa. Nhưng cả Thủ Tướng Úc Đại Lợi Harold Holt (Thủ Tướng Harold Holt đă có tiếng là người ủng hộ lập trường của Tổng Thống Johnson.) lẫn Thủ Tướng Tân Tây Lan Keith Holyoake đều mạnh dạn phát biểu ư kiến rằng hai quốc gia Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan sẽ dốc ḷng ủng hộ. Về phần Tổng Thống Ferdinand Marcos th́ vui mừng trông thấy trong vai tṛ chủ tọa. Ông lăng xăng chạy từ vị lănh đạo này sang vị lănh đạo khác, cố làm cho sự hiện diện của ḿnh được mọi người chú ư.

Sau hai ngày hội họp, tất cả những vị nguyên thủ tham dự đều kư kết vào một bản tuyên ngôn. Có lẽ đă có nhiều nhân vật phản chiến cho rằng bản tuyên ngôn chỉ chứa đầy những ngôn từ rỗng tuếch và khiếm khuyết những chất liệu thực tiễn, nhưng riêng chúng tôi vẫn lấy làm hài ḷng, ít nhất th́ cũng là hài ḷng do cả những khẳng định hậu thuẫn mới mẻ lẫn những lời hứa rút lui của Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh một khi Cộng Sản Bắc Việt chấm dứt xâm lược.

Tiếp theo nghi lễ kư kết là một cuộc diễn hành từ khách sạn Manila tới Phủ Tổng Thống là Malacan Palace. Đây là một nghi lễ long trọng. Dẫn đầu là các vị quốc trưởng đi chung một hàng. Khổ người của Tổng Thống Johnson cao vượt hẳn lồ lộ trong hàng quốc trưởng. Sau lưng các quốc trưởng là các Bộ Trưởng và sau chót là những nhân viên tùy tùng của các phái đoàn. Xung quanh là những đám đông hoan hô. Hàng trăm kư giả, nhiếp ảnh gia tới lui nhộn nhịp biến đoàn người thành một cuộc diễn hành của 7 quốc trưởng. Hiển nhiên phía Hoa Kỳ đă vô cùng hân hoan. Thật ra cũng chẳng có vị quốc trưởng nào tỏ ư than phiền về việc dư luận quốc tế đă chú ư quá nhiều đến họ trong buổi diễn hành.

Trong buổi tiệc tối đó, gần như tất cả mọi người đều vui vẻ ḥa ḿnh trong bầu không khí hội hè thoải mái. Tuy thế riêng tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Ngày hôm trước, những chuyện lủng củng dai dẳng giữa tôi và những tướng lănh Việt Nam đă diễn ra trong một khung cảnh căng thẳng không mấy tốt đẹp. Chuyện xảy ra khi ông Thiệu, ông Kỳ và tôi đang dùng bữa tối cùng Tướng Nguyễn Hữu Có và tướng Cao Văn Viên. Tướng Có, nguyên là một trong những người có lập trường quân sự cứng rắn trước đây đă vận động để thay thế cụ Trần Văn Đỗ. Trong một phút đùa cợt ông Có đă nói: "Lần này khi về Sài G̣n chúng ta phải cắt gân Bùi Diễm mới được." Tôi đă giận dữ trả lời đại khái rằng: "Tôi đang làm việc cho quốc gia, tôi không thích nghe những lời chỉ trích vô lối cho dù rằng những lời chỉ trích đó chỉ là đùa cợt." Nghe tôi trả lời, Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên đă nửa đùa nửa thật: "Phải rồi, thằng nào mà đụng đến anh th́ tôi dùng Dù tôi đánh bỏ mẹ nó đi." Tướng Có đă nhượng bộ và nói nhỏ rằng đây chỉ là chuyện nói giỡn cho vui. Tuy thế, hành động của Tướng Có vẫn khiến tôi cảm thấy buồn bă. Lời ông đùa bỡn là một dấu hiệu rơ rệt cho thấy những áp lực của giới quân nhân mà tôi đă mơ hồ cảm thấy vào lúc trước chẳng phải hoàn toàn do ảo tưởng.

Khi buổi tiệc tối sắp kết thúc, tất cả những người khác trong phái đoàn Việt Nam cũng cảm thấy căng thẳng chẳng kém ǵ tôi nhưng lư do khiến họ căng thẳng lại hoàn toàn khác hẳn.

Sáng sớm ngày đó, ông Phil Habib đă sang chỗ trú ngụ của chúng tôi xin phép được nói chuyện với riêng hai ông Thiệu và Kỳ. Ông Habib cho biết Tổng Thống Johnson đă quyết định đích thân đến thăm căn cứ của Hoa Kỳ ở vịnh Cam Ranh ngay sau cuộc họp. Nhưng v́ lư do an ninh, ông sẽ không ghé Sài G̣n.

Chúng tôi đă hiểu những lư do an ninh quá rơ: Chỉ riêng những diễn biến khủng bố thường xuyên ở Sài G̣n cũng đă đủ lư do khiến Hoa Kỳ phải đề cao cảnh giác. Tuy thế, chúng tôi vẫn cảm thấy nhục nhă v́ việc này. Quyết định bất ngờ của Tổng Thống Johnson đă khiến chúng tôi không có đủ cả thời giờ để chuẩn bị cuộc tiếp đón cho đúng nghi lễ tiếp tân. Bởi vậy, vào ngay cả những khi buổi tiệc của tổng thống Marcos đang đến hồi vui nhộn nhất, chúng tôi vẫn lo lắng triền miên về chuyện phải cố gắng trở về để kịp thời sắp đặt những nghi lễ tiếp tân tối thiểu cho Tổng Thống Johnson vào ngày hôm sau.

Mặc dầu chúng tôi đă cố giữ thể diện mà chuyến viếng thăm Cam Ranh của Tổng Thống Johnson vẫn làm cho chúng tôi phải bẽ mặt. Vị Tổng Thống Hoa Kỳ đă có thời giờ thăm viếng cả 6 thủ đô Á Châu mà lại không hề bước chân đến Sài G̣n, thủ đô của một đồng minh nơi hơn 300,000 binh lính Hoa Kỳ đang chiến đấu. Dĩ nhiên chúng tôi hiểu rằng lúc này đang giữa lúc chiến tranh và Hoa Kỳ không thể để bất kỳ sơ hở nào có thể ảnh hưởng đến việc an nguy của vị Tổng Thống của họ. Nhưng việc Hoa Kỳ công khai ngờ vực khả năng bảo vệ của chúng tôi thật quả đă làm chúng tôi mất mặt. Những người lănh đạo Việt Nam đă phải cố gắng âm thầm nuốt liều thuốc đắng. Họ vẫn không hề hay biết rằng rồi đây trong những năm tới sẽ c̣n có những liều thuốc khác đắng hơn đang đợi chờ họ. Đây là một phần của cái giá Việt Nam phải trả cho sự lệ thuộc vượt mức của Việt Nam vào Hoa Kỳ.

Tổng Thống Johnson đă đến Cam Ranh vào ngày 26, tháng 10-1966. Ông chỉ ghé đây khoảng nửa ngày. Khi nói chuyện với những binh lính tụ họp để hoan hô ông, ông đă tuyên bố: "Chúng tôi xin hứa sẽ không bao giờ để các anh, các chiến hữu của các anh, 15 triệu dân Việt Nam và hàng trăm triệu người Á Châu khác đang tin tưởng vào Hoa Kỳ phải thất vọng. Chúng ta phải chứng minh rằng ngay tại nơi này -tại Miền Nam Việt Nam- ư đồ xâm lược của cộng sản chắc chắn không thể thành tựu."

21. Đại Sứ tại Hoa Thịnh Đốn

Tôi từ Manila trở về lử người v́ mệt. Cơn cúm khốc liệt bắt đầu từ lúc ở Manila đă khiến tôi phải nằm liệt giường gần một tuần lễ. Thời gian tĩnh dưỡng đă cho tôi cơ hội suy nghĩ. Tôi nhận ra rằng ḿnh đă quá mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác. Những xích mích ngấm ngầm giữa tôi với những người trong giới quân nhân trong nhiều tháng qua đă khiến tôi hao tổn khá nhiều tinh thần. Trường hợp tướng Có nói đùa về tôi ở Manila chẳng qua chỉ là một trong những triệu chứng rơ rệt gần đây nhất mà thôi.

Sự thật th́ nhiều tướng lănh trong giới quân nhân ngày càng khó chịu v́ những chính sách của thủ tướng Kỳ, nhất là việc ông Kỳ đi mạnh quá và nhanh quá vào con đường dân chủ. Khi gạt bỏ ra ngoài chính phủ một vài thành phần tham nhũng và bất tài, ông Kỳ đă vô t́nh tạo ra những chống đối mănh liệt. Khó thể tấn công ông Kỳ trực tiếp, những quân nhân đă đổ hết phẫn nộ vào tôi v́ hẳn nhiên tôi là người đứng sau ông Kỳ.

Ông Kỳ cũng bị những người Nam chỉ trích rằng ông tin tưởng vào những người Bắc Kỳ thái quá. Trong những câu chuyện chỉ trích, chính tôi cũng lại là một thí dụ điển h́nh. Để tránh chỉ trích, ông Kỳ đă cố cải tổ chánh phủ của ḿnh. Tuy những thay đổi của ông Kỳ hoàn toàn không nhắm vào tôi, những chỉ trích ngày càng tăng vẫn khiến tôi phải bận tâm ít nhiều.

Khi nh́n lại mọi việc, tôi thấy ít ra ḿnh cũng đă đạt được một phần các mục tiêu ban đầu. Tôi đă hài ḷng một phần v́ ở Việt Nam lúc này, giai đoạn đầu của việc thiết lập một chính phủ hợp hiến đă bắt đầu và chẳng bao lâu nữa, quốc hội lập hiến cũng sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Càng nghĩ, tôi lại càng thấy rằng đă đến lúc ḿnh nên rút lui. Quyết định rút lui của tôi lúc này một phần là do những bực dọc v́ phải chịu đựng những chỉ trích hoàn toàn vô căn cứ. Vả lại tôi quan niệm rằng ḿnh phải biết lúc nào nên ở, nên đi. Nếu cần rút lui tôi cho rằng ḿnh nên tự ư rút lui trước thay v́ đợi đến lúc thực sự bị người ta đẩy ra ngoài.

Sau khi đă hoàn toàn b́nh phục, tôi đến gặp ông Kỳ để bàn về vấn đề từ chức. Khi nói chuyện với ông Kỳ, tôi chỉ đề nghị sơ qua rằng có lẽ đây đúng là lúc tôi nên rút lui. Tôi nói với ông Kỳ tôi hiểu rất rơ việc ông Kỳ đang phải chịu rất nhiều chỉ trích của cả những người Nam lẫn của các tướng lănh về việc có quá nhiều người Bắc trong chính phủ. V́ tôi chính là một trong những mục tiêu chính của sự chỉ trích, nếu tôi rút lui có thể ông Kỳ sẽ có nhiều cơ hội hơn. Hơn nữa, ông Kỳ luôn luôn có thể tham khảo ư kiến của tôi từ phía bên ngoài.

Nghe tôi tŕnh bày xong ông Kỳ không hề phát biểu ư kiến. Ông chỉ trầm ngâm một lát, rồi lại tiếp tục với những vấn đề khác. Tuy thế, tôi biết ḿnh đă chọn đúng lúc để ngỏ lời. Lúc tôi đưa ra ư kiến cũng chính là khi ông Kỳ đang suy nghĩ dữ dội về việc cải tổ chính phủ của ông. Ít lâu sau, trong một lần gặp khác với ông Kỳ, tôi lại trở lại câu chuyện rút lui mà tôi đă bàn với ông khi trước. Lần này th́ ông Kỳ phát biểu rằng nếu cần rút lui, có lẽ tôi nên làm đại sứ chứ không nên về hưu.

Ư kiến của ông Kỳ đă làm tôi vô cùng ngạc nhiên, nhưng khi cân nhắc kỹ vấn đề, tôi cho rằng đây có lẽ cũng là một ư kiến hay. V́ lúc trước, khi c̣n làm việc ngoại giao, tôi vẫn thường đến Tokyo, do đó tin đồn bắt đầu lan tràn rằng tôi đă được chọn làm đại sứ ở Nhật. Nhưng những tin đồn này lại tan biến ngay. Ít lâu sau, ông Kỳ cho vời tôi vào nói rằng: "Nếu có phục vụ ở nước ngoài th́ ông sẽ là đại sứ ở Hoa Thịnh Đốn chứ không phải Tokyo." Thường th́ mỗi khi cần cử đại sứ sang bất kỳ quốc gia nào khác, chánh phủ Việt Nam cũng phải thông báo cho chánh phủ nước đó và đợi họ chấp thuận. V́ vậy, trước khi tôi có thể sang Hoa Kỳ, các thủ tục ngoại giao đă kéo dài trong nhiều tuần lễ. Tuy thế, chẳng bao lâu sau Lễ Giáng Sinh năm 1966, tôi và gia đ́nh đă có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất để bắt đầu chặng bay đầu tiên của chuyến hành tŕnh sang Hoa Kỳ.

Tuy mong được phục vụ ở Hoa Thịnh Đốn, tôi vẫn lo âu rằng không biết rằng ḿnh có đủ khả năng để làm tṛn nhiệm vụ hay không? Tôi hy vọng được nhậm chức thật âm thầm nhưng những hy vọng của tôi tan biến ngay khi đến Hoa Thịnh Đốn. Hành tŕnh đến Hoa Thịnh Đốn của tôi được loan báo ầm ĩ trên hai tờ New York Times và Washington Post. Theo tờ Post th́ tôi là một trong những "cố vấn quan trọng nhất" của Thủ Tướng Kỳ; trong khi đó, tờ Times viết rằng tôi đóng "một vai tṛ quan trọng trong việc thiết lập cả các chính sách về nội bộ cũng như về ngoại giao." Lúc này, bất kỳ vấn đề là ǵ, hễ có dính dáng đến Việt Nam đều là tin tức, v́ vậy, việc tôi nhậm chức đă trở thành tin tức đáng kể. Hai mục báo đă khiến dư luận Hoa Kỳ chú ư đến tôi. Vị trí khác biệt bất ngờ đă khiến tôi cảm thấy vô cùng bỡ ngỡ vào lúc ban đầu.

Hai ngày sau khi tôi đến ṭa Bạch Ốc để tŕnh ủy nhiệm thư th́ nghi lễ nhậm chức đại sứ bắt đầu. Nếu so sánh với những thủ tục lễ nghi của các nước khác, chẳng hạn như Anh Quốc th́ thủ tục lễ nghi của Ṭa Bạch Ốc tuy không có những chuyến xe ngựa kéo đi quanh những nơi lịch sử như Court of Saint James, nhưng lại có những nét uy nghi của một nền dân chủ. Bên ngoài là Thủy Quân Lục Chiến dàn hàng đứng chào, bên trong văn pḥng tổng thống ngọn lửa ấm áp tỏa ra từ những chụm củi cây đối chọi dường như hoàn toàn với thời tiết lạnh lẽo và những khung cảnh tuyết trắng xóa phía ngoài. Lúc nh́n quanh căn pḥng, bất chợt đầu óc tôi lóe lên ư nghĩ rằng có lẽ ḿnh đă vượt một chặng đường dài lắm kể từ khi xếp hàng đứng đợi Thiếu Tá Patti và Tướng Gallagher ở Hà Nội hơn hai chục năm về trước.

Tổng thống Johnson chào đón tôi thật niềm nở. Lúc này tuy không phải là lúc để nói chuyện nhiều về các vấn đề quan trọng mà ông vẫn hỏi tôi về t́nh h́nh Việt Nam như thể vấn đề Việt Nam là vấn đề mà ông thường xuyên suy nghĩ. Sau vài phút nói chuyện ngắn ngủi, Tổng Thống Johnson giới thiệu tôi với những kư giả của Ṭa Bạch Ốc. Họ là những người đă có đầy đủ những câu hỏi chuyên nghiệp soạn thảo kỹ lưỡng đang chờ tôi trả lời.

Mối giao thiệp giữa tôi và giới báo chí tiếp tục nảy nở và khoảng một tuần lễ rưỡi sau tôi được mời nói chuyện qua chương tŕnh Gặp Gỡ với Giới Báo Chí (Meet The Press). Đây là một biến cố tôi chờ đợi chẳng khác nào một con cừu đang chờ đợi ngày lên đường vào ḷ sát sinh. Tuy ở Việt Nam, tôi đă có kinh nghiệm với những phóng viên ngoại quốc nhưng t́nh thế lúc đó lại khác hẳn. Lúc đó người nắm cương vị chủ chốt là tôi nhiều hơn là họ. Lần này, những phóng viên lừng danh trong giới báo chí như Lawrence Spivak, Max Frankel, Peter Lisagore, Carl Rowan, và Ron Nessen sẽ liên tục phỏng vấn tôi trong suốt nửa giờ. Trước khi phỏng vấn tôi th́ một phóng viên có tiếng ôn ḥa là phóng viên Spivak đă nói chuyện chi tiết với tôi để thử xem liệu tŕnh độ Anh Ngữ của tôi có đủ vượt qua những thử thách của cuộc phỏng vấn hay không. Tuy thế, cho đến lúc câu chuyện của ông Spivak đă chấm dứt mà cả hai chúng tôi vẫn chẳng thể quyết định được rơ ràng. Chúng tôi bèn mời ông Đặng Đức Khôi đến ṭa đại sứ đến để nếu cần th́ sẽ có người thông dịch giúp.

Ông Đặng Đức Khôi là người đă sống ở Hoa Kỳ rất nhiều năm. Ông chẳng những đă thông thạo Anh Ngữ mà c̣n có nhiều nhận xét rất tinh tế về văn hóa Hoa Kỳ. Ông đă tŕnh bày rơ ràng những điều căn bản khi gặp giới báo chí và nhấn mạnh những tâm trạng nghi ngờ, đối nghịch vốn dĩ là bản tính của đa số phóng viên Hoa Kỳ. Trong khi chúng tôi cùng nhau sửa soạn cho buổi phỏng vấn, ông Khôi đă đưa ra những câu hỏi hóc búa nhất -về tham nhũng, về việc các viên chức Việt Nam lúc nào cũng lạc quan quá mức, về tật hay tuyên bố mạnh dạn của ông Kỳ và về các cuộc thương thuyết ḥa b́nh -Ông Khôi đă đưa ra gần như tất cả các câu hỏi có thể đưa ra.

Tôi trả lời bằng cách đi thẳng vào vấn đề. Chẳng hạn như tôi không thể nào chối căi rằng không hề có tham nhũng ở Việt Nam. Vấn đề tham nhũng chẳng những đă đầy dẫy mà c̣n lộ liễu đến mức độ đáng xấu hổ. Nhưng tôi có thể giải thích tại sao tham nhũng lại hoành hành dữ dội như vậy và đưa ra những chính sách chống tham nhũng chính phủ hiện đang áp dụng. Khi đă chuẩn bị kỹ càng cho cuộc phỏng vấn, tôi cảm thấy an tâm hơn. Dầu sao tôi cũng đă trực tiếp đương đầu với vấn đề này gần ba năm trường và đă có đủ dữ kiện để trả lời gần như mọi câu hỏi.

Khi cuộc phỏng vấn chính thức diễn ra tôi đă có thể tự trả lời, không phải phiền đến ông Khôi. Tuy tôi chưa hề biết trước rằng những câu trả lời cho một cuộc phỏng vấn truyền h́nh lúc nào cũng phải ngắn, gọn, vốn liếng Anh Ngữ của tôi vẫn đủ cho phép tôi trả lời rất tường tận những câu hỏi được đưa ra. Phái đoàn phỏng vấn hỏi những câu hỏi thật sát với vấn đề, nhưng hễ cứ khi nào tôi đưa lời bổ túc các ư kiến đă phát biểu th́ phóng viên Spivak lại ngắt lời để tiếp tục đưa ra những câu hỏi khác. Sau hai ba lần liên tục như vậy, tôi đă nhận ra rằng ḿnh phải lao ḿnh vào thử thách. Bất kể trên thực tế nội dung của các câu hỏi đưa ra phức tạp đến độ nào, phái đoàn phỏng vấn vẫn yêu cầu tôi trả lời thật ngắn và thật chi tiết.

Họ muốn biết rơ về các vấn đề chẳng hạn như liệu Sài G̣n có điều đ́nh với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay không? Tôi trả lời rằng "Không" v́ MTGP thật sự do Hà Nội cầm đầu, và rồi tôi nói thêm rằng bất kỳ lúc nào chúng tôi cũng vui ḷng đàm phán với Bắc Việt. Những người phỏng vấn lại hỏi rằng MTGP cũng đang chiến đấu, tại sao Việt Nam lại chẳng thể điều đ́nh với họ. Làm sao tôi có thể giải thích chỉ một đôi câu ngắn ngủi để họ có thể hiểu rơ được những kinh nghiệm bản thân tôi đă trải qua khi phải đối phó với những tổ chức Việt Minh vào thời kháng Pháp hoặc tŕnh bày tường tận được rằng MTGP là một tổ chức mới được thiết lập vào năm 1960, trong lần họp hội nghị thứ ba của đảng ở Hà Nội, vào lúc đảng bắt đầu khẳng định rơ rệt chủ trương: Phải giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước bằng vũ lực? Trước những khoản thời gian gấp rút, eo hẹp đến gần như chớp mắt, làm sao tôi có thể diễn giải mạch lạc được mọi vấn đề như: MTGP là một tổ chức do Bắc Việt tổ chức ở Hà Nội và măi đến năm 1959 tổ chức này mới xâm nhập vào Miền Nam Việt Nam. Kể từ năm 1964 toàn thể các sư đoàn Bắc Việt đều đă hoạt động toàn lực. COSVN, một tổ chức cầm đầu cách mạng ở MNVN chính là một chi nhánh do đảng Cộng Sản thiết lập và lănh đạo. Cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài G̣n đều biết rất rơ những vấn đề vừa kể. (Sau năm 1975, chính những thành viên của đảng Cộng Sản cũng đă xác nhận những sự kiện trên trong các tài liệu chiến tranh Việt Nam.) Nhưng làm sao tôi có thể thuyết phục được các phóng viên khi họ cứ nhất định khăng khăng cho rằng tất cả đều chỉ là những chuyện bịa đặt vô căn cứ?

Tuy phải đối phó với những câu hỏi hóc búa trong một thời gian cực kỳ ngắn ngủi, khi cuộc phỏng vấn kết thúc, tôi vẫn cảm thấy hài ḷng. Tôi cũng rất ngạc nhiên v́ bầu không khí căng thẳng của buổi phỏng vấn. Hiển nhiên sự thể cho thấy tôi vẫn c̣n phải học hỏi rất nhiều, nhất là về cung cách cẩn trọng của những phóng viên Hoa Kỳ khi thâu thập tin tức. Tuy thế, tôi đă vượt qua được mọi thử thách. Về sau, tôi c̣n được biết rằng tuy nghề nghiệp thường buộc giới báo chí phải đứng vào tư thế đối nghịch với chính quyền, rất nhiều kư giả là những người cởi mở và vô cùng đứng đắn.

Trong những tuẫn lễ đầu ở Hoa Thịnh Đốn, tôi đă bỏ ra rất nhiều th́ giờ để gọi những cú điện thoại theo thủ tục của giới ngoại giao. Tôi cũng bắt đầu tiếp xúc với những nhân vật trong chánh phủ Hoa Kỳ, những dân biểu quốc hội và các Thượng Nghị Sĩ. Khoảng thời gian đầu, thời tiết Hoa Thịnh Đốn chuyển tuyết. Hương vị mùa đông đến với gia đ́nh chúng tôi bằng những cụm tuyết trắng và những cơn gió lạnh trong một khung cảnh hoàn toàn trái ngược với bầu không khí nhiệt đới của Sài G̣n.

Nếu so sánh thời tiết và khung cảnh đời sống th́ đời sống gia đ́nh tôi ở Hoa Thịnh Đốn c̣n khác biệt với Sài G̣n xa hơn nữa. Tại Sài G̣n cuộc chiến là một phần của khung cảnh đời sống và v́ vậy, tiềm thức của những người sống ở Việt Nam đă quen với vấn đề chiến cuộc. Chẳng những thế, ngay ở Sài G̣n, chiến cuộc lại c̣n có vẻ xa rời, gần như chỉ là một cái ǵ đó vẫn c̣n ở xa. Nhưng ở Hoa Thịnh Đốn là một nơi cách tầm nguy hiểm cả 10,000 dặm mà kỳ lạ thay, chiến cuộc lại gần như kề sát. Mỗi sáng khi tôi thức dậy th́ tờ Times và tờ Post đă đăng tải những tin tức về chiến tranh Việt Nam thật chi tiết; Sau khi đọc qua những tin tức tường tŕnh trên hai tờ báo, tôi dùng những khoản thời giờ c̣n lại trong ngày để đối phó với vấn đề chiến cuộc và rồi về đêm tôi lại theo dơi màn ảnh truyền h́nh để nghe thêm tin tức. Lúc này tôi chưa biết rằng ḿnh đang mục kích chiến tranh Việt Nam qua một nhăn quan khác biệt: Chiến tranh Việt Nam qua màn ảnh Ti Vi. Lúc này tôi chưa hề thấy rơ những ấn tượng đang ăn vào tiềm thức những khán thính giả khi họ theo dơi cuộc chiến Việt Nam qua dư luận của giới báo chí và qua màn ảnh truyền h́nh. Dĩ nhiên tôi lại càng chưa thể nhận định được đây chính là một trong những phương diện khác biệt của chiến cuộc. Tôi lại càng chưa thể nhận định được rồi đây chính những hậu quả phát xuất từ những h́nh ảnh tôi đang mục kích sẽ dần dà ăn ṃn sự kiên nhẫn của dân chúng Hoa Kỳ và trở thành nguyên nhân chính buộc Hoa Kỳ phải chấm dứt can thiệp.

Nhịp độ cuộc sống ở Hoa Thịnh Đốn cũng hoàn toàn khác biệt. Trước đây, khi c̣n ở Sài G̣n, v́ là cố vấn đặc biệt của ông Kỳ nên tôi đă phải đương đầu với những cuộc khủng hoảng kéo dài tưởng chừng như chẳng bao giờ dứt. Gần như lúc nào cũng có hàng loạt các khó khăn luôn luôn chờ đợi tôi, chẳng những thế mà khó khăn cũng là một khủng hoảng đáng kể đ̣i hỏi phải được lập tức giải quyết. Mặc dù tôi quả có đối phó được với những vấn đề khó khăn ở Sài G̣n, nhưng tôi vẫn phải xoay sở thật khốn khổ. Trong khi đó th́ ở Hoa Thịnh Đốn tôi thức dậy mỗi sáng, thong thả đọc thật kỹ tờ nhật báo, rồi mới bắt tay vào việc sửa soạn thời khóa biểu cho những cuộc họp mặt trong ngày. Thỉnh thoảng mới có một vài biến chuyển bất ngờ và chẳng có ǵ đáng gọi là khủng hoảng. Cuộc sống hàng ngày chỉ là một cuộc sống b́nh lặng trật tự chẳng khác nào những đợt tuyết thỉnh thoảng vẫn rơi âm thầm bên ngoài. Nếu so sánh đời sống êm ả ở Hoa Thịnh Đốn lúc này với cuộc sống của tôi trong những năm về trước ở Việt Nam, khi tôi phải làm việc liên tục dưới áp lực thường xuyên để đối phó với những khó khăn ở Sài G̣n th́ đây quả là một sự thay đổi đáng kể.

Đối với tôi th́ Hoa Thịnh Đốn quả thực là một thử thách lớn lao. Chỉ riêng một việc t́m hiểu quốc hội Hoa Kỳ cũng đă là một công việc vô cùng phức tạp và khó khăn. Hạ viện bao gồm 435 dân biểu. Thượng Viện bao gồm 100 Thượng Nghị Sĩ chưa kể đến hàng trăm những nhân viên phụ tá và hàng chục những ủy ban, tiểu ban. Chỉ nội việc t́m cách ghi rơ danh sách và t́m hiểu về các hoạt động của các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ cũng chẳng khác nào phải t́m cách băng qua một khu rừng rậm chưa hề được khai phá.

Tôi được may mắn là có một số người bạn giúp đỡ giới thiệu với những người cần phải quen biết ở thủ đô Hoa Kỳ. Sau khi đến Hoa Thịnh Đốn được một thời gian ngắn th́ tôi gặp Thượng Nghị Sĩ Everett Dirksen, lănh tụ thiểu số của Thượng Viện. Có lẽ do mối hảo cảm đặc biệt nên chúng tôi vừa gặp nhau đă hợp nhau ngay. Ông Dirksen giải thích tỉ mỉ cho tôi những lề lối làm việc và sự quan trọng của từng nhân vật trong quốc hội. Một trong những vấn đề ông dặn tôi phải lưu ư là việc nên t́m gặp những nhân vật đứng đầu các ủy ban quan trọng, chẳng hạn như ủy ban ngoại giao và ủy ban quân sự. Chính ông đích thân dàn xếp những cuộc gặp gỡ lúc đầu cho tôi.

Tuy những cuộc gặp gỡ vào lúc ban đầu thật là hữu ích, lúc này tôi vẫn chưa hề biết rằng rồi đây nhiều cuộc gặp gỡ sẽ trở thành những mối giao hảo lâu bền và kéo dài đến cả khi tôi không c̣n phục vụ ở Hoa Thịnh Đốn nữa. Một cuộc gặp gỡ điển h́nh đă biến thành mối giao hảo lâu bền về sau là cuộc gặp gỡ giữa tôi và thượng nghị sĩ George Aiken của tiểu bang Vermont. Theo lời bà Aiken th́ "Ông Thống Đốc" đă coi tôi như một người em luôn cần bao bọc. Chúng tôi hay cùng nhau nói chuyện, lúc th́ trong văn pḥng riêng của ông, khi th́ ở ṭa đại sứ mỗi lần ông bà đến dùng bữa tối với chúng tôi. Vào những dịp như vậy ông vẫn thường giúp cho tôi rất nhiều ư kiến.

V́ ông là bạn thân của Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, lănh tụ đa số của Thượng Viện, nên ông Aiken thường nói rơ cho tôi nghe những quan niệm của ông Mansfield. Ông cũng thường chuyển những ư nghĩ của tôi cho ông Mansfield và các thượng nghị sĩ khác trong cả hai đảng dân chủ và Cộng Ḥa. Ông Aiken là một người dân vùng New England chất phác, đứng đắn và rất dí dỏm.

Những ư kiến của Thượng Nghị Sĩ Aiken lúc nào cũng sát với thực tế. Ông nhắc nhở tôi rất nhiều về việc phải sửa soạn trước, phải biết rơ quan niệm và khuynh hướng của các dân biểu hay thượng nghị sĩ trước khi đến gặp họ. Ông cho rằng tôi không nên bỏ thời giờ nói chuyện với những người đă có định kiến về cuộc chiến Việt Nam. Ông Aiken cũng khuyên tôi không nên quá lạc quan trong vấn đề nhận diện ai là bạn và phải luôn luôn cố gắng giữ vững những mối giao hảo đă gầy dựng được.

Có lẽ đối với những nhân vật trong chính giới ở Hoa Thịnh Đốn th́ tất cả những điều này chỉ là những nhận xét tối thiểu, nhưng đối với một người chưa hề tiếp xúc với đời sống truyền thống dân chủ như tôi th́ đây lại là những điều thật mới lạ. Tôi không khỏi vài phần sững sờ khi nhận chân ra rằng ḿnh đang tiếp xúc trực tiếp với một xă hội sống động trong một bầu không khí và lề lối dân chủ. Đây là một xă hội vừa linh hoạt, vĩ đại, lại vừa phức tạp bội phần. Tất cả những dân biểu đều là đại biểu của những địa phương đă bầu cho họ. Mỗi dân biểu đều có những khó khăn riêng. Phần nhiều thái độ của họ đối với vấn đề Việt Nam tùy thuộc rất nhiều vào các vấn đề khó khăn của những địa phương mà họ đại diện. Họ chỉ suy nghĩ về chiến cuộc Việt Nam một cách gián tiếp và những câu hỏi chính của họ thường là: Cuộc chiến Việt Nam có ảnh hưởng ǵ đến dân chúng trong những tiểu bang mà họ đại diện hay chăng? Đây là một điều rất lạ đối với tôi. Tôi thường nghĩ rằng vấn đề Việt Nam phải là vấn đề chính của nhiều dân biểu nhưng vào năm 1967 th́ những nhận định của tôi không đúng hẳn.

Một khám phá khác không kém phần ly kỳ là tuy trong số những người tôi tiếp xúc có rất nhiều người đứng ở những cương vị cao mà vẫn không hề có tầm hiểu biết bao quát như tôi đă lầm tưởng. Trong các cuộc họp với những dân biểu Hoa Kỳ, đă nhiều lần tôi chú tâm sửa soạn chờ nghe những lời nghị luận sâu sắc của họ nhưng rồi lại phải giật thót người v́ những ư kiến được đưa ra chẳng những đă thật ngờ nghệch mà c̣n phản ảnh rơ rệt sự thiếu hiểu biết của những người phát biểu. Tệ hơn nữa là những người phát biểu lại tŕnh bày sự ngờ ngệch của họ thật công khai và không hề có ư dấu diếm. Đă không biết bao nhiêu lần tôi phải sững người v́ những câu hỏi vượt ngoài sức tưởng tượng. Có lẽ nếu đứng trên một phương diện nào đó th́ việc các dân biểu, thượng nghị sĩ chỉ biết rơ về những tiểu bang họ đại diện và mù tịt về vấn đề quốc tế chỉ là một chuyện tự nhiên. Nhưng việc phải tiếp xúc với những dân biểu chỉ quan tâm tới những vấn đề địa phương lúc nào cũng làm tôi khó chịu. Tôi phải cố gắng sửa đổi quan niệm để chấp nhận rằng trong số những người đang bỏ phiếu định đoạt số phận Việt Nam lại có cả những kẻ chưa hề biết rằng Việt Nam đă có lần là thuộc địa Pháp. Đối với tôi th́ vấn đề cần sửa đổi để thích ứng với những thực tế loại này là những bài học vô cùng khó khăn.

Tôi cũng không thể hiểu được những dân biểu chống chiến tranh một cách triệt để như các Thượng Nghị Sĩ McGovern, Fullbright và Church. Mặc dù ông Aiken đă nhiều lần có ư giới thiệu tôi với họ, tôi vẫn không hề có ư muốn gặp họ bao giờ. Không phải tôi ngần ngại về việc phải đối phó với những ư kiến của họ mà v́ tôi cảm thấy cung cách của họ thật là cao ngạo và thiếu lịch sự. Đă có vài dân biểu chống đối chiến tranh nhưng họ vẫn là những người thành thật và đứng đắn. Chẳng hạn như Thượng Nghị Sĩ Mansfield. Tuy là người phản đối chiến tranh, ông cũng là người hiểu biết lư luận cũng như c̣n tỏ vẻ quan tâm đến những vấn đề phức tạp của chiến cuộc và ông cũng nhận định rơ ràng rằng quyết định chấm dứt chiến tranh sẽ là một quyết định quan trọng có liên quan đến vấn đề định đoạt số mệnh của hàng chục triệu gia đ́nh Việt Nam.

Đă đành rằng trong khi bàn luận về vấn đề liệu có nên giúp đỡ Việt Nam hay không th́ những người như Thượng Nghị Sĩ McGovern và Fullbright có quyền tŕnh bày quan điểm riêng, nhưng thái độ và những luận điệu lăng mạ của họ đối với giới lănh đạo Việt Nam thật hoàn toàn bất công. Thượng Nghị Sĩ McGovern đă gọi ông Thiệu là "viên tướng tham nhũng" và phát biểu rằng ông Kỳ không xứng đáng lănh "dù chỉ là một xu nhỏ viện trợ của Hoa Kỳ." Tuy chính tôi cũng có những dè dặt riêng đối với ông Thiệu và ông Kỳ, nhưng thật sự th́ Thượng Nghị Sĩ McGovern biết ǵ về những cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Miền Nam Việt Nam? Từ chiếc ghế Thượng Viện, liệu ông đánh giá đúng được bao nhiêu nỗ lực của Miền Nam Việt Nam? Phải chăng ông ta không hiểu rơ được rằng nếu c̣n có được một cơ hội cho Miền Nam Việt Nam th́ cơ hội đó phải đến từ những cố gắng để củng cố cho những mầm mống dân chủ mong manh đang bắt đầu được phát triển? Phải chăng ông ta không hiểu rơ được rằng từ bỏ Miền Nam Việt Nam có nghĩa là chối bỏ giá trị của tất cả những điều mà ông đang quyết tâm bảo vệ?

Nhưng thay v́ được nghe những cuộc bàn căi tranh luận thâm thúy, những điều tôi thấy hoàn toàn chỉ là những ngôn từ dễ dăi hời hợt của những nhà lănh tụ khi họ đồng hóa chiến cuộc Việt Nam với trường hợp giúp đỡ hay ủng hộ tướng này hay tướng nọ. Đây là một hành động tự kiêu, tự đại và đồng thời cũng là một hành động lăng mạ, sỉ nhục Việt Nam. Đă nhiều lần tôi lên tiếng cùng giới báo chí khi lời lăng mạ của họ có phần quá đáng và có lần tôi đă yêu cầu họ phải xin lỗi công khai trước dư luận. Mối liên hệ duy nhất giữa tôi và những nhóm phản chiến cực đoan chỉ có thế.

Cùng lúc tôi bắt đầu làm quen với quốc hội th́ tôi cố gắng thiết lập những mối liên lạc với chánh quyền. Một trong những nhà chức trách mà tôi thường xuyên gặp gỡ vào lúc này là ông William Bundy, phụ tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông và Thái B́nh Dương Sự Vụ. Chúng tôi biết nhau v́ đă cùng làm việc ở nhiều hội nghị Việt Mỹ trước đây. Ông Bundy nguyên là một trong những người thuộc nhóm thân cận của tổng thống Johnson, v́ vậy ông được biết hầu hết những chánh sách quan trọng trong chính phủ Hoa Kỳ. Chẳng bao lâu sau ông trở thành nguồn dây liên lạc chính giữa tôi và chánh quyền Hoa Thịnh Đốn. Hơn nữa, ông c̣n là người cùng làm việc với tôi hàng ngày. Khi đă trở thành thân thiết với ông Bundy, tôi cảm thấy có thể tŕnh bày thành thật với ông những quan niệm của Việt Nam. Tuy là người có tiếng văn hoa, nhưng ông Bundy vẫn thường trực tiếp tŕnh bày quan niệm của Hoa Kỳ một cách thực tế chứ không câu nệ những thể thức ngoại giao rườm rà thường làm lu mờ đi ư chính của các vấn đề bàn luận.

Mối liên hệ giữa tôi và Ngoại Trưởng Dean Rusk th́ có vẻ h́nh thức hơn, tuy vậy nhưng mỗi khi cần, tôi vẫn thường được dịp thẳng thắn trao đổi ư kiến với ông. Ngoại Trưởng Rusk vốn là người kiên cường và tự tin. Ông cho rằng Hoa Kỳ phải tiếp tục cương vị của một đồng minh lúc nào cũng giữ vững lập trường và lời hứa. Ông Rusk quan niệm Việt Nam là một cuộc thử thách đầu tiên với những chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Con người ông Rusk lúc nào cũng hết sức nghiêm trang và mang một vẻ cương quyết khó thể lay chuyển. Ông là hiện thân của Hoa Kỳ trong những cương quyết âm thầm, luôn luôn đi sát với các chủ định ngoại giao. Ấn tượng ban đầu của tôi về ông c̣n trở nên rơ rệt hơn khi tôi thấy ông ở riêng trong một thế giới biệt lập của chính ḿnh. Pḥng làm việc của ông ở tầng lầu thứ 7 của Bộ Ngoại Giao được trang trí thật đơn giản và toát ra một vẻ nghiêm trang đến gần như ngột ngạt.

Hai người bạn thân khác tôi quen ở ṭa Bạch Ốc là ông Bill Jorden, phụ tá của cố vấn an ninh quốc gia Walt Rostow và ông Robert Komer, phụ tá đặc biệt của tổng thống về vấn đề kinh tế ở MNVN. Qua hai nhân vật này, tôi có thể cảm thấy gần như trực tiếp áp lực mà vị tổng thống Hoa Kỳ phải chịu đựng khi ông cố dung ḥa các chánh sách để thỏa măn cả những nhu cầu của đồng minh lẫn những đ̣i hỏi của các vấn đề khó khăn trong nước, nhất là khi những dư luận phản đối ông đang ào ạt ngày càng gắt gao. Tôi thường nói chuyện với các nhân viên Hoa Kỳ trong những buổi ăn trưa ở sứ quán Việt Nam. Bầu không khí thảnh thơi ở sứ quán thường cho phép chúng tôi tṛ chuyện thoải mái và lâu dài hơn. Khung cảnh dễ chịu và thức ăn ngon, khác hẳn vối không khí căng thẳng của những buổi họp thường khiến chúng tôi bàn luận thật ḷng hơn và nhờ vậy tôi có thể hiểu được rành mạch những suy tư của chánh phủ Hoa Thịnh Đốn.

Cả hai ông Komer và Jorden đều là những nhân vật khác thường. Ông Komer khổ người cao và gầy. Trong số tất cả những người tôi đă gặp th́ ông có lẽ là người hiếu động nhất. Ông cho rằng bất kỳ bài toán khó nào cũng đều có một đáp số thỏa đáng. Nếu đáp số chưa được đích xác hoàn toàn th́ chẳng qua chỉ là v́ nỗ lực giải đáp chưa được đặt đúng mức. Lập luận của ông đă khiến ông được mệnh danh là "Một bố đuốc đang cháy." Khi tŕnh bày những quan tâm của ṭa Bạch Ốc trong việc nhận định những vấn đề phức tạp nhiều mặt của chiến cuộc Việt Nam ông Komer suy diễn vừa mạnh mẽ lại vừa lưu loát. Dĩ nhiên những quan tâm của Ṭa Bạch Ốc luôn được tôi gửi thẳng về Sài G̣n bằng điện tín.

So với ông Komer th́ ông Jorden lại là một loại người khác hẳn. Ông là người trầm lặng, khiêm tốn và gần như dè dặt. Tuy thế, khi tŕnh bày những hiểu biết về cái nh́n của Hoa Thịnh Đốn th́ ông vô cùng tinh tế. V́ xuất thân từ ngành báo chí, ông Jorden đă hiểu cặn kẽ những khó khăn của MNVN. Ông giúp tôi tŕnh bày những khó khăn của Sài G̣n cho phù hợp với những nỗi quan tâm của ṭa Bạch Ốc. Đây là một sự giúp đỡ lớn lao khi tôi phải nỗ lực chuyển về Sài G̣n những đề nghị của tôi. Nh́n từ một phương diện nào đó th́ ông đă làm cho quan niệm của hai quốc gia gần lại với nhau. Tôi không hề ngạc nhiên khi ông Jorden đă điều đ́nh thành công vụ vịnh eo biển Panama (The Panama Canal) lúc sau này.

Qua ông Jorden tôi gặp ông Walt Rostow lần đầu ở văn pḥng cố vấn an ninh quốc gia. Lúc này văn pḥng cố vấn an ninh quốc gia vẫn c̣n nằm ở tầng lầu dưới của ṭa Bạch Ốc. Ông Rostow chào tôi với một nụ cười thật tươi như thể đang đón chào một người bạn đồng nghiệp cùng làm nghề giáo sư đang ghé chơi và bàn luận những đề tài học đường. Thật ra những cuộc bàn luận với ông Rostow luôn luôn có vẻ là những cuộc bàn luận có tính cách học giả hơn là những cuộc bàn luận ngoại giao. Quan niệm của ông về những phát triển kinh tế và chính trị đối với những nước c̣n đang phát triển trùng hợp rất nhiều với những quan niệm của tôi. Tuy rằng trong những quan niệm của ông thỉnh thoảng cũng có một vài điểm có vẻ không thích hợp với trường hợp đặc biệt của chiến cuộc Việt Nam, nhưng ông quả là một người hiểu biết uyên bác hiếm có về thế giới Cộng Sản.

Những người chỉ trích ông Rostow cho rằng ông là một trong những nhân vật diều hâu, luôn luôn sẵn sàng ủng hộ những biện pháp mạnh. Chẳng hạn như ông đă cho rằng Hoa Kỳ nên đổ bộ vào Bắc Việt. Riêng về vấn đề can thiệp vào Việt Nam th́ ông đă cho rằng Hoa Kỳ cần can thiệp để -để ủng hộ các quốc gia nhược tiểu vừa mới thoát ách thực dân kiến thiết chính trị và kinh tế. Đối với tôi th́ lư luận của ông Rostow dĩ nhiên khác những lư luận của chính quyền Hoa Kỳ lúc đó. Hoa Kỳ lúc đó cho rằng họ cần can thiệp để có thể giữ vững thế quân bằng chính trị toàn cầu và ngăn chận sự xâm lược của Cộng Sản.

Vào cuối tháng 2 năm 1967, giữa lúc tôi đang cố gắng tạo dựng những ngọn dây liên lạc ở Hoa Thịnh Đốn th́ Sài G̣n có lệnh triệu hồi tôi về để tham khảo ư kiến. Căn cứ vào những mối liên lạc gần gũi giữa tôi cùng chánh quyền Sài G̣n và tầm mức quan trọng của "yếu tố Hoa Kỳ" đối với những biến cố của Việt Nam th́ việc họ triệu hồi tôi về cũng chẳng có ǵ là lạ cả: Quốc Hội Lập Hiến đă soạn xong bản dự thảo hiến pháp. Giờ đây đă đến lúc Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia phải quyết định chấp nhận hoặc phế bỏ bản dự thảo hiến pháp. Nói rơ hơn th́ chánh phủ quân nhân lúc này phải tự buông bỏ chánh quyền hoặc chối bỏ tất cả những lời hứa ở hội nghị Honolulu lúc trước. Cùng một lúc với những tin ở Sài G̣n về việc Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia phải có quyết định về bản dự thảo hiến pháp th́ cũng có tin là lại sẽ có một hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Việt nữa sắp sửa được triệu tập.

22. Hiến Pháp Dân Chủ

Ở Sài G̣n lúc này bản Hiến Pháp đă được soạn thảo xong. Đây là bản Hiến Pháp đầu tiên, đánh dấu những nỗ lực dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc Hội Lập Hiến đă bỏ ra rất nhiều thời giờ soạn thảo bản hiến pháp. Nếu nh́n vào cả phạm vi lai lịch lớn rộng của các thành phần trong ban soạn thảo lẫn thời gian họ cùng nhau thảo luận trước khi đưa ra bản dự thảo hiến pháp th́ có lẽ ai cũng có thể thấy rằng bản dự thảo của quốc hội lập hiến lúc đó là quả là một công tŕnh đáng kể. Bản dự thảo Hiến Pháp đề nghị một chánh phủ bao gồm ba cơ quan chính là Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. Cơ quan Lập Pháp gồm hai viện là Thượng Viện và Hạ Viện. Cơ quan Hành Pháp gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng. Nh́n vào quá tŕnh chính trị của Việt Nam suốt trong khoảng hai thập niên 1950-1960 th́ quả thật nét nổi bật nhất là đảo chánh và xáo trộn. Hết chế độ độc tài này cho đến chế độ độc tài khác thay phiên nhau đưa ra những chính sách chẳng có căn bản ǵ nhất định. Hết ông Diệm lật đổ Bảo Đại lại đến các tướng tá đảo chánh ông Diệm. Sau đó chính các tướng tá đảo chánh lại bị chỉnh lư để mở đường cho một chính phủ dân sự đầu tiên chỉ nắm quyền được trong ṿng năm tháng. Cuối cùng th́ chính phủ của Miền Nam Việt Nam lại được những người quân nhân đứng ra lănh đạo. Bản Hiến Pháp lúc này có lẽ phản ảnh rơ hơn bao giờ hết sự quan tâm của những người soạn thảo Hiến Pháp đối với t́nh trạng xáo trộn của Việt Nam trong quá khứ. Guồng máy chính phủ do bản Hiến Pháp đề ra cho thấy những người soạn thảo Hiến Pháp đă suy nghĩ rất nhiều về vấn đề cần phải t́m cách để ngăn ngừa những trường hợp độc tài. Hiến Pháp đề nghị một guồng máy chính phủ bao gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng và cơ quan Lập Pháp. Vào lúc này th́ câu hỏi chính là: Liệu những người trong chánh phủ quân nhân có đồng ư hay không? Đây có lẽ là lư do họ triệu tôi về để tham khảo ư kiến. Họ muốn biết rơ Hoa Kỳ suy nghĩ ra sao về vấn đề Hiến Pháp của Việt Nam.

Thật ra đây là một câu hỏi tôi có thể trả lời ngay. Việc Hoa Kỳ quan niệm ra sao đối với vấn đề thành lập một chánh phủ hợp hiến là một việc tôi đă rơ từ lâu. Quan niệm này mọi người cũng đă thấy rơ ở hội nghị Honolulu. Tuy thế, trước giờ khởi hành để về lại Việt Nam, tôi vẫn đến gặp ông Walt Rostow để duyệt lại t́nh h́nh tổng quát ở cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ. Ông Rostow khẳng định rằng chính phủ Hoa Kỳ chắc chắn đă đồng ư chấp thuận bản dự thảo Hiến Pháp và vấn đề công bố bản Hiến Pháp quả là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với tổng thống Johnson. Ông Rostow cho rằng tổng thống Johnson mong Việt Nam chấp thuận bản hiến pháp v́ hai lư do. Thứ nhất, đây là một hành động để chứng tỏ rằng những quân nhân lănh đạo Việt Nam là những người biết trọng lời hứa. Thứ hai là ông có thể dùng thành quả này để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ rằng việc Hoa Kỳ can thiệp là hoàn toàn xác đáng.

Kể từ năm 1967, Hoa Kỳ đă bắt đầu giảm dần những sự ủng hộ của họ đối với Việt Nam. Nguyên do của vấn đề giảm thiểu là v́ nỗ lực can thiệp của họ chẳng mang lại thành quả nào cụ thể. Lúc này, tuy đă có khoảng 400,000 binh sĩ Hoa Kỳ đóng ở Việt Nam mà vẫn chưa ai nh́n thấy sự thành công nào rơ rệt. V́ thiếu những thành quả trên lănh vực quân sự nên Hoa Kỳ thấy cần phải có những tiến triển trên lănh vực chính trị. Những tiến triển này có thể cho phép chánh phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng: "Tuy chúng tôi vẫn chưa thể khẳng định được những thành công về mặt quân sự nhưng vẫn có những tiến triển khả quan trên những phương diện khác."

Nếu muốn có những thành quả chính trị ở Việt Nam th́ dĩ nhiên Hoa Kỳ phải đẩy mạnh việc chấp thuận hiến pháp. Trước khi tôi lên đường, ông Robert Komer cũng tiết lộ rằng chính vấn đề này đă khiến chánh phủ Hoa Thịnh Đốn đang dự định một cuộc họp thượng đỉnh khác. Lần này th́ cuộc họp được dự trù ở Guam, một ḥn đảo ở Thái B́nh Dương.

Tôi trở lại Sài G̣n vào ngày 6 tháng 3-1967, khi thành phố đang trong bầu không khí lạc quan. Lư do chính của sự lạc quan là do hai yếu tố: Thứ nhất: Bất kể cuộc chiến nghiêng ngửa ra sao th́ mọi người vẫn có cảm tưởng là cuộc chiến vẫn c̣n ở xa. Thứ Hai: Việt Nam vẫn được một đồng minh vĩ đại đấu lưng giúp sức. T́nh trạng này khiến Bắc Việt không thể nào đoạt được thắng lợi. Nhưng niềm lạc quan của Sài G̣n một phần khác cũng c̣n là v́ bản Hiến Pháp lúc này đă được hoàn tất. Đây là một công việc đă chiếm lĩnh phần lớn tâm trí của nhiều đoàn thể chính trị trong suốt nửa năm trời.

Nhưng lúc này, ở Hoa Thịnh Đốn những người đang chỉ trích chiến cuộc lại gạt bỏ tất cả những tiến triển dân chủ ở Sài G̣n sau cuộc bầu cử. Đối với họ th́ những phong trào dân chủ chẳng hạn như -Bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, soạn thảo hiến pháp mới và những cuộc bầu cử sau khi có hiến pháp chẳng qua chỉ là những bức họa trang trí mà Hoa Kỳ đang nóng ḷng đắp điếm để cố giúp Việt Nam thể hiện phần nào bộ mặt dân chủ. Thật sự th́ chánh quyền Johnson quả có lợi dụng những nỗ lực ở Việt Nam để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ cho những chánh sách của họ, nhưng chính người dân Việt Nam cũng có chủ trương hẳn hoi về vấn đề dân chủ. Đây là việc khó thể chối căi.

Sau 100 năm chung đụng với người Pháp, người dân Việt đă bị ảnh hưởng rất nhiều. Một mặt th́ họ bị tiêm nhiễm những ảnh hưởng xấu của người Pháp, chẳng hạn như về vấn đề bè phái, nhưng mặt khác họ cũng thấm nhuần được những ảnh hưởng có lợi cho vấn đề áp dụng dân chủ. Một trong những ảnh hưởng đáng kể là chính trị đă nhiễm vào tập quán của người dân Việt và nếu môi trường cho phép th́ chắc chắn quan niệm dân chủ sẽ có dịp phát triển ở Việt Nam. Nếu chỉ nói riêng về khả năng tiếp nhận những quan niệm dân chủ th́ người dân Việt quả hoàn toàn không khác ǵ những dân tộc khác. Khi đă có cơ hội để t́m hiểu và áp dụng những quan niệm dân chủ, người dân Việt Nam sẽ học hỏi vô cùng nhanh chóng. Hơn nữa, một khi tiến tŕnh dân chủ đă bắt đầu th́ đà cải tiến thường tự phát xuất mỗi ngày một nhanh.

Kết quả là ở Sài G̣n chẳng ai là người không tranh luận về vấn đề hiến pháp. Những đoàn thể chính trị đă bàn căi sôi nổi, nhưng các giới lănh đạo quân nhân lại c̣n bàn căi sôi nổi hơn v́ lúc này quyền quyết định chấp thuận hay không là ở trong tay họ. Đây là lúc các tướng lănh sẽ phải chấp nhận hoặc bác bỏ thể thức dân chủ ngay trước dư luận trong nước và ngoài nước.

Dĩ nhiên các tướng lănh không lấy ǵ làm vui vẻ chấp nhận bản hiến pháp mới này, nhất là những vị tư lệnh vùng chiếm đóng ở 4 quân khu. Họ sẽ bị mất mát rất nhiều quyền lợi. Nếu chính phủ Việt Nam là một chính phủ dân chủ th́ những tư lệnh vùng sẽ phải phụ thuộc vào những người lănh đạo chính trị. Hơn nữa, đối với những người sắp được bầu ra, họ hoàn toàn không có chút ǵ ảnh hưởng. Đây là vấn đề chính mà họ quan tâm. Những tư lệnh vùng lư luận rằng họ là những người đang điều động chiến cuộc và họ chẳng thể hao tổn thời giờ để đối phó với những sự rối ren, bất trắc của một chính phủ hợp hiến. Họ hoàn toàn không tin vào việc thành lập một chánh phủ dân sự.

Vừa đặt chân về tới Sài G̣n tôi đă bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận sôi nổi trong cả hai giới quân sự lẫn dân sự. Bất kỳ nơi nào tôi đến, câu hỏi đầu tiên vẫn là: "Người Hoa Kỳ phản ứng ra sao về vụ này?" Lúc nào tôi cũng trả lời: "Đương nhiên Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ việc chấp thuận bản hiến pháp, nhưng đối với tôi đây không phải là vấn đề quan trọng. Vấn đề quan trọng chính là chúng ta phải tự hỏi xem liệu hiến pháp có cho chúng ta thêm phần sức mạnh nào trong công cuộc tranh đấu chống cộng hay không?" Câu trả lời mạnh dạn của tôi là: "Có."

Tôi dùng hết cả th́ giờ vào việc góp ư kiến với các ông Thiệu, ông Kỳ và các vị tướng lănh khác. Tôi nói với họ rằng chúng ta phải hành động đi đôi với lời đă hứa trước kia ở Honolulu. Không có lư do ǵ có thể khiến chúng ta hành động trái nghịch lại với lời nói của chính ḿnh. Hơn nữa, chúng ta phải tiến hành mọi việc cho kỹ càng, minh bạch càng sớm càng tốt.

Khi nói chuyện với ông Thiệu và ông Kỳ tôi thấy dường như ḿnh đang đẩy vào một cánh cửa đă hé. Mặc dù ông Thiệu và ông Kỳ chưa quyết tâm đồng ư, tôi cho rằng họ đă ngấm ngầm chấp nhận ư kiến hiến pháp và bầu cử. Trước hết họ hiểu được tư thế của Hoa Kỳ. Họ cũng hiểu được tầm quan trọng của những lời họ phát biểu trước đây. Thứ hai là họ c̣n biết rằng Hiến Pháp vẫn không tước đoạt quyền lănh đạo của họ. Nhất là khi chính họ sẽ giữ thế thượng phong trong việc điều hành các cuộc bầu cử tổng thống. V́ vậy, vấn đề đối với họ hoàn toàn khác hẳn đối với những vị tướng lănh khác. Chẳng có ǵ đáng chống đối và hơn nữa lại có rất nhiều lư do chính đáng để họ được thêm uy tín khi tiến đến một chánh thể dân chủ. Theo cách nh́n của tôi th́ rơ ràng tất cả mọi yếu tố đều là những yếu tố khả quan. Nếu ông Thiệu và ông Kỳ càng có nhiều lư do riêng để chấp thuận Hiến Pháp bao nhiêu th́ việc chấp thuận lại có triển vọng càng nhiều bấy nhiêu. Vấn đề chính là làm thế nào để phát động mọi việc.

Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 3-1967, ông Thiệu và ông Kỳ đă triệu tập một buổi họp chánh thức ở dinh độc lập. Cuộc họp bao gồm tất cả Bộ Trưởng và các Tư Lệnh quan trọng trong giới lănh đạo quân sự. Sau khi đă tranh luận kỹ lưỡng và đề cập tất cả mọi khía cạnh cũng như chi tiết của vấn đề Hiến Pháp, ông Thiệu thúc dục tôi bày tỏ ư kiến. Khi giới thiệu tôi, ông Thiệu có ư thầm nhắc rằng những điều tôi sắp tŕnh bày sẽ là ư kiến của Hoa Kỳ. Ông giới thiệu tôi là: "Một nhân vật của Hoa Thịnh Đốn."

Tôi tŕnh bày ư kiến của tôi một cách ngắn gọn và nhắc lại rằng tôi đă ủng hộ việc soạn thảo bản hiến pháp kể từ lúc đầu. Sau đó tôi nói thêm: "Những kinh nghiệm trên chính trường quốc tế đă cho tôi thấy chánh quyền Việt Nam phải tỏ rơ quyết tâm tiến tới một chánh thể dân chủ hợp hiến. Hơn nữa, nếu không chấp thuận bản hiến pháp th́ cũng chẳng c̣n giải pháp nào khác hơn." Khi tôi dứt lời, cuộc bỏ phiếu bắt đầu. Tất cả đều đồng ḷng chấp thuận bản hiến pháp. Vài ngày sau, khi hiến pháp đă được công bố, th́ ông Bill Bundy đến Sài G̣n và thông báo rằng Tổng Thống Johnson đă dự định một cuộc họp Thượng Đỉnh vào ngày 20 tháng 3-1967 ở Guam. V́ đă quen với những thủ tục tổ chức qua hai cuộc họp thượng đỉnh ở Manila và Honolulu lúc trước, tôi lại được đề cử sắp xếp mọi việc lần này. Nhờ đă có chút kinh nghiệm nên công việc sắp xếp lần này không c̣n hấp tấp và bỡ ngỡ như những lần trước. Tuy vậy, công cuộc sắp xếp lại gặp rắc rối v́ một biến chuyển bất ngờ ở Liên Hiệp Quốc vào ngày 14 tháng 3-1967.

Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc U Thant là một người phản chiến. Ông ít có kinh nghiệm về những đ̣n phép của Bắc Việt và tin tưởng thật thơ ngây rằng Hà Nội sẽ vui ḷng đàm phán Ḥa B́nh. Trước đây ông đă gặp các đại biểu của Hà Nội và sau khi cùng họ thảo luận các vấn đề đàm phán ḥa b́nh, ông Thant có gửi một bản văn thư đến cho ông Arthur Goldberg, đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc. Trong bản văn thư đó, ông Thant chánh thức đề nghị việc đàm phán đ́nh chiến và tạo dựng ḥa b́nh giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Bắc Việt.

Nói chung th́ Hoa Kỳ vẫn xem thường ông U Thant và có vẻ nghi ngờ các đề nghị đàm phán của ông, nhưng với bản tính nghi kỵ cố hữu của người Việt Nam th́ sự trùng hợp ngẫu nhiên về thời điểm mà ông U Thant đưa ra các đề nghị và thời điểm của cuộc họp thượng đỉnh ở Guam đúng là do Hoa Kỳ ngấm ngầm xếp đặt. Tại Việt Nam, tin đồn bắt đầu vang động rằng cuộc họp thượng đỉnh đă được dàn xếp để đẩy phần lợi về phía Hoa Kỳ và ép buộc Việt Nam vào thế yếu trong chiến cuộc. Hậu quả là chúng tôi đă phải bỏ ra rất nhiều thời giờ để trả lời ông U Thant và làm tất cả những ǵ chúng tôi có thể làm để đánh tan dư luận.

Cuộc họp thượng đỉnh ở Guam lần này là lần hội kiến thứ ba của Hoa Kỳ và các lănh tụ MNVN. Lần này cả hai phái đoàn đều cố gắng đi thẳng vào vấn đề. Tổng Thống Johnson vẫn đi cùng những nhân vật quan trọng như Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara, ông Walt Rostow và những tư lệnh quân sự tối cao khác. Ông Thiệu, ông Kỳ cũng cùng đi với các Bộ Trưởng cao cấp của Việt Nam.

Cuộc họp tiến hành vào ngày thứ hai, 20 tháng 3-1967. Ngoài việc duyệt lại tổng quát t́nh h́nh chiến sự, chương tŕnh nghị sự c̣n bao gồm cả ba vấn đề chính: Những đề nghị đàm phán ḥa b́nh của Tổng Thư Kư U Thant, những tiến triển chính trị ở Việt Nam và những nỗ lực đàm phán ḥa b́nh. Tuy thế, khi mọi người vừa an vị th́ Tổng Thống Johnson lại đưa thêm một vấn đề nữa vào chương tŕnh nghị sự. Ông giới thiệu hai nhân vật mới của Hoa Kỳ là ông Ellsworth Bunker và ông Robert Komer. Ông Ellsworth Bunker sẽ là đại sứ ở Việt Nam thay thế đại sứ Henry Cabot Lodge và ông Robert Komer sẽ đến Việt Nam để điều hành chương tŕnh xây dựng nông thôn trên cả hai lănh vực quân và dân sự.

Chúng tôi đă biết về việc đề cử từ trước nhưng gần như tất cả phái đoàn Việt Nam đều ṭ ṃ về ông đại sứ mới. Đây chỉ là nói một cách nhẹ nhất. Ở thời điểm này cương vị đại sứ chẳng những đă ảnh hưởng các thể thức điều động chiến cuộc mà c̣n ảnh hưởng cả đến t́nh h́nh nội bộ của Việt Nam nữa. Những tháng kế tiếp sẽ là những giai đoạn chính trị tối quan trọng của Việt Nam v́ cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam đă được dự định vào mùa thu năm đó. Giữa lúc này bỗng nhiên một nhân vật hoàn toàn mới lạ lại bước vào chính trường Việt Nam.

Ông Ellsworth Bunker ngồi im tại bàn, không hề phát biểu ǵ nhiều. Khổ người ông dong dỏng cao và tuy đă nhiều tuổi mà trông ông vẫn có vẻ quắc thước và rơ ràng đầy ắp nghị lực. Ông vươn cổ về phía chúng tôi như thể muốn thu gọn tất cả các khuôn mặt Việt Nam vào một cái nh́n. Phong thái nghiêm trang của ông khiến người đối diện phải có đôi phần dè dặt. Chỉ ít lâu những người Việt Nam đă gọi ông là "Ông Già Tủ Lạnh." Lúc đó, chẳng một ai trong chúng tôi lại có thể ngờ rằng ông Bunker lại chính là một người bạn hết sức thành thực của Việt Nam về sau này.

Khi phần giới thiệu đă qua, hai phái đoàn bắt đầu chính thức thảo luận theo chương tŕnh nghị sự. TT Johnson vẫn chủ tọa cuộc họp như thường lệ. Phong cách của ông thật linh hoạt. Nếu quả thật ông không c̣n tin tưởng hoàn toàn vào các nỗ lực can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam th́ trong buổi họp hôm đó vẫn chưa ai nhận thấy có bất kỳ cử chỉ nào đáng ngờ. Ông quay về hướng các cố vấn và phụ tá vây quanh, đưa ra những câu hỏi, hỏi sâu thêm vào chi tiết và ra lệnh trong vẻ vững vàng của một vị nguyên thủ hoàn toàn tự chủ. Tuy lần này ông không c̣n dùng những câu thành ngữ khó hiểu như lần họp trước, TT Johnson vẫn đ̣i hỏi những thành quả cụ thể và cấp tốc.

Chỉ có một người duy nhất dường như không bị những cách tŕnh bày cả quyết của Tổng Thống Johnson ảnh hưởng tí nào là Bộ Trưởng McNamara. Ông im lặng một cách vô cùng lạ kỳ và quên cả ghi chép vào những tờ giấy ghi chú màu vàng nho nhỏ như thường lệ. Thái độ trầm tư của ông thật là khó hiểu. Thực sự th́ lúc đó tôi cũng không để ư nhiều đến thái độ trầm tư của ông. Măi về sau này chúng tôi mới biết vị Bộ Trưởng Quốc Pḥng đă nghi ngờ những nỗ lực can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Ở Guam, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều có vẻ tự tin và ḥa nhập dễ dàng với những người lănh đạo Hoa Kỳ hơn bất kỳ lúc nào trước đây. Họ đă nắm quyền trong suốt hai năm trời và ở một mức độ nào đó đă trưởng thành trong khi làm việc. Hơn nữa, chỗ đứng của họ lại vững vàng hơn trước. Dĩ nhiên là vững vàng hơn nhiều so với lúc c̣n ở Honolulu, khi họ vẫn c̣n đang phải nỗ lực để tự tạo uy tín riêng. Hiện giờ, mới chỉ hơn một năm sau, họ đă có thể tuyên bố rằng ḿnh đă chu tất lời hứa khi công bố hiến pháp và dàn xếp sửa soạn cho cuộc bầu cử toàn quốc. Đây là một giây phút hănh diện cho họ nói riêng và cho toàn thể Việt Nam nói chung.

TT Johnson đón nhận những thành quả của Việt Nam thật nồng nhiệt. Ông có vẻ vẫn chú tâm vào cả hai phương diện: Về yếu tố nhân sự cũng như về chính trị toàn cầu. Ông thật khác với những người như Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara. Những người này chỉ chú tâm đến những sách lược toàn cầu hơn là về bất cứ điều ǵ khác. Theo tôi thấy th́ có lẽ trong thâm tâm tổng thống Johnson, những vấn đề có liên quan đến yếu tố nhân sự vẫn chiếm lĩnh phần lớn. Ở Honolulu ông đă tiếp xúc với ông Thiệu và ông Kỳ mặt đối mặt và kết cục đă quyết tâm giúp đỡ người Việt.

Cá tính này bộc lộ rơ rệt ở cuộc họp thượng đỉnh ở Guam khi quan hệ giữa ông và hai ông Thiệu, Kỳ ngày càng tiến triển. Cả chính cá nhân tôi cũng đă có lần được tổng thống Johnson chú tâm. Một lần, trong khi đang dùng bữa trưa, ông đă hỏi tôi có liên hệ ǵ với đặc sứ Bùi Viện, một đặc sứ được vua Tự Đức gửi sang Hoa Kỳ vào thời gian Tổng Thống Ulysses S. Grant hay không. Đầu tiên tôi không nhận rơ được là ông Johnson đang nói về ai nhưng sau ba bốn lần lập lại, tôi đă trả lời rằng giữa tôi và đặc sứ Bùi Viện thật chẳng có liên hệ ǵ cả. Đặc sứ Bùi Viện được Tổng Thống Ulysses S. Grant tiếp đón nhưng không được ủng hộ. Tôi cũng nói thêm rằng tôi là chắt nội của đặc sứ Bùi Dỵ, c̣n có tên là Bùi Ân Niên, cũng là đặc sứ cùng thời với đặc sứ Bùi Viện nhưng lại được cử làm đặc sứ sang Trung Hoa vào thời đó. Tổng thống Johnson có vẻ thất vọng nhưng cũng đề cập ngay trong buổi họp rằng chắc chắn tôi sẽ được nhiều may mắn hơn vị đặc sứ khi trước.

Điều làm tôi chú ư là việc Tổng Thống Johnson đă bỏ thời giờ cho lệnh các nhân viên thuộc cấp xem xét lai lịch của cả đến những nhân viên phụ tá của ông Thiệu và ông Kỳ để thiết lập những mối liên hệ cá nhân. Đây là cá tính nổi bật của Tổng Thống Johnson. Khi bàn luận với ông, tôi biết rằng ḿnh đang bàn luận với một người nh́n vấn đề đặt trên quan niệm nhân sự. Bất kể ông thành bại ra sao, lúc nào tổng thống Johnson cũng quan niệm thất bại dựa trên phương diện nhân sự. Dù cho tầm mức cần thiết của quyết định thực sự quan trọng đến mức nào, ông vẫn bị ám ảnh nếu những quyết định này đưa đến hậu quả đau khổ cho người khác. Khi đă hiểu rơ cá tính của Tổng Thống Johnson, tôi cảm thấy có cảm t́nh với ông. Ngay cả sau khi ông đă rời Ṭa Bạch Ốc, tôi vẫn giữ mối giao hảo với ông.

Trong suốt cuộc họp, chỉ có một tin xấu làm lệch lạc các chính sách xây dựng nông thôn là vấn đề khó khăn trong nỗ lực kiểm soát miền quê và kêu gọi nông dân hợp tác với chính phủ. Tại những vùng ở miền Trung, phẫn uất đối với chánh quyền Sài G̣n vẫn c̣n nhiều. V́ thế Việt Cộng đă t́m được cơ hội lợi dụng ở rất nhiều nơi. Tại những miền này và vài nơi khác Cộng Sản đă cố mở rộng ảnh hưởng và cố nắm phần chủ động, mặc dù mỗi lần chạm mặt, Việt Cộng vẫn bị đập tan không c̣n manh giáp.

Những tiến triển về xây dựng nông thôn không được khả quan cho lắm v́ một phần lỗi lầm dẫn đến t́nh trạng này là do những hành động sai lầm của quân đội MNVN. Tuy quân số của quân đội Việt Nam đă tăng cường rất nhiều vào năm trước đây, việc huấn luyện những tân binh vào quân đội vẫn chưa hoàn toàn thành công. Một yếu tố quan trọng khác là do sự phân định trách nhiệm không được rơ rệt giữa quân đội chính qui và các lực lượng địa phương quân, nhất là giữa các đơn vị Hoa Kỳ và các đơn vị Việt Nam. Thường th́ quân đội Việt Nam được lệnh phối hợp với quân đội Hoa Kỳ, nhưng khi đi vào chi tiết th́ mọi việc hoàn toàn lộn xộn. Theo ông Robert Komer th́: "[T́nh trạng khó khăn là] do hậu quả của sự thiếu phối hợp. Thay v́ phối hợp th́ các đoàn thể lại tranh chấp những phương tiện khan hiếm cho riêng tổ chức của ḿnh. Thế là thay v́ t́m cách hợp tác các đoàn thể lại t́m cách tranh chấp, cản trở lẫn nhau."

"Cản trở lẫn nhau" quả là cách diễn tả xác thực t́nh trạng ở Việt Nam lúc đó. Những công chức Việt Nam chưa hiểu rơ nhiệm vụ của ḿnh thường được thượng cấp cho lệnh phối hợp hoạt động cùng các nhân viên Hoa Kỳ. Nhưng phối hợp với những nhân viên Hoa Kỳ nào? Có quá nhiều các cơ quan Hoa Kỳ cùng hoạt động ở miền quê. MACV, USAID, JUSPAO, CIA, DIA. Đó chỉ mới là danh sách sơ lược của một vài cơ quan. Thường th́ các hoạt động cứ chồng chất lên nhau và lập lại y khuôn những hoạt động trước. Rồi th́ các cơ quan bỏ ra hầu hết thời giờ để đối phó với nhau. Xây Dựng Nông Thôn là bổn phận và trách nhiệm của mọi người, nhưng rút cục chẳng phải là bổn phận và trách nhiệm của ai cả.

Cuộc họp thượng đỉnh ở Guam đương đầu với vấn đề cản chân dây chuyền bằng cách đề cử ông Robert Komer điều hành trông coi toàn thể mọi nỗ lực Xây Dựng Nông Thôn. Ông và tướng Nguyễn Đức Thắng được giao phó nhiệm vụ xếp đặt cho có qui củ những chương tŕnh khác biệt. Lúc này, chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn được soạn thảo để áp dụng ngay sau khi cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam chấm dứt. Chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn nhằm mục đích tạo cho Việt Nam một thế đứng trong tương lai để có thể tự lực cánh sinh, khỏi cần đến quân đội Hoa Kỳ. Và nếu có cần th́ cũng chỉ cần viện trợ kinh tế mà thôi.

Trên phương diện này, cuộc họp ở Guam đă khởi đầu chính sách "Việt Nam Hóa Chiến Tranh", một chánh sách mà hai năm sau Tổng Thống Nixon sẽ chánh thức áp dụng. Tuy thế, vào tháng 3 năm 1967, vẫn chưa ai nghe ǵ đến danh từ "Việt Nam Hóa Chiến Tranh." Lúc này, tên của các chương tŕnh có liên quan đến chiến cuộc vẫn là "Chiến Tranh Ăn Ṃn" ("war of attrition") hoặc "Tia Sáng Cuối Đường Hầm." V́ vẫn chưa ai biết rơ thời điểm kết thúc của chiến cuộc Việt Nam mà chính quyền Johnson lại muốn có thành quả rơ rệt nên Hoa Kỳ đă chuyển viện trợ cho Việt Nam cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Nỗ lực viện trợ của Hoa Kỳ thay đổi là v́ họ muốn thấy thành quả một cách rơ rệt. Nếu chưa thể có những thành quả đáng kể về mặt quân sự th́ ít ra chính phủ Hoa Kỳ cũng muốn thấy rằng sự ủng hộ của họ đă mang lại thành quả trên những lănh vực khác chẳng hạn như kinh tế hoặc chính trị. Nói một cách rơ hơn th́ Hoa Kỳ đă bắt đầu sốt ruột.

Chúng tôi cũng đă bàn bạc riêng với nhau về các vấn đề khó khăn. Mặc dù chưa có dấu hiệu ǵ rơ rệt cho thấy rồi đây Hoa Kỳ sẽ rút lui, tôi đă cố khuyên nhủ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ về việc cần thiết phải sửa soạn trước t́nh trạng nội bộ của Việt Nam để pḥng bị trường hợp phải đối phó với sự rút lui của Hoa Kỳ.

Nếu bảo rằng đây là những vấn đề đă chiếm lĩnh đầu óc chúng tôi khi đến họp ở Guam th́ cũng không hoàn toàn đúng hẳn. Những suy nghĩ của chúng tôi, hoặc ít ra là của riêng tôi, hoàn toàn được dựa trên những điều mà tôi cho là thận trọng tối thiểu và hữu lư. Sau cuộc họp tất cả đều cho rằng đây là một cuộc họp với kết quả khả quan, tuy rằng nhận xét này vẫn có vẻ đúng cho phái đoàn Việt Nam hơn là cho phái đoàn Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hứa sẽ tiếp tục viện trợ và tham khảo ư kiến Việt Nam trong mọi biến chuyển liên quan đến những đề nghị đàm phán ḥa b́nh của Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc U Thant. Chúng tôi vô cùng hài ḷng khi thấy Hoa Kỳ có ư nhấn mạnh các chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn. Nếu chúng tôi có lo lắng th́ cũng chỉ là lo lắng cho những cuộc bầu cử sắp đến của Việt Nam mà thôi. Tại Việt Nam lúc này cuộc bầu cử đă đi đến giai đoạn tổng tuyển cử toàn quốc. Chỉ c̣n vẻn vẹn 5 tháng trước khi cuộc tổng tuyển cử bắt đầu. Đây là lần đầu tiên Việt Nam được tự do bầu cử Tổng Thống. Khi cuộc họp ở Guam kết thúc, ông Thiệu và ông Kỳ đă bắt đầu sửa soạn các chiến dịch vận động. V́ đă quen với sự hiện diện của tôi sau nhiều năm cộng tác ṛng ră, hai ông Thiệu, Kỳ đă quên rằng tôi nay đă làm đại sứ và không c̣n là một nhân vật trong chánh phủ Sài G̣n nữa. Họ mời tôi cùng lên đường về nước. Vào lúc đó, tôi cũng vừa nhận được một lời mời khác của Tổng Thống Johnson. Ông muốn tôi cùng bay chung chuyến bay với ông về Hoa Thịnh Đốn. Đây là một cử chỉ thân thiện của ông. Do đó vào ngày 21-3, tôi chia tay các bạn bè VN để tháp tùng đoàn tùy tùng của TT Johnson trên chuyến bay riêng của ông ngược về hướng đông.

Chiếc phi cơ phản lực Air Force One được trang trí một cách hết sức tỉ mỉ. Con dấu Tổng Thống dường như được khắc vào tất cả mọi vật, kể cả từ khăn tay, gạt tàn thuốc cho đến những bộ dao nhỏ. Tôi vừa an vị trên chuyến bay th́ một nhân viên đến mời tôi đến khu dành riêng của Tổng Thống để cùng ông xem phim. Tôi đến Cabin vào lúc Tổng Thống Johnson đang nằm dài trên chiếc ghế nghỉ cùng với các ông Rusk, McNamara và Rostow ngồi quanh chiếc Sofa bao quanh. Tôi ngồi chung vào với họ và chúng tôi cùng xem một cuốn phim tài liệu ngắn.

Cuốn phim tŕnh bày vấn đề Trung Quốc đang sửa soạn để trở thành một cường quốc nguyên tử, nhưng tôi thấy ḿnh không quan tâm vào màn ảnh bằng quan tâm đến những người đang ngồi xem phim. Tổng Thống Johnson ngồi xem thật trầm tư và phát biểu rất ít. Tôi tự hỏi không hiểu ông đang nghĩ ǵ và đoán rằng nếu ông đang suy tư về "yếu tố Trung Hoa" trong phương tŕnh chiến cuộc Việt Nam th́ có lẽ ông cũng không xem nhẹ Trung Hoa cho lắm. Tôi cũng suy nghĩ về những giới hạn Tổng Thống Johnson tự đặt ra khi cho lệnh phát động chương tŕnh oanh tạc Bắc Việt. Giới hạn chương tŕnh oanh tạc được đưa ra chẳng qua cũng chỉ để tránh khiêu khích Trung Hoa nhảy vào cuộc. Lúc này, chưa một ai trong chúng tôi có thể đoán trước được rằng chỉ độ vài năm sau, hai nước Xă Hội Chủ Nghĩa đang đậm đà trong một tư thế liên minh chính họ đă gọi là "Môi với Răng" lại có thể trở thành thù địch.

Chín giờ sau, máy bay đáp xuống căn cứ không lực Andrew bên ngoài Hoa Thịnh Đốn. Từ nơi này, chúng tôi lên trực thăng để đáp xuống băi cỏ phía sau Ṭa Bạch Ốc. Tại ṭa đại sứ, vào ngày hôm sau, đúng với lệ thích lưu lại kỷ niệm của người Hoa Kỳ, tôi nhận được một tấm khung lồng bản ghi rằng tôi đă cùng Tổng Thống Johnson bay qua biển Thái B́nh Dương trên chuyến bay Air Force One.

22. Hiến Pháp Dân Chủ

Ở Sài G̣n lúc này bản Hiến Pháp đă được soạn thảo xong. Đây là bản Hiến Pháp đầu tiên, đánh dấu những nỗ lực dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc Hội Lập Hiến đă bỏ ra rất nhiều thời giờ soạn thảo bản hiến pháp. Nếu nh́n vào cả phạm vi lai lịch lớn rộng của các thành phần trong ban soạn thảo lẫn thời gian họ cùng nhau thảo luận trước khi đưa ra bản dự thảo hiến pháp th́ có lẽ ai cũng có thể thấy rằng bản dự thảo của quốc hội lập hiến lúc đó là quả là một công tŕnh đáng kể. Bản dự thảo Hiến Pháp đề nghị một chánh phủ bao gồm ba cơ quan chính là Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. Cơ quan Lập Pháp gồm hai viện là Thượng Viện và Hạ Viện. Cơ quan Hành Pháp gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng. Nh́n vào quá tŕnh chính trị của Việt Nam suốt trong khoảng hai thập niên 1950-1960 th́ quả thật nét nổi bật nhất là đảo chánh và xáo trộn. Hết chế độ độc tài này cho đến chế độ độc tài khác thay phiên nhau đưa ra những chính sách chẳng có căn bản ǵ nhất định. Hết ông Diệm lật đổ Bảo Đại lại đến các tướng tá đảo chánh ông Diệm. Sau đó chính các tướng tá đảo chánh lại bị chỉnh lư để mở đường cho một chính phủ dân sự đầu tiên chỉ nắm quyền được trong ṿng năm tháng. Cuối cùng th́ chính phủ của Miền Nam Việt Nam lại được những người quân nhân đứng ra lănh đạo. Bản Hiến Pháp lúc này có lẽ phản ảnh rơ hơn bao giờ hết sự quan tâm của những người soạn thảo Hiến Pháp đối với t́nh trạng xáo trộn của Việt Nam trong quá khứ. Guồng máy chính phủ do bản Hiến Pháp đề ra cho thấy những người soạn thảo Hiến Pháp đă suy nghĩ rất nhiều về vấn đề cần phải t́m cách để ngăn ngừa những trường hợp độc tài. Hiến Pháp đề nghị một guồng máy chính phủ bao gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng và cơ quan Lập Pháp. Vào lúc này th́ câu hỏi chính là: Liệu những người trong chánh phủ quân nhân có đồng ư hay không? Đây có lẽ là lư do họ triệu tôi về để tham khảo ư kiến. Họ muốn biết rơ Hoa Kỳ suy nghĩ ra sao về vấn đề Hiến Pháp của Việt Nam.

Thật ra đây là một câu hỏi tôi có thể trả lời ngay. Việc Hoa Kỳ quan niệm ra sao đối với vấn đề thành lập một chánh phủ hợp hiến là một việc tôi đă rơ từ lâu. Quan niệm này mọi người cũng đă thấy rơ ở hội nghị Honolulu. Tuy thế, trước giờ khởi hành để về lại Việt Nam, tôi vẫn đến gặp ông Walt Rostow để duyệt lại t́nh h́nh tổng quát ở cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ. Ông Rostow khẳng định rằng chính phủ Hoa Kỳ chắc chắn đă đồng ư chấp thuận bản dự thảo Hiến Pháp và vấn đề công bố bản Hiến Pháp quả là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với tổng thống Johnson. Ông Rostow cho rằng tổng thống Johnson mong Việt Nam chấp thuận bản hiến pháp v́ hai lư do. Thứ nhất, đây là một hành động để chứng tỏ rằng những quân nhân lănh đạo Việt Nam là những người biết trọng lời hứa. Thứ hai là ông có thể dùng thành quả này để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ rằng việc Hoa Kỳ can thiệp là hoàn toàn xác đáng.

Kể từ năm 1967, Hoa Kỳ đă bắt đầu giảm dần những sự ủng hộ của họ đối với Việt Nam. Nguyên do của vấn đề giảm thiểu là v́ nỗ lực can thiệp của họ chẳng mang lại thành quả nào cụ thể. Lúc này, tuy đă có khoảng 400,000 binh sĩ Hoa Kỳ đóng ở Việt Nam mà vẫn chưa ai nh́n thấy sự thành công nào rơ rệt. V́ thiếu những thành quả trên lănh vực quân sự nên Hoa Kỳ thấy cần phải có những tiến triển trên lănh vực chính trị. Những tiến triển này có thể cho phép chánh phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng: "Tuy chúng tôi vẫn chưa thể khẳng định được những thành công về mặt quân sự nhưng vẫn có những tiến triển khả quan trên những phương diện khác."

Nếu muốn có những thành quả chính trị ở Việt Nam th́ dĩ nhiên Hoa Kỳ phải đẩy mạnh việc chấp thuận hiến pháp. Trước khi tôi lên đường, ông Robert Komer cũng tiết lộ rằng chính vấn đề này đă khiến chánh phủ Hoa Thịnh Đốn đang dự định một cuộc họp thượng đỉnh khác. Lần này th́ cuộc họp được dự trù ở Guam, một ḥn đảo ở Thái B́nh Dương.

Tôi trở lại Sài G̣n vào ngày 6 tháng 3-1967, khi thành phố đang trong bầu không khí lạc quan. Lư do chính của sự lạc quan là do hai yếu tố: Thứ nhất: Bất kể cuộc chiến nghiêng ngửa ra sao th́ mọi người vẫn có cảm tưởng là cuộc chiến vẫn c̣n ở xa. Thứ Hai: Việt Nam vẫn được một đồng minh vĩ đại đấu lưng giúp sức. T́nh trạng này khiến Bắc Việt không thể nào đoạt được thắng lợi. Nhưng niềm lạc quan của Sài G̣n một phần khác cũng c̣n là v́ bản Hiến Pháp lúc này đă được hoàn tất. Đây là một công việc đă chiếm lĩnh phần lớn tâm trí của nhiều đoàn thể chính trị trong suốt nửa năm trời.

Nhưng lúc này, ở Hoa Thịnh Đốn những người đang chỉ trích chiến cuộc lại gạt bỏ tất cả những tiến triển dân chủ ở Sài G̣n sau cuộc bầu cử. Đối với họ th́ những phong trào dân chủ chẳng hạn như -Bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, soạn thảo hiến pháp mới và những cuộc bầu cử sau khi có hiến pháp chẳng qua chỉ là những bức họa trang trí mà Hoa Kỳ đang nóng ḷng đắp điếm để cố giúp Việt Nam thể hiện phần nào bộ mặt dân chủ. Thật sự th́ chánh quyền Johnson quả có lợi dụng những nỗ lực ở Việt Nam để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ cho những chánh sách của họ, nhưng chính người dân Việt Nam cũng có chủ trương hẳn hoi về vấn đề dân chủ. Đây là việc khó thể chối căi.

Sau 100 năm chung đụng với người Pháp, người dân Việt đă bị ảnh hưởng rất nhiều. Một mặt th́ họ bị tiêm nhiễm những ảnh hưởng xấu của người Pháp, chẳng hạn như về vấn đề bè phái, nhưng mặt khác họ cũng thấm nhuần được những ảnh hưởng có lợi cho vấn đề áp dụng dân chủ. Một trong những ảnh hưởng đáng kể là chính trị đă nhiễm vào tập quán của người dân Việt và nếu môi trường cho phép th́ chắc chắn quan niệm dân chủ sẽ có dịp phát triển ở Việt Nam. Nếu chỉ nói riêng về khả năng tiếp nhận những quan niệm dân chủ th́ người dân Việt quả hoàn toàn không khác ǵ những dân tộc khác. Khi đă có cơ hội để t́m hiểu và áp dụng những quan niệm dân chủ, người dân Việt Nam sẽ học hỏi vô cùng nhanh chóng. Hơn nữa, một khi tiến tŕnh dân chủ đă bắt đầu th́ đà cải tiến thường tự phát xuất mỗi ngày một nhanh.

Kết quả là ở Sài G̣n chẳng ai là người không tranh luận về vấn đề hiến pháp. Những đoàn thể chính trị đă bàn căi sôi nổi, nhưng các giới lănh đạo quân nhân lại c̣n bàn căi sôi nổi hơn v́ lúc này quyền quyết định chấp thuận hay không là ở trong tay họ. Đây là lúc các tướng lănh sẽ phải chấp nhận hoặc bác bỏ thể thức dân chủ ngay trước dư luận trong nước và ngoài nước.

Dĩ nhiên các tướng lănh không lấy ǵ làm vui vẻ chấp nhận bản hiến pháp mới này, nhất là những vị tư lệnh vùng chiếm đóng ở 4 quân khu. Họ sẽ bị mất mát rất nhiều quyền lợi. Nếu chính phủ Việt Nam là một chính phủ dân chủ th́ những tư lệnh vùng sẽ phải phụ thuộc vào những người lănh đạo chính trị. Hơn nữa, đối với những người sắp được bầu ra, họ hoàn toàn không có chút ǵ ảnh hưởng. Đây là vấn đề chính mà họ quan tâm. Những tư lệnh vùng lư luận rằng họ là những người đang điều động chiến cuộc và họ chẳng thể hao tổn thời giờ để đối phó với những sự rối ren, bất trắc của một chính phủ hợp hiến. Họ hoàn toàn không tin vào việc thành lập một chánh phủ dân sự.

Vừa đặt chân về tới Sài G̣n tôi đă bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận sôi nổi trong cả hai giới quân sự lẫn dân sự. Bất kỳ nơi nào tôi đến, câu hỏi đầu tiên vẫn là: "Người Hoa Kỳ phản ứng ra sao về vụ này?" Lúc nào tôi cũng trả lời: "Đương nhiên Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ việc chấp thuận bản hiến pháp, nhưng đối với tôi đây không phải là vấn đề quan trọng. Vấn đề quan trọng chính là chúng ta phải tự hỏi xem liệu hiến pháp có cho chúng ta thêm phần sức mạnh nào trong công cuộc tranh đấu chống cộng hay không?" Câu trả lời mạnh dạn của tôi là: "Có."

Tôi dùng hết cả th́ giờ vào việc góp ư kiến với các ông Thiệu, ông Kỳ và các vị tướng lănh khác. Tôi nói với họ rằng chúng ta phải hành động đi đôi với lời đă hứa trước kia ở Honolulu. Không có lư do ǵ có thể khiến chúng ta hành động trái nghịch lại với lời nói của chính ḿnh. Hơn nữa, chúng ta phải tiến hành mọi việc cho kỹ càng, minh bạch càng sớm càng tốt.

Khi nói chuyện với ông Thiệu và ông Kỳ tôi thấy dường như ḿnh đang đẩy vào một cánh cửa đă hé. Mặc dù ông Thiệu và ông Kỳ chưa quyết tâm đồng ư, tôi cho rằng họ đă ngấm ngầm chấp nhận ư kiến hiến pháp và bầu cử. Trước hết họ hiểu được tư thế của Hoa Kỳ. Họ cũng hiểu được tầm quan trọng của những lời họ phát biểu trước đây. Thứ hai là họ c̣n biết rằng Hiến Pháp vẫn không tước đoạt quyền lănh đạo của họ. Nhất là khi chính họ sẽ giữ thế thượng phong trong việc điều hành các cuộc bầu cử tổng thống. V́ vậy, vấn đề đối với họ hoàn toàn khác hẳn đối với những vị tướng lănh khác. Chẳng có ǵ đáng chống đối và hơn nữa lại có rất nhiều lư do chính đáng để họ được thêm uy tín khi tiến đến một chánh thể dân chủ. Theo cách nh́n của tôi th́ rơ ràng tất cả mọi yếu tố đều là những yếu tố khả quan. Nếu ông Thiệu và ông Kỳ càng có nhiều lư do riêng để chấp thuận Hiến Pháp bao nhiêu th́ việc chấp thuận lại có triển vọng càng nhiều bấy nhiêu. Vấn đề chính là làm thế nào để phát động mọi việc.

Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 3-1967, ông Thiệu và ông Kỳ đă triệu tập một buổi họp chánh thức ở dinh độc lập. Cuộc họp bao gồm tất cả Bộ Trưởng và các Tư Lệnh quan trọng trong giới lănh đạo quân sự. Sau khi đă tranh luận kỹ lưỡng và đề cập tất cả mọi khía cạnh cũng như chi tiết của vấn đề Hiến Pháp, ông Thiệu thúc dục tôi bày tỏ ư kiến. Khi giới thiệu tôi, ông Thiệu có ư thầm nhắc rằng những điều tôi sắp tŕnh bày sẽ là ư kiến của Hoa Kỳ. Ông giới thiệu tôi là: "Một nhân vật của Hoa Thịnh Đốn."

Tôi tŕnh bày ư kiến của tôi một cách ngắn gọn và nhắc lại rằng tôi đă ủng hộ việc soạn thảo bản hiến pháp kể từ lúc đầu. Sau đó tôi nói thêm: "Những kinh nghiệm trên chính trường quốc tế đă cho tôi thấy chánh quyền Việt Nam phải tỏ rơ quyết tâm tiến tới một chánh thể dân chủ hợp hiến. Hơn nữa, nếu không chấp thuận bản hiến pháp th́ cũng chẳng c̣n giải pháp nào khác hơn." Khi tôi dứt lời, cuộc bỏ phiếu bắt đầu. Tất cả đều đồng ḷng chấp thuận bản hiến pháp. Vài ngày sau, khi hiến pháp đă được công bố, th́ ông Bill Bundy đến Sài G̣n và thông báo rằng Tổng Thống Johnson đă dự định một cuộc họp Thượng Đỉnh vào ngày 20 tháng 3-1967 ở Guam. V́ đă quen với những thủ tục tổ chức qua hai cuộc họp thượng đỉnh ở Manila và Honolulu lúc trước, tôi lại được đề cử sắp xếp mọi việc lần này. Nhờ đă có chút kinh nghiệm nên công việc sắp xếp lần này không c̣n hấp tấp và bỡ ngỡ như những lần trước. Tuy vậy, công cuộc sắp xếp lại gặp rắc rối v́ một biến chuyển bất ngờ ở Liên Hiệp Quốc vào ngày 14 tháng 3-1967.

Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc U Thant là một người phản chiến. Ông ít có kinh nghiệm về những đ̣n phép của Bắc Việt và tin tưởng thật thơ ngây rằng Hà Nội sẽ vui ḷng đàm phán Ḥa B́nh. Trước đây ông đă gặp các đại biểu của Hà Nội và sau khi cùng họ thảo luận các vấn đề đàm phán ḥa b́nh, ông Thant có gửi một bản văn thư đến cho ông Arthur Goldberg, đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc. Trong bản văn thư đó, ông Thant chánh thức đề nghị việc đàm phán đ́nh chiến và tạo dựng ḥa b́nh giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Bắc Việt.

Nói chung th́ Hoa Kỳ vẫn xem thường ông U Thant và có vẻ nghi ngờ các đề nghị đàm phán của ông, nhưng với bản tính nghi kỵ cố hữu của người Việt Nam th́ sự trùng hợp ngẫu nhiên về thời điểm mà ông U Thant đưa ra các đề nghị và thời điểm của cuộc họp thượng đỉnh ở Guam đúng là do Hoa Kỳ ngấm ngầm xếp đặt. Tại Việt Nam, tin đồn bắt đầu vang động rằng cuộc họp thượng đỉnh đă được dàn xếp để đẩy phần lợi về phía Hoa Kỳ và ép buộc Việt Nam vào thế yếu trong chiến cuộc. Hậu quả là chúng tôi đă phải bỏ ra rất nhiều thời giờ để trả lời ông U Thant và làm tất cả những ǵ chúng tôi có thể làm để đánh tan dư luận.

Cuộc họp thượng đỉnh ở Guam lần này là lần hội kiến thứ ba của Hoa Kỳ và các lănh tụ MNVN. Lần này cả hai phái đoàn đều cố gắng đi thẳng vào vấn đề. Tổng Thống Johnson vẫn đi cùng những nhân vật quan trọng như Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara, ông Walt Rostow và những tư lệnh quân sự tối cao khác. Ông Thiệu, ông Kỳ cũng cùng đi với các Bộ Trưởng cao cấp của Việt Nam.

Cuộc họp tiến hành vào ngày thứ hai, 20 tháng 3-1967. Ngoài việc duyệt lại tổng quát t́nh h́nh chiến sự, chương tŕnh nghị sự c̣n bao gồm cả ba vấn đề chính: Những đề nghị đàm phán ḥa b́nh của Tổng Thư Kư U Thant, những tiến triển chính trị ở Việt Nam và những nỗ lực đàm phán ḥa b́nh. Tuy thế, khi mọi người vừa an vị th́ Tổng Thống Johnson lại đưa thêm một vấn đề nữa vào chương tŕnh nghị sự. Ông giới thiệu hai nhân vật mới của Hoa Kỳ là ông Ellsworth Bunker và ông Robert Komer. Ông Ellsworth Bunker sẽ là đại sứ ở Việt Nam thay thế đại sứ Henry Cabot Lodge và ông Robert Komer sẽ đến Việt Nam để điều hành chương tŕnh xây dựng nông thôn trên cả hai lănh vực quân và dân sự.

Chúng tôi đă biết về việc đề cử từ trước nhưng gần như tất cả phái đoàn Việt Nam đều ṭ ṃ về ông đại sứ mới. Đây chỉ là nói một cách nhẹ nhất. Ở thời điểm này cương vị đại sứ chẳng những đă ảnh hưởng các thể thức điều động chiến cuộc mà c̣n ảnh hưởng cả đến t́nh h́nh nội bộ của Việt Nam nữa. Những tháng kế tiếp sẽ là những giai đoạn chính trị tối quan trọng của Việt Nam v́ cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam đă được dự định vào mùa thu năm đó. Giữa lúc này bỗng nhiên một nhân vật hoàn toàn mới lạ lại bước vào chính trường Việt Nam.

Ông Ellsworth Bunker ngồi im tại bàn, không hề phát biểu ǵ nhiều. Khổ người ông dong dỏng cao và tuy đă nhiều tuổi mà trông ông vẫn có vẻ quắc thước và rơ ràng đầy ắp nghị lực. Ông vươn cổ về phía chúng tôi như thể muốn thu gọn tất cả các khuôn mặt Việt Nam vào một cái nh́n. Phong thái nghiêm trang của ông khiến người đối diện phải có đôi phần dè dặt. Chỉ ít lâu những người Việt Nam đă gọi ông là "Ông Già Tủ Lạnh." Lúc đó, chẳng một ai trong chúng tôi lại có thể ngờ rằng ông Bunker lại chính là một người bạn hết sức thành thực của Việt Nam về sau này.

Khi phần giới thiệu đă qua, hai phái đoàn bắt đầu chính thức thảo luận theo chương tŕnh nghị sự. TT Johnson vẫn chủ tọa cuộc họp như thường lệ. Phong cách của ông thật linh hoạt. Nếu quả thật ông không c̣n tin tưởng hoàn toàn vào các nỗ lực can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam th́ trong buổi họp hôm đó vẫn chưa ai nhận thấy có bất kỳ cử chỉ nào đáng ngờ. Ông quay về hướng các cố vấn và phụ tá vây quanh, đưa ra những câu hỏi, hỏi sâu thêm vào chi tiết và ra lệnh trong vẻ vững vàng của một vị nguyên thủ hoàn toàn tự chủ. Tuy lần này ông không c̣n dùng những câu thành ngữ khó hiểu như lần họp trước, TT Johnson vẫn đ̣i hỏi những thành quả cụ thể và cấp tốc.

Chỉ có một người duy nhất dường như không bị những cách tŕnh bày cả quyết của Tổng Thống Johnson ảnh hưởng tí nào là Bộ Trưởng McNamara. Ông im lặng một cách vô cùng lạ kỳ và quên cả ghi chép vào những tờ giấy ghi chú màu vàng nho nhỏ như thường lệ. Thái độ trầm tư của ông thật là khó hiểu. Thực sự th́ lúc đó tôi cũng không để ư nhiều đến thái độ trầm tư của ông. Măi về sau này chúng tôi mới biết vị Bộ Trưởng Quốc Pḥng đă nghi ngờ những nỗ lực can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Ở Guam, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều có vẻ tự tin và ḥa nhập dễ dàng với những người lănh đạo Hoa Kỳ hơn bất kỳ lúc nào trước đây. Họ đă nắm quyền trong suốt hai năm trời và ở một mức độ nào đó đă trưởng thành trong khi làm việc. Hơn nữa, chỗ đứng của họ lại vững vàng hơn trước. Dĩ nhiên là vững vàng hơn nhiều so với lúc c̣n ở Honolulu, khi họ vẫn c̣n đang phải nỗ lực để tự tạo uy tín riêng. Hiện giờ, mới chỉ hơn một năm sau, họ đă có thể tuyên bố rằng ḿnh đă chu tất lời hứa khi công bố hiến pháp và dàn xếp sửa soạn cho cuộc bầu cử toàn quốc. Đây là một giây phút hănh diện cho họ nói riêng và cho toàn thể Việt Nam nói chung.

TT Johnson đón nhận những thành quả của Việt Nam thật nồng nhiệt. Ông có vẻ vẫn chú tâm vào cả hai phương diện: Về yếu tố nhân sự cũng như về chính trị toàn cầu. Ông thật khác với những người như Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara. Những người này chỉ chú tâm đến những sách lược toàn cầu hơn là về bất cứ điều ǵ khác. Theo tôi thấy th́ có lẽ trong thâm tâm tổng thống Johnson, những vấn đề có liên quan đến yếu tố nhân sự vẫn chiếm lĩnh phần lớn. Ở Honolulu ông đă tiếp xúc với ông Thiệu và ông Kỳ mặt đối mặt và kết cục đă quyết tâm giúp đỡ người Việt.

Cá tính này bộc lộ rơ rệt ở cuộc họp thượng đỉnh ở Guam khi quan hệ giữa ông và hai ông Thiệu, Kỳ ngày càng tiến triển. Cả chính cá nhân tôi cũng đă có lần được tổng thống Johnson chú tâm. Một lần, trong khi đang dùng bữa trưa, ông đă hỏi tôi có liên hệ ǵ với đặc sứ Bùi Viện, một đặc sứ được vua Tự Đức gửi sang Hoa Kỳ vào thời gian Tổng Thống Ulysses S. Grant hay không. Đầu tiên tôi không nhận rơ được là ông Johnson đang nói về ai nhưng sau ba bốn lần lập lại, tôi đă trả lời rằng giữa tôi và đặc sứ Bùi Viện thật chẳng có liên hệ ǵ cả. Đặc sứ Bùi Viện được Tổng Thống Ulysses S. Grant tiếp đón nhưng không được ủng hộ. Tôi cũng nói thêm rằng tôi là chắt nội của đặc sứ Bùi Dỵ, c̣n có tên là Bùi Ân Niên, cũng là đặc sứ cùng thời với đặc sứ Bùi Viện nhưng lại được cử làm đặc sứ sang Trung Hoa vào thời đó. Tổng thống Johnson có vẻ thất vọng nhưng cũng đề cập ngay trong buổi họp rằng chắc chắn tôi sẽ được nhiều may mắn hơn vị đặc sứ khi trước.

Điều làm tôi chú ư là việc Tổng Thống Johnson đă bỏ thời giờ cho lệnh các nhân viên thuộc cấp xem xét lai lịch của cả đến những nhân viên phụ tá của ông Thiệu và ông Kỳ để thiết lập những mối liên hệ cá nhân. Đây là cá tính nổi bật của Tổng Thống Johnson. Khi bàn luận với ông, tôi biết rằng ḿnh đang bàn luận với một người nh́n vấn đề đặt trên quan niệm nhân sự. Bất kể ông thành bại ra sao, lúc nào tổng thống Johnson cũng quan niệm thất bại dựa trên phương diện nhân sự. Dù cho tầm mức cần thiết của quyết định thực sự quan trọng đến mức nào, ông vẫn bị ám ảnh nếu những quyết định này đưa đến hậu quả đau khổ cho người khác. Khi đă hiểu rơ cá tính của Tổng Thống Johnson, tôi cảm thấy có cảm t́nh với ông. Ngay cả sau khi ông đă rời Ṭa Bạch Ốc, tôi vẫn giữ mối giao hảo với ông.

Trong suốt cuộc họp, chỉ có một tin xấu làm lệch lạc các chính sách xây dựng nông thôn là vấn đề khó khăn trong nỗ lực kiểm soát miền quê và kêu gọi nông dân hợp tác với chính phủ. Tại những vùng ở miền Trung, phẫn uất đối với chánh quyền Sài G̣n vẫn c̣n nhiều. V́ thế Việt Cộng đă t́m được cơ hội lợi dụng ở rất nhiều nơi. Tại những miền này và vài nơi khác Cộng Sản đă cố mở rộng ảnh hưởng và cố nắm phần chủ động, mặc dù mỗi lần chạm mặt, Việt Cộng vẫn bị đập tan không c̣n manh giáp.

Những tiến triển về xây dựng nông thôn không được khả quan cho lắm v́ một phần lỗi lầm dẫn đến t́nh trạng này là do những hành động sai lầm của quân đội MNVN. Tuy quân số của quân đội Việt Nam đă tăng cường rất nhiều vào năm trước đây, việc huấn luyện những tân binh vào quân đội vẫn chưa hoàn toàn thành công. Một yếu tố quan trọng khác là do sự phân định trách nhiệm không được rơ rệt giữa quân đội chính qui và các lực lượng địa phương quân, nhất là giữa các đơn vị Hoa Kỳ và các đơn vị Việt Nam. Thường th́ quân đội Việt Nam được lệnh phối hợp với quân đội Hoa Kỳ, nhưng khi đi vào chi tiết th́ mọi việc hoàn toàn lộn xộn. Theo ông Robert Komer th́: "[T́nh trạng khó khăn là] do hậu quả của sự thiếu phối hợp. Thay v́ phối hợp th́ các đoàn thể lại tranh chấp những phương tiện khan hiếm cho riêng tổ chức của ḿnh. Thế là thay v́ t́m cách hợp tác các đoàn thể lại t́m cách tranh chấp, cản trở lẫn nhau."

"Cản trở lẫn nhau" quả là cách diễn tả xác thực t́nh trạng ở Việt Nam lúc đó. Những công chức Việt Nam chưa hiểu rơ nhiệm vụ của ḿnh thường được thượng cấp cho lệnh phối hợp hoạt động cùng các nhân viên Hoa Kỳ. Nhưng phối hợp với những nhân viên Hoa Kỳ nào? Có quá nhiều các cơ quan Hoa Kỳ cùng hoạt động ở miền quê. MACV, USAID, JUSPAO, CIA, DIA. Đó chỉ mới là danh sách sơ lược của một vài cơ quan. Thường th́ các hoạt động cứ chồng chất lên nhau và lập lại y khuôn những hoạt động trước. Rồi th́ các cơ quan bỏ ra hầu hết thời giờ để đối phó với nhau. Xây Dựng Nông Thôn là bổn phận và trách nhiệm của mọi người, nhưng rút cục chẳng phải là bổn phận và trách nhiệm của ai cả.

Cuộc họp thượng đỉnh ở Guam đương đầu với vấn đề cản chân dây chuyền bằng cách đề cử ông Robert Komer điều hành trông coi toàn thể mọi nỗ lực Xây Dựng Nông Thôn. Ông và tướng Nguyễn Đức Thắng được giao phó nhiệm vụ xếp đặt cho có qui củ những chương tŕnh khác biệt. Lúc này, chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn được soạn thảo để áp dụng ngay sau khi cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam chấm dứt. Chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn nhằm mục đích tạo cho Việt Nam một thế đứng trong tương lai để có thể tự lực cánh sinh, khỏi cần đến quân đội Hoa Kỳ. Và nếu có cần th́ cũng chỉ cần viện trợ kinh tế mà thôi.

Trên phương diện này, cuộc họp ở Guam đă khởi đầu chính sách "Việt Nam Hóa Chiến Tranh", một chánh sách mà hai năm sau Tổng Thống Nixon sẽ chánh thức áp dụng. Tuy thế, vào tháng 3 năm 1967, vẫn chưa ai nghe ǵ đến danh từ "Việt Nam Hóa Chiến Tranh." Lúc này, tên của các chương tŕnh có liên quan đến chiến cuộc vẫn là "Chiến Tranh Ăn Ṃn" ("war of attrition") hoặc "Tia Sáng Cuối Đường Hầm." V́ vẫn chưa ai biết rơ thời điểm kết thúc của chiến cuộc Việt Nam mà chính quyền Johnson lại muốn có thành quả rơ rệt nên Hoa Kỳ đă chuyển viện trợ cho Việt Nam cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Nỗ lực viện trợ của Hoa Kỳ thay đổi là v́ họ muốn thấy thành quả một cách rơ rệt. Nếu chưa thể có những thành quả đáng kể về mặt quân sự th́ ít ra chính phủ Hoa Kỳ cũng muốn thấy rằng sự ủng hộ của họ đă mang lại thành quả trên những lănh vực khác chẳng hạn như kinh tế hoặc chính trị. Nói một cách rơ hơn th́ Hoa Kỳ đă bắt đầu sốt ruột.

Chúng tôi cũng đă bàn bạc riêng với nhau về các vấn đề khó khăn. Mặc dù chưa có dấu hiệu ǵ rơ rệt cho thấy rồi đây Hoa Kỳ sẽ rút lui, tôi đă cố khuyên nhủ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ về việc cần thiết phải sửa soạn trước t́nh trạng nội bộ của Việt Nam để pḥng bị trường hợp phải đối phó với sự rút lui của Hoa Kỳ.

Nếu bảo rằng đây là những vấn đề đă chiếm lĩnh đầu óc chúng tôi khi đến họp ở Guam th́ cũng không hoàn toàn đúng hẳn. Những suy nghĩ của chúng tôi, hoặc ít ra là của riêng tôi, hoàn toàn được dựa trên những điều mà tôi cho là thận trọng tối thiểu và hữu lư. Sau cuộc họp tất cả đều cho rằng đây là một cuộc họp với kết quả khả quan, tuy rằng nhận xét này vẫn có vẻ đúng cho phái đoàn Việt Nam hơn là cho phái đoàn Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hứa sẽ tiếp tục viện trợ và tham khảo ư kiến Việt Nam trong mọi biến chuyển liên quan đến những đề nghị đàm phán ḥa b́nh của Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc U Thant. Chúng tôi vô cùng hài ḷng khi thấy Hoa Kỳ có ư nhấn mạnh các chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn. Nếu chúng tôi có lo lắng th́ cũng chỉ là lo lắng cho những cuộc bầu cử sắp đến của Việt Nam mà thôi. Tại Việt Nam lúc này cuộc bầu cử đă đi đến giai đoạn tổng tuyển cử toàn quốc. Chỉ c̣n vẻn vẹn 5 tháng trước khi cuộc tổng tuyển cử bắt đầu. Đây là lần đầu tiên Việt Nam được tự do bầu cử Tổng Thống. Khi cuộc họp ở Guam kết thúc, ông Thiệu và ông Kỳ đă bắt đầu sửa soạn các chiến dịch vận động. V́ đă quen với sự hiện diện của tôi sau nhiều năm cộng tác ṛng ră, hai ông Thiệu, Kỳ đă quên rằng tôi nay đă làm đại sứ và không c̣n là một nhân vật trong chánh phủ Sài G̣n nữa. Họ mời tôi cùng lên đường về nước. Vào lúc đó, tôi cũng vừa nhận được một lời mời khác của Tổng Thống Johnson. Ông muốn tôi cùng bay chung chuyến bay với ông về Hoa Thịnh Đốn. Đây là một cử chỉ thân thiện của ông. Do đó vào ngày 21-3, tôi chia tay các bạn bè VN để tháp tùng đoàn tùy tùng của TT Johnson trên chuyến bay riêng của ông ngược về hướng đông.

Chiếc phi cơ phản lực Air Force One được trang trí một cách hết sức tỉ mỉ. Con dấu Tổng Thống dường như được khắc vào tất cả mọi vật, kể cả từ khăn tay, gạt tàn thuốc cho đến những bộ dao nhỏ. Tôi vừa an vị trên chuyến bay th́ một nhân viên đến mời tôi đến khu dành riêng của Tổng Thống để cùng ông xem phim. Tôi đến Cabin vào lúc Tổng Thống Johnson đang nằm dài trên chiếc ghế nghỉ cùng với các ông Rusk, McNamara và Rostow ngồi quanh chiếc Sofa bao quanh. Tôi ngồi chung vào với họ và chúng tôi cùng xem một cuốn phim tài liệu ngắn.

Cuốn phim tŕnh bày vấn đề Trung Quốc đang sửa soạn để trở thành một cường quốc nguyên tử, nhưng tôi thấy ḿnh không quan tâm vào màn ảnh bằng quan tâm đến những người đang ngồi xem phim. Tổng Thống Johnson ngồi xem thật trầm tư và phát biểu rất ít. Tôi tự hỏi không hiểu ông đang nghĩ ǵ và đoán rằng nếu ông đang suy tư về "yếu tố Trung Hoa" trong phương tŕnh chiến cuộc Việt Nam th́ có lẽ ông cũng không xem nhẹ Trung Hoa cho lắm. Tôi cũng suy nghĩ về những giới hạn Tổng Thống Johnson tự đặt ra khi cho lệnh phát động chương tŕnh oanh tạc Bắc Việt. Giới hạn chương tŕnh oanh tạc được đưa ra chẳng qua cũng chỉ để tránh khiêu khích Trung Hoa nhảy vào cuộc. Lúc này, chưa một ai trong chúng tôi có thể đoán trước được rằng chỉ độ vài năm sau, hai nước Xă Hội Chủ Nghĩa đang đậm đà trong một tư thế liên minh chính họ đă gọi là "Môi với Răng" lại có thể trở thành thù địch.

Chín giờ sau, máy bay đáp xuống căn cứ không lực Andrew bên ngoài Hoa Thịnh Đốn. Từ nơi này, chúng tôi lên trực thăng để đáp xuống băi cỏ phía sau Ṭa Bạch Ốc. Tại ṭa đại sứ, vào ngày hôm sau, đúng với lệ thích lưu lại kỷ niệm của người Hoa Kỳ, tôi nhận được một tấm khung lồng bản ghi rằng tôi đă cùng Tổng Thống Johnson bay qua biển Thái B́nh Dương trên chuyến bay Air Force One.

23. Khung Cảnh Hậu Trường

Khung cảnh yên tĩnh ở Hoa Thịnh Đốn vào cuối tháng 3 năm 1967 thực là phù hợp với tâm trạng phấn khởi của chúng tôi khi từ Guam trở về. Ở Hoa Kỳ lúc này những phong trào phản chiến vẫn tiếp diễn và ngày càng lan rộng, nhất là ở các khuôn viên đại học. Những Thượng Nghị Sĩ chống đối chiến tranh Việt Nam điển h́nh nhất trong lúc này là những Thượng Nghị Sĩ của đảng dân chủ như các Thượng Nghị Sĩ Morse, Church, McGovern và Fullbright. Tuy các cuộc chống đối đang lan rộng nhưng trong cuộc bầu cử quốc hội Hoa Kỳ năm 1966 đa số các dân biểu và thượng nghị sĩ của đảng Dân Chủ vẫn thắng cử ở cả Hạ lẫn Thượng Viện và thời hạn nhiệm kỳ của Tổng Thống Johnson hăy c̣n dài. Vào thời gian này vẫn chưa ứng cử viên nào khác có đủ uy tín để có thể đứng ra tranh cử với Tổng Thống Johnson. Riêng về vấn đề ủng hộ Việt Nam th́ tuy Hoa Kỳ không c̣n ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ như những lúc trước đây nhưng tầm mức ủng hộ lúc này vẫn đủ để tổng thống Johnson có thể thuyết phục quốc hội đổ thêm quân vào Việt Nam, lần này với con số 470,000.

Những bản lượng định t́nh h́nh chính trị tôi gửi về Sài G̣n vào lúc này bao gồm tất cả những điều tôi tổng kết sau những buổi thảo luận của tôi với cả giới báo chí lẫn chính quyền Hoa Kỳ. Gần như chẳng ngày nào là ngày tôi không bàn luận với các kư giả kỳ cựu của giới báo chí. Trong thời gian này, tôi đă tiếp xúc với các kư giả Joseph Kraft và Murray Marder, kư giả của tờ Washington Post; Tom Wicker, Hedrick Smith và Neil Sheehan, kư giả của báo New York Times; Crosby Noyes, kư giả của Washington Star và anh em kư giả Kalb, lúc đó đang làm việc cho CBS. Quan niệm của họ phản ảnh một phạm trù ư kiến chính trị thật là bao quát. Những cuộc gặp gỡ với các kư giả thật là có ích. Trong số những kư giả tôi đă tiếp xúc cũng có vài người bị chỉ trích rằng họ đă chú tâm quá đáng vào các vấn đề của Hoa Thịnh Đốn và v́ vậy những cái nh́n của họ đôi khi thiển cận, nhưng phần nhiều th́ những nhận xét của các kư giả vẫn thật là vô giá đối với tôi.

Dư luận thường cho rằng nếu cứ chú ư đến các ư kiến của các kư giả th́ người nghe thường khó tránh khỏi bị chủ kiến của họ ảnh hưởng. Chuyện thật không hẳn là vậy. Đă đành rằng các kư giả quả có chủ kiến, nhưng người nghe vẫn có thể phân tích vấn đề để tránh bị các chủ kiến đó ảnh hưởng. Hơn nữa, những câu chuyện của giới báo chí biết lại thường là những tin tức ít người biết đến. Đă nhiều lần những câu chuyện của họ khiến tôi phải suy nghĩ những việc tôi chưa hề biết đến, hoặc phải duyệt lại những điều mà tôi cho là đúng chắc rồi.

Đối với những kư giả có thiên kiến hoàn toàn lệch lạc với cuộc chiến Việt Nam chẳng hạn như các kư giả Anthony Lewis và Mary McGrory th́ tuy tôi vẫn nhận định rằng họ cũng là một phần quan trọng của cuộc sống chính trị, nhung tôi không hề thấy có nhiệm vụ phải tiếp xúc với họ bao giờ. Dĩ nhiên chẳng phải tất cả các phóng viên báo chí đều phải chống chiến tranh, nhưng đa số họ đều là những người lúc nào cũng nghi ngờ tất cả những tin tức của các chánh phủ bất kể là chánh phủ Hoa Kỳ hay chánh phủ Việt Nam. Bản tính đa nghi thường khiến họ tự nh́n vấn đề qua lăng kính riêng của họ và tự bỏ qua những điều họ cho là không đi đôi với những điều họ thấy. Đôi khi họ c̣n tự xem ḿnh là những nguồn tiên tri cho cuộc chiến Việt Nam. Tôi thường tự hỏi chẳng hiểu sao họ lại có thể quá chủ quan đến mức như vậy? Đa số các đại sứ ngoại quốc ở Hoa Thịnh Đốn rất ít khi được tiếp xúc với Tổng Thống Hoa Kỳ. Những dịp gặp gỡ nếu có cũng thường chỉ là vào khi có một vài buổi tiệc hàng năm. Chính ngay cả trong những dịp gặp gỡ này, cuộc tiếp xúc cũng không vượt qua khuôn khổ của những cái bắt tay. Phần nhiều các đại sứ đều làm việc thường xuyên với các nhân viên phụ tá Ngoại Trưởng. Tuy thế, v́ chiến cuộc Việt Nam là một vấn đề trầm trọng nên trường hợp của tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Tôi đă có dịp bàn luận với Tổng Thống Johnson ở cuộc họp thượng đỉnh, sau đó lại có dịp tiếp xúc với ông nhiều hơn khi tôi cùng bay với ông về Hoa Thịnh Đốn.

Vào ngày 19 tháng 4, mới chỉ vẻn vẹn bốn tuần sau hội nghị thượng đỉnh ở Guam, tôi lại được gặp tổng thống Johnson thêm một lần nữa. Lần này tôi được mời tham dự cuộc họp SEATO, một cuộc họp kín mời hầu hết các ngoại trưởng và đại sứ của Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Hồi Quốc, Thái Lan, Phi Luật Tân, Anh Quốc và Việt Nam. Cuộc họp cấm hẳn các phóng viên báo chí. Tôi đă biết đây chỉ là một buổi họp nặng phần nghi lễ và chỉ nhằm mục đích nhấn mạnh sự quan tâm của Tổng Thống Johnson về các vấn đề Á Châu. V́ vậy tôi cho rằng đây là một buổi họp không quan trọng.

Trong buổi họp ở Ṭa Bạch Ốc hôm đó, trông Tổng Thống Johnson hoàn toàn phấn khởi. Ông mới trở về sau chuyến du hành Nam Mỹ. Chuyến đi thoải mái đă mang lại cho ông nhiều sinh lực. Ông đề cập đến những vị trí quan trọng trong chiến lược Đông Nam Á. Tuy tổng thống Johnson chưa đi thẳng vào vấn đề nhưng hẳn nhiên ông đă gián tiếp nói về Việt Nam. Cũng vào chiều đó, tôi đă sắp xếp một buổi họp khác ở sứ quán Việt Nam và cần phải quay về để sửa soạn. Lúc này tôi chỉ mong cuộc họp sớm chấm dứt nên những lời b́nh luận tổng quát của Tổng Thống Johnson đă khiến tôi cảm thấy vô cùng sốt ruột.

Bỗng nhiên, khi cuộc họp gần kết thúc th́ lại có một tùy viên đến đưa cho tôi mảnh giấy nhỏ nói rằng Tổng Thống có ư muốn gặp tôi và Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ ngay sau cuộc họp. Trên đường đến văn pḥng tổng thống, cả cụ Đỗ lẫn tôi đều vừa bỡ ngỡ, vừa ṭ ṃ lại vừa lo lắng chẳng hiểu có chuyện ǵ. Chúng tôi đoán chắc đă hẳn sẽ phải có chuyện ǵ khác thường! Khi cụ Đỗ hỏi tôi, tôi đă than rằng: "Lẽ ra đây phải là câu hỏi của tôi mới đúng! Ông vừa từ Sài G̣n sang, ông có thấy chuyện ǵ khác thường bên đó không? Có thể lại có biến chuyển ǵ rắc rối về vụ Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc U Thant nữa không?"

Chúng tôi vào văn pḥng tổng thống đúng lúc Tổng Thống Johnson đang đàm đạo cùng Ngoại Trưởng Dean Rusk. Chúng tôi vừa vào th́ Ngoại Trưởng Rusk kéo ngay ông Đỗ về một bên và Tổng Thống Johnson dẫn tôi đi về phía bàn giấy của ông. Ông quàng vai tôi chẳng khác nào đang khuyên nhủ một người bạn thân. Ông cúi xuống như để cố giảm bớt phần nào khoảng cách giữa chiều cao vượt khổ của ông và chiều cao của tôi rồi nói nhỏ rằng ông đă được báo cáo về cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam và cả về ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Tổng Thống Johnson phân trần: "Ông xem, dĩ nhiên tôi nào phải là người có quyền phán đoán liệu xem ông Thiệu hoặc ông Kỳ mới là ứng cử viên xứng đáng. Theo tôi th́ cả hai đều xứng đáng, nhưng xin ông nhắn họ rằng dù thế nào đi nữa, họ phải cố gắng giữ cho được sự ổn định chính trị ở trong nước. Vấn đề này vô cùng quan trọng."

Sự quan tâm của Tổng Thống Johnson về những vấn đề tranh chấp giữa ông Thiệu và ông Kỳ thật đă rơ rành rành. Ông Già (biệt danh của Tổng Thống Johnson) đă có quá nhiều gánh nặng trên vai rồi. Thế mà giờ đây ông lại phải quàng thêm một gánh nặng nữa tuy việc hoàn toàn không phải do lỗi nơi ông. Tôi cảm thấy cực kỳ hổ thẹn khi Tổng Thống Johnson tŕnh bày vấn đề. Tuy vậy tôi cũng nói rằng tôi hiểu rơ những điều ông lo và sẽ cố hết sức chuyển lời nhắn của ông về Sài G̣n.

Trên đường quay về Ṭa Đại Sứ, lúc đi xe chung với cụ Đỗ, chúng tôi lại cùng nhau bàn luận. Tôi hỏi cụ Đỗ chẳng hiểu t́nh h́nh Sài G̣n đă thật sự gay đến độ phải đặt vấn đề như Tổng Thống Johnson hay chưa, cụ Đỗ trả lời rằng theo ư cụ th́ chưa. Cụ Đỗ cho biết rằng ở Sài G̣n lúc này dư luận đă đồn đăi rất nhiều về vấn đề những tướng lănh nào sẽ ra tranh cử Tổng Thống. Có thể trong số các tướng lănh đă có người có hành động khả nghi khiến cho Hoa Kỳ nghi rằng sẽ có đảo chánh. Cụ Đỗ cho rằng cho dù ông Thiệu và ông Kỳ có tranh chấp dữ dội đến độ nào đi nữa th́ cả hai cũng đều hiểu rơ những trách nhiệm của ḿnh. Vấn đề có đảo chánh ở Việt Nam thật khó thể xảy ra.

Nhưng những nhận định của cụ Đỗ vẫn chẳng làm tôi an tâm thêm chút nào. Tôi biết Tổng Thống Johnson chỉ mang vấn đề ra khi ông đă nhận được tin tức rơ rệt qua những cơ quan của Hoa Kỳ. Tuy thế ngoài cách nhắm mắt chuyển tin về Sài G̣n chúng tôi chẳng c̣n biết làm ǵ hơn. Chúng tôi cùng đồng ư rằng khi trở về Việt Nam, cụ Đỗ sẽ tŕnh bày rơ ràng tất cả những điều Tổng Thống Johnson nhắn nhủ. Mặt khác, v́ những liên hệ gần gũi giữa tôi và hai người lănh đạo chủ chốt của Việt Nam, tôi sẽ cố gắng gặp riêng họ để tường tŕnh khi có dịp trở về Sài G̣n. Ít lâu sau, cụ Đỗ trở lại Sài G̣n. Hẳn nhiên là những lời tường tŕnh của cụ đă có ảnh hưởng lập tức, v́ ngay sau khi cụ trở lại tôi có nhận được một bức điện tín của Thủ Tướng Kỳ mời tôi về nước để tham khảo ư kiến. Tuy thế nhưng v́ lời mời đến ngay giữa lúc tôi đang dở dang thiết lập những mối liên lạc ở Hoa Thịnh Đốn nên tôi chưa thể lập tức trở về. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng lời yêu cầu của ông Kỳ cũng không lấy ǵ làm khẩn thiết. Vả lại, biết đâu cứ để thời gian cho ông Kỳ và ông Thiệu suy nghĩ lại chẳng là một ư kiến hay? Trong khi đó, Tướng Westmoreland đă đến Hoa Thịnh Đốn để tường tŕnh trước quốc hội. Tôi viện vào biến cố này để ở lại Hoa Thịnh Đốn lâu hơn. Tôi nói với Sài G̣n rằng tôi cần ở lại quan sát phản ứng của quốc hội cùng dân chúng khi tướng Westmoreland chánh thức tŕnh bày các bản báo cáo của ông. Tôi cũng muốn xem liệu Ngũ Giác Đài sẽ phản ứng ra sao với lời yêu cầu đổ quân tăng viện mới đây của tướng Westmoreland.

Khi tôi trở lại Sài G̣n th́ trời đă vào cuối tháng năm. Lúc này mọi người đă biết rơ rằng cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều đứng ra tranh cử Tổng Thống. Lúc này chỉ c̣n một tháng nữa là hết hạn bầu cử nên cả các chính trị gia lẫn dân chúng ở Việt Nam đều hết sức chú tâm vào cuộc bầu cử. Ngoài hai ông Thiệu, Kỳ, c̣n có nhiều chính khách dân sự khác tuyên bố tranh cử. Nếu cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều tranh cử, số phiếu bị chia rẽ có thể sẽ đưa phần thắng đến cho một ứng cử viên dân sự. Lúc này, mọi người quan tâm đến cuộc bầu cử đến độ gần như chẳng ai để ư đến những biến chuyển quân sự đang diễn ra ngoài chiến trường. Dường như chẳng ai buồn để ư đến những cuộc đụng độ đang diễn ra dọc theo suốt mạn biên giới miền Trung.

Hầu hết ở khắp mọi nơi, đề tài bàn tán dường như chỉ là những vấn đề mâu thuẫn của hai giới dân-quân sự. Trong số những chính khách dân sự ra tranh cử có cả cựu quốc trưởng Phan Khắc Sửu và cựu Thủ Tướng Trần Văn Hương. Bác sĩ Quát không ra tranh cử; v́ là người Bắc mà lại chẳng có thế lực nào làm hậu thuẫn nên ông cảm thấy ḿnh không có đủ cơ hội thắng cử. Tuy rằng danh tiếng của những chính khách dân sự đứng ra tranh cử vào lúc này đă bị mất đi phần nào v́ những sự xích mích và thất bại của giới dân sự trong quá khứ, nhưng ảnh hưởng của họ đối với những người đi bầu chưa chắc đă hoàn toàn mất hẳn. Hơn nữa, tuy đất nước đă có được một sự sự ổn định tương đối trong hai năm qua khi hai ông Thiệu, ông Kỳ nắm quyền nhưng nhiều người vẫn cho rằng không nên bầu một vị tướng vào chức vị Tổng Thống. Và tuy giới quân nhân đang nắm quyền điều động cuộc bầu cử nhưng lúc này quân đội lại chia rẽ v́ cả hai ông Thiệu, Kỳ cùng đều ra tranh cử. Tôi về Sài G̣n vào đúng giữa lúc dư luận đang sôi nổi về vấn đề bầu cử.

Vào cuối tháng 5, những nhóm ủng hộ ông Thiệu và những nhóm ủng hộ ông Kỳ đă bắt đầu đụng độ một cách gay cấn. Ngoài mặt th́ uy tín của ông Thiệu vẫn kém xa ông Kỳ. V́ là một nhân vật trẻ tuổi, ông Kỳ được một nhóm tướng tá trẻ đầy năng lực ủng hộ. Nhiều người trong nhóm các tướng tá trẻ cũng là người Bắc như ông Kỳ. Hơn nữa, v́ là Thủ Tướng, ông Kỳ đă nắm gọn trong tay hầu hết mọi đầu dây uy quyền. Chẳng hạn như chính ông là người điều hành tất cả các cơ quan điều hành Bộ Nội Vụ và Bộ Thông Tin, trông coi việc phát thanh, truyền h́nh, điều hành các guồng máy cảnh sát, Công An, các lực lượng quân đội quanh thành phố. Ông Kỳ lại c̣n là Tư Lệnh Không Quân đứng đầu điều động cả toàn bộ không quân.

Trái lại, lực lượng của ông Thiệu lại gần như chẳng có ǵ cả. Ông tỏ ra là một nhân vật đứng đắn, vô cùng tự chủ và đối nghịch gần như hoàn toàn với cá tính hay chơi trội và phát biểu ẩu tả của ông Kỳ. V́ tôi là người Bắc nên nhiều người đă cho rằng tôi đứng về phe ông Kỳ. Chính ông Kỳ lại là người đă đưa tôi vào chính phủ. Hơn nữa, tôi đă từng là phụ tá đặc biệt của ông Kỳ trong gần suốt cả hai năm vừa qua. Đối với những dư luận hành lang đang sôi sục của Sài G̣n th́ tuy là đại sứ của Việt Nam, tôi chính là một người thân tín của riêng ông Kỳ. Những người đồn đăi cho rằng tôi trở về Sài G̣n lúc này không nhằm mục đích ǵ hơn là để cố vấn và chuyển những lời ủng hộ của Hoa Thịnh Đốn về cho ông Kỳ.

Việt Nam thật không thể tin rằng Hoa Kỳ lại đứng vào cương vị trung lập trong cuộc bầu cử Tổng Thống lúc này. Họ nghĩ rằng Hoa Kỳ chắc chắn đang nỗ lực vận động ngấm ngầm sau hậu trường để ủng hộ cho ứng cử viên của riêng họ (Lại có "Bàn Tay Lông Lá của CIA" nhúng vào vụ này). Sự hiện diện của tôi ở Sài G̣n đă cho thấy rơ rệt ứng cử viên nào được Hoa Kỳ ủng hộ.

Riêng tôi vẫn cố giữ những ư nghĩ cá nhân cho riêng chính ḿnh. Việc tôi quả thật một phần nào có hy vọng ông Kỳ thắng cử tuy đúng nhưng hoàn toàn là do những lư do khác hẳn những lư do mà dư luận đă buộc cho tôi. V́ đă có thời gian cộng tác gần gũi với ông Kỳ trong những hoạt động chính quyền, tôi tin rằng ông Kỳ là người chịu nghe lời thuyết phục. Ông Kỳ vốn là một nhân vật trẻ, háo động, dễ mến và ít kinh nghiệm về những hoạt động của chính phủ trên nhiều phương diện, nhưng ông cũng học hỏi rất nhanh và chịu khó nghe những ư kiến mới. Hơn nữa ông lại có cá tính can trường; ông có vẻ có tư phong của một người hùng. Thành ngữ ta có câu: "Điếc không sợ súng." Về một phương diện nào đó th́ có lẽ ông Kỳ quả là "người điếc không sợ súng". Ông có thể chấp nhận thử thách mà không cần suy nghĩ nhiều về những hậu quả của sự thất bại. Chính ông Kỳ đă chấp nhận những quan niệm Hiến Pháp và cải cách xă hội trong những bài diễn văn đọc ở cuộc họp Thượng Đỉnh tại Honolulu, trong khi ông Thiệu lại là người luôn luôn tŕ hoăn đ̣i sửa đổi hết khoản này đến khoản khác.

Trong hai người th́ ông Thiệu là người khó đối phó hơn. Ông Thiệu là người đa nghi và hay ngấm ngầm tính toán. Rất ít người có thể tin tưởng hoặc cộng tác gần gũi với ông Thiệu. Nếu đại sứ Bunker và tướng Westmoreland cho rằng những cá tính của ông Thiệu là những cá tính của một người tự chủ và biết suy xét th́ tôi lại cho rằng những cá tính đó là những nhược điểm v́ thiếu quyết đoán và do dự. Ông Thiệu có thể gật đầu khi trong bụng ông nghĩ trái lại. Tuy là người vô cùng kiên nhẫn và chịu khó, ông Thiệu không phải là một người có tầm mắt rộng lớn, có thể vượt được lên trên những mưu mô của một người làm chính trị tầm thường để trở thành một nhân vật cái thế. Bẩm chất của ông là thận trọng. Lúc nào ông cũng t́m hiểu mọi khía cạnh của vấn đề. Lúc nào ông cũng lư luận với đầy đủ mọi chiều hướng và lúc nào ông cũng tránh né để khỏi phải giải quyết trực tiếp các vấn đề.

Đă đành rằng ông Kỳ có tật phát biểu không thận trọng và hay hành động thất thường nhưng những lư do khiến tôi mong mỏi ông Kỳ thắng cuộc phần nhiều là do những nhận định kể trên. Tuy thế, ngoài mặt tôi vẫn hoàn toàn im lặng, đồng ư để mọi người bàn ra tán vào tất cả những điều họ để tâm suy nghĩ. Khi về Sài G̣n, tôi tường thuật lại với ông Kỳ về cuộc nói chuyện với Tổng Thống Johnson và về t́nh h́nh ở Hoa Thịnh Đốn nói chung. Một trong những điều tôi đề cập là vấn đề khuynh hướng ủng hộ của người dân Hoa Kỳ đă bắt đầu đi xuống. Tôi tường thuật lại những cuộc biểu t́nh, những cuộc trưng cầu dân ư và những chống đối của các sinh viên đại học ở Hoa Kỳ và những cuộc thăm ḍ của tôi với các nhân viên ngoại giao. Tôi cũng tŕnh bày thật rơ rằng Hoa Thịnh Đốn đang lo những biến chuyển tranh cử ở Việt Nam có thể đưa đến những diễn biến bất lợi khiến quân đội Việt Nam chia rẽ và trở thành hai nhóm thù nghịch.

Tối đó ông Kỳ dẫn tôi đến Bộ Tư Lệnh không lực ở Biên Ḥa để cùng dùng bữa tối với những nhân vật uy tín đang ủng hộ ông. Những nhân vật ở Bộ Tư Lệnh của ông Kỳ hôm đó bao gồm: Tướng Nguyễn Đức Thắng, Bộ Trưởng đặc trách chương tŕnh Xây Dựng Nông Thôn; Tướng Nguyễn Bảo Trị, Bộ Trưởng Thông Tin; và tướng Lê Nguyên Khang, Tổng Tư Lệnh vùng thủ đô Sài G̣n. Tôi đă biết ông Kỳ nhất quyết đứng ra tranh cử và đối với ông và những người ủng hộ ông th́ vấn đề chính chỉ là làm sao cho ông Thiệu phải bỏ cuộc.

Tôi cũng biết rằng sau nhiều cuộc tranh luận dằng co giữa hai phe, vài ngày trước đây tướng Thắng đă được chỉ định đứng ra làm áp lực khiến ông Thiệu phải tự ḿnh bỏ cuộc. Tướng Thắng được chỉ định làm đại diện v́ ông là một trong những người được Hoa Kỳ ủng hộ. Hơn nữa, hai ông Lansdale và Bob Komer, lại là đồng nghiệp của ông trong chương tŕnh xây dựng nông thôn. Lời tướng Thắng do đó sẽ có tiếng vang hơn cả. Đă vậy, tướng Thắng lại c̣n có khả năng đặt vấn đề một cách ngắn gọn và trực tiếp.

Bởi vậy tướng Thắng đến gặp ông Thiệu và lạnh lùng nói thẳng với ông Thiệu rằng ngoài cách rút lui, ông Thiệu quả không c̣n cách nào khác để chọn lựa. Dĩ nhiên đây là một cuộc đụng độ gay cấn. Nhưng rút cục th́ bất chấp những lời lẽ cộc lốc, rơ rệt của tướng Thắng, ông Thiệu đă trả lời rằng ông nhất định không chịu rút lui. Kể từ lúc đó, cục diện đă thay đổi rơ ràng thành hai phe và chẳng ai trong nhóm ông Kỳ biết phải hành động thế nào với phe đối nghịch. Đây là lư do chính khiến họ phải tham khảo ư kiến của tôi. Họ không trực tiếp nhờ tôi làm sứ giả giảng ḥa, nhưng đứng trên cương vị của một đại sứ vừa từ Hoa Thịnh Đốn trở về, việc đă rơ ràng là dù sao đi nữa th́ tôi cũng phải tới nói chuyện với ông Thiệu. Biết đâu tôi lại thuyết phục được ông trong cuộc nói chuyện cũng không chừng.

Ngày 25 tháng 5-1966, chỉ mới vài ngày sau đó, tôi đến gặp ông Thiệu nơi bàn giấy của ông ở Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc này, ông Thiệu đang làm việc ở một văn pḥng riêng nhỏ nhoi trông thật đơn độc. Đa số đồng nghiệp của ông đă về phe với ông Kỳ. Tôi báo cáo lại với ông Thiệu hệt như đă báo cáo với ông Kỳ trước đây. Tôi thuật lại cuộc nói chuyện giữa tôi và Tổng Thống Johnson và đưa ra nhận định của tôi về quan niệm của Hoa Thịnh Đốn, nhất là quan niệm sau khi Tướng Westmoreland đă báo cáo với quốc hội Hoa Kỳ vào cuối tháng 4. Chắc chắn ông Thiệu biết rơ thế nào tôi cũng đề cập đến những vấn đề khác nữa nên khi tôi vừa mới tường tŕnh chung chung mọi việc xong th́ ông đă bắt đầu nói về việc tranh cử.

Ông Thiệu nói rằng ông đă suy nghĩ kỹ càng mọi việc và đă tham khảo ư kiến của tất cả bạn bè. Ông đă quyết định đứng ra tranh cử và nhất định không chịu từ bỏ ư định. Ông Thiệu nói rằng đă đành tranh cử là vấn đề cam go, nhưng ông là người yêu nước và ông có quyền đứng ra tranh cử cũng như bao nhiêu người yêu nước khác. Ông nhất quyết không từ bỏ quyền tranh cử. Ông Thiệu nói rằng dù chỉ có hai phiếu bầu cho ông là của ông và bà Thiệu đi chăng nữa ông cũng vẫn đứng ra tranh cử. Ông đă quyết không thay đổi ư kiến.

Khi việc đă rơ ràng rằng chẳng có ǵ để nói thêm, tôi đứng dậy kiếu từ. Ông Thiệu bắt tay và ngỏ lời cám ơn tôi đă đến thăm ông. Ông nói thêm: "Ít nhất anh cũng không phải như hai thằng Thắng, thằng Trị." Đây là lời b́nh luận không mấy dấu diếm của ông Thiệu đối với những người ủng hộ ông Kỳ.

Sau khi đă thấy rơ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều đứng ra tranh cử, tôi nán lại Sài G̣n thêm vài ngày, cố liên lạc với những đoàn thể chính trị khác để lượng định ảnh hưởng của toàn cuộc tranh cử. T́nh h́nh chính trị ở Sài G̣n lúc này thật là hỗn loạn. Đây chỉ là mới nói một cách nhẹ nhàng. Ngoài hai viên tướng, c̣n có cả thảy 7 ứng cử viên dân sự. Những ứng cử viên dân sự lúc này cực kỳ phấn khởi v́ những xích mích của các ứng cử viên quân nhân. Họ đang cố hết sức ngồi lại với nhau để làm tăng thêm uy tín. Đă có cả ứng cử viên ra tranh cử với lá phiếu ḥa b́nh, ông Trương Đ́nh Dzu vận động với những chủ trương mơ hồ rằng nếu thắng cử ông sẽ điều đ́nh với Việt Cộng để xây dựng ḥa b́nh. Ông Dzu nguyên là một nhân vật bướng bỉnh, một tay chạy chọt và là một tay buôn có tầm ảnh hưởng rộng chưa hề đứng ra tranh cử cho bất cứ chức vụ ǵ trước đây. Tuy không phải là một chính khách chuyên nghiệp, ông Dzu chính là một nhân vật thời cơ đă nh́n thấy một số phiếu ḥa b́nh đang chờ đợi ông hay những ứng cử viên cổ vơ ḥa b́nh khác.

Lúc này ông Kỳ đă vận động đẩy mạnh những hoạt động tranh cử sơ khởi. (Măi đến tận tháng 7 cuộc bầu cử chánh thức mới thực sự bắt đầu). Những chiến dịch vận động của ông Kỳ là do ông Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát đứng ra điều hành. Ở bất cứ nơi nào cũng có khẩu hiệu của ông Kỳ sơn trên khắp các bức tường: "Chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ là chánh phủ của người nghèo." Ông Thiệu, trái lại, vẫn âm thầm xa rời, luôn luôn đi cùng những cố vấn riêng. H́nh như ông Thiệu đang ra công đợi chờ ông Kỳ phạm phải một lỗi lầm nặng nề nào đó bằng những hành động thiếu suy nghĩ cách này hay cách khác.

Khi đă nh́n thấy rơ t́nh h́nh tranh chấp trong giới quân sự, tôi bắt đầu đi gặp thêm các chính trị gia khác. Một trong những ư kiến tôi được nghe khi đến gặp các chính trị gia trong chánh giới Sài G̣n là một liên danh của hai ông Thiệu, Kỳ sẽ là con đường chắc chắn dẫn đến một chánh phủ vững vàng. Bởi thế trước khi lên đường trở về Hoa Thịnh Đốn tôi có đến gặp lại ông Kỳ và hỏi thẳng thừng rằng liệu ông Kỳ có thể đứng chung một liên danh với ông Thiệu hay không? Ông Kỳ trả lời rằng không, chắc chắn chuyện vận động chung cùng với ông Thiệu là chuyện không bao giờ có thể xảy ra. Ông Kỳ cũng nhờ tôi nhắn với chánh phủ Hoa Kỳ là ông bảo đảm sẽ không có bất kỳ chuyện xáo trộn nào xảy ra và cuộc thay đổi từ chính quyền này sang chính quyền khác ở Việt Nam sẽ hoàn toàn êm đẹp.

Tôi trở về Hoa Thịnh Đốn, ḷng tin tưởng vào lời hứa thành thật của ông Kỳ. Ông Kỳ đă hứa sẽ cố hết sức giữ đúng cả thể thức bầu cử lẫn sự đoàn kết trong quân đội. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa hoàn toàn chắc liệu ông có c̣n giữ được những ư định này khi phải thực sự đối phó với ông Thiệu vào ba tháng sắp tới hay không? Kết cục tôi chỉ biết chuyển lời hứa của ông Kỳ đến Bộ Ngoại Giao và Ṭa Bạch Ốc. Một khi Hoa Kỳ đă nhận được lời nhắn của ông Kỳ th́ có lẽ cả Tổng Thống Johnson lẫn Ngoại Trưởng Dean Rusk đều rất hài ḷng, nhưng nếu nh́n vào những ǵ mới xảy ra ở Sài G̣n vào những thời gian gần nhất, tôi biết rằng lời hứa của ông Kỳ chưa chắc đă bảo đảm được t́nh trạng ổn định của Sài G̣n trong giai đoạn sắp tới. V́ vậy, lúc này tôi chỉ c̣n biết hy vọng hoặc nói đúng hơn là chỉ c̣n biết nguyện cầu cho mọi việc được hoàn toàn êm đẹp.

24. Cuộc Bầu Cử 1967

Đối với giới báo chí Hoa Kỳ th́ tháng 6 và tháng 7, 1967 là những tháng chiến cuộc ở Việt Nam tương đối trầm lặng. Từ trước đến nay gần như lúc nào tin tức trong các trang đầu của những tờ báo Hoa Kỳ cũng là về cuộc chiến Việt Nam, nhưng lúc này những tin tức đăng trong trang nhất lại là những tin tức khác hẳn. Các tờ báo Hoa Kỳ bắt đầu đăng tin tức về Six Day War (Sáu Ngày Đụng Độ) của Trung Đông và tin tức về một cuộc họp bất ngờ của Tổng Thống Johnson với Thủ Tướng Nga Alexei Kosigin ở Glassboro, một tỉnh thuộc tiểu bang New Jersey. Kể từ lúc tôi bắt đầu làm đại sứ ở Hoa Kỳ cho đến nay th́ có lẽ đây là khoảng thời gian nhàn nhất. Đă lâu lắm rồi tôi mới lại có dịp được tạm nghỉ và không phải đối phó với những sự khó khăn thường xuyên. Có lẽ đây là một trong những cơ hội hiếm hoi cho phép tôi có được chút ít thời giờ để sinh hoạt b́nh thường như những đại sứ của các quốc gia khác.

Gia đ́nh tôi đă dời căn apartment chật chội và dọn về một căn nhà nhỏ phía sau công viên Rock Creek của Hoa Thịnh Đốn. Lúc này v́ nhà cửa đă có chỗ tiếp khách nên tôi và nhà tôi đă bắt đầu bắt tay vào việc tổ chức những buổi tiếp tân cần thiết cho công việc ngoại giao của tôi ở Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi thường tổ chức những buổi ăn trưa và ăn tối nho nhỏ ở ṭa đại sứ rồi mời các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ của cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Ḥa đến tham dự. Lúc này, ở Hoa Thịnh Đốn, các dân biểu vẫn tranh luận sôi sục về cuộc chiến Việt Nam. Một số các dân biểu cho rằng Hoa Kỳ nên ủng hộ Việt Nam, nhưng một số khác lại cho rằng Hoa Kỳ không nên ủng hộ. Trong các buổi tiếp tân ở sứ quán Việt Nam, tuy các dân biểu vẫn chưa nhất loạt cho rằng Hoa Kỳ nên ủng hộ Việt Nam, nhưng nếu chỉ nói riêng về vấn đề thức ăn Việt Nam th́ họ lại nhất loạt ủng hộ. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đă nhận thấy ngay rằng tất cả các dân biểu đến sứ quán bất kể là dân biểu của đảng Dân Chủ hay dân biểu của đảng Cộng Ḥa h́nh như cũng đều tận t́nh chiếu cố cho các món ăn Việt Nam.

Danh sách tiếp tân của sứ quán Việt Nam lúc này bao gồm Thượng Nghị Sĩ, dân biểu, nhân viên của các ủy ban, phóng viên báo chí, truyền thanh và những nhân viên trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. V́ quốc hội Hoa Kỳ thường có những phiên họp bất thường nên những dân biểu và Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ là những người đến đi thất thường nhất. Ngoài những giờ giấc bất thường của quốc hội ra th́ thỉnh thoảng những buổi tiếp tân của chúng tôi cũng bị các biến chuyển bất ngờ trên trường chính trị quốc tế làm gián đoạn, chẳng hạn như vào tháng 8, năm 1968 khi nghe rằng Nga đem xe tăng vào Tiệp Khắc để đàn áp những đoàn thể chống đối, Tướng Westmoreland và Thứ Trưởng Bill Bundy cùng nhiều nhân viên điều hành khác đă phải trở về nơi họ làm việc trước khi dùng món tráng miệng.

Tuy vấn đề tiếp tân ở sứ quán Việt Nam bao gồm cả xă giao lẫn chính trị, nhưng thường th́ xă giao vẫn chiếm phần nặng hơn. Những buổi tiếp tân ở sứ quán Việt Nam là những dịp cho phép những nhân viên trong nhiều nhóm khác biệt hoặc đối lập trong chính trường Hoa Thịnh Đốn có dịp tiếp xúc với nhau. Họ thường đến dự các buổi tiếp tân ở sứ quán Việt Nam với tinh thần thân hữu hoặc ít ra th́ họ cũng chào nhau để cố giữ lấy một mức lịch sự tối thiểu. Trong các cuộc tiếp tân ở sứ quán, đôi khi cũng có nhiều chuyện đáng nhớ. Chẳng hạn như có một đêm hai nhân viên Hoa Kỳ gốc Irish là ông Tom Corcoran đă cùng chơi dương cầm và hát chung một bản dân ca Irish với ông William Sullivan. Trong những lúc như vậy, dường như các dân biểu đều tạm rũ bỏ được những ám ảnh của chiến cuộc Việt Nam và tất cả đều cảm thấy áp lực thường xuyên dường như mất hẳn.

Lúc này, v́ tôi vừa phải có mặt ở những cuộc tiếp tân do chính tôi tổ chức, lại vừa phải có mặt ở các buổi tiếp tân ở những nơi khác khi cần nên cuộc sống của tôi trở thành vô cùng bận bịu. Tôi cảm thấy dường như lúc nào ḿnh cũng phải cố gắng cười duyên, hoặc nói chuyện. Nhưng đây là một công việc cần thiết. Tôi bắt đầu thấy rằng chính những buổi nhàn đàm và chuyện phiếm thường xuyên với các nhân viên ngoại giao đă giúp ích rất nhiều cho sự hiểu biết của tôi. Nếu không có những cuộc gặp gỡ qua các dịp tiếp tân như những dịp tiếp tân ở sứ quán th́ có lẽ chẳng ai có thể hoạt động một cách có hiệu quả trong chính trường Hoa Thịnh Đốn được.

Tuy tôi đă cố gắng hết sức để thâu thập tin tức và tất cả những mẩu tin dù là tin tôi chánh thức nhận được hoặc tin tôi nghe được qua các câu chuyện, tôi cũng đều viết cả vào những bức điện văn gởi về Sài G̣n. Vậy mà đôi khi chính quyền Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn hài ḷng, nhất là khi những đầu óc giàu tưởng tượng của MNVN phong phanh nh́n thấy ở một vài điểm nào đó, Hoa Kỳ có thể áp đặt những kế hoạch của họ vào Việt Nam và không cần tham khảo ư kiến. Cuộc họp thượng đỉnh của Hoa Kỳ và Thủ Tướng Nga ở Glassboro đă góp phần thúc đẩy những cảm giác nghi ngờ của Việt Nam. Tuy trong những bản báo cáo gửi về tôi đă nói rơ rằng cuộc họp thượng đỉnh của Hoa Kỳ và Nga ở Glassboro chỉ thảo luận những vấn đề toàn cầu của hai thế lực siêu cường mà Bộ Ngoại Giao Việt Nam vẫn đ̣i hỏi tôi phải nói rơ những tin tức liên quan đến Việt Nam.

Sau này tôi được biết những yêu cầu kỳ quặc của Việt Nam một phần cũng là do những biến chuyển chính trị ở Sài G̣n. Trong giai đoạn này, các cuộc vận động bầu cử ở Việt Nam đang tiến đến giai đoạn chót. Chỉ c̣n một tuần nữa là hết hạn đăng kư ứng cử. Những ứng cử viên dân sự đang cố lượng định t́nh h́nh sau cuộc họp thượng đỉnh ở Glassboro để có thể áp dụng vào các cuộc vận động tranh cử sơ khởi và cuộc bầu cử sắp tới của họ. Cùng lúc đó, tin đồn về những xích mích giữa hai ông Thiệu, Kỳ đang ngày càng lan rộng. Một số dư luận cho rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có đảo chánh, một số khác lại cho rằng hai ông Thiệu, Kỳ, chắc chắn sẽ cùng đứng vào một liên danh.

Vào ngày 25 tháng 7-1967 th́ cuộc họp của Tổng Thống Johnson và Thủ Tướng Nga Kosygin kết thúc. Lúc này tôi đang cố gắng trả lời những loạt câu hỏi của Sài G̣n về những kế hoạch của Hoa Kỳ. Tôi c̣n đang t́m cách để trấn an dư luận Sài G̣n th́ một loạt câu hỏi khác lại chỉa thẳng vào tôi, lần này th́ từ Hoa Thịnh Đốn. Cả Ṭa Bạch Ốc lẫn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đều đă nghe được những tin đồn về việc sắp có đảo chánh ở Việt Nam. Họ hỏi tôi những tin đồn này có đúng hay không?

Những tin đồn mà Hoa Kỳ nghe được là những tin đồn phát xuất khi quân đội Sài G̣n bắt đầu tổ chức một buổi họp cho tất cả các tướng lănh cao cấp của quân đội ở Việt Nam. Mục đích của cuộc họp này là để giải quyết ổn thỏa cho xong luôn một lần những xích mích giữa ông Thiệu và ông Kỳ. Người đứng ra tổ chức cuộc họp là Tướng Cao Văn Viên, lúc đó đang là Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Tôi nói chuyện được với ông Kỳ vào đúng giữa lúc cuộc họp đă tiến hành được một ngày và c̣n đang được tiếp tục vào ngày thứ hai. Ông Kỳ nhận được điện thoại của tôi trước khi ông đi dự buổi họp ngày hôm đó. Theo ban tổ chức dự định th́ cuộc họp sẽ kéo dài ba ngày. Khi tôi nói với ông Kỳ rằng Hoa Kỳ đang nghi Việt Nam sắp có đảo chánh th́ ông trả lời rằng chắc chắn sẽ không có đảo chánh. Ông c̣n nói thêm rằng: "Quân đội vẫn tin tưởng vào tôi. Chúng tôi hoàn toàn chủ động mọi chuyện và tôi vẫn tiếp tục vận động tranh cử."

Tôi nói chuyện với ông Kỳ ngày 29-7, vào lúc 8:00 giờ tối, giờ Hoa Thịnh Đốn (tức là khoảng 8:00 giờ sáng ngày 30 tháng 7 ở Sài G̣n.) Sau khi trấn an các nhân viên ngoại giao và chánh phủ Hoa Kỳ th́ tôi sửa soạn đi ngủ. Tuy tôi không được biết chi tiết về cuộc họp của ở Sài G̣n nhưng thái độ quả quyết của ông Kỳ đă khiến tôi nghĩ rằng ông có vẻ hết sức tự tin. Tôi cho rằng có lẽ ông Kỳ đang vượt hơn hẳn ông Thiệu và sẽ là ứng cử viên độc nhất của quân đội.

Sáng 30 ngày 7, một người bạn gọi điện thoại đánh thức tôi dậy sớm để xem ngay tin tức. Tôi bật cái TV nhỏ đặt cạnh đầu giường và nghe rằng ở Sài G̣n đă có một biến chuyển bất ngờ mà người Pháp thường miêu tả là coup de théâtre. Tin tức loan báo rằng ông Thiệu và ông Kỳ sẽ cùng đứng chung vào một liên danh. Ông Thiệu sẽ là ứng cử viên tranh cử chức vụ Tổng Thống và ông Kỳ sẽ là ứng cử viên tranh cử chức vụ Phó Tổng Thống. V́ đă tiếp xúc với ông Thiệu khi trước, tôi chẳng lấy ǵ làm ngạc nhiên khi ông Thiệu đă không để các tướng lănh thuyết phục ông phải lui bước. Nhưng việc ông Thiệu đă vận động khéo léo để qua mặt được ông Kỳ quả là một thành tích đáng kể.

Ba ngày trước Sài G̣n đă đánh điện gọi tôi về để tham khảo ư kiến, v́ thế tôi không cần phải đợi lâu để t́m hiểu thêm về những diễn biến của cuộc bầu cử ở Việt Nam. Đây là lần thứ ba tôi trở lại Sài G̣n trong ṿng sáu tháng. (Lần thứ hai mới vừa cách khoảng độ hơn tháng), mỗi chuyến bay kéo dài 24 tiếng một chiều. Hoa Kỳ vẫn thường dùng danh từ "shuttle" để diễn tả những chuyến bay liên tục rất ngắn và không dự định trước. Trên chuyến bay về Sài G̣n lẫn đó, tôi tự nhủ có lẽ phải có thêm một định nghĩa mới nữa cho danh từ "Shuttle" mới đủ để diễn tả hết ư nghĩa của những chuyến bay vừa bất thường, vừa liên tục và lại vừa dài như những chuyến bay của tôi vào lúc này.

Trước đây, khi cuộc bầu cử tổng thống của Việt Nam c̣n chưa bắt đầu th́ đă có rất nhiều người trong cả chính trường Hoa Kỳ lẫn chính trường Việt Nam cho rằng ông Kỳ sẽ là ứng cử viên độc nhất của quân đội. Và khi liên danh Thiệu, Kỳ xuất hiện th́ gần như tất cả đều cùng ngạc nhiên. Tuy thế, khi tôi t́m ra câu giải đáp th́ sự việc cũng chẳng lấy ǵ làm khó hiểu. Theo t́nh h́nh của cuộc bầu cử mà nói th́ liên danh Thiệu-Kỳ đă hẳn là một liên danh có rất nhiều lợi điểm. Thứ nhất: Trong những năm vừa qua hai vị tướng lănh đă mang lại được phần nào ổn định cho Việt Nam và nếu so với những t́nh trạng xáo trộn hoặc vô chính phủ của Miền Nam Việt Nam trước đây th́ chính phủ của họ rất đáng được ủng hộ. Thứ hai: Hai ông Thiệu, Kỳ đă quen tiếp xúc và cộng tác với Hoa Kỳ. Thứ ba: Đa số dư luận đều cho rằng nếu hai vị tướng có thể đứng chung vào một liên danh th́ cá tính bất thường của ông Kỳ sẽ được bổ khuyết bằng sự cẩn thận của ông Thiệu.

Đương nhiên là lại một lần nữa dân chúng Việt Nam tin rằng những biến chuyển bất ngờ của cuộc bầu cử là hoàn toàn do cơ quan t́nh báo CIA đứng sau sắp đặt. Người dân Sài G̣n cho rằng đă có rất nhiều tướng tá bị CIA "dụ dỗ" hoặc ít ra th́ cũng bị CIA ảnh hưởng ít nhiều. Trên thực tế th́ chính Hoa Kỳ cũng ngạc nhiên chẳng kém ǵ những người Việt Nam và cũng phải đối phó với một sự đă rồi chẳng khác ǵ những người Việt Nam. Sự thật có thể đơn giản, nhưng v́ nghi kỵ quá độ, mọi chuyện trở nên phức tạp.

Theo giới báo chí tường tŕnh th́ trong buổi họp của các tướng lănh đôi khi cũng có một vài giây phút gay cấn. Theo các tin tức đăng tải th́ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều tŕnh bày trường hợp của ḿnh trước hội đồng tướng lănh rồi chờ đợi quyết định -Nhiều tờ báo đăng rằng ông Thiệu không nén được cảm xúc và đă có lần không cầm được nước mắt. Thật sự th́ câu chuyện tướng Viên kể cho tôi nghe lại có nhiều phần khác hẳn. Tướng Viên kể rằng đa số các tướng lănh đều tin rằng nếu hai ứng cử viên của quân đội đều ra ứng cử th́ số phiếu ủng hộ giới quân nhân sẽ bị phân đôi và đưa phần thắng về cho những ứng cử viên dân sự. Nếu biến cố này xảy ra th́ chẳng mấy chốc chính quyền lại quay ngược trở lại những ngày đen tối, tê liệt lúc trước. Nếu cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều nhất quyết cùng ra ứng cử th́ Hội Đồng Tướng Lănh tin rằng chỉ c̣n một cách duy nhất là buộc cả hai cùng ra ứng cử trong một liên danh.

V́ muốn ư kiến của họ phải được tuyệt đối thi hành, Hội Đồng Tướng Lănh nói rằng họ sẽ không ủng hộ bất kỳ ứng cử viên nào không chịu thỏa thuận. Đầu tiên, Hội Đồng Tướng Lănh áp dụng chủ trương của họ bằng cách tuyên bố sẽ loại bỏ tất cả những tướng lănh không chịu thuận theo quyết định của Hội Đồng Tướng Lănh. Sau đó, họ làm áp lực bắt ông Thiệu và ông Kỳ phải cùng đứng chung vào một liên danh. Đă có lúc cuộc họp căng thẳng đến nỗi cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều bị mời ra khỏi pḥng họp. Lại có cả lúc Tổng Tư Lệnh vùng một là Tướng Hoàng Xuân Lăm đă tháo bỏ huân chương đặt trên bàn. Tướng Lăm quay nh́n ông Thiệu, ông Kỳ rồi nói rằng nếu họ không chịu đứng chung vào một liên danh th́ tất cả các tướng lănh khác đều cùng phải rút lui. Hai ông Thiệu, Kỳ chẳng c̣n đường nào khác để chọn lựa.

Khi vấn đề liên danh đă được hai ông Thiệu, Kỳ chấp thuận th́ việc tranh cử được giải quyết theo hệ thống quân giai. Ông Thiệu là người phục vụ lâu hơn trong quân đội (Ông là tướng ba sao trong khi ông Kỳ là tướng hai sao.) và giữ chức vụ cao hơn nên đă chiếm được chỗ đứng đầu tiên. Để xoa dịu phần nào những ấm ức của ông Kỳ và các tướng tá trẻ, Hội Đồng Tướng Lănh đă thiết lập một hội đồng gọi là Quân Ủy Hội. Họ bổ nhiệm ông Kỳ làm thủ tướng và các tướng trẻ trong nhóm ông nắm giữ các chức vụ quan trọng trong Quân Ủy Hội. Mục đích của Quân Ủy Hội là dùng những quyền lực ở hậu trường để khống chế bớt quyền lực của ông Thiệu nhưng chỉ ít lâu sau, thay v́ kềm chế ông Thiệu, chính Quân Ủy Hội lại bị ông Thiệu kềm chế và giải thể (Lúc đó giới báo chí Hoa Kỳ gọi ông Thiệu là Sly Fox [một con cáo quỉ quyệt]). Nhưng đó là những chuyện tương lai về sau này. Vào ngày 7 tháng 7, khi đến Sài G̣n được ít lâu, tôi đă quyết định tự ḿnh lượng định t́nh h́nh Việt Nam. Mặc dầu kể từ tháng giêng cho đến lúc đó, tôi đă quay lại Sài G̣n liên tiếp bốn lần nhưng chuyến đi nào của tôi cũng chỉ rất ngắn, chưa kể là tôi c̣n phải bận rộn v́ có quá nhiều những việc phải làm. Lúc này, tôi muốn tự ḿnh lượng định những biến chuyển của Việt Nam thay v́ nh́n mọi việc qua lăng kính của chánh phủ. Tôi tự ḿnh đi thăm mọi nơi và bắt đầu tiếp xúc rộng răi với các chính trị gia và giới trí thức trong từng khu vực quận.

Đây là một chuyến đi vội vă. Tôi đi qua cả thảy 8 tỉnh trong ṿng hai tuần lễ. Dĩ nhiên v́ hoàn cảnh hạn hẹp, tôi không có đủ thời giờ để xem xét kỹ lưỡng mọi việc, nhưng đi qua đâu tôi cũng đều hỏi han và quan sát những cuộc tranh luận, cố gắng t́m hiểu xem người dân Việt Nam suy nghĩ thế nào về kết quả của cuộc bầu cử. Trong giới trí thức và trong trường chính trị th́ câu hỏi lúc nào cũng là: "Hoa Kỳ thật sự đang muốn ǵ?" Trong giới thương gia và thường dân th́ chỉ có một số rất ít để ư đến t́nh h́nh chính trị. Họ thường chú ư đến những vấn đề thực tế hơn của thương trường, nhất là khi cuộc sống đang ở tầm mức đắt đỏ và tệ nạn tham nhũng đang đầy rẫy ở khắp mọi nơi. Đối với những nông dân và những người ở miền quê th́ những câu thắc mắc chiếm lĩnh đầu óc họ lại c̣n cụ thể hơn. Họ cần được bảo vệ để tránh khỏi các cuộc xô sát giữa quân đội quốc gia và cộng sản. Họ cũng muốn giá phân bón hạ thấp thêm.

Trong các cuộc đi tôi cũng thấy rằng các chiến dịch đi bầu trong năm 1967 tiến hành rất khả quan. V́ đă có kinh nghiệm với những cuộc bầu cử của Quốc Hội Lập Hiến trước đây nên lúc này Bộ Thông Tin lại vận động những nghệ sĩ thúc đẩy dân chúng đi bầu. Ở một vài nơi, cuộc bầu cử đă tự chuyển thành sôi nổi. Nhất là ở các thành phố, nơi những người tụ tập đi bầu có thể tranh luận, bàn căi, khung cảnh chẳng có vẻ ǵ giữa lúc chiến tranh. Trong các cuộc thảo luận dân chúng thường xuyên chỉ trích chánh quyền thật công khai. Nhưng riêng ở những vùng miền quê hẻo lánh th́ bầu không khí lại có vẻ trầm lặng. Dân chúng ở những miền này thường dè dặt và thận trọng hơn. Một trong những lư do khiến họ không dám trực tiếp hoan hô cuộc bầu cử là v́ lúc nào Việt Cộng cũng đe dọa. Tuy thế, ngay cả ở những vùng này bầu không khí vẫn sinh động. Khung cảnh cho thấy số người tham gia vẫn thật đông đảo.

Công bằng mà luận th́ hẳn nhiên cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1967 ở Việt Nam chưa phải là một cuộc bầu cử hoàn hảo và vẫn c̣n có rất nhiều khuyết điểm có thể bị dư luận chỉ trích. Chẳng hạn như chánh quyền hoàn toàn nắm quyền tổ chức bầu cử. Các vấn đề như - thiết lập các văn pḥng bỏ phiếu, thúc dục dân chúng đi bầu, soạn thảo thể thức bầu cử và tổng kết số phiếu bầu đều do chính phủ quyết định. Dĩ nhiên những ứng cử viên khác chẳng thể có đủ người để trông coi kỹ lưỡng các văn pḥng bầu cử trên toàn quốc. Và do vậy, t́nh trạng thiếu người kiểm soát có thể khiến chánh quyền lạm dụng số phiếu bầu cử. Hơn nữa, c̣n có một số khá đông dân chúng cư ngụ ở các vùng Cộng Sản chiếm đóng bị ngăn cấm không được phép tham gia các cuộc đi bầu. Nhưng nói chung th́ khi chuyến đi kết thúc, tôi cảm thấy đây là một cuộc bầu cử có thể tạm gọi là dân chủ. Nếu đứng trên phương diện phân tích ưu khuyết điểm mà nói th́ tổng kết con số ưu điểm hoàn toàn vượt xa khuyết điểm. Dù ǵ đi nữa th́ cuộc bầu cử năm 1967 vẫn là một điểm khởi đầu, và một khi sự cải cách đă phát động th́ dù cho những người phát động hăy c̣n do dự, phong trào cải cách cũng sẽ tự phát triển. Tuy công cuộc tranh đấu để tiến đến dân chủ vẫn c̣n đầy dẫy gian truân và trắc trở, tôi cho rằng cuộc bầu cử năm 1967 là một bước khởi đầu tốt đẹp của tiến tŕnh đó.

Vào cuối tháng 7, tôi trở về Hoa Thịnh Đốn vừa kịp lúc để có thể sửa soạn cho chuyến thăm viếng của một phái đoàn Hoa Kỳ sắp sang Việt Nam. Mục đích của phái đoàn Hoa Kỳ là đến Việt Nam để có thể trực tiếp quan sát những diễn tiến của cuộc bầu cử trong ngày 3, tháng 9 sắp đến. Khi c̣n ở Sài G̣n, tôi cũng có bàn luận cặn kẽ trước với ông Thiệu và ông Kỳ về chuyến viếng thăm của phái đoàn Hoa Kỳ lần này. Do đó, khi trở về Hoa Thịnh Đốn tôi đưa ư kiến với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ rằng chính quyền Việt Nam sẽ trực tiếp hướng dẫn chuyến thăm viếng. Tuy chánh phủ Hoa Kỳ vẫn có thể giúp đỡ chúng tôi ở Hoa Thịnh Đốn nhưng chúng tôi cho đây là công việc của Việt Nam chứ không phải của Hoa Kỳ.

Đại sứ Bunker cũng đồng ư với tôi về vấn đề này. Tôi đă bàn luận với ông Bundy ở Bộ Ngoại Giao Hoa Thịnh Đốn và ông Jorden ở Ṭa Bạch Ốc, nhưng dường như là v́ một thói quen bắt buộc, những nhân viên Ṭa Bạch Ốc vẫn tự tay dàn xếp mọi chuyện. Họ quên cả việc phải thông báo danh sách của những người có tên trong phái đoàn cho tôi. Khi tin tức công bố nêu rơ danh sách của những người trong phái đoàn thăm viếng bao gồm các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ và nhiều vị lănh đạo tinh thần, tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Trước đó, tôi đă dự định gửi cho mỗi người trong phái đoàn một bức thư mời họ sang thăm Việt Nam, nhưng danh sách của họ đă được thông báo trước cả khi tôi có đủ thời giờ để gửi giấy mời. Có lẽ đây chỉ là một chuyện nhỏ nhưng cũng là một chuyện điển h́nh về việc Hoa Kỳ lúc nào cũng náo nức, tự t́m cách chu toàn mọi việc theo cách của họ. Hành động của họ đôi khi trở thành tự đại.

Ngoài những khi làm việc ở ṭa đại sứ, tôi dùng khoảng thời gian c̣n lại của tháng 8 để tổ chức những buổi thuyết tŕnh tổng quát cho những người trong phái đoàn sắp sang Việt Nam. Lúc này tôi đă biết quá rơ về kết quả của cuộc bầu cử; chỉ nội nh́n con số ứng cử viên dân sự cũng đủ để đoán được rằng liên danh của ông Thiệu và ông Kỳ sẽ đánh bạt tất cả. Tuy vậy tôi vẫn vô cùng lo lắng chẳng hiểu liệu những quan sát viên Hoa Kỳ với những quan niệm chủ quan của họ dựa trên 200 năm truyền thống dân chủ Hoa Kỳ sẽ suy nghĩ ra sao về những diễn biến của cuộc bầu cử sắp đến ở Việt Nam.

Chẳng những thế, lúc này những tờ báo phản chiến ở Hoa Kỳ lại c̣n đăng nhiều mục để chỉ trích cuộc bầu cử ở Việt Nam. Những tin tức đó c̣n làm cho phái đoàn quan sát của Hoa Kỳ thêm phần thiên lệch. Vào thời gian này gần như tất cả những biến chuyển khả quan ở Việt Nam đều bị giới báo chí và giới học giả thiên kiến vặn vẹo hoặc hoàn toàn bác bỏ. Ngay chính cuộc bầu cử cũng chẳng phải là một ngoại lệ. Tôi đă phải chứng kiến nhiều cảnh khó chịu khi những cơ quan thông tin của Hoa Kỳ cố t́nh làm lệch lạc những tiến triển dân chủ ở Việt Nam. Những sự thay đổi đáng kể trong trường chính trị Việt Nam lúc này là kết quả của cuộc tranh đấu mà tôi và những phần tử quốc gia khác đă nỗ lực xây dựng kể từ năm 1950 cho đến nay. Chúng tôi đă tranh đấu cho những tiến tŕnh này từ trước cả khi có cuộc họp Honolulu. Tuy thế, đối với những người chỉ trích th́ cuộc bầu cử chẳng qua chỉ là một tấn kịch do Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ làm đạo diễn chung với ông Thiệu và ông Kỳ. V́ họ đă nặng thành kiến ngay từ đầu nên những quan sát viên khó thể đo lường các biến chuyển bằng một tầm mắt khách quan. Đây thiết tưởng cũng là việc chẳng cần phải nói.

Những sự lo lắng của tôi c̣n nặng nề thêm một phần v́ các nỗi lo cứ canh cánh bên ḿnh, chẳng hiểu liệu cuộc bầu cử có tiến hành hoàn hảo hay không. Tôi đă nói với ông Thiệu và ông Kỳ rằng Việt Nam đang cần một cuộc bầu cử trong sạch. Họ thật sự không cần phải vận động mờ ám phía sau hậu trường. Hơn nữa, trong cuộc bầu cử năm 1967, khi thắng thế đă ngả quá rơ về họ, việc họ vận động bất hợp lệ là một việc chẳng ai có thể tha thứ được. Nhưng ông Kỳ và ông Thiệu không phải là những người hiểu biết tường tận những quan niệm dân chủ. Đă vậy, tôi lại không có mặt ở Việt Nam. T́nh thế không khỏi làm tôi bồn chồn.

Vào ngày 3 tháng 9 năm 1967, khi cuộc bầu cử bắt đầu, chánh quyền Việt Nam tuyên bố đây là một ngày nghỉ lễ cho toàn thể Việt Nam. Vào ngày đó, dân chúng ăn bận quần áo như những dịp hội hè và đi bầu từng đoàn lũ lượt. Trong tổng số 6 triệu người đi bầu, hơn 5 triệu người thực sự bỏ phiếu. Con số đi bầu vượt quá 80% tổng số ghi tên. Hai ngày sau số phiếu được tổng kết và kết quả cuối cùng thật là một sự bất ngờ. Liên danh của hai ông Thiệu, Kỳ đắc cử, nhưng tuy đây là liên danh của hai nhân vật đang nắm quyền, mà chỉ có 35% số phiếu bầu cho họ. Trong khi đó, 17% số phiếu là phiếu bầu cho ông Trương Đ́nh Dzu, vận động dưới nhăn hiệu ḥa b́nh.

Những t́nh trạng tương tự cũng xảy ra trong cuộc bầu cử các Thượng Nghị Sĩ, nguyên là một cuộc bầu cử khác cũng diễn ra cùng lúc với cuộc bầu cử Tổng Thống. Trong số 60 Thượng Nghị Sĩ đắc cử, hơn một phần ba là những người tự ḿnh đứng ra vận động hoặc tuyên bố rằng họ sẽ có chính sách ngược lại với chánh phủ.

Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ dều có vẻ thất vọng về việc họ chỉ đắc cử với một kết quả thấp đến như thế. Nhưng chỉ ít lâu sau, ông Kỳ đă đưa ư kiến rằng: "Ít nhất th́ kết quả cũng cho thấy rằng chẳng hề có bất kỳ hành động nào bắt buộc dân chúng phải bầu ngược lại với ư định riêng của họ. Ông Kỳ phát biểu: "Nếu quả có vận động thầm lén, ắt hẳn chúng tôi phải có một số phiếu vượt xa số phiếu mà chúng tôi đă có."

Lời tuyên bố của ông Kỳ được Hoa Kỳ và các quan sát viên quốc tế khác góp phần xác nhận. Nhận định khả quan của các quan sát viên quốc tế đă khiến ṭa đại sứ Hoa Kỳ thêm phần tin tưởng khi nhận định rằng cuộc bầu cử hoàn toàn trong sạch. Các diễn biến khả quan của cuộc bầu cử đă khiến chánh phủ Hoa Kỳ hết sức hài ḷng. Tuy rằng cuộc bầu cử không thay đổi được chiều hướng chiến cuộc, đối với tôi đây vẫn là một bước tiến quan trọng. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đă nỗ lực để tổ chức được một cuộc bầu cử dân chủ thực sự. Chẳng những vậy, mà cuộc bầu cử lại được tổ chức trong một thời điểm khó khăn, khi đất nước đang bị phân đôi và chánh phủ Việt Nam vẫn phải đối phó với vấn đề chiến tranh. Trong khi Bắc Việt đang tiến hành những chiến dịch xâm lược vào Miền Nam và những nhân vật lănh đạo ở Miền Nam Việt Nam lại là những quân nhân mà Việt Nam vẫn có thể tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ. Tôi coi đây là một thành công đáng kể của người quốc gia Việt Nam
đẹp

25. Sự Chuyển Đổi của Thời Cuộc

Những cuộc bầu cử ở Việt Nam tuy sôi nổi là thế mà vẫn chỉ là một phần của toàn thể khung cảnh Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đang trải qua một giai đoạn chính trị tương đối ổn định so với hai năm về trước và những đe dọa của Cộng Sản không c̣n rơ rệt, nhưng cũng vẫn c̣n rất nhiều khó khăn ở khắp mọi nơi đang tiềm ẩn phía dưới bề mặt yên tĩnh. Nhiều người Việt Nam đă tỏ vẻ thắc mắc khi nhận thấy Hoa Kỳ hiện diện gần như trong tất cả mọi lănh vực của đời sống hàng ngày. Họ cảm thấy bất b́nh khi Việt Nam phải lệ thuộc ngày một nhiều hơn vào đồng minh Hoa Kỳ. Tuy những nhân viên Hoa Kỳ hoàn toàn khác hẳn với những thực dân Tây về trước, người dân vẫn không thể tránh tự hỏi làm sao Việt Nam lại có thể vẫn giữ được chủ quyền và độc lập nếu người Hoa Kỳ lúc nào cũng đứng đầu điều hành mọi chuyện, từ cách hướng dẫn những phát triển kinh tế cho đến cách điều động chiến cuộc?

Nỗi lo lắng của họ c̣n tăng thêm v́ những thói quen "tự ḿnh hành động" của Hoa Kỳ. Chẳng hạn như tại các quận lị, người Hoa Kỳ đă nóng ḷng thi hành các chính sách cho đến nỗi họ tự ḿnh làm lấy mọi chuyện. Khi làm việc họ chỉ thông báo gọi là với các quận trưởng mà thôi. Ngoài ra, khi soạn thảo các kế hoạch quân sự, các sĩ quan Hoa Kỳ rất ít khi thông báo chi tiết cho các sĩ quan Việt Nam về những kế hoạch qui mô. Phần lớn Bộ Tham Mưu Việt Nam không hề được thông báo rơ những hoạt động thường nhật của các lực lượng Hoa Kỳ.

Chẳng những vậy, đến ngay cả những vấn đề đại cương về chiến lược cũng là một vấn đề tranh luận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Các tướng lănh Việt Nam tin rằng chính sách tiêu diệt hiệu lực nhất là "tấn chiếm Bắc Việt," tấn công mạnh vào tận sào huyệt hoặc ít ra là phải tạo được một khí thế hăm dọa vượt lên trên vĩ tuyến 17. Nhưng những cố vấn Hoa Kỳ lại cho rằng đây là những ư kiến thiếu thực tế. Họ nói với những sĩ quan Việt Nam, dĩ nhiên với một cung cách rất lễ phép, rằng Việt Nam c̣n chưa giải quyết ổn thỏa được những việc khó khăn ngay trong nội bộ th́ làm sao lại có thể dự định đến việc thôn tính Bắc Việt? Thật ra th́ Hoa Kỳ vẫn c̣n bị những kinh nghiệm đau thương ở Đại Hàn ám ảnh. Họ vẫn cố dàn xếp để tránh khỏi bị nghi rằng họ có ư khiêu khích những người Trung Hoa hiếu chiến. Chánh sách của họ ở Việt Nam đă bị những bài học của chiến tranh Đại Hàn ảnh hưởng rất nhiều.

Nếu đứng trên quan niệm quốc tế mà luận th́ có lẽ việc Hoa Kỳ tuyên bố rơ họ sẽ không tấn công Bắc Việt cũng dễ hiểu, nhưng dù sao đi nữa th́ những người Việt Nam vẫn cho rằng việc Hoa Kỳ quyết định tuyên bố thẳng cho Bắc Việt biết rơ những dự định của Miền Nam Việt Nam cũng là một hành động hoàn toàn vô lư. Một khi Hoa Kỳ bị buộc phải hành động theo những họ lời tuyên bố th́ dĩ nhiên những hoạt động quân sự của họ bị quản thúc trong những ṿng đai của "một cuộc chiến tranh giới hạn." Khi tuyên bố không tấn chiếm Bắc Việt, Hoa Kỳ đă tự ép ḿnh vào những quy ước đơn phương và rồi hành động như thể tin rằng khi họ tự đưa ḿnh vào khuôn khổ như vậy th́ Bắc Việt cũng sẽ tự động ép ḿnh chung vào những quy luật họ đă đề ra. Dĩ nhiên Hoa Kỳ là một thế lực siêu cường và v́ vậy những hành động của họ phải được phân tích qua một tầm nh́n tổng quát, bao gồm cả những yếu tố khác như phản ứng vủa Sô Viết và những ư định can thiệp của Trung Hoa. Nhưng đối với Việt Nam th́ việc lại hoàn toàn khác hẳn. Đất nước Việt Nam lúc này đang đắm ch́m trong chiến cuộc. Lănh thổ Việt Nam đang bị xâm lấn. Việt Nam đang phải đối diện với những hiểm họa sinh tử. Tuy Hoa Kỳ vẫn tuyên bố rằng đây là cuộc chiến của Việt Nam, nhưng mỗi khi cần quyết định th́ họ lại gạt bỏ hẳn những suy xét của Việt Nam ra ngoài.

Dĩ nhiên cũng có rất nhiều lư do chánh đáng khác cho phép Hoa Kỳ giải thích vấn đề v́ sao họ lại hay tự ḿnh hành động. Chẳng hạn như vấn đề khác biệt về tầm vóc của hai đồng minh, cá tính thụ động của người Việt, khuynh hướng cố tránh né những vấn đề cần trực diện của người Á Châu và khuynh hướng dễ đồng ư hoặc tỏ vẻ đồng ư của người Việt trong mọi vấn đề. Chẳng những thế, ấn tượng xấu của Hoa Kỳ về những người Việt Nam c̣n sâu đậm hơn v́ phần đông các nhân viên Hoa Kỳ đều tin rằng đa số công chức và sĩ quan của Việt Nam đă làm việc không có hiệu quả mà lại c̣n tham nhũng nữa. Mặt khác, th́ những người Việt Nam lại cho rằng người Hoa Kỳ không hiểu những tập tục và quan niệm của dân chúng Việt Nam. Hậu quả là việc hợp tác hữu hiệu giữa người Hoa Kỳ và Người Việt rất ít khi đạt được tới mức mọi người chờ đợi. Chẳng những vấn đề khó khăn đang đầy dẫy ở Việt Nam mà ngay cả ở Hoa Thịnh Đốn, bầu không khí cũng bắt đầu căng thẳng. Chiến cuộc vào mùa hạ năm 1967 có vẻ tương đối yên tĩnh, nhưng ở quốc hội một người bạn đă bảo tôi: "Ngoài mặt khung cảnh tuy mang vẻ an bằng phẳng lặng của mặt nước triều nhưng hăy coi chừng những gịng nước ngầm phía dưới." Lúc này Hoa Kỳ đă chịu rất nhiều tổn thất trong nỗ lực can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam. Tuy thế, họ vẫn chưa hề gặt hái được những kết quả như ư. Những khó khăn mà Hoa Kỳ đang phải đối phó đă tạo nên một bầu không khí căng thẳng ngấm ngầm chưa hề thấy trong mấy năm về trước.

Tôi đă biết rơ rằng những nhân vật phản chiến lúc nào cũng chỉ biết chống chiến tranh một cách cực đoan và một chiều, nên lúc này, khi cần phải nhận định rơ t́nh h́nh thay đổi thực sự ra sao, tôi đă để hết tâm trí vào việc t́m hiểu ư kiến của những nhân vật từ trước đến nay vẫn ủng hộ chiến cuộc. Những người tôi đặc biệt chú tâm đến là Thượng Nghị Sĩ John Stennis của tiểu bang Mississippi, Thượng Nghị Sĩ Henry Jackson của Hoa Thịnh Đốn và Thượng Nghị Sĩ Strom Thurmond của tiểu bang South Carolina. Đây là những Thượng Nghị Sĩ vừa được nhiều người biết đến lại vừa có tầm ảnh hưởng lớn rộng đối với Ủy Ban Quân Sự (Arm Service Committee). Mặc dù những Thượng Nghị Sĩ kể trên vẫn tiếp tục ủng hộ chiến cuộc Việt Nam, càng ngày họ lại càng thất vọng hơn khi thấy Hoa Kỳ không hề có kế hoạch nào khác hơn ngoài chiến lược No-Win Limited Strategy (Giới Hạn Chiến Tranh và không lấy chiến thắng làm mục tiêu.)

Cả ba Thượng Nghị Sĩ vừa kể và nhiều nhân vật khác tôi đă tiếp xúc đều tỏ vẻ quan tâm đến những ảnh hưởng bất lợi và những phí tổn mà Hoa Kỳ phải gánh chịu ở Việt Nam. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1967, TT Johnson đă đưa ra một bản dự thảo luật thuế đánh thêm 10% vào những nguồn lợi tức tư nhân và các công ty. Trước đây, những nhân viên chánh phủ lúc nào cũng bảo tôi rằng chắc chắn quốc hội sẽ thông qua đạo luật mới của tổng thống. Vậy mà lúc này họ lại tỏ ra lo lắng. Một chuyên viên trong quốc hội phục vụ trong Bộ Ngoại Giao đă bảo tôi: "Lại sắp bắt đầu một năm mới và chúng ta phải cẩn thận đề pḥng."

Lúc đầu tôi tưởng việc nhận định rơ t́nh h́nh chắc cũng không lấy ǵ làm khó khăn, nhưng càng đi sâu vào vấn đề tôi lại càng nhận rơ tầm mức phức tạp của công việc. Cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài G̣n đều thay đổi gần như liên tục. Giữa những khung cảnh xoay chuyển đó, tôi vừa phải đối phó với các biến cố đang xoay chuyển lại vừa phải cố dung ḥa những khác biệt giữa hai cách nh́n vấn đề ở hai thủ đô. Tôi đă tiếp xúc với những phụ tá của các Thượng Nghị Sĩ. Những nhân viên phụ tá mà tôi tiếp xúc thường là những người trực tiếp đối phó với những vấn đề tỉ mỉ trong thực tế nên họ thường có tầm nh́n chi tiết hơn là thượng cấp của họ. Công việc lượng định và tái lượng định vấn đề diễn ra tưởng chừng như chẳng bao giờ dứt. Những đ̣i hỏi của công việc thật là vô bờ. Đă hơn một lần tôi tự hỏi liệu ḿnh có thực sự đủ sức hay không?

Giữa những khung cảnh biến chuyển của cả hai thủ đô, chính tổng thống Johnson cũng đă cảm thấy chỗ đứng của ḿnh bị lay chuyển. Khi giới báo chí và truyền thanh bắt đầu tuyên bố rằng Hoa Kỳ đang sa lầy trong cuộc chiến Việt Nam và những dân biểu ở quốc hội Hoa Kỳ càng ngày càng chống đối gắt gao thêm, TT Johnson cho rằng đă đến lúc ông phải tích cực đối phó với t́nh thế. Để tŕnh bày rơ thiện chí của ḿnh đối với những người đang đ̣i hỏi phải có một giải pháp ḥa b́nh, vào ngày 29 tháng 9, trong một buổi diễn văn chiếu khắp toàn quốc, tổng thống Johnson tuyên bố: Hoa Kỳ "sẽ ngưng tất cả các cuộc dội bom nếu đàm phán ḥa b́nh giữa hai phe có hy vọng tiến triển." Lần này đề nghị của tổng thống Johnson đă có phần mềm mỏng hơn những đề nghị của ông khi trước. Trong lần đề nghị lần trước hai nhân viên trong Bộ Ngoại Giao của Pháp là ông Raymond Aubrac và ông Herbert Marcovich đă cố đứng ra làm môi giới để Hoa Kỳ có thể đàm phán với Bắc Việt. Lần này tuy hai nhân viên Pháp có báo trước rằng Hà Nội sẽ mềm dẻo hơn mà lời đề nghị của tổng thống Johnson vẫn bị Bắc Việt bác bỏ. Cuộc oanh tạc lại chuyển thành dữ dội.

Khi cuộc oanh tạc Bắc Việt ngày càng leo thang khốc liệt th́ phản ứng của giới phản chiến ở Hoa Kỳ cũng trở nên khốc liệt theo. Vào tháng 10, đă có những cuộc chống đối rất lớn ở Ngũ Giác Đài bao gồm cả những nhân vật lừng danh ở Hoa Kỳ như hai văn hào Norman Mailer và Arthur Miller. Cùng lúc này, tờ Life, một tạp chí từ trước tới nay vẫn ủng hộ các chính sách của tổng thống Johnson đă lên án cuộc chiến trong mục b́nh luận. Khi quốc hội Hoa Kỳ mở đầu phiên họp mùa thu th́ những cảnh tượng chống đối ồ ạt diễn ra ngay trước mắt các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ. Lúc này, các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ vừa mới trở lại quốc hội và những chuyến nghỉ mát thoải mái trong mùa hạ của họ vừa kết thúc. Khung cảnh căng thẳng của quốc hội đă khiến bầu không khí của buổi họp chuyển thành trầm trọng.

Kể từ đầu mùa thu năm 1967, tôi đă bỏ ra hầu hết thời giờ để lượng định những biến cố đang diễn ra ở Hoa Thịnh Đốn. Càng ngày tôi càng lo lắng v́ thấy những phong trào phản chiến đang mỗi lúc một tăng. Những người bạn Hoa Kỳ vẫn bảo tôi rằng sự thiên kiến của giới truyền thông và những phong trào chống đối ở Hoa Kỳ lúc này chỉ phản ảnh một phần ư kiến của dân chúng Hoa Kỳ trong vùng Hoa Thịnh Đốn mà thôi, tôi vin vào ư kiến của họ để tự trấn an lấy ḿnh. Và rồi để thử xem liệu những ư kiến của bạn bè có thực sự đúng hay không, tôi cũng bắt đầu tham gia những chuyến bay liên tục qua khắp hai vùng miền Tây và miền Nam Hoa Kỳ để thảo luận vấn đề chiến cuộc Việt Nam. Ngoài ra, tôi c̣n gia tăng thêm th́ giờ đến nói chuyện ở các đại học.

Không phải lúc nào những buổi thuyết tŕnh của tôi ở các đại học cũng như ư muốn. Tại một đại học ở tiểu bang Massachuusetts tôi đă bước lên khán đài để đối mặt với một đám đông đang hung hăng ḥ hét khẩu hiệu và reo ḥ: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh." Khi họ bắt đầu ném trứng lên khán đài, những người tổ chức buổi nói chuyện nói rằng có lẽ tôi nên rút lui. Nhưng tôi vẫn quyết định ở lại. Tôi đứng im giữa hội trường cho đến khi những tiếng reo ḥ lắng xuống rồi mới cầm Micro. Nh́n lá cờ Mặt Trận Giải Phóng của Việt Cộng phất phơ bay lượn trong đám khán giả, tôi đă nói một cách hết sức b́nh tĩnh rằng: "tôi đến đây với một ḷng tin. Tôi tin vào truyền thống Hoa Kỳ trong việc cho phép tất cả những người có ư kiến được phép tự do phát biểu. Đây là điều duy nhất tôi chờ đợi ở các quí vị." Sau khi tôi lên tiếng, đám đông bắt đầu yên lặng dần và tôi bắt đầu nói chuyện. Dĩ nhiên chấp nhận nhục nhă quả không phải là một chuyện dễ dàng nhưng tôi vẫn cắn răng chịu đựng. Lúc này, tôi c̣n có được một vài cơ hội để tŕnh bày ư kiến của phía Việt Nam với dư luận Hoa Kỳ. Cho đến những năm 1967-1968, khi các phong trào phản chiến đă tiến đến cao điểm th́ những cơ hội đó hoàn toàn mất hẳn.

Vào ngày 17 tháng 9-1967, tôi lại trở về Việt Nam để tường tŕnh với ông Thiệu và ông Kỳ về những biến chuyển mới nhất ở Hoa Kỳ. Trước đây, tôi cũng đă có tŕnh bày vấn đề những chính sách của TT Johnson đang mất dần sự ủng hộ của dân chúng, nhưng lần này tôi cố đi trực tiếp vào chi tiết. Tôi đưa rơ chi tiết của những biến chuyển trong quốc hội, trong giới báo chí và tường thuật rơ những sự chống đối trên các nẻo đường phố, trong khuôn viên đại học. Tôi đưa ra cả những suy luận của riêng tôi lẫn những suy luận của nhiều nhân vật cao cấp khác trong giới quân sự Hoa Kỳ. Tôi có nói rơ rằng Hoa Kỳ sẽ rút lui trong ṿng năm năm nữa. Việt Nam phải sửa soạn trước để đối phó với vấn đề này.

Cách ông Thiệu và ông Kỳ nhận những lời b́nh luận riêng của tôi đă khiến tôi không mấy hài ḷng. Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ có vẻ xem những điều tôi nói chỉ là những việc xa xăm. Tuy tôi không được biết tường tận mọi chi tiết xảy ra trong nội bộ Việt Nam, nhưng tôi vẫn thấy rằng đầu óc của ông Thiệu và ông Kỳ đă bị những khó khăn nội bộ chiếm lĩnh. Những khó khăn đó chắc hẳn là có dính dáng đến vấn đề tranh chấp nội bộ. Chẳng những vậy, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều không hiểu rơ những mấu chốt phía sau hệ thống chánh phủ Hoa Kỳ. Họ chẳng thể hiểu rơ những áp lực của các khối nghiệp đoàn (interest groups) vào việc chính phủ kiến tạo chính sách trầm trọng đến độ nào. Tuy lần nào quay về Sài G̣n tôi cũng ra công tŕnh bày những điểm đặc biệt của chính trị Hoa Kỳ, chưa lần nào tôi thấy rơ lời nói của ḿnh có được chút hiệu lực nào thiết thực.

Trong khí đó th́ ở Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống Johnson lại hết mực chú tâm vào các biến chuyển đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Tên tuổi và chính sách của Tổng Thống Johnson gần như lúc nào cũng đi đôi với vấn đề chiến tranh. Chiến cuộc Việt Nam đối với ông thật là một yếu tố thập phần quan trọng. Ông luôn luôn tuyên bố rằng t́nh thế vẫn vững vàng, nếu không muốn nói là tiến triển khả quan. Vào ngày 2 tháng 10, ông đă bỏ thời giờ mời tôi cùng những đại sứ của Úc, Indonesia, Mă Lai, Đài Loan và Lào tới dùng bữa trưa ở Ṭa Bạch Ốc. Tại đây ông lại tŕnh bày thêm một lần nữa những chính sách đă công bố ở San Antonio về việc ngưng dội bom và quyết tâm kiến tạo ḥa b́nh ở Đông Dương. Một tuần sau đó, để chứng tỏ rằng ông thực sự chú tâm đến vấn đề Đông Nam Á, ông lại bỏ thời giờ mời những giáo sư, viện trưởng của nhiều viện đại học Việt Nam đến Ṭa Bạch Ốc để bàn luận vấn đề "kiến thiết quốc gia." Đây là một kế hoạch nằm trong chương tŕnh xây dựng Việt Nam. Một trong những nhà tu được mời là Thượng Tọa Thích Minh Châu, nguyên là người đứng đầu viện đại học Vạn Hạnh. Tôi phải nhận rằng trong bộ áo tăng màu, ông Thích Minh Châu đă hiện diện như để nhắc nhở rằng không phải tất cả Miền Nam Việt Nam đă hoàn toàn nhuộm màu chiến tranh.

Cả đại sứ Bunker lẫn Tướng Westmoreland đều cùng bay về Hoa Kỳ để cổ vơ cho những chính sách thuyết phục dân chúng của Tổng Thống Johnson. Việc cả hai nhân vật kể trên đều có thể rời Việt Nam cùng một lúc đă chứng tỏ rằng t́nh h́nh Việt Nam không đến nỗi ảm đạm như lời tường thuật của giới truyền thông. Trong một buổi nói chuyện với chương tŕnh Meet The Press (Gặp Gỡ với Giới Báo Chí), Tướng Westmoreland c̣n tuyên bố rằng: "Chỉ trong ṿng hai năm nữa, các lực lượng Bắc Việt sẽ suy đồi đến mức chúng ta có thể rút dần các lực lượng quân sự về nước." Thật ra th́ chỉ độ hơn một năm sau, TT Richard Nixon đă ra lệnh rút quân.

Nhưng tất cả mọi nỗ lực thuyết phục dư luận của Tổng Thống Johnson đều thất bại khi có tin Bộ Trưởng Quốc Pḥng Robert McNamara từ chức. Bỗng dưng Ṭa Bạch Ốc tuyên bố thật bất ngờ rằng Bộ Trưởng McNamara đă từ chức và được đề cử làm giám đốc Ngân Hàng Quốc Tế. Không hiểu v́ lư lẽ ǵ mà giới báo chí ở Hoa Thịnh Đốn lại chẳng mảy may hay biết ǵ trước về quyết định của Bộ Trưởng McNamara. Tuy đă có vài lời đồn đại rằng Bộ Trưởng McNamara đă bắt đầu thất vọng với chiến cuộc Việt Nam, nhưng vẫn chưa ai tiên đoán được rằng ông sẽ từ chức. Lời tuyên bố từ chức của ông đến chẳng khác nào một biến chuyển khác thường và bất ngờ trong chính giới ở Hoa Thịnh Đốn.

Quan hệ giữa tôi và Bộ Trưởng McNamara chỉ là những quan hệ thông thường giữa một người đại sứ và một Bộ Trưởng trong chính phủ Hoa Kỳ. Nói chung th́ người Việt Nam vẫn coi ông là con người điện toán, lúc nào cũng đặt nặng tầm quan trọng của các dữ kiện thống kê lên trên những khía cạnh có liên quan đến vấn đề nhân sự. Dĩ nhiên ông chẳng quan tâm ǵ mấy đến vấn đề cần xây đắp các mối liên hệ tốt đẹp với người Việt Nam. Ngược lại, trong một xă hội như xă hội Việt Nam vốn đă có truyền thống xem trọng nhân cách và những sự giao thiệp cá nhân, th́ dĩ nhiên chẳng ai lại đặt trọng tâm vào những con số thống kê của ông McNamara. Quan niệm của Bộ Trưởng McNamara do vậy quả là một quan niệm khác thường. Cũng có thể quan niệm chung của các nhân viên Việt Nam về ông hoàn toàn lệch lạc, nhưng dù sao đi nữa, kể từ khi ông buông ra câu hỏi "Ai là người cầm đầu?" với các tướng tá Việt Nam vào năm 1964 th́ người Việt Nam vẫn cho rằng ông là một người lạnh lùng và kiêu ngạo.

Nhưng dù có thế nào đi nữa th́ Bộ Trưởng McNamara vẫn là nhân vật chủ chốt điều hành chiến cuộc. Việc từ chức bất ngờ của ông đă khiến Sài G̣n vô cùng hoang mang. Thông thường th́ những thay đổi, dù có là những thay đổi ở các cấp cao nhất trong chánh phủ Hoa Kỳ, vẫn khó có thể làm Việt Nam xôn xao, nhưng trường hợp của Bộ Trưởng McNamara lại hoàn toàn khác hẳn. Việc ông từ chức đă gây ra hàng loạt câu hỏi. Bất kể mọi người nh́n ông bằng quan niệm nào, Bộ Trưởng McNamara cũng vẫn là hiện thân của những nỗ lực của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam nói chung. Do đó, nhiều người Việt Nam đă tự hỏi phải chăng nỗi thất vọng của ông phản ảnh đích thực những chán chường của dư luận Hoa Kỳ? Và nếu đây là sự thực th́ những nhà lănh đạo trong chính quyền Hoa Thịnh Đốn đă bị nỗi thất vọng này ảnh hưởng đến độ nào? Nói một cách chi tiết hơn: Phải chăng việc Bộ Trưởng McNamara từ chức có nghĩa là chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đă bắt đầu đổi chiều?

Khi các bạn bè ở Hoa Thịnh Đốn và Bộ Ngoại Giao đưa lời trấn an, tôi cũng có gửi lời trấn an về Sài G̣n. Tuy thế, trong thâm tâm, tôi vẫn thắc mắc, tự hỏi chẳng hiểu nếu ngay cả những người như Bộ Trưởng McNamara mà c̣n quyết định bỏ cuộc th́ viện trợ cho chiến cuộc c̣n tiếp tục được bao lâu nữa? Tôi cũng biết rằng chỉ c̣n vài tháng nữa là những cuộc vận động tranh cử tổng thống lại bắt đầu ở Hoa Kỳ.

Trong khi đó th́ ở Việt Nam chiến cuộc vẫn tiếp diễn và không c̣n ở một mức độ rời rạc lẻ tẻ như trong mùa hạ trước đây. Vào giữa lúc Hoa Thịnh Đốn bắt đầu cố rũ bỏ can thiệp th́ Bắc Việt lại gia tăng tấn công ào ạt. Trong một cuộc họp báo ở Hoa Thịnh Đốn, Tướng Westmoreland tuyên bố: "Tôi hy vọng Bắc Việt đang thử thách một kế hoạch nào đó, v́ chính chúng tôi cũng đang cố dàn xếp cho cuộc đụng độ." Các biến cố vào cuối tháng cho thấy ông không cần phải đợi lâu.

Vào tháng 10 Bắc Việt đă gia tăng hoạt động rơ rệt trông thấy. Không khí yên tĩnh mùa hè năm 1967 dường như mất hẳn v́ những chiến dịch phát động phối hợp các lực lượng du kích và các lực lượng chính qui của Bắc Việt. Những hoạt động của du kích Bắc Việt chỉ lẻ tẻ vào lúc trước đột nhiên gia tăng dữ dội. Chẳng những vậy, Bắc Việt c̣n huy động các lực lượng chính qui và dùng những đơn vị lớn lao để đánh chiếm những mục tiêu đă được chọn lựa. Vào ngày 29 tháng 10, hai trung đoàn của sư đoàn 9 Bắc Việt tấn công vào quận lị thành phố Lộc Ninh, một thành phố cách biên giới Cam Bốt khoảng vài ki-lô-mét. Lộc Ninh chỉ được những lực lượng địa phương của quân đội Việt Nam bảo vệ. Tuy các lực lượng địa phương ở Lộc Ninh vẫn c̣n thiếu kinh nghiệm chiến trường và không được trang bị đầy đủ, khi được các đơn vị Việt Nam cùng sư đoàn I Hoa Kỳ hỗ trợ, quân đội Lộc Ninh đă chiến đấu anh dũng, đẩy lui và bắt các đội quân Việt Cộng phải chịu nhiều tổn thất.

Một tháng sau, 4 Trung Đoàn Bắc Việt tấn công vào Dakto, một thị trấn hẻo lánh gần biên giới Lào. Các cuộc đụng độ trên vùng đất Dakto hiểm trở thật là dữ dội. Cuộc đụng độ đă khiến Sư đoàn Dù 173 của Hoa Kỳ phải chịu 100 tổn thất. Ngược lại các lực lượng đối phương bị tiêu diệt và lại phải rút về những căn cứ ở Lào. Tuy trong các trận đụng độ qui mô, quân đội Việt Nam vẫn thắng thế nhưng khả năng và tinh thần chiến đấu của những đơn vị Bắc Việt quả một điềm bất tường đáng ngại.

Tin tức t́nh báo cho thấy Bắc Việt đang chuyển quân vào Nam qua các đường ṃn Hồ Chí Minh và hai trận đụng độ ở Lộc Ninh, Dakto đă khiến những chuyên viên phân tích t́nh báo ở Sài G̣n và Hoa Thịnh Đốn tiên đoán rằng Bắc Việt đang tổ chức một cuộc tấn công cực kỳ qui mô. Nh́n những căn cứ đổ quân của Việt Cộng gia tăng dọc theo các vùng Phi Quân Sự và Thung Lũng Khe Sanh, Tướng Westmoreland tiên đoán cuộc tấn công sẽ diễn ra ở miền Trung. Ông chuyển các đơn vị về miền Trung và tăng cường Thủy Quân Lục Chiến dữ dội cho các căn cứ đóng ở Khe Sanh.

Khi đă kết luận về những mục tiêu tấn công của Bắc Việt, những chuyên viên t́nh báo quyết định bỏ qua những tin tức nằm trong các tài liệu tịch thu được. Tài liệu tịch thu cho thấy Bắc Việt sắp mở một cuộc tổng tấn công khác hẳn cuộc tấn công các chuyên viên tiên liệu. Kế hoạch được mô tả trong các tài liệu tịch thu diễn tả một cuộc tổng tấn công đại qui mô vào khắp nơi trong suốt toàn lănh thổ Miền Nam Việt Nam phối hợp với cuộc tổng nổi dậy của toàn thể quần chúng, nhất loạt chiếm lấy các tỉnh và thành phố. Chiến lược diễn tả trong tài liệu tịch thu táo bạo và liều lĩnh đến mức chẳng ai có thể tin đây là sự thực. Cho đến măi tận vài ngày trước Tết âm lịch những chuyên viên phân tích t́nh h́nh mới nhận chân được giá trị của những tài liệu họ đang nắm trong tay lúc này


26. Tết Mậu Thân

Trong giai đoạn thời tiết chuyển mùa từ thu năm 1967 sang đông th́ tôi vẫn tiếp tục lượng định những chiều hướng của Hoa Kỳ về chiến cuộc Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn. Tôi cố theo dơi những cuộc vận động của Tổng Thống Johnson. Những cố gắng của tổng thống Johnson lúc này nhằm mục đích giữ vững sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ đối với chiến tranh ở Việt Nam. Trong lúc tôi đang cố gắng quan sát xem các cuộc thuyết phục của Tổng Thống Johnson ảnh hưởng dân chúng Hoa Kỳ ra sao th́ ở Sài G̣n cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam đă kết thúc. Sài G̣n đang bắt đầu thiết lập chính phủ. Ông Thiệu đă giữ đúng lời hứa. Ông đồng ư để ông Kỳ chọn thủ tướng và sau đó hoàn toàn nhường quyền thiết lập chánh phủ lại cho ông Kỳ. V́ đă có thực quyền trong tay, ông Thiệu đă trở nên phần nào dễ dăi.

Kết quả là sau cuộc bầu cử, ông Kỳ cùng vị tân Thủ Tướng đă bận rộn tiếp xúc với nhiều đoàn thể chính trị và tôn giáo v́ sự tham gia của các đoàn thể này vào chính phủ mới là một việc vô cùng cần thiết. Tôi được triệu hồi về nước vào tháng 9 cũng chính là để góp phần vào việc này.

Khi đang ở Sài G̣n th́ vào ngày 17-10-1967, tôi nhận được một bức điện từ Hoa Thịnh Đốn báo rằng nhà tôi hạ sinh con trai ở bệnh viện của trường đại học George Washington. Ngày hôm sau tôi lên đường về Hoa Thịnh Đốn. Khi về Hoa Thịnh Đốn tôi lại tiếp tục những buổi nói chuyện. Tôi cũng suy nghĩ thêm về việc từ chức của Tổng Trưởng McNamara và cảm thấy lo lắng nhiều hơn khi thấy cuộc chiến ngày càng dữ dội. Từ trước đến nay, trong chiến cuộc Việt Nam, Tết không những chỉ là ngày nghỉ mà c̣n là giai đoạn tượng trưng cho ḥa b́nh và hy vọng. Tết thường là những giai đoạn làm mốc để đánh dấu những thay đổi mới. Đă nhiều năm, Tết là một một dịp đ́nh chiến được cả hai miền Nam, Bắc cùng chấp thuận. Tết là những dịp binh sĩ có thể về thăm gia đ́nh và tề tựu cùng những người thân trong họ. Tết chính là giai đoạn nghỉ ngơi hiếm hoi cho cả hai chánh phủ giữa lúc giao tranh. Tôi đă nghĩ rằng Tết năm 1967 sẽ là một cơ hội tốt để gia đ́nh tôi có thể quây quần, tạm quên mọi sự.

V́ vậy, nhân một mùa nghỉ ngắn, tôi và gia đ́nh đă quyết định cùng đi trượt tuyết ở vùng Camelback, tiểu bang Pennsylvania. Camelback tuy không xa Hoa Thịnh Đốn là mấy nhưng cũng đủ xa để chúng tôi có thể thoát được sự căng thẳng của những vấn đề hàng ngày. Ngày đầu tiên ngay lúc đang c̣n trượt tuyết ở những con dốc, tôi đă nghe loa phóng thanh gọi tôi và thông báo rằng tôi phải về lập tức v́ có điện thoại của ṭa đại sứ. Khi tôi liên lạc được với ṭa đại sứ th́ những nhân viên ở ṭa đại sứ cho tôi biết Sài G̣n đang bị các lực lượng Cộng Sản tấn công và chính quyền Hoa Kỳ đang cần gặp tôi gấp. Trong ṿng một tiếng đồng hồ, tôi tụ họp gia đ́nh, sửa soạn đồ đạc và lên xe hối hả trở về Hoa Thịnh Đốn.

Khi tôi về đến Ṭa Đại Sứ th́ trời vào khoảng 6,7 giờ tối. Tôi c̣n nhớ hôm đó là ngày 31 tháng giêng. Khi tôi về đến sứ quán th́ những nhân viên ở ṭa đại sứ đă có đầy đủ những báo cáo thâu được từ những nguồn tin của Ngũ Giác Đài và Bộ Ngoại Giao. Theo những Bản Báo Cáo th́ hiển nhiên Việt Cộng đă phát động một cuộc tổng tấn công lớn vào Sài G̣n. Cuộc tấn công dữ dội cho đến mức đă có những đơn vị Cộng quân xâm nhập vào những một vài nơi cư trú ngay cạnh ṭa đại sứ. Tuy chưa vào được ṭa đại sứ nhưng những đơn vị Việt Cộng đă có lúc chiếm giữ được cả đài phát thanh. Đây quả là một cuộc tổng tấn công phối hợp với các cuộc nổi dậy ở tất cả các vùng. Cuộc tổng tấn công hoàn toàn bất ngờ cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Cả ṭa Bạch Ốc đều sửng sốt vào lúc đầu. Cơn bàng hoàng sợ hăi kéo dài. Đến ngay cả khi Hoa Kỳ đă biết đại sứ Bunker hoàn toàn vô sự mà ông Rostow, ông Bill Jorden và các nhân viên ṭa Bạch Ốc cũng chưa dám quả quyết liệu Việt Nam có thể chống giữ được hay không?

Lúc cuộc tấn công phát động th́ ông Thiệu đang thăm viếng quê ngoại ở vùng đồng bằng Cửu Long nhưng ông Kỳ vẫn ở Sài G̣n để điều động mọi việc. Tôi đă cố gắng liên lạc với ông Kỳ bằng điện thoại. Lúc tôi liên lạc được với ông Kỳ th́ t́nh h́nh đă khá ổn định. Ông Kỳ cho biết rằng chánh phủ Việt Nam đă làm chủ t́nh h́nh. Những đơn vị Việt Cộng gần ṭa đại sứ Hoa Kỳ đă bị quét sạch. Hơn nữa, sự tiên liệu đề pḥng an ninh của chính phủ ở đài phát thanh đă ngăn ngừa được mọi mưu toan của Việt Cộng trong việc lợi dụng đài phát thanh để kêu gọi cuộc tổng nổi dậy. Ông Kỳ nói thêm rằng có lẽ phải thêm một thời gian nữa quân đội Việt Nam mới có thể đẩy lui được toàn thể địch quân nhưng rơ ràng là cuộc tổng tấn công đă thất bại hoàn toàn. Mặc dầu có sự bất ngờ, t́nh thế đă được ổn định và địch quân đă bị tổn thất nặng nề.

Đang khi tôi hăy c̣n tổng kết vấn đề th́ màn ảnh truyền h́nh Hoa Kỳ đă loan báo tin tức về các biến cố ở Sài G̣n. Những cuốn phim h́nh được chiếu vào lúc này tường tŕnh những cảnh thật là kinh khiếp. Đài truyền h́nh chiếu cảnh đại sứ Bunker đang xem xét lại ṭa đại sứ khi những xác chết Việt Cộng vẫn c̣n ngổn ngang trên mặt đất, cảnh Việt Cộng và binh lính Hoa Kỳ đang đánh xáp lá cà. Trong những cuốn phim chiếu có cả tiếng các viên sĩ quan chỉ huy ḥ hét ra lệnh vang lên ầm ỹ bên cạnh các phóng viên đang đổ xô vào nhau núp ngay gần sát cạnh chỗ giao tranh. Đến cả những người chuyên xem phim chiến tranh cũng chưa hề được mục kích những cảnh tương tự bao giờ.

Hai ngày sau đó, những nhân viên sứ quán cùng những tùy viên báo chí và quân sự của chúng tôi làm việc liên tục suốt hai mươi bốn giờ. Tôi tổng kết tất cả những bản báo cáo cùng những nguồn tin của cả Ṭa Bạch Ốc lẫn Sài G̣n và đă có thể phác họa được khá đúng t́nh h́nh. Những lực lượng Việt Cộng đă phát động cuộc tấn công mở rộng ở khắp mọi nơi nhằm mục đích chiếm lấy thành phố và bắt đầu một cuộc tổng nổi dậy nhằm gây hoang mang cho những trung tâm dân cư và kêu gọi binh lính Việt Nam gia tăng đào ngũ.

Cuộc tấn công đă được Việt Cộng tổ chức bằng cách lợi dụng tất cả những yếu tố bất ngờ của ngày Tết. Cuộc giao tranh bắt đầu theo những tiếng pháo Tết. V́ thông lệ đốt pháo vào những dịp tết, đầu tiên chưa ai nhận rơ được rằng giao tranh đă xảy ra giữa hai phe. Hơn nữa, chiến thuật tấn công vào thẳng thành phố giữa ngay trung tâm hỏa lực của Việt Nam và Hoa Kỳ táo bạo đến độ những chuyên viên t́nh báo đă xem những tin tức thâu lượm được chẳng khác nào một chuyện đùa chơi. Tuy thế sự thể cho thấy đây hoàn toàn không phải một tṛ đùa. Trước khi cuộc tổng tấn công phát động Việt Cộng đă xâm nhập và chuyển vận được những vũ khí nặng vào các thành phố lớn. Mượn cơ hội hiếm có nhờ những ngày bận rộn của không khí trước Tết lúc mọi người đang sửa soạn cho ngày lễ lớn nhất năm, Việt Cộng đă chuyển các đơn vị vào thành phố bằng nhiều cách ngụy trang khéo léo. Vào lúc sau này, dân chúng nhớ lại rằng trước ngày Tết bỗng có những đám ma đông đảo khác thường len lỏi qua đường phố Sài G̣n. Những cuộc thẩm vấn tù nhân về sau cho thấy đă có rất nhiều đám ma giả: Những người đưa tang là du kích Việt Cộng trá h́nh và những quan tài họ khiêng chứa đầy vũ khí cùng chất nổ.

Vào đêm 31 tháng 1, Cộng Sản ra lệnh tấn công vào các mục tiêu đă chọn trong thành phố. Những mục tiêu họ chọn bao gồm: Dinh Độc Lập, những Bộ Tư Lệnh của cảnh sát và hải quân, Bộ Tổng Tham Mưu và Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ. Vào lúc rạng đông, những cuộc tấn công phối hợp này được quân đội chính qui Bắc Việt tăng cường tấn công yểm trợ ở các khu vực ngoại ô phía Bắc và phía Nam thành phố. Kết quả của những kế hoạch do Việt Cộng sắp xếp thật là ác liệt. Một thành phố từ trước tới nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm trong cuộc chiến tranh bỗng nhiên ch́m trong hỗn loạn giao tranh ở khắp các nẻo đường. Địch quân đă chọc thủng được pḥng tuyến ở nhiều nơi nhưng lại không giữ được những vị trí đă chiếm. Vào lúc tảng sáng những đơn vị Việt Cộng tấn công vào ṭa đại sứ đă bị tiêu diệt. Đến giữa trưa th́ viên lính du kích cuối cùng bị triệt hạ.

Tuy những chỉ huy cao cấp của Việt Cộng đă lợi dụng được yếu tố bất ngờ nhưng Tướng Nguyễn Ngọc Loan đă huy động quân cảnh Sài G̣n phản ứng kịch liệt và ngăn chận kịp thời tất cả những tai họa lớn lao. Sau đó, những binh lính tăng cường của cả quân đội Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đă tập trung và chặn đứng các cuộc tấn công của quân đội chính qui Việt Cộng, buộc Cộng Sản phải rút lui.

Sài G̣n cũng là trường hợp điển h́nh cho các tỉnh khác. Ở những nơi như Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long, Châu Đốc, Mỹ Tho và các thành phố khác, những thành công đầu tiên của Việt Cộng lập tức tiêu tan. Những đơn vị cộng sản đă chịu nhiều thiệt hại nặng nề do những hỏa lực tập trung của Hoa Kỳ và Việt Nam.

Chỉ có một nơi khung cảnh hoàn toàn khác hẳn là Huế. Tại đây địch quân chiếm giữ phần lớn thành phố và chiếm đóng suốt ba tuần. Những thương tổn của cả hai bên đều vô cùng trầm trọng. Khi bị buộc phải tháo lui khỏi những tỉnh lị khác, Cộng Sản đă quyết tâm giữ vững những tiền đồn ở cổ thành. Huế cũng chính là nơi những thương tổn dân sự lên cao hơn tất cả những nơi khác. Tại Huế, ngay sau khi cộng sản chiếm đóng th́ Ủy Ban Nhân Dân và những đơn vị quân sự đặc biệt của cộng sản bắt đầu diệt trừ những thành phần mà họ cho là phản cách mạng. Khi giao tranh kết thúc, đă có gần 3000 người bị tàn sát kể cả những tu sĩ công giáo, những bác sĩ ngoại quốc, những kư giả và tất cả những người từ mọi tầng lớp v́ lư do này hay lư do khác đă vô t́nh có tên trong sổ đen của cộng sản. Nhiều người bị đánh đập cho đến chết, nhiều người khác bị bắn và rất nhiều người khác nữa bị chôn sống. Đây là một trong những thí dụ điển h́nh về sự man rợ cùng tột của chính sách cộng sản. Nhưng được cái may là Huế lại là vùng duy nhất Việt Cộng chiếm đóng lâu được đến mức họ có thể áp dụng được uy quyền của họ.

Tuy những tin tức ông Kỳ cho tôi biết thật là khả quan và đây là những tin tức trong ṿng 36 giờ đầu nhưng những tin tức của các giới báo chí, truyền thông Hoa Kỳ loan báo về Tết Mậu Thân lại hoàn toàn khác hẳn. Nhất là trên đài truyền h́nh, những cảnh tượng được chọn lựa nhằm gây cho người xem ấn tượng rằng Việt Nam đang phải đối phó với một hiểm họa có tầm vóc sinh tử. Các phóng viên đă bị những khung cảnh ác liệt của các cuộc giao tranh ám ảnh. Hàng đêm ống kính của họ tŕnh bày những trận đánh nảy lửa khiến người xem chẳng thể quyết định rơ rệt bên nào đang thắng thế. Ngay cả những khi những b́nh luận gia đă nh́n vấn đề hoàn toàn chính xác mà họ vẫn tỏ ra nghi ngờ khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam.

Mặc dù ṭa đại sứ Việt Nam chẳng thể làm cách nào để lấn át được những tin tức của giới truyền thông Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn thu thập tài liệu để soạn thảo các chương tŕnh nói chuyện với báo chí và với những nhân viên trong các ủy ban của quốc hội có nhiệm vụ lượng định t́nh h́nh chiến cuộc Việt Nam. Trong dịp này, tôi thường tổ chức những bữa cơm trưa và mời đại diện các báo tới tới dùng bữa trưa để có dịp thảo luận chi tiết và làm sáng tỏ phần nào các tin tức và giúp mọi người hiểu rơ hơn về cuộc tấn công. Tôi nhấn mạnh rằng t́nh thế chiến cuộc hoàn toàn khả quan, Việt Cộng đang bị tổn thất nặng nề. Sau đó tôi đưa ư kiến với các kư giả báo chí rằng vấn đề chính chẳng phải nằm ở câu hỏi liệu cuộc tấn công có thành công hay không mà thực sự là ở câu hỏi liệu cuộc tấn công có ảnh hưởng ǵ đến chiều hướng chính sách của Hoa Kỳ hay không?

Cuộc tấn công Mậu Thân sẽ ảnh hưởng dân chúng Hoa Kỳ ra sao? Đây là một câu hỏi làm tôi lo lắng không cùng. Dĩ nhiên vào lúc đầu tôi cũng bàng hoàng chẳng khác nào những nhân viên khác ở Ṭa Bạch Ốc, nhưng ngay cả khi đă biết rơ rằng cuộc tấn công là một thất bại rơ rệt của Cộng Sản, những nỗi lo âu của tôi vẫn không hề suy giảm. Tôi hiểu rơ tầm ảnh hưởng tai hại của những tin tức và h́nh ảnh mà giới báo chí đă đưa ra. Những bức h́nh chụp, chẳng hạn như bức h́nh của kư giả Eđie Adams khi chụp tướng Loan bắn vào đầu một tên Việt Cộng thật là một cảnh tượng hăi hùng. Những bức h́nh này tuy phác họa thật khốc liệt những sắc thái man rợ nhất của chiến cuộc nhưng lại chẳng thể phơi bày được nội dung những cảnh chụp. Chẳng hạn như nếu chỉ nh́n vào bức h́nh th́ không ai lại có thể biết được tên Việt Cộng bị Tướng Loan bắn chính là một tên sát nhân trong đội ám sát của Việt Cộng và chính hắn vừa mới hạ sát vô số thân nhân của các nhân viên cảnh sát. Hậu quả là khi khán giả vừa trông thấy bức h́nh, họ đă có ngay ấn tượng rằng đây là một cuộc chiến man rợ, đă hoàn toàn vượt qua giới hạn của những lư luận b́nh thường hoặc suy luận sâu xa. Tuy chẳng ai có thể định rơ tầm ảnh hưởng của giới báo chí khi họ tŕnh bày những tin tức và h́nh ảnh chẳng hạn như tấm h́nh của Eđie Adams nhưng đây vẫn là một trong những điều khiến tôi lo ngại.

Ngay sau khi cuộc tấn công Tết Mậu Thân chấm dứt, quốc hội và chánh phủ Hoa Kỳ vẫn chưa bị ảnh hưởng ǵ nhiều. Những người có trách nhiệm vẫn tỏ vẻ lạc quan và tin tưởng. Việt Nam đă đánh bại một kế hoạch do Bắc Việt hoạch định cẩn mật và đẩy lui được những cuộc tấn công bất ngờ ở khắp mọi nơi trong nước. Không những chỉ đẩy lui mà Việt Nam c̣n đè bẹp cả cuộc tổng tấn công. Khi những tổn thất được tổng kết, con số thiệt hại của Bắc Việt lên từ khoảng 35,000 cho đến 40,000 binh lính. Đây là phân nửa binh lực của toàn thể quân đội Bắc Việt. Mặc dầu địch quân đă gọi cuộc tấn công Tết Mậu Thân là một cuộc "Tổng Tấn Công, Tổng Nổi Dậy" kỳ thật th́ vẫn chưa hề có một cuộc nổi dậy nào cả. Tất cả những ǵ Cộng Sản huênh hoang gọi là "t́nh cảm cách mạng chứa chất trong tim người dân Miền Nam" chỉ là những điều hoàn toàn bịa đặt. Hy vọng khuấy rối và gây loạn bên trong quân đội Việt Nam cũng hoàn toàn thất bại. Ngược lại quân đội Việt Nam đă chứng tỏ rơ rệt khả năng phản công thật nhanh chóng và hiệu lực.

Tuy những thắng lợi quân sự quả hoàn toàn rơ rệt là thế mà những giới báo chí lại tŕnh bày tin tức dưới một khía cạnh khác. Những ảnh hưởng tai hại của giới báo chí đă biến cuộc tấn công thất bại của Bắc Việt thành một biến cố làm mất uy tín của Việt Nam và Hoa Kỳ. Nói một cách chi tiết th́ khi đối chiếu các phong trào vận động của Tổng Thống Johnson và khả năng thực sự của Bắc Việt th́ những mâu thuẫn đă khiến dân chúng Hoa Kỳ dao động và không c̣n tin tưởng vào uy tín của chánh quyền Johnson nữa. Tuy mới đây, trong chuyến trở lại thăm viếng Hoa Kỳ cả Tướng Westmoreland lẫn đại sứ Bunker đều lạc quan mà lúc này ở Hoa Kỳ gần như tất cả đều mất hết lạc quan. Nghi vấn đă làm cả Quốc Hội lẫn giới báo chí sôi sục: Tại sao t́nh báo Hoa Kỳ lại có thể tiên đoán sự kiện sai lệch đến mức như vậy? Tại sao ngay giữa trung tâm hỏa lực, nơi cả nửa triệu quân Hoa Kỳ đang trấn đóng mà địch quân vẫn có thể tiến vào những thành phố và bao vây cả ṭa đại sứ?

Các biến cố cho thấy rằng bất kể kết quả quân sự ra sao, cuộc tấn công đă ăn ṃn dần uy tín của chánh phủ Johnson về mặt tinh thần. Cuộc tấn công đă khiến nhân dân Hoa Kỳ nghi ngờ uy tín của chánh quyền Johnson. Rồi từ đó, người dân Hoa Kỳ đă bắt đầu nghi ngờ cả toàn thể cuộc chiến Việt Nam.

Vào lúc ban đầu th́ vẫn chưa có bất kỳ sự thay đổi chính thức nào quan trọng trên phương diện chính sách. Ít ra th́ cũng chưa có thay đổi nào trầm trọng ở các cơ quan hành pháp. Ngược lại, trong những tuần lễ sau Tết, Tổng Thống Johnson lại tuyên bố rơ rệt rằng chánh quyền Hoa Kỳ hết ḷng ủng hộ Việt Nam. Tuy thế, tôi đă bắt đầu nghe phong phanh nhiều điều đồn đại từ nhiều phía khác nhau. Có tin đồn rằng Bộ Trưởng Quốc Pḥng Clark Clifford, người thay thế Bộ Trưởng McNamara, cố vấn thân tín nhất của Tổng Thống Johnson không c̣n ủng hộ cuộc chiến nữa. Những bạn bè của tôi trong giới quân sự Hoa Kỳ đă bảo tôi rằng vào lúc này, những phụ tá của Bộ Trưởng McNamara c̣n tại chức chẳng hạn như các nhân viên Paul Warnke, Leslie Gelb, Morton Halperin và nhiều nhân viên khác cũng có ư ủng hộ chính sách rút lui tuy họ vẫn chưa chánh thức tuyên bố công khai.

Tuy nhiên việc làm tôi lo lắng nhất là đề tài của một câu chuyện giữa tôi và phóng viên Hedrick Smith, một phóng viên của tờ New York Times. Vào khoảng cuối tháng 2, lúc phóng viên Hedrick Smith đang phụ trách một mục báo viết về lời yêu cầu đổ thêm quân của tướng Westmoreland th́ ông có nhờ tôi dùng những liên lạc riêng để xác định xem liệu những mục tiêu trong lời yêu cầu của tướng Westmoreland có thiết thực hay không? Tôi đă thú thật với phóng viên Hedrick rằng tôi thật sự chẳng giúp đỡ được ǵ nhiều v́ những viên chức Việt Nam rất hiếm khi được biết rơ ngọn ngành những kế hoạch của Hoa Kỳ, nhất là về những vấn đề như vấn đề quân số.

Nhưng câu chuyện chưa kết thúc tại đây. Câu hỏi của ông Smith đă khiến tôi linh cảm sẽ có việc khác thường xảy ra. Chẳng bao lâu sau tôi lại được tin rằng những lời yêu cầu của Tướng Westmoreland đă khiến hai phe bồ câu lẫn diều hâu của Hoa Kỳ tranh luận sôi nổi trong cả quốc hội lẫn chánh phủ. Đây quả là một biến chuyển đáng ngại. Lúc này uy tín chánh phủ Johnson đang bị sút giảm và cuộc tấn công Tết Mậu Thân cũng vừa mới xảy ra. Hơn nữa, chỉ c̣n vài tuần nữa là đến giai đoạn đầu của cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Những cuộc vận động sơ khởi để sửa soạn cho cuộc bầu cử lại sắp diễn ra ở tiểu bang New Hampshire. Tôi có linh cảm rằng yêu cầu đổ quân sẽ khơi sâu thêm các mâu thuẫn và ảnh hưởng đến các chính sách điều động chiến cuộc của Tổng Thống Johnson. Nếu đứng trên phương diện tâm lư và chính trị mà luận th́ lời yêu cầu đổ thêm quân của Tướng Westmoreland đến vào một thời điểm thật là bất lợi.

Riêng đối với tôi th́ vào giai đoạn này tôi vẫn thường tự hỏi: Phải chăng những biến chuyển ở Hoa Thịnh Đốn đă khiến Việt Nam bước qua một bước ngoặt giai đoạn? Câu hỏi này đă khiến tôi khắc khoải không cùng. Tôi cố hết sức thăm ḍ cho chính xác những biến chuyển bên trong chánh phủ Hoa Kỳ và báo cáo chi tiết về Việt Nam. Sau đó tôi bắt đầu vận động bằng cách ngỏ lời xin ông Thiệu và ông Kỳ gọi tôi về để tham khảo. Sau khi đă gửi điện yêu cầu được gọi về, tôi lại viện vào lư do sắp về Sài G̣n để yêu cầu được gặp Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng Clark Clifford và nhiều nhân viên khác trong cả chánh phủ lẫn quốc hội Hoa Kỳ. Giữa lúc tôi c̣n đang trong giai đoạn gặp gỡ đầu tiên th́ bản tin của phóng viên Hedrick được tờ New York Times đăng tải. Đề mục hiện rơ ngay trên trang đầu của tờ báo ngày 10 tháng 3 với hàng tít 8 cột to lớn: "Tướng Westmoreland yêu cầu gửi thêm 206,000 quân sang Việt Nam."

Quả nhiên phản ứng đối với lời yêu cầu tăng viện quân đến vừa nhanh chóng, vừa dữ dội thật chẳng khác ǵ những điều tôi linh cảm. Tại Quốc Hội, các Thượng Nghị Sĩ Fullbright, Mansfield, Robert Kennedy, cùng hàng loạt thượng nghị sĩ khác ở ngay trong đảng của Tổng Thống Johnson đồng nhất loạt lên tiếng chỉ trích. Ngoại Trưởng Rusk bị gọi đến để điều trần trước Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện. Buổi điều trần được trực tiếp truyền h́nh trên các đài Ti Vi. Cảnh tượng điều trần cho thấy một sự bất đồng ư kiến rơ rệt về chính sách giữa quốc hội và chánh phủ Hoa Kỳ.

Vào đúng lúc mọi việc đang xảy ra th́ cuộc bầu cử sơ khởi ở New Hampshire lại bắt đầu. Trong cuộc bầu cử sơ khởi nhân lúc quốc hội đang chỉ trích chính phủ, Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthy đă mượn luôn diễn đàn báo chí và truyền h́nh để công kích kịch liệt các chính sách của chính phủ Johnson. Khi cuộc bầu cử sơ khởi kết thúc th́ kết quả được đăng tải vào ngày 14 tháng 3. Tổng số phiếu cho thấy Thượng Nghị Sĩ McCarthy chỉ thiếu vẻn vẹn có 300 phiếu nữa là có thể thắng được Tổng Thống Johnson.

Giữa khi Hoa Thịnh Đốn đang xôn xao v́ các diễn biến th́ tôi vẫn tiếp tục cố gắng lượng định t́nh h́nh quốc hội. Đầu tiên tôi đến gặp một người bạn đang phục vụ ở quốc hội là Thượng Nghị Sĩ Aiken. Ông Aiken nguyên vừa là người hiểu biết, có nhận định hết sức chính xác và lại vừa hiểu rơ t́nh cảnh của tôi. Vào một sáng lạnh lẽo đầu tháng 3, tôi cùng dùng điểm tâm với Thượng Nghị Sĩ Aiken ở pḥng ăn quốc hội để được nghe lời ông nghị luận. Nhận định của Thượng Nghị Sĩ Aiken c̣n làm tôi lo lắng thêm. Tôi có ghi lại nhận định đă được nghe trong buổi điểm tâm hôm đó: "Tuy Tổng Thống Johnson vẫn tin tưởng mănh liệt vào các chính sách đă đề ra, ông ta không c̣n được những đảng viên khác trong đảng ủng hộ. Tôi không những chỉ nói đến các nghị viên phản chiến, hẳn ông cũng đă hiểu rơ ư kiến của họ! Ư tôi muốn nói những người từ trước đến nay vẫn ủng hộ TT Johnson, chẳng hạn như ông Stennis và ông Jackson. Lúc này Tổng Thống cũng chẳng c̣n được họ ủng hộ. Vài năm trước ông có thể đề cập đến "sự đồng thuận" của Hoa Kỳ về chiến cuộc Việt Nam, nhưng giờ đây việc đă hoàn toàn khác hẳn. "Sự đồng thuận" không c̣n nữa. Vả lại, nếu có c̣n sự đồng thuận chăng nữa th́ sự đồng thuận cũng đang tan ră." Ngưng một chút ông nói thêm: "Tôi đoán rằng Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy cũng sắp ra ứng cử tổng thống. Lúc đó th́ việc c̣n rơ ràng hơn."

Từ trước đến nay tôi thấy những nhận định của ông Aiken lúc nào cũng rất thành thật và chánh xác. Chắc chắn những nhận định của ông lần này cũng chuẩn xác chẳng khác ǵ những lần trước. Sau khi đă tiếp xúc với ông Aiken, tôi cho rằng có lẽ chẳng c̣n tin tức ǵ cần t́m hiểu thêm ở quốc hội nữa. V́ vậy tôi lại xoay sang t́m tin tức ở Ṭa Bạch Ốc. Cuối cùng, khi duyệt lại tất cả những cuộc thảo luận với cả ông Aiken lẫn những nhân viên ở Ṭa Bạch Ốc tôi kết luận rằng có lẽ trong giai đoạn khủng hoảng của các chánh sách Hoa Kỳ lúc này tôi nên gặp thẳng Tổng Thống Johnson, Ngoại Trưởng Rusk và Bộ Trưởng Quốc Pḥng Clark Clifford. Tôi không hề nghĩ ǵ đến chuyện có thể ảnh hưởng tổng thống Johnson, nhưng tôi cho rằng nếu có cơ hội gặp riêng với ông, biết đâu tôi chẳng hiểu được phần nào những điều ông suy nghĩ. V́ suy nghĩ như thế nên khi đến gặp các ông Walt Rostow và Bill Jorden tôi đă hỏi họ chẳng hiểu tôi có thể gặp riêng tổng thống Johnson hay không. Cả hai đều trả lời rằng được. Thế là vào sáng ngày 18 tháng 3, ông Jorden gọi điện thoại báo cho tôi biết rằng tôi có thể gặp Tổng Thống Johnson tối đó.

Chiều đó tôi đến gặp ông Jorden để đánh lạc hướng giới báo chí. Rồi chúng tôi cùng đi bộ sang Ṭa Bạch Ốc. Khi chúng tôi đến nơi th́ Tổng Thống Johnson vẫn tiếp tôi thật là niềm nở chẳng khác ǵ những lần gặp trước. Lúc ngồi xuống, đối diện với tổng thống Johnson, tôi thấy dường như ḿnh đang nh́n vào một người nào đó khác hẳn. Trông ông thật là mệt mỏi và tiều tụy. Người ông toát ra một vẻ ưu tư và trầm lặng khác hẳn trước đây. Dường như gánh nặng chiến cuộc Việt Nam đang vượt quá sức chịu đựng của ông. Có lẽ đây chẳng phải là lần thứ nhất tôi cảm thấy thông cảm với nỗi khổ tâm của ông.

Tôi mở đầu buổi họp bằng cách tŕnh bày sơ lược quan điểm và những nhận định của Việt Nam. Tôi nói rằng dĩ nhiên ở Việt Nam lúc này vẫn c̣n rất nhiều khó khăn nhưng chúng tôi tin là Việt Nam đang nắm phần chủ động khi phải đối phó với những thử thách vừa qua trong Tết Mậu Thân. Bắc Việt đă phải chịu nhiều tổn thất và Việt Nam đang cố ổn định lại cuộc sống b́nh thường ở các vùng thôn quê để gây thêm tin tưởng cho dân chúng. Chiến thắng Mậu Thân đă khiến người dân Việt Nam thấy rơ rằng quân đội Miền Nam Việt Nam có thể đánh bại Cộng Sản và nhờ vào những niềm lạc quan đó, Việt Nam đă bắt đầu một cuộc tổng động viên tuyển mộ tất cả những thanh niên 18 tuổi. Đây là một cuộc tổng động viên mà trước đây Việt Nam vẫn cho rằng chẳng thể nào có thể thực hiện được. Riêng về vấn đề quân sự th́ tôi nói rằng Việt Nam sẵn sàng nhận thêm những trách nhiệm mới. Nhưng quân đội Việt Nam vẫn c̣n đang thiếu khí giới, nhất là các súng ống có thể dùng vào cuộc tấn công. Chẳng có bao nhiêu đơn vị của Việt Nam được trang bị súng M-16, trong khi đó th́ Bắc Việt lại được trang bị bằng những khẩu AK-47 tối tân của Trung Hoa.

Tổng Thống Johnson lấy làm ngạc nhiên khi tôi đưa ra điểm khác biệt về khí giới giữa quân đội Việt Nam và Bắc Việt. Ông quay sang nhờ ông Jorden ghi nhận điểm này. Ngoại trừ việc nhờ ông Jorden ghi nhận, Tổng Thống Johnson chỉ ngồi yên lặng trong suốt buổi họp, tay ông chống cằm, thỉnh thoảng ông lại rướn mắt nh́n qua ṿng viền của chiếc tách như thể cố nh́n tôi cho rơ hơn. Tôi có cảm tưởng rằng phần lớn những điều tôi nói ông đều không nghe. Ông ngồi yên thả hồn theo những suy tưởng riêng.

Khi tôi dứt lời Tổng Thống Johnson ngồi yên khoảng một hoặc hai phút và phát biểu thật từ tốn: "Nếu chúng ta không thắng th́ rắc rối to. Tôi đă cố hết sức rồi mà vẫn không nổi." Tôi phải cố nén ngạc nhiên mà ḷng vẫn chưa thể tin được rằng đây là sự thật. Tôi không ngờ một người như Tổng Thống Johnson mà lại có thể thú nhận rằng ông không đủ sức. Tôi thầm suy nghĩ lời nói của ông và rồi kết luận rằng có lẽ ông chưa nói thẳng với tôi nhưng ông muốn tôi tŕnh bày với ông Thiệu và ông Kỳ rằng ông không thể giữ được những lời ông đă cam kết với Việt Nam. Tuy vậy Tổng Thổng Johnson lại chẳng nói ǵ chi tiết thêm mà lại đổi sang đề tài cần trang bị M-16 cho các đơn vị Việt Nam. Ông nói rằng ông sẽ xem xét cẩn thận vấn đề này.

Trong suốt buổi họp hôm đó tôi chỉ ngồi với Tổng Thống Johnson có 40 phút. Tuy thế sau cuộc họp tôi đă biết rằng Hoa Kỳ đă quyết định thay đổi chính sách. Trong khi hai phía bồ câu và diều hâu tranh luận th́ lần này phía bồ câu đă ảnh hưởng được tổng thống Johnson thay đổi chính sách về một chiều hướng mới. Tôi rời ṭa Bạch Ốc vào lúc cuối ngày. Khung cảnh ban công ở Ṭa Bạch Ốc vào lúc hoàng hôn vắng lặng chẳng khác nào một nơi bỏ hoang. Tôi bước đi mà ḷng đầy ắp những suy tư, lo lắng. Đầu óc tôi quay cuồng v́ những viễn ảnh tương lai mù mịt của Việt Nam.

Hai ngày sau tôi đến gặp ông Clark Clifford ở Ngũ Giác Đài. Trước đây tôi đă có gặp ông Clifford trong những buổi họp ở Sài G̣n. Bộ Trưởng Quốc Pḥng Clifford nguyên vừa là bạn thân, lại vừa là người lúc nào cũng ủng hộ chính sách của tổng thống Johnson. Ở những buổi họp tôi gặp ông lúc trước ông Clifford thường tŕnh bày vấn đề rất mạch lạc. Lời lẽ của ông đă chu đáo, khéo léo lại gọn ghẽ và chính xác chẳng khác nào ngôn ngữ của một luật sư quốc tế. Tôi vẫn nghĩ rằng cách ông diễn tả tư tưởng có lẽ c̣n khéo léo hơn cả những nhà ngoại giao chuyên nghiệp.

Đó là những ấn tượng của tôi về ông trong quá khứ, nhưng khi tôi gặp ông vào ngày 20-3-67 th́ ông Clifford lại là một con người khác hẳn. Ông đă chẳng dùng những lời lẽ khéo léo hoa mỹ mà lại c̣n có vẻ thiếu kiên nhẫn trông thấy. Ông bảo tôi rằng ông đă được Tổng Thống Johnson cho biết chúng tôi yêu cầu Hoa Kỳ trang bị M-16 cho các đơn vị Việt Nam và ông sẽ cố gắng hết sức về việc này. Sau đó ông trực tiếp tŕnh bày vấn đề thay đổi chính sách của chính phủ Hoa Kỳ: "Chúng tôi không c̣n thời giờ để nói chuyện ngoại giao nữa." Rồi ông lại ngầm ám chỉ những loạt tranh chấp triền miên giữa ông Thiệu và ông Kỳ: "Chúng tôi đă ngán nghe những chuyện xích mích đến tận cổ rồi. Dân chúng Hoa Kỳ đă chán chường lắm rồi và sức ủng hộ của chúng tôi cũng chỉ có giới hạn thôi." Khi chúng tôi chấm dứt buổi họp khó chịu đó, ông Clifford c̣n phát biểu một câu thất vọng gần giống như lời Tổng Thống Johnson khi trước: "Chúng ta phải t́m ra một giải pháp nào đó, nếu không th́ rắc rối to!"

Cuối cùng, tôi đến gặp Ngoại Trưởng Rusk trước khi lên đường về Sài G̣n. Khi nói chuyện với ông Rusk tôi có cảm tưởng rằng cả ba nhân vật Hoa Kỳ -Tổng Thống Johnson, Ngoại Trưởng Rusk và Bộ Trưởng Quốc Pḥng Clifford- đều đang cố nói rơ lập trường của Hoa Kỳ cho tôi biết. Mới chỉ một năm trước đây, ông Rusk đă từng nói: "Nếu người Hoa Kỳ quyết định làm việc ǵ th́ chắc chắn họ sẽ làm được việc đó", vậy mà giờ đây ông lại nói rằng: "Chúng tôi không c̣n đường chọn lựa. Mục tiêu của chúng tôi giờ đây không phải là thắng lợi quân sự mà là Ḥa B́nh trong danh dự." Đây là lần đầu tiên tôi được nghe một danh từ đặc biệt như vậy. Trên chuyến bay về Sài G̣n năm 1968, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về câu "Ḥa B́nh trong danh dự" của ông Rusk. Lúc đó, tôi vẫn chưa biết được rằng sau này, vào tháng 10, năm 1972 tôi c̣n có dịp được nghe lại danh từ đặc biệt này một lần nữa khi ông Kissinger tuyên bố Hoa Kỳ đă đạt được "Ḥa B́nh trong danh dự" qua hiệp định Ba Lê.

27. Cuộc Đàm Phán Bắt Đầu

Sau khi chia tay ông Rusk, tôi trở về để thông báo cho Sài G̣n biết rằng lập trường của Hoa Kỳ về cuộc chiến Việt Nam đă bắt đầu lung lay. Vừa về Sài G̣n được một ngày tôi đă thông báo ngay các tin tức thật chi tiết với ông Thiệu và ông Kỳ. Tôi nói rằng Việt Nam phải đối diện với thực tế về việc rút quân của Hoa Kỳ ngay lúc này. Tuy tôi chưa chánh thức được nghe chánh phủ Hoa Kỳ tuyên bố những thay đổi trong tương lai nhưng qua các cuộc đàm luận với các ông Johnson, Clifford, và Rusk, tôi đă biết rất rơ những khuynh hướng thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Đă đành rằng Hoa Kỳ khó thể rút quân lập tức, nhưng việc rút quân của Hoa Kỳ trong tương lai là việc không thể nào tránh khỏi. (Đă có khoảng nửa triệu binh lính Hoa Kỳ trấn đóng ở Việt Nam vào thời gian đó.)

Khi nghe tôi tường tŕnh, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ có lẽ đều cho rằng đây là những âu lo hăy c̣n xa xăm. Tuy Hoa Kỳ rút quân là việc quan trọng, họ cho rằng vẫn c̣n nhiều thời giờ để lo liệu. Lúc này, đầu óc của cả hai c̣n đang bận rộn t́m cách khẩn cấp đối phó với những cuộc tấn công lẻ tẻ đợt hai của Việt Cộng. Mặc dù lúc tôi đặt vấn đề, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều tỏ vẻ quan tâm, tôi vẫn thấy rơ ràng là họ chưa chú ư đúng mức. Tuy tôi cố tŕnh bày vấn đề hết sức tỉ mỉ và tường tận mà khi cuộc tường tŕnh kết thúc tôi vẫn có cảm tưởng có lẽ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều chưa hiểu rơ những điều tôi muốn nói. Tôi tự hỏi phải chăng muốn thấu đáo ảnh hưởng của những biến cố đang xảy ra ngoài cách phải sống ở Hoa Kỳ không c̣n cách nào khác?

Đây không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần cuối tôi thất bại trong việc dung ḥa quan điểm của hai bên Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi c̣n nhận ra rằng v́ ở Hoa Kỳ quá lâu, tôi đă bị những nhận thức thực tế ở thủ đô Hoa Kỳ chi phối.

Tết Mậu Thân là một thí dụ điển h́nh. Bầu không khí bi quan của Hoa Thịnh Đốn đă khiến tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy Sài G̣n có thể vượt qua cuộc tấn công hoàn toàn lạc quan và vô sự. Gần như tất cả mọi người Việt Nam đều thấy rơ bầu không khí tin tưởng phấn khởi sau Tết Mậu Thân. Tuy giao tranh vẫn c̣n rải rác đó đây trong những vùng lân cận quanh thành phố và Huế chỉ mới bắt đầu hồi sinh sau những cuộc tàn sát đẫm máu vừa qua, ở khắp nơi bầu không khí phấn khởi vẫn lộ rơ nét. Cuộc tấn công của Bắc Việt lúc Tết Mậu Thân chẳng những đă không lật đổ được chánh quyền Sài G̣n mà c̣n khiến quân đội Việt Nam tự tin hơn v́ những kinh nghiệm vừa trải qua.

Những cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng tuy ác liệt nhưng cuối cùng những viên chức quân sự và ngay cả đến dân chúng cũng đă thấy rơ rằng du kích quân chẳng phải thần thánh như lời đồn đăi. Hơn nữa, niềm phấn khởi tinh thần cùng những kết quả cụ thể hầu như ở khắp cả mọi nơi. Một trong những kết quả trông thấy là con số nhập ngũ nhảy vọt của quân đội Việt Nam, sự h́nh thành những đoàn thể tự nguyện nhằm mục đích giúp đỡ làng xóm chống lại những hoạt động xâm nhập của Cộng Sản. Những biến chuyển khả quan ở Việt Nam thật rơ rành rành. Nhưng rủi thay, những biến chuyển khả quan đó lại đến vào giữa lúc Hoa Thịnh Đốn bắt đầu thối chí.

Vào ngày 31 tháng 3-1968, Việt Nam đă cảm thấy những nỗi chán chường của Hoa Kỳ. Trong một buổi diễn văn được chiếu khắp nơi trên toàn cơi Hoa Kỳ (và ở cả Sài G̣n) Tổng Thống Johnson tuyên bố rằng ông sẽ không ra tranh cử. Tối đó, tôi cùng xem Ti Vi với ông Kỳ. Cả hai chúng tôi đều biết rất rơ ư nghĩa của lời tuyên bố. Chẳng bao lâu nữa, TT Johnson, người bạn thân tín nhất của Việt Nam sẽ bước ra khỏi chính trường. Những thế lực mới sẽ bước vào thay thế, sẽ lại có TT mới và những chính sách mới. Dù cho chính phủ mới có hoạt động dưới thể thức nào đi nữa th́ chúng tôi cũng sắp sửa phải bắt đầu những bước gian truân, trắc trở trong tương lai.

Trước đây, Hoa Kỳ vẫn ít khi tuyên bố ngưng dội bom, nhưng tối đó, Tổng Thống Johnson lại tuyên bố hủy bỏ một cuộc dội bom khác. Mỗi lần Hoa Kỳ tuyên bố ngưng dội bom là mỗi lần Hoa Kỳ cố t́nh tính toán để nhử Hà Nội đến bàn đàm phán. Từ trước đến nay, tất cả những tính toán của Hoa Kỳ đều bị Bắc Việt khinh miệt bác bỏ, nhưng lần này chẳng hiểu sao Trung Ương Đảng Bộ Hà Nội bỗng nhiên lại hưởng ứng. Ba ngày sau Hà Nội tuyên bố sẵn sàng đàm phán. Lời tuyên bố khiến cả tướng Westmoreland lẫn đại sứ Bunker đều phải trở về Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ư kiến. Theo t́nh h́nh lúc đó th́ có lẽ chỉ độ vài ngày nữa là chánh quyền Sài G̣n sẽ phải đối phó với một t́nh thế hoàn toàn khác hẳn.

Trong những năm làm việc ở Hoa Thịnh Đốn, tôi vẫn thường nghe dư luận Hoa Kỳ nói rằng lư do tồn tại của chánh phủ Việt Nam chính là cuộc chiến tranh. V́ lẽ đó, Sài G̣n lúc nào cũng khước từ tất cả những nỗ lực đàm phán ḥa b́nh. Sự thật th́ trong cả trong cuộc chiến cũng như trong lúc mưu cầu ḥa b́nh, chánh quyền Việt Nam chẳng hề có cơ hội để chọn lựa. Tuy chính Việt Nam đang nằm trong ṿng hiểm họa sanh tử mà gần như trong cả toàn thể chiến cuộc Hoa Kỳ lúc nào cũng dành phần chủ động. Hoa Kỳ thường tự ḿnh định nghĩa thế nào là những ưu điểm thuận lợi và thường ít khi chú ư đến những mong mỏi hoặc nhu cầu của Việt Nam. Lúc này, khi bị những ư kiến lạc quan ngây thơ của dân chúng Hoa Kỳ thúc đẩy, chánh quyền Hoa Kỳ lại nóng ḷng cố đàm phán bằng mọi giá. Họ tin rằng đàm phán là cơ hội cho phép họ chính thức kết thúc những can thiệp quân sự ở Việt Nam.

Hầu hết tất cả những người Việt Nam có kinh nghiệm về chiến thuật và chiến lược của Cộng Sản đều biết rơ việc Bắc Việt tuyên bố đàm phán là chuyện hoàn toàn giả dối. Đây không phải là một nhận định quá đáng. Những người Việt Nam hiểu rơ thủ đoạn của Bắc Việt đều nhận chân được rằng lúc này Bắc Việt đang áp dụng những chiến thuật của giai đoạn "vừa đánh vừa đàm," "đánh rồi đàm, đàm rồi đánh."

Trên nguyên tắc th́ "đánh và đàm" là chiến thuật Bắc Việt chuyên dùng đối phó với các đối phương mạnh hơn. Chiến thuật này sẽ được áp dụng khi đối phương của họ bắt đầu chán chường và mệt mỏi. -Chiến thuật "đánh và đàm" là chiến thuật họ dở ra chỉ vào khi thời cơ đă thuộc về họ. Trong giai đoạn này, đàm phán không phải là một chính sách để đưa đến thỏa ước mà chỉ là một đ̣n phép tâm lư nhằm khêu gợi hy vọng của đối phương rồi từ đó chia rẽ nội bộ đối phương. Chiến thuật chính, theo Cộng Sản là: "Khuyến khích và nuôi dưỡng những mâu thuẫn nội bộ đối phương." Đàm phán sẽ không đi đôi với việc giảm thiểu những nỗ lực đấu tranh mà trái lại sẽ đi đôi với những cuộc tấn công ráo riết để tạo áp lực khiến đối phương bị buộc phải đi đến đàm phán.

"Đánh và Đàm" không phải là những chiến thuật bí mật. Ngay cả các kế hoạch gia và các chính khách Hà Nội cũng đă bàn luận chiến thuật đánh và đàm thật cụ thể ngay trong những tờ tạp chí quan trọng của họ. Khi nh́n các chính khách Hoa Kỳ ùn ùn kéo nhau sang Ba Lê tôi đă thấy rơ họ chẳng hề hiểu biết tường tận những nhân vật họ đang nóng ḷng đối diện trên bàn đàm phán. Chẳng những vậy, chúng tôi c̣n khó chịu hơn khi Hoa Kỳ vẫn không hề tham khảo ư kiến hoặc cho phép Việt Nam chánh thức góp phần vào cuộc đàm phán. Đàm phán dường như chỉ là công việc của riêng Hoa Kỳ và Bắc Việt. T́nh trạng này vừa khiến chúng tôi phải lo lắng về những dự định của Hoa Kỳ lại vừa làm tăng thêm uy tín cho Việt Cộng. Hơn thế nữa, t́nh trạng này c̣n góp phần chứng thực thêm lời tuyên truyền: "chiến đấu chống lại quân xâm lược Hoa Kỳ" của Bắc Việt và làm giảm thiểu uy tín của chánh phủ Việt Nam.

Tuy biết rơ việc xảy ra là thế mà chúng tôi vẫn phải bó tay chịu đựng. Trên lư thuyết th́ chúng tôi vẫn có thể phản đối hành động của Hoa Kỳ, nhưng hành động như vậy chẳng qua sẽ chỉ khiến dư luận Hoa Kỳ chống đối thêm và cho rằng Việt Nam lúc nào cũng hiếu chiến. Dư luận Việt Nam lại là một vấn đề khác. Những câu hỏi trong dư luận đă khiến chúng tôi bị buộc phải giải thích tại sao Hoa Kỳ lại nói chuyện với Bắc Việt. Chúng tôi đă nhấn mạnh rằng đây chỉ là những cuộc đàm phán mở đầu. Thực sự vấn đề chỉ là thủ tục và chẳng có ǵ quan trọng. Việc giải thích quả là một việc rắc rối và khó khăn vô kể. Vả lại vấn đề đàm phán hoàn toàn do Hoa Kỳ khởi đầu và do Bắc Việt hưởng ứng nên dù chúng tôi có nói ǵ đi nữa th́ cuộc họp vẫn tiếp diễn. V́ chẳng c̣n đường chọn lựa, chúng tôi đành ráng sức chiều theo để giữ t́nh thân thiện giữa hai nước đồng minh.

Vào lúc này t́nh h́nh chính trị Hoa Kỳ đang ngày càng phức tạp và căng thẳng. Hoa Kỳ đang bước vào giai đoạn đầu tiên của cuộc bầu cử Tổng Thống. Các ứng cử viên (kể cả Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy) đang cố gắng vận động. Vào giữa lúc chính phủ Hoa Kỳ đang phải đối phó với cuộc đàm phán ở Ba Lê th́ những biến chuyển ở Hoa Kỳ lại hết sức dồn dập. Giữa lúc t́nh h́nh đang thay đổi ào ạt như lúc này, tôi nghĩ rằng chỉ riêng một việc theo dơi được những biến chuyển ở Hoa Thịnh Đốn cũng đă chiếm hết cả th́ giờ, nhưng ông Thiệu và ông Kỳ lại cảm thấy khác hẳn. Thay v́ thông cảm những giới hạn thiết thực của tôi trong công vụ, họ lại nh́n tôi bằng con mắt khác. V́ thấy tôi có thể làm việc và tiếp xúc dễ dàng với người Hoa Kỳ nên ngoài những công việc chính ở Hoa Thịnh Đốn trong lúc này, họ c̣n cử tôi làm "quan sát viên chính thức" theo dơi những cuộc đàm phán ḥa b́nh.

Không c̣n đường chọn lựa, tôi ở lại Sài G̣n để sửa soạn chương tŕnh hành động rồi bay sang Hoa Thịnh Đốn để gặp những chính khách sắp đàm phán cùng Bắc Việt: Hai chính khách được Hoa Kỳ chọn lựa để đàm phán cùng Bắc Việt là ông Averell Harriman và Cựu Thứ Trưởng Quốc Pḥng Cyrus Vance. Khi đến nơi tôi rất vui mừng v́ được biết rằng hai người bạn cũ của tôi là ông William Jorden và ông Phillip Habib đều được cử vào phái đoàn đàm phán.

Ông Harriman, người có biệt danh là "con cá sấu già," cũng không phải là một nhân vật tôi hoàn toàn xa lạ. Ông là một nhà ngoại giao lăo thành của đảng dân chủ nên khi mới đến Hoa Thịnh Đốn tôi vẫn thường đến thăm ông ở GeorgeTown. Mối liên hệ giữa hai chúng tôi thật tốt đẹp. Bất kỳ khi nào có dịp đi công du Việt Nam ông Harriman cũng đến gặp tôi để cùng bàn bạc.

Tuy chưa gặp Cựu Thứ Trưởng Cyrus Vance bao giờ, tôi đă nghe nhiều người đồn đăi về ông. Ông Cyrus Vance được rất nhiều người trong chính giới Hoa Thịnh Đốn kính trọng. Vừa về đến Hoa Thịnh Đốn tôi đă dàn xếp để cùng ăn trưa với ông Vance. Tôi mong gặp ông Vance để biết rơ hơn về người phó trưởng đoàn của phái đoàn đàm phán. Khi đă tiếp xúc với Cựu Thứ Trưởng Vance, tôi vô cùng phấn khởi v́ thấy ông là người tôi có thể cùng hợp tác dễ dàng. Ông Vance là một người cực kỳ sáng suốt và có thể phân tích rành rẽ gần như tất cả mọi vấn đề. Ông có tầm nh́n bao quát của một luật sư quốc tế và h́nh như sinh ra chỉ để giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới. Khi bữa ăn trưa kết thúc, chúng tôi đă cùng đồng ư về các thể thức phối hợp hành động mà Hoa Kỳ và Việt Nam có thể áp dụng vào những cuộc đàm phán sắp tới. * * * * *




Vào tháng 5, bầu trời mùa xuân ở Ba Lê thật đẹp. Tuy thế, cương vị quan sát viên của tôi ở đó lại có phần gượng gạo. Sự hiện diện của tôi rơ ràng chỉ là một sự chắp nối để cố giữ được một phần nào h́nh ảnh đoàn kết của Hoa Kỳ và Việt Nam. Trên thực tế th́ có lẽ mọi người đều cũng biết rơ rằng tương lai Việt Nam sẽ được quyết định trên bàn đàm phán. Khung cảnh đàm phán ở Ba Lê lộ rơ h́nh ảnh của hai thành phần chính: Hoa Kỳ đang ở bên này, Bắc Việt bên kia, c̣n tôi th́ lại lảng vảng măi tận phía ngoài. Cảnh tượng gần như đập thẳng vào mắt mọi người và gây cho người xem một cảm tưởng rơ rệt rằng: "Đây là một cuộc chiến của Hoa Kỳ."

Tuy khung cảnh khó chịu là thế, tôi vẫn cho rằng đây là một dịp may và đă dự định cố hết sức lợi dụng cơ hội. Trong thâm tâm tôi tin chắc cuộc đàm phán sẽ chẳng giải quyết được ǵ. Bắc Việt đến đây không phải với mục đích ḥa b́nh. Họ chỉ cố ḥa hoăn, kéo dài th́ giờ và gây chia rẽ cho nội bộ Hoa Kỳ. Khi đă nhận chân được rằng đây chỉ là những đ̣n phép của một nước cờ hoăn binh, tôi quyết định rằng chẳng có lư do ǵ khiến ḿnh phải đứng khoanh tay bàng quan mặc cho Bắc Việt độc quyền tự tung tự tác. Lúc này, ngoài các thành phần đàm phán, ở Ba Lê c̣n có cả trăm kư giả đến để tường thuật các cuộc đàm phán nên tôi cho rằng nếu biết cách điều động mọi việc tôi có thể tạo ảnh hưởng đáng kể với báo chí quốc tế.

Khi tôi bắt đầu xoay sở để lợi dụng t́nh thế th́ giai đoạn đàm phán đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt diễn ra ở Majestic Hotel. Dĩ nhiên chẳng có kết quả ǵ thực tiễn. Những người Bắc Việt tŕnh bày ư kiến chẳng khác nào những cuộn băng đang được máy thu thanh phát lại. Họ chẳng phát biểu ǵ ngoài việc lập đi lập lại những câu tuyên truyền cứng ngắc rằng: Hoa Kỳ phải chịu tất cả mọi trách nhiệm; Hoa Kỳ phải ngưng tất cả các cuộc dội bom. (Khi ra lệnh ngưng dội bom, Tổng Thống Johnson không hề ra lệnh ngưng những cuộc dội bom phía dưới vĩ tuyến 20); Hoa Kỳ phải rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam. Những người Hoa Kỳ, trái lại, có vẻ đứng đắn hơn. Dù sao th́ họ cũng đến Ba Lê để đàm phán. Họ tránh chửi rủa, chịu khó lắng nghe và ḍ dẫm cố gắng t́m dịp để kéo Bắc Việt vào cuộc đàm phán thật sự. Họ có vẻ hy vọng và cho rằng chỉ nội việc hai bên có thể cùng ngồi vào bàn thương thuyết với nhau cũng đă là một điểm đáng kể rồi. Họ cho rằng vẫn c̣n rất nhiều th́ giờ để t́m hiểu, vận động và giải quyết các vấn đề khó khăn giữa hai bên.

Những diễn biến trong những tuần lễ đầu của cuộc đàm phán hoàn toàn đi đôi với dự đoán của tôi. Đứng ở cương vị quan sát viên tôi chẳng hề có trách nhiệm nào thiết thực. Cứ hai hoặc ba lần một tuần, tôi lại rời khách sạn Claridge ở Champs-Élysée và đến ṭa đại sứ hoặc để nghe tường tŕnh về một buổi họp vừa chấm dứt, hoặc để cùng soạn thảo chương tŕnh cho các buổi họp sắp đến. Trong cả hai trường hợp, cuộc gặp gỡ chỉ là thường lệ. Tất cả chẳng qua chỉ là những vấn đề trao đổi ư kiến hơn là bàn luận về những biến chuyển trong các cuộc đàm phán. V́ làm ǵ có biến chuyển để mà bàn bạc? Những bản báo cáo tôi gởi về Sài G̣n chẳng chứa đựng điều ǵ đáng chú tâm hoặc quan trọng. Nhờ vậy tôi có thể dùng tất cả thời giờ vào việc vận động báo chí và dư luận quốc tế.

Nếu đang lúc cần công khai phổ biến tư tưởng mà lại được gặp giới kư giả th́ quả là t́m được một cơ hội bằng vàng. Tôi dành hầu hết tất cả th́ giờ của tôi cho các cuộc phỏng vấn. Khi th́ tôi gặp các phóng viên Andre Fontain, Claude Julien của báo Le Monde, lúc th́ tôi gặp các kư giả Roger Massif, Nicholas Chatelain, và Max Clos của tờ Le Figaro. Tôi nhận lời để cho tờ Times của Luân Đôn, Đức cùng các tạp chí khác và cả đài truyền h́nh của Ư Đại Lợi phỏng vấn. Gần như ngày nào tôi cũng tường tŕnh với các kư giả Hoa Kỳ. Trong số những phóng viên đă gặp lúc đó, tôi nhớ rơ nhất là các kư giả Stanley Karnow, Marvin Kalb, Peter Kallisher, James Wilde, Takashi Oka và Jessie Cook.

Trong các cuộc phỏng vấn tôi đă phải trả lời những câu hỏi đặt tôi vào những t́nh trạng lúng túng: Tại sao chúng tôi lại đến Ba Lê với tư cách quan sát viên? Tại sao Hoa Kỳ lại thay mặt chúng tôi bàn bạc mọi việc? Tuy thế, tôi vẫn t́m được cơ hội để nói rơ cương vị Việt Nam. Tôi khẳng định là Việt Nam quả thật mong mỏi ḥa b́nh. Những mong mỏi này đă khiến Việt Nam hết ḷng ủng hộ đàm phán, cho dù là phải chấp nhận một cuộc đàm phán song phương chỉ gồm Hoa Kỳ và Hà Nội mà thôi. Việc chúng tôi chẳng hề phản đối đàm phán song phương đă chứng tỏ mănh liệt rằng Việt Nam đang mong mỏi ḥa b́nh. Mặc dầu Việt Nam đă chấp nhận đàm phán song phương, tôi minh xác là Việt Nam vẫn nắm quyền quyết định vận mệnh của chính ḿnh. Hơn nữa, nếu cần Việt Nam sẽ tự giữ quyền chủ động và sẽ tham dự bất kỳ cuộc đàm phán quan trọng nào có liên quan đến tương lai quốc gia. Sau đó tôi đề nghị một cuộc đàm phán trực tiếp giữa chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa và Bắc Việt để đàm phán có thể ngắn gọn và dễ dàng hơn.

Quả nhiên Bắc Việt lập tức khước từ đề nghị đàm phán trực tiếp hai miền như tôi đă tiên đoán. Khi những phóng viên hỏi Bắc Việt tại sao họ lại không chịu đàm phán với chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa, họ đă trả lời: V́ đàm phán với Việt Nam là việc hoàn toàn vô nghĩa. Hiển nhiên một khi Hoa Kỳ đă đồng ư nói chuyện với họ th́ không bao giờ họ lại đồng ư đàm phán thẳng với Miền Nam Việt Nam.

Vài ngày sau, khi tôi đă công bố đề nghị đàm phán trực tiếp với Bắc Việt th́ tôi lại có dịp gặp Đức Khâm Mạng của giáo hoàng. Đức Khâm Mạng nguyên là người nổi tiếng quen biết và có liên lạc với mọi phía. V́ không tiện trực tiếp nhờ một vị lănh đạo tinh thần làm người ḥa giải các vấn đề chính trị nên lúc cùng Đức Khâm Mạng đàm đạo tôi đă nhẹ nhàng tỏ ư nhờ ông liên lạc với Bắc Việt. Tôi nói rằng nếu quả c̣n có cơ hội đàm phán nào mà chánh phủ Việt Nam vẫn c̣n chưa biết th́ chúng tôi nhất định sẽ chẳng bỏ lỡ. Giải pháp này cũng bị Bắc Việt lạnh lùng bác bỏ. Thỉnh thoảng, khi có dịp gặp Đức Khâm Mạng, tôi vẫn hỏi thăm tin tức. Ông cho biết rằng phản ứng của Bắc Việt dù là trước dư luận hoặc trong những lúc gặp gỡ riêng tư cũng vẫn cứng ngắc không hề thay đổi. Hành động của họ lại khẳng định thêm một lần nữa rằng Hà Nội đến Ba Lê chỉ để thử thách tầm kiên nhẫn của những người Hoa Kỳ nóng ḷng chớ không phải để bàn bạc những giải pháp ḥa b́nh bất kể do ai đề ra.

Dù sao đi nữa th́ những hoạt động của tôi cũng đă mang lại một vài thành quả. Nỗ lực của tôi đă khiến Việt Nam được báo chí thế giới thông cảm phần nào. Những vận động của tôi cũng đă mở đường khiến tôi có có dịp tiếp xúc với cộng đồng Việt Nam ở Pháp. Cộng đồng Việt Kiều ở Pháp là một cộng đồng có ư thức chính trị rất cao và cộng đồng này vẫn thường chỉ trích chính quyền Việt Nam.

Từ trước đến nay, giới Việt Kiều sinh sống ở Pháp đă có truyền thống ủng hộ các phong trào tranh đấu chính trị của Việt Nam. Rất nhiều nhà cách mạng Việt Nam đă chung sống với họ hoặc lấy những ư tưởng của họ làm mục tiêu tranh đấu. Trong số có cả cụ Phan Chu Trinh và ông Hồ. Trong thời gian kháng Pháp, những Việt Kiều cư ngụ ở Pháp đă hoạt động vô cùng hữu hiệu. Họ đă cấp dưỡng tài chánh cho Việt Minh và đóng một vai tṛ quan trọng trong việc ảnh hưởng dư luận chống chiến tranh ở Việt Nam.

Tuy những đoàn thể ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong cộng đồng là những đoàn thể ủng hộ Cộng Sản, ngoài những đoàn thể này vẫn có những đoàn thể quốc gia đang hoạt động. Những phần tử quốc gia trong các cộng đồng Việt Kiều ở Pháp ủng hộ rất nhiều các thành phần quốc gia nằm trong những nhóm có lập trường khác biệt, nhưng ngay cả những phần tử quốc gia này cũng không ủng hộ ông Thiệu và ông Kỳ. Mục tiêu của tôi là cố t́m cách chuyển đổi những phẫn khích thù nghịch của những người Việt Nam ở đây thành sự ủng hộ.

Để hoàn thành mục tiêu, tôi tổ chức một buổi họp và mời rất nhiều phần tử nổi bật cùng đến tham dự. Tôi đă biết trước họ đến hoàn toàn với mục đích đối đầu. Trong cuộc họp, tôi vẫn dùng phương pháp đối diện trực tiếp với vấn đề như thường lệ. Tôi mở lời rằng: "Tôi biết các anh đang nghi ngờ chánh quyền Việt Nam nhưng chính tôi cũng đă từng là một sinh viên có hoạt động chính trị khi c̣n đi học. Bởi vậy tôi tin là tôi có thể hiểu được các anh phần nào. Tôi muốn các anh tạm quên cương vị đại sứ của tôi và chỉ xem tôi như một cựu sinh viên mà thôi. Ít nhất th́ tất cả chúng ta cũng cùng là những người quốc gia. Chúng ta hăy cùng bàn luận về cả vấn đề quốc gia lẫn về vấn đề ông Thiệu, ông Kỳ. Tôi biết các anh đang gặp khó khăn với cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Nhưng tôi muốn biết thật rơ ràng. Xin cho tôi được nghe chính các anh phát biểu những vấn đề các anh không đồng ư. Đích thực các anh chống đối vấn đề ǵ?

Họ cũng trả lời câu hỏi của tôi rất thẳng thắn. Họ nói rơ rằng có hai điều họ không đồng ư. Thứ nhất là những chuyện tham nhũng dư luận đă đồn đăi. Thứ hai là chuyện ông Thiệu và ông Kỳ đă hành động chẳng khác nào tay sai của Hoa Kỳ.

Tôi đưa ra một quan niệm thật đơn giản để trả lời họ. Tôi tŕnh bày rằng tuy chính tôi cũng là một nhân viên làm việc cho chánh quyền, việc này không có nghĩa là tôi có thể tự ư nói chuyện thẳng với ông Thiệu và ông Kỳ về mọi chuyện và cũng chẳng có nghĩa là tôi hoàn toàn không gặp khó khăn. Tôi nói với họ: "Các anh có thể nh́n ông Thiệu, ông Kỳ, phán rằng đây là những nhân vật tham nhũng rồi tiếp tục ngồi ngoài khoanh tay chẳng làm ǵ cả. Trong trường hợp này các anh phải đợi chờ cho đến lúc tự ḿnh nắm quyền các anh mới có thể quét sạch, làm lại từ đầu như chính các anh mong mỏi."

"Nhưng tôi xin nói với các anh rằng nếu các anh tiếp tục đợi chờ những giây phút đó, các anh sẽ phải đợi chờ không biết đến bao giờ. Nếu các anh chỉ đợi chờ th́ rồi đây Cộng Sản sẽ chiếm dần tất cả. Đối với chế độ độc tài Cộng Sản th́ các anh chẳng có cơ hội ǵ cả. Với chánh quyền Việt Nam lúc này, th́ ít ra các anh c̣n có cơ hội. Dĩ nhiên ai cũng muốn giữ cho ḿnh trong sạch, nhưng trên lănh vực chính trị những chuyện này có bao giờ là sự thực? Nếu các anh muốn chánh quyền Sài G̣n không c̣n tham nhũng th́ các anh phải tự ḿnh nhập cuộc. Các anh có cơ hội để làm việc này. Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận. Tôi đang nằm trong chăn nên tôi hiểu rất rơ chánh quyền hiện thời. Chính bản thân tôi cũng nhiều lúc không đồng ư với ông Thiệu và ông Kỳ, nhưng nếu theo về bên kia th́ chúng ta chẳng c̣n bất kỳ cơ hội nào cả."

"Tôi biết rằng cũng có thể có vài người trong nhóm các anh đây sẽ báo cáo những chuyện tôi vừa nói về với ông Thiệu hoặc ông Kỳ. Chuyện đó đối với tôi chẳng có ǵ quan trọng. Chúng ta đều là những người trong nhóm quốc gia. Chúng ta cùng chung một lư tưởng. Ngoài cách cùng ngồi lại với nhau, chúng ta chẳng c̣n cách nào khác để chọn lựa. Nhưng việc này hoàn toàn tùy thuộc các anh."

Cuộc họp diễn ra gần trọn vẹn một ngày và rồi từ từ cách thuyết phục của tôi đă làm giảm dần những sự chống đối. Đây quả là những điều tôi có thể chuyển đạt dễ dàng đến các anh chị em sinh viên. Thật ra tôi đă có rất nhiều điểm chung với họ. Ít ra là cũng có những điểm tổng quát chung. Điều khác biệt duy nhất giữa chúng tôi là do những cách suy xét tôi đă học hỏi được từ những kinh nghiệm trong chính trường nhiều năm về trước. Có lẽ nhiều nhất là những sự suy nghĩ của tôi trong những năm tôi bị gạt ra khỏi chính trường. Bất kể đúng sai, tôi đă tin rằng ḿnh lúc nào cũng phải tự đặt tay vào những chuyện có thể làm. Đây là con đường duy nhất để tránh những tai họa sâu xa. Tôi quan niệm rằng chẳng ai có thể đợi chờ một cơ hội hoàn toàn -V́ nếu cứ đợi chờ th́ hoàn cảnh có thể buộc người đợi phải đi vào một hướng khắc nghiệt hơn. Trong khi đó th́ nhập cuộc tức là đă tóm được một phần của cơ hội. Và nếu đă có được cơ hội th́ dù rằng mới chỉ có được một phần của cơ hội, người đợi vẫn có thể cố gắng chuyển mọi việc về một hướng tốt đẹp hoặc ít ra cũng là một hướng tương đối khả quan hơn. Những khó khăn mà người vào cuộc phải chấp nhận sẽ được đền bù bằng những hy vọng trong tương lai. Nếu những người làm chánh trị chịu khó t́m cách lợi dụng tất cả mọi cơ hội khi nhập cuộc th́ tôi tin rằng nỗ lực của họ có thể giúp họ thành công. Ngược lại, nếu họ chỉ khoanh tay đợi chờ, chắc chắn chẳng bao giờ họ có thể đoạt được mục đích.

Đây là những lời nhắn nhủ tôi đă cố gắng chuyển đến các sinh viên trẻ trong buổi gặp gỡ. Khi cuộc họp kết thúc -và bầu không khí đă khả quan hơn- Tôi nói rằng tôi không hề đến đây để vận động cho ông Thiệu hoặc ông Kỳ. Tôi đến đây chỉ để bàn luận vấn đề liên kết những phần tử quốc gia và t́m cách khiến họ cùng đâu lưng chống lại Cộng Sản. Tôi không đ̣i hỏi các anh phải hứa hẹn mà tôi cũng chẳng đ̣i hỏi bất cứ điều ǵ khác. Tôi cũng chẳng cần biết sau đó các anh sẽ làm ǵ, nhưng bất kể các anh quyết định ra sao, tôi vẫn mong rằng giữa chúng ta hăy c̣n một mối cảm thông của những người cùng đi chung một đường. Tôi muốn các anh hiểu rơ rằng lúc nào tôi cũng sẵn ḷng ủng hộ các anh.

Buổi nói chuyện tương đối dai dẳng này chỉ là một trong những buổi tranh luận sôi nổi giữa tôi và những người hoạt động chính trị ở ngoại quốc. Trong suốt mùa hè năm 1968, thời khóa biểu của tôi từ thứ hai đến thứ sáu đầy dẫy hàng loạt những buổi họp tương tự, những cuộc phỏng vấn, những buổi tiếp xúc, những lần họp cùng các đoàn thể Hoa Kỳ, các đoàn thể Ngoại Giao Pháp, những lần phát biểu trên radio, trên đài truyền h́nh. Vào chiều thứ sáu, tôi ra phi trường Orly cố bắt kịp chuyến bay TWA lúc 4:30 về Hoa Thịnh Đốn. Tại đây, tôi làm việc cùng các nhân viên sứ quán cho tới thứ hai hoặc thứ ba, cố gắng t́m hiểu những tin tức thời sự và chiều hướng của cuộc bầu cử sắp tới ở Hoa Kỳ. Lúc này các chiến dịch vận động tranh cử của Hoa Kỳ đă đến giai đoạn sôi sục. Vào ngày thứ tư, tôi lại hối hả trở lại Ba Lê trên những chuyến bay Shuttle tốc hành nối liền Hoa Thịnh Đốn-Ba Lê của hăng Air France. Tôi bay nhiều đến độ gần như phi hành đoàn đă thuộc ḷng tất cả những thói quen của tôi.

Nếu ở những giai đoạn b́nh thường khác th́ chắc chắn những chuyến hành tŕnh liên tục vượt Đại Tây Dương đă làm tôi kiệt sức, nhưng lúc này những chuyến tốc hành chỉ là những thói quen không hơn không kém. T́nh thế đang sôi sục ở cả Pháp lẫn Hoa Kỳ. Biểu t́nh lúc nào cũng đầy đường phố. Cứ thỉnh thoảng lại có những cuộc ẩu đả giữa những người biểu t́nh và cảnh sát. Tại Hoa Kỳ, học sinh, sinh viên xuống đường để chống chiến tranh, nhưng ở Âu Châu phẫn khích lại chuyển thẳng ngay vào "chính quyền." Tại Pháp, nơi chúng tôi đáng nhẽ phải bàn bạc ḥa b́nh mà cảnh tượng lại có vẻ thất thường đến độ gần như đang ngay giữa giai đoạn đầu của một cuộc cách mạng. Đă có lần những người chống đối buộc chúng tôi phải đáp xuống phi trường quân sự Bretigny thay v́ phi trường Orly như thường lệ. Một lần khác máy bay chẳng thể đáp xuống Ba Lê mà lại phải cất cánh từ Brussels ngược về lại Hoa Thịnh Đốn. Tôi c̣n nhớ chuyến bay đó khá rơ. Ngày đó trùng vào ngày tôi trở về Hoa Kỳ để dự đám tang Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy. Vài ngày trước, ngay sau khi giai đoạn tranh cử vừa kết thúc th́ ông bị ám sát.

Ngay giữa lúc t́nh h́nh đang cực kỳ xáo trộn tôi c̣n được gặp ông Richard Nixon ở New York. Lúc này ông đă là ứng cử viên tranh cử Tổng Thống của đảng Cộng Ḥa. Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon dần dà kết thành những liên hệ chính trị phức tạp vô tưởng. Hậu quả là tôi đă bị kết án cố mưu toan vận động bất hợp lệ để chuyển hướng kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Cũng theo dư luận th́ chính bà Anna Chennault là người đă đứng ra làm trung gian.

28. Vụ Anna Chennault

Sau khi Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy bị ám sát th́ cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ chuyển thành một cuộc tranh cử giữa hai ông Hubert Humphrey và Richard Nixon. Tôi đă biết ông Humphrey từ nhiều năm trước. Chúng tôi quen nhau kể từ khi ông c̣n là Thượng Nghị Sĩ và mối giao hảo đó kéo dài cho đến khi ông làm Phó Tổng Thống. Kể từ khi ông đắc cử Phó Tổng Thống cho đến nay, lúc nào ông Humphrey cũng hết ḷng ủng hộ những chính sách chiến tranh của Tổng Thống Johnson. Ông Humphrey ủng hộ các chính sách phát triển nông thôn của Tổng Thống Johnson một phần cũng v́ là những chính sách đó rất hợp với khuynh hướng dân chủ cấp tiến của ông. V́ thế, khi Tổng Thống Johnson tuyên bố không ra ứng cử, th́ Phó Tổng Thống Humphrey bị đặt vào một t́nh thế khó xử. Tuy ông Humphrey biết rơ rằng cách vận động tranh cử hữu hiệu nhất vào lúc này là tạm lánh xa những chính sách chiến tranh, nhưng ông lại không thể đi ngược lại những chủ trương của chính ông và Tổng Thống Johnson, nhất là khi Tổng Thống Johnson vẫn là người dẫn đầu trong đảng và hăy c̣n là đương kim Tổng Thống. Cương vị khó khăn của ông Humphrey là phải dung ḥa tất cả mọi mâu thuẫn khi ra tranh cử.

C̣n về phần ông Nixon th́ tôi đă gặp ông từ năm 1953 khi ông đến viếng thăm Việt Nam. Lúc đó ông c̣n là Phó Tổng Thống dưới thời Eisenhower. Vào năm 1960, khi ông Nixon ra ứng cử tổng thống th́ những hiểu biết của tôi về ông có rơ rệt hơn một chút. Tuy vậy, trong cuộc tranh cử năm 1960, tôi không ủng hộ ông Nixon mà lại ủng hộ một vị Thượng Nghị Sĩ trẻ khác cũng ra ứng cử lúc đó là Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy. Lúc Thượng Nghị Sĩ Kennedy đắc cử tôi đă cảm thấy hết sức vui mừng. Tôi đă hết ḷng ủng hộ các đảng viên dân chủ kể từ năm 1960, nhưng vào năm 1968, v́ chính quyền Johnson không được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ và các đảng viên dân chủ lại đang vận động tranh cử bằng cách cố né tránh vấn đề Việt Nam nên tôi bắt đầu cảm thấy ḿnh bắt đầu chú ư ứng cử viên Nixon nhiều hơn.

Vào giữa tháng sáu năm 1968, khi các vận động tranh cử đang ngày càng sôi nổi th́ bà Anna Chennault bỗng đề nghị tôi đến gặp riêng ứng cử viên Nixon. Bà Chennault nguyên là vợ của Tướng Không Quân Claire Chennault, người đă chỉ huy đội bay lừng danh Flying Tigers ở Miến Điện trong thế chiến thứ hai. Sinh trưởng trong một gia đ́nh Trung Hoa, sau khi thế chiến chấm dứt, bà trở thành một trong những người Hoa Kỳ gốc Á nổi bật. Bà đă hoạt động kêu gọi ủng hộ cho Trung Hoa và tham gia nhiều đoàn thể chính trị ở Hoa Thịnh Đốn.

Bà Chennault rất chú tâm đến vấn đề Việt Nam. Bà thường xuyên thăm viếng Việt Nam nhiều lần trước đây và cũng có một người chị sống ở Sài G̣n. Hơn nữa, công ty máy bay vận tải Flying Tigers của chồng bà sáng lập sau chiến cuộc cũng đă chuyên chở rất nhiều quân nhu và quân cụ cho cả Bộ Quốc Pḥng Việt Nam lẫn Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ. Tôi gặp bà Chennault lần đầu ở Sài G̣n vào năm 1965, khi c̣n là phụ tá đặc biệt cho ông Kỳ. Lúc đó, ông Kỳ có tiếp xúc với bà Chennault rất nhiều. Tôi quen với bà Chennault là v́ chúng tôi vẫn thường tṛ chuyện. Trong những cuộc nói chuyện với bà Chennault khi c̣n ở Việt Nam, tôi thường hỏi bà để biết rơ thêm về những tin tức ở Hoa Thịnh Đốn. Sau này, khi tôi sang làm việc ở Hoa Kỳ th́ chính bà cũng là người đă giúp đỡ tôi làm quen với các hoạt động chính trị của Hoa Kỳ. Một trong những người mà bà Chennault giới thiệu với tôi là ông Tom Corcoran. Ông Corcoran nguyên là một chính trị gia nổi tiếng thuộc đảng dân chủ. Lúc chính sách New Deal, một chính sách nổi tiếng của đảng dân chủ, được tổng thống Roosevelt đưa ra để đối phó với những khó khăn về kinh tế của Hoa Kỳ trong thập niên 1930 th́ ông Corcoran cực lực ủng hộ chánh sách đó. Những sự ủng hộ nồng nhiệt của ông Corcoran đối với chính sách New Deal đă khiến chính giới Hoa Kỳ gọi ông là New Dealer (Nhân vật New Deal) và gán cho ông biệt danh là Mr. Democrat. Chính ông Corcoran là người đă đưa bà Chennault vào những hoạt động chinh trị ở Hoa Thịnh Đốn. Sau này, ông Corcoran trở thành một trong những người bạn thân và cố vấn quan trọng của tôi. Bà Chennault cũng chính là người đă giới thiệu tôi với Thượng Nghị Sĩ Everett Dirksen, lănh tụ Cộng Ḥa ở Thượng Viện Hoa Kỳ. Lời giới thiệu của bà đă khiến ông Dirksen hưởng ứng vô cùng niềm nở và cho phép tôi t́m đến cầu viện ông Dirksen rất nhiều về sau.

Vào tháng sáu năm 1968, th́ dư luận ngày càng chú ư đến cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ. Khi tôi, Thượng Nghị Sĩ John Tower của đảng Cộng Ḥa và bà Chennault đang cùng dùng bữa tối ở Câu Lạc Bộ Georgetown th́ bà Chennault bỗng đề nghị rằng tôi nên đến gặp vị ứng cử viên của đảng Cộng Ḥa. Lúc này, bà Chennault đang vận động cho ứng cử viên Nixon. Bà cho biết rằng bà có thể dàn xếp cho tôi tiếp xúc với ứng cử viên Nixon rất dễ dàng. Đề nghị của bà Chennault quả là một đề nghị khác thường. Tôi hứa sẽ cho bà biết ư kiến sau khi suy nghĩ chín chắn lại vấn đề. Lúc này, những nhân viên phụ tá của tôi cũng đang nỗ lực vận động để chuyển vấn đề chiến tranh Việt Nam thành một đề tài cần được dư luận chú ư trong cuộc bầu cử Tổng Thống của Hoa Kỳ. Chính tôi cũng đang t́m cách đem vấn đề Việt Nam vào cuộc tranh cử. Thật không ngờ lúc này tôi lại có cơ hội được đích thân gặp mặt đối mặt với một trong những ứng cử viên.

Vấn đề gặp ông Nixon đă khiến tôi do dự là v́ lúc này cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn c̣n tiếp diễn. Trong cuộc đàm phán đó, tôi là quan sát viên và được biết tường tận các chi tiết đàm phán của đảng dân chủ [Tổng Thống Johnson là người thuộc đảng Dân Chủ]. Trong khi đó th́ ông Nixon lại là người của đảng Cộng Ḥa. Cứ theo t́nh h́nh mà luận th́ cơ hội gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon là một trong những cơ hội vô cùng hấp dẫn nhưng cũng lại là một trong những trường hợp vô cùng tế nhị đối với tôi. V́ thế, nếu không thận trọng khi đến gặp ông Nixon, tôi có thể gây những sự hiểu nhầm và có thể bị mang tiếng rằng tôi cố mưu toan để vận động sau lưng đảng Dân Chủ. Đây là một trong những điều tôi muốn tránh hoàn toàn. Tổng Thống Johnson là một người bạn tốt của Việt Nam. Hơn nữa, ông Humphrey lại có thể thắng cử. Tôi thực t́nh không muốn làm hại đến t́nh hữu nghị giữa Việt Nam và những người trong đảng Dân Chủ. Nhưng làm sao tôi có thể chối từ không gặp gỡ với ứng cử viên của đảng Cộng Ḥa cho được? Khi đă cân nhắc mọi việc, tôi quyết định sẽ đến gặp ứng cử viên Nixon nếu bà Chennault nhận dàn xếp. Tuy thế, đây là sáng kiến của riêng cá nhân tôi chứ không hề có bất cứ chỉ thị nào của chính phủ Việt Nam cả. Tôi định sẽ tự ḿnh làm hết mọi việc, không thông báo với Sài G̣n. Nếu về sau có ǵ trắc trở th́ ông Thiệu có thể chối bỏ mọi sự và đổ lỗi cho riêng cá nhân tôi.

Vào đầu tháng 7, năm 1968, khi từ Ba Lê trở về Hoa Thịnh Đốn, tôi được thông báo rằng bà Chennault có thể dàn xếp cho tôi gặp ông Nixon. Theo như dự liệu th́ tôi sẽ gặp ứng cử viên của đảng Cộng Ḥa vào ngày 12 tháng 7. Theo quyển Kẻ Giữ Bí Mật và quyển Những Kẻ Mại Quyền th́ vào lúc này tôi đă bị mật vụ CIA theo dơi. Hơn nữa, văn pḥng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ cũng đă ḍ xét tất cả những bức điện tôi gửi về Sài G̣n. Nếu đây là sự thực th́ quả t́nh lúc đó tôi hoàn toàn không hề hay biết. Nhưng lúc này tôi cho rằng việc tôi định gặp ứng cử viên Nixon là một việc khó có thể dấu diếm. Tôi cho rằng dù tôi có dấu diếm cách nào đi nữa th́ rồi đây chính quyền Johnson cũng sẽ biết rơ cuộc gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon.

Lúc này, tôi vẫn thường xuyên đến gặp ông William Bundy và ông Walt Rostow để tham khảo những vấn đề liên quan đến cuộc đàm phán hoà b́nh ở Ba Lê và cũng để sửa soạn cho cuộc hội nghị thượng đỉnh sắp đến giữa tổng thống Johnson và ông Thiệu. V́ thế, tôi đă mượn dịp để mang vấn đề tôi định gặp ứng cử viên Nixon ra thảo luận với ông William Bundy. V́ vừa là bạn thân, lại vừa là một trong những nhà Ngoại Giao kỳ cựu, ông Bundy hiểu rơ hoàn cảnh của tôi. Khi nói chuyện với ông Bundy, tôi có hứa là khi gặp ứng cử viên Nixon, những vấn đề thảo luận của chúng tôi sẽ chỉ là những vấn đề tổng quát. Chúng tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết hoặc nội dung của những cuộc đàm phán ḥa b́nh ở Ba Lê.

Sau khi đă nói chuyện với ông Bundy và vững tâm rằng ḿnh đă t́m được lối thoát cho một vấn đề khó khăn, vào ngày 12, tôi bay về Nữu Ước để gặp ông Nixon tại văn pḥng nơi ông dùng điều động cuộc bầu cử ở khách sạn Pierre. Khi tôi đến nơi th́ bà Chennault đă có mặt trong pḥng đợi từ trước. Vài phút sau tôi được gặp cả ông Nixon lẫn ông John Mitchell, nguyên là luật sư và cố vấn riêng của ông Nixon. Tuy trước đây tôi có nghe lời đồn rằng ông Nixon là một người rất khó tính, nhưng hôm đó ông tiếp đăi tôi thật là niềm nở. Ông chăm chú nghe tôi tường tŕnh đại cương t́nh h́nh Việt Nam và về việc cần thiết phải trang bị những binh sĩ Việt Nam bằng M-16 cùng những khí giới khác tối tân hơn. Trong khi bàn luận, ông Nixon đă hỏi tôi về múc độ lệ thuộc trầm trọng của Bắc Việt vào Liên Xô cũng như Trung Hoa và về các áp lực mà cả hai đại đồng minh của Bắc Việt có thể ảnh hưởng trực tiếp với chánh quyền Bắc Việt.

Khi cuộc bàn luận kết thúc, tôi có đề cập đến vấn đề các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ đang ngày càng dâng cao. Tôi nói thẳng với ông Nixon những linh cảm của tôi về vấn đề Hoa Kỳ sẽ rút quân và đề nghị rằng Hoa Kỳ nên có những chương tŕnh huấn luyện cho quân đội Việt Nam để họ có thể tự ḿnh gánh vác mọi sự. Ông Nixon đồng ư tức thời. Vào lúc này, tôi chưa hề biết rơ rằng ứng cử viên Nixon đă bắt đầu suy nghĩ về việc thi hành cùng một lúc cả kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh lẫn đàm phán, nhưng chỉ trong ṿng một năm sau đó, những kế hoạch này đă trở thành rường cột của chánh quyền Nixon. Sau cùng ông Nixon ngỏ lời cám ơn tôi đă đến gặp ông. Ông cũng nói thêm rằng nhân viên phụ tá của ông sẽ liên lạc với tôi qua ông John Mitchell và bà Anna Chennault. Tôi ra về khi cuộc họp kết thúc, ḷng vô cùng phấn khởi, chẳng những v́ những tiến triển tốt đẹp của cuộc họp mà c̣n là v́ tôi đă giữ đúng lời hứa với ông Bundy và đă không động chạm ǵ tới việc đàm phán.

Sau đó, những chuyến bay liên tục qua Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn và Sài G̣n đă khiến tôi quên hẳn cuộc họp với ứng cử viên Nixon. Tuy thế, chỉ vài tháng sau, buổi họp này lại th́nh ĺnh trở lại ám ảnh tôi. * * * * *




Vào ngày 18 tháng 7 Tổng Thống Johnson đến gặp ông Thiệu ở Honolulu. Tại đây, cuộc họp chẳng có ǵ khác hơn là những điểm tổng quát xác định lại sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và nhắc lại những cố gắng nhằm đem lại ḥa b́nh. Trong khi đó đàm phán ở Ba Lê vẫn tiếp tục cứng nhắc, chẳng hề có dấu hiệu ǵ tiến triển và thời khóa biểu của tôi vẫn đặc nghịt giờ giấc những chuyến bay và những buổi thảo luận cần thiết. Một hôm, khi tôi từ Hawaii bay ngược về Hoa Thịnh Đốn để sửa soạn tham dự một buổi thảo luận th́ bỗng nhà tôi chợt hỏi rằng liệu tôi đă biết ḿnh đang lên đường đi đâu và đă biết rơ ḿnh sắp sửa ăn nói ra sao chưa? Tôi trả lời rằng tài xế đă biết rơ địa điểm nhưng tôi th́ lại chưa. Trả lời xong, tôi mới thấy rằng thời khóa biểu chất chồng đă khiến tôi không c̣n đủ sức để đối phó với tất cả những vấn đề khó khăn được nữa. Tôi đă bắt đầu kiệt lực v́ những chuyến bay từ Ba Lê qua Hoa Thịnh Đốn cộng thêm những chuyến bay ở khắp Hoa Kỳ để thuyết tŕnh. Bởi thế tôi nhất định yêu cầu Sài G̣n phải t́m người thay thế tôi làm việc ở Ba Lê. Vào ngày 28 tháng 8, tôi qua Ba Lê lần cuối để giới thiệu đại sứ Phạm Đăng Lâm với Thống Đốc Harriman và phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ. Ông Lâm là nhân vật mới mà chính quyền Việt Nam gửi sang để thay thế tôi làm quan sát viên ở Ba Lê.

Hôm sau, tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn. Tại Hoa Kỳ, cuộc bầu cử tổng thống đă thực sự phát động và chiến tranh Việt Nam trở thành một trong những đề tài tranh luận sôi nổi nhất của cuộc bầu cử. Về phía đảng Cộng Ḥa th́ ứng cử viên Nixon tuyên bố rằng ông đă có một kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh. Trong khi đó th́ đảng Dân Chủ đang phải đối phó với những chống đối chiến tranh ngày một gắt gao và ông Humphrey đang cố vận động để có một thái độ không quá trùng hợp với lập trường và những chính sách của chánh phủ Johnson khi trước. Riêng đối với tôi th́ đây chính là giai đoạn để tŕnh bày tất cả mọi vấn đề của Việt Nam với tất cả những nhân vật có ảnh hưởng trong chính giới Hoa Kỳ. Tôi bắt đầu tiếp xúc thẳng với các Thượng Nghị Sĩ, các dân biểu của hai đảng, các nhà báo, các b́nh luận gia và tất cả những nhân vật mà tôi có thể liên lạc. Lúc này, v́ đảng Dân Chủ đang cố tránh xa vấn đề chiến cuộc Việt Nam, tôi thấy ḿnh càng ngày càng bị kéo hẳn về hướng đảng Cộng Ḥa. Chỗ thuận lợi nhất để vận động các đảng viên Cộng Ḥa là chỗ ở của bà Chennault. V́ giàu có, bà Chennault luôn luôn tổ chức những buổi họp mặt gặp gỡ hoặc tiệc tùng. Những buổi tiếp tân do bà tổ chức thường bao gồm gần như tất cả các nhân vật trong giới chính trị ở Hoa Thịnh Đốn. Vào tháng 10-1968, tôi đă liên lạc lại với bà Chennault. Lúc này bà là một trong những người đứng đầu Ủy Ban Gây Qũy nhằm mục đích vận động cho cuộc bầu cử của Ứng Cử Viên Nixon. Tôi cũng liên lạc với Thượng Nghị Sĩ John Tower, chủ tịch Ủy Ban soạn thảo chương tŕnh Nghị Sự của đảng Cộng Ḥa. Trong lúc vận động tôi đă gặp cả ông George Bush và nhiều đảng viên Cộng Ḥa khác. Đây là một giai đoạn căng thẳng đối với các đoàn thể chính trị ở Hoa Kỳ. Thống kê cho thấy số phiếu của ứng cử viên Hubert Humphrey đang dẫn đầu.

Trong khi ở Hoa Kỳ cuộc tranh cử ngày càng dữ dội th́ ở Ba Lê đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn tiếp diễn. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1968, khi trở lại Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ư kiến, ông Phil Habib đă đến gặp tôi và cho biết Bắc Việt đang hưởng ứng lời đề nghị ngừng thả bom ở những khu vực ở trên vĩ tuyến 17. (Lệnh ngưng dội bom của Tổng Thống Johnson không bao gồm mạn Nam Miền Bắc. Tại những khu vực mạn Nam, Cộng Sản vẫn tấn công những đội quân của Hoa Kỳ và Việt Nam tại vùng I) Để đổi lại, Bắc Việt vui ḷng mở rộng đàm phán ở Ba Lê để có sự tham dự của chính phủ Việt Nam ở Sài G̣n -Những người mà họ cho là "tay sai" và "bù nh́n"- và đồng thời của cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, những người mà họ gọi là "Những đại biểu chân chính của Miền Nam Việt Nam."

Tôi đă biết những biến chuyển này từ trước qua những bức điện của Sài G̣n. Theo tôi th́ ông Thiệu cho rằng sự nhượng bộ của Bắc Việt thật ra chỉ là những thủ đoạn dùng để ảnh hưởng cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ về một hướng có lợi cho ông Humphrey. Bắc Việt hưởng ứng đề nghị của tổng thống Johnson vào lúc này là v́ họ đă thấy rơ quá tŕnh chống cộng của ông Nixon. Khi nhận lời đàm phán với Hoa Kỳ, Bắc Việt vừa tránh được những cuộc dội bom của Hoa Kỳ lại vừa ảnh hưởng được cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ theo ư họ. Để đổi lại, họ bằng ḷng bắt đầu một đợt đàm phán mới. Tầm mức quan trọng của đợt đàm phán này cũng lại do họ hoàn toàn quyết định. Nói tóm lại th́ họ vẫn chẳng mất mát ǵ.

Khi Hoa Kỳ quyết định chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng như một thành viên trong cuộc đàm phán th́ ông Thiệu vô cùng phẫn nộ. Những phẫn nộ của ông không phải hoàn toàn vô cớ. Thật ra, v́ được báo cáo riêng từ nhiều tháng trước, ông Thiệu đă biết rơ Hoa Kỳ sẵn sàng chấp thuận yêu cầu của Bắc Việt về vấn đề bao gồm cả MTGP vào cuộc đàm phán. Khi chấp nhận MTGP, Hoa Kỳ đă tŕnh bày rằng họ vẫn xem cuộc đàm phán là một cuộc đàm phán của hai phe là phe Bắc và phe Nam và v́ vậy dù Bắc Việt có đưa thêm bất kỳ đoàn thể nào vào đi nữa th́ cuộc đàm phán tựu trung vẫn chỉ là một cuộc đàm phán giữa hai phe Nam, Bắc. Trước đây, v́ bị áp lực của Hoa Kỳ nên dầu vẫn nghi ngờ và do dự, ông Thiệu có lẽ đă đồng ư điều kiện này vào tháng 7. Khi nhận lời, ông Thiệu nghĩ rằng Bắc Việt sẽ không bao giờ đồng ư đàm phán. Nhưng lúc này họ lại đồng ư, nhất là lại đồng ư vào một thời điểm khắc nghiệt: Chỉ trước thời gian bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Đây là một thời điểm mà Hoa Kỳ đang phải đối phó với các vấn đề khác bên trong nội bộ chẳng hạn như t́nh trạng kinh tế, nạn thất nghiệp, vấn đề an sinh xă hội. Áp lực của cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ đă khiến vấn đề chiến tranh Việt Nam biến thành một vấn đề nhỏ hơn những vấn đề to lớn khác mà Hoa Kỳ cần phải giải quyết. Lúc này đảng dân chủ bị buộc phải hành động ngay để giải quyết vấn đề chứ chẳng thể bỏ thêm thời giờ để xem xét kỹ càng mọi chuyện.

Tôi rất thông cảm với những sự lo lắng của ông Thiệu. Chính tôi cũng muốn Hoa Kỳ nói rơ rằng họ không công nhận Mặt Trận Giải Phóng dưới mọi h́nh thức. Hơn nữa, tôi cũng muốn Bắc Việt phải thảo luận trực tiếp với Miền Nam Việt Nam v́ nếu không th́ chúng tôi vẫn chỉ là những kẻ đứng ngoài nh́n kẻ khác định đoạt số phận của chính ḿnh.

Đă năm tháng qua, Bắc Việt liên tục đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải ngưng các cuộc dội bom, rút hết quân về và giải tán chánh quyền ông Thiệu. Càng ngày chúng tôi càng mục kích rơ ràng việc Hoa Kỳ mất kiên nhẫn. Tuy Hoa Kỳ đang mong mỏi Bắc Việt giữ đúng những nguyên tắc cơ bản khi đàm phán, chẳng hạn như: "Nếu chúng tôi hành động thế này th́ các anh sẽ phải hành động thế kia." thế nhưng, những điều họ mục kích lại hoàn toàn khác hẳn. Họ thấy ḿnh đă bị vướng vào các chính sách tuyên truyền và lư do duy nhất khiến họ vẫn c̣n trong cuộc là hy vọng của chính họ.

Theo tôi nhận xét th́ chắc chắn các cuộc đàm phán c̣n kéo dài. Trong khi Hoa Kỳ đang bị những khó khăn trong nước xâu xé th́ Cộng Sản chỉ cần giữ đúng quy tắc kiên nhẫn đợi chờ và nhất định không chịu nhượng bộ để thắng cuộc. Đây là những nguyên tắc căn bản của chính sách "Đánh và Đàm." Nếu họ áp dụng nguyên tắc này th́ Hoa Kỳ nhất định sẽ phải chịu đựng những áp lực chính trị và những áp lực của dân chúng Hoa Kỳ, trong khi chính họ lại thảnh thơi và hoàn toàn không phải chịu đựng áp lực nào cả. Giữa lúc t́nh thế đang diễn ra như vậy th́ chúng tôi lại được mời vào ngồi chơi xơi nước, chứng kiến mọi sự. Đây là những lư do đă khiến chúng tôi đ̣i hỏi rằng nếu Việt Nam vào cuộc th́ đàm phán bắt buộc phải có những biến chuyển rơ rệt thực thụ.

Lúc này chúng tôi đ̣i hỏi Bắc Việt phải trực tiếp đàm phán và Hoa Kỳ phải tuyên bố không công nhận MTGP. Chúng tôi cũng biết hai điều kiện mà Việt Nam đ̣i hỏi là hai điều kiện khó khăn. Hơn nữa, v́ Hoa Kỳ đă chấp nhận đàm phán với Bắc Việt rồi nên vấn đề đ̣i hỏi của Việt Nam lúc này sẽ khiến chúng tôi phải đối diện với một áp lực vô cùng khủng khiếp. Bởi vậy, tôi đă chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đụng độ nảy lửa sắp đến. Lúc này, tôi đă nhận được nhiều bức điện từ Sài G̣n cho tôi biết những cuộc điều đ́nh giữa ông Thiệu và đại sứ Bunker. Sài G̣n cũng cho tôi những chỉ thị rơ rệt để hàng ngày thảo luận vấn đề với Ṭa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao. Hơn nữa, Sài G̣n c̣n cho lệnh tôi phải bỏ th́ giờ thảo luận với ông Bundy, ông Rostow và gửi báo cáo thường xuyên về Việt Nam.

Sau cùng, sau không biết bao nhiêu bản ghi chú, diễn giải và minh xác giữa Hoa Thịnh Đốn, Sài G̣n và Ba Lê, ông Thiệu và đại sứ Bunker đă cùng thỏa thuận một bản thông cáo chung. Một trong những điều khoản chính của bản thông cáo chung là lời hứa mơ hồ của Hoa Kỳ về việc không công nhận MTGP như một thành phần độc lập cũng như bảo đảm rằng Bắc Việt sẽ "đàm phán trực tiếp và thực sự với Việt Nam." Một khi nguyên tắc này đă được chấp thuận th́ Tổng Thống Johnson và ông Thiệu cùng tuyên bố ngừng dội bom, và cùng công bố bắt đầu một giai đoạn mới cho các cuộc đàm phán đang diễn ra ở Ba Lê.

Tôi nhận được một bản thảo của tờ thông cáo chung qua điện văn vào ngày 29 tháng 10, chỉ bảy ngày trước khi bầu cử. Một phần của bản thông cáo chung là: "Cuộc gặp gỡ đầu tiên sẽ diễn ra tại Ba Lê vào [ngày, giờ ]. Những phái đoàn của Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ cùng đến tham dự buổi họp... Tôi nhấn mạnh sự chú ư của ông vào câu 'trực tiếp và thực sự đàm phán với Việt Nam'" Lúc này, cuộc tranh cử gay go ở Hoa Kỳ vẫn tiếp diễn, thống kê cho thấy số phiếu của ứng cử viên Humphrey đang ngang ngửa với số phiếu của ứng cử viên Nixon, đó là chưa kể đến vấn đề sai số trong khi thống kê được thiết lập. V́ thế khi Hoa Kỳ và Việt Nam tuyên bố ngưng dội bom th́ đảng Dân Chủ hết sức vui mừng. Họ hy vọng rằng tin tức này sẽ làm thay đổi cục diện.

Rồi bỗng nhiên mọi diễn biến bất chợt dừng lại. Vào lúc 4 giờ sáng ngày 30 tháng 10, tôi giật ḿnh tỉnh giấc v́ tiếng chuông điện thoại của ông Hoàng Đức Nhă, bí thư của ông Thiệu. Ông Nhă nhắn rằng ông Thiệu đă duyệt lại t́nh h́nh và nhất định khước từ bản thông cáo chung của cả hai chánh phủ lúc trước. Ông Thiệu khước từ là v́ những tin tức mới nhất của đại sứ Lâm vừa gửi về. Ông Nhă nói rằng ông Lâm đă điện về rằng: Hai ông Harriman và ông Vance cho biết Hoa Kỳ sẽ không chánh thức đ̣i hỏi vài điều khoản như đă đề ra trong bản dự thảo. Một trong những trường hợp điển h́nh là ông Harriman nói với đại sứ Lâm rằng Hoa Kỳ không thể nào bắt buộc Bắc Việt "đàm phán trực tiếp và thật sự" với Việt Nam được. Do đó, Hoa Kỳ khó thể bảo đảm chuyện này. Khi được tin, ông Thiệu quyết định bác bỏ lệnh gởi phái đoàn sang Ba Lê. Ông Lâm đă được triệu hồi về Sài G̣n để tham khảo ư kiến.

Sáng sớm hôm đó, thể theo những chỉ thị trực tiếp từ Sài G̣n, tôi tới Bộ Ngoại Giao yêu cầu ông Bundy minh xác những điều đại sứ Lâm đă thông báo với Sài G̣n. Tôi đă chuẩn bị kỹ lưỡng để đón nhận thái độ của Hoa Kỳ đối với vấn đề thay đổi ư kiến của ông Thiệu vào giây phút chót. Tuy thế, tôi vẫn chưa chuẩn bị đủ để tránh khỏi những kinh ngạc đang đón chờ tôi ở văn pḥng ông Bundy.

Khi tôi đến, ông Bundy, người tôi vẫn coi là một người bạn tốt quên cả mời tôi ngồi. Ông nói với tôi một cách cộc lốc và lạnh lùng rằng không hề có bất kỳ sự liên lạc nào giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ và những nỗ lực đàm phán ở Ba Lê. Nói xong ông đứng thẳng lên, xoay lưng về phía tôi như thể không muốn đối diện với tôi. Tôi vừa nh́n vào phía sau lưng ông vừa nghe những tiếng gằn giọng liên tiếp nối nhau. Qua những tiếng gằn, tôi nghe rơ một vài chữ như "thiếu đứng đắn" và "không thể chấp nhận được." Rồi vẫn quay lưng về phía tôi, ông bắt đầu phát biểu gần xa về việc gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon.

Toàn thể diễn biến làm tôi sững người. Nhưng tôi nhất định không chịu để bị tấn công dù ông Bundy có là bạn tôi hay không phải là bạn tôi. Tất nhiên ông Bundy đang hiểu lầm trầm trọng về những chuyện xảy ra giữa ứng cử viên Nixon và tôi. Bởi vậy, vừa lấy lại được b́nh tĩnh, tôi đă nói một cách quả quyết rằng tôi chưa hề làm bất cứ điều ǵ có thể đáng gọi là thương tổn đến mối liên hệ của cả hai quốc gia. Tôi nhắc nhở ông Bundy rằng vào ngày 1 tháng 7 tôi đă hứa sẽ không thảo luận chi tiết những cuộc đàm phán ở Ba Lê khi gặp ứng cử viên Nixon. Tôi chưa làm điều ǵ đi ngược lại với lời hứa đó. Những liên hệ giữa tôi và đảng Cộng Ḥa chỉ là những liên lạc b́nh thường. Tôi hoàn toàn không đồng ư với những ám chỉ gần xa rằng tôi đă làm điều ǵ mờ ám.

Ông Bundy không tấn công tôi trực tiếp. Ông khó thể tiết lộ rằng chính phủ Hoa Kỳ đă bí mật rút tỉa tin tức từ những bức điện của tôi gửi cho chánh phủ Sài G̣n. Tôi cũng không muốn đôi co tranh luận cho tới đường cùng với ông. -Chẳng hạn như tự vệ bằng cách trực tiếp đ̣i hỏi ông cụ thể đưa ra việc ông cho là tôi và ứng cử viên Nixon đă cùng nhau thảo luận và nguyên do ǵ đă khiến ông suy luận như vậy. Kết quả là hai bên đều cố đè nén. Khi đă bắt đầu b́nh tĩnh, chúng tôi cùng sửa soạn t́m cách gỡ rối cho thế bí hiện tại. Vấn đề thật phức tạp vô kể và tuy chúng tôi đă cố gắng vượt mức, (Tại Sài G̣n, cả đại sứ Bunker cũng đă đến gặp ông Thiệu) việc giải quyết vấn đề vẫn thất bại. Ngày hôm sau, 31 tháng 10- 1968, trong một buổi diễn văn được chiếu trên khắp toàn quốc, Tổng Thống Johnson đă hành động thật quyết liệt. Ông tuyên bố rằng: "Hoa Kỳ đă bước vào giai đoạn đàm phán thực sự." Ông sẽ cho lệnh ngưng toàn thể các chiến dịch dội bom và mở rộng thảo luận ở Ba Lê. Những đại biểu của Việt Nam có quyền tham dự. Những đại diện của Mặt Trận Giải Phóng cũng có quyền tham dự tuy sự tham dự của họ không có nghĩa là Hoa Kỳ đă công nhận họ.

Một ngày sau đó, ông Thiệu tuyên bố mặc dù Việt Nam không hề chống đối việc ngưng dội bom, nhưng v́ những lư do đặc biệt, Việt Nam sẽ không gửi phái đoàn nào sang Ba Lê tham dự đàm phán. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chánh phủ của hai đồng minh đă công khai tuyên bố rằng họ không cùng quan điểm. Thống kê cho thấy Phó Tổng Thống Humphrey được ủng hộ đông đảo sau khi Tổng Thống Johnson tuyên bố ngưng dội bom, nhưng lại mất ủng hộ sau khi ông Thiệu tuyên bố Việt Nam không hưởng ứng cuộc đàm phán. Như số phận oái oăm đă định, những sự xích mích và bất đồng ư kiến giữa hai chánh phủ lại xảy ra công khai vào ngày 1-11, ngày Lễ Quốc Khánh của Việt Nam. Việc này có nghĩa là vào ngay khi những đàm phán đang ở vào giai đoạn quyết liệt giữa Hoa Kỳ với Việt Nam và đúng vào lúc ṭa đại sứ Việt Nam phải đối phó với báo chí và dư luận Hoa Kỳ th́ ṭa đại sứ lại phải sửa soạn một cuộc tiếp tân lớn với với hơn một ngàn quan khách. Số quan khách đó bao gồm những người của quốc hội Hoa Kỳ, của các cơ quan trong chính phủ Hoa Kỳ, của các phái đoàn Ngoại Giao và tất cả các tổ chức chính trị khác ở Hoa Thịnh Đốn.

Tuy thế, mọi diễn biến trong ngày lễ vẫn xảy ra chẳng khác ǵ thường lệ. Theo Hoa Thịnh Đốn th́ đây là một buổi tiếp tân hết sức thành công. Trong buổi lễ, chánh phủ Hoa Kỳ đă cố tỏ ra vô cùng ḥa nhă. Tất cả những người bạn của Miền Nam Việt Nam đều cùng hiện diện, kể cả các ông Rusk, Rostow, Bundy và các nhân viên cao cấp khác. Họ có mặt ngay trước giới truyền thanh, truyền h́nh như để xác nhận rơ ràng những chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là những xích mích nhỏ nhoi, không đáng kể.

Tuần lễ quốc khánh kết thúc thật vất vả và bận rộn. Tôi đă dùng cả hai ngày thứ hai và thứ ba để bàn luận cùng ông Bundy và ông Rostow. Tổng Thống Johnson đọc diễn văn vào thứ tư. Toà đại sứ phải sửa soạn tiếp rước một buổi tiếp tân trọng thể vào thứ năm. Ông Thiệu khước từ không tham gia đàm phán vào ngày thứ sáu và rồi ṭa đại sứ lại phải tiếp hơn 1000 quan khách cũng vào ngày thứ sáu. Chưa bao giờ tôi thấy cần một ngày nghỉ như lúc này nhưng t́nh cảnh dĩ nhiên không hề cho phép.

Sáng hôm sau đó là ngày 2 tháng 10, một ngày thứ bảy mát mẻ và tràn đầy nắng ấm. Chỉ c̣n đúng ba ngày nữa là cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ bắt đầu. Mới sáng sớm, nhân viên trực ở ṭa đại sứ đă điện thoại báo cho tôi biết có hai bức điện mật và khẩn của tổng thống Thiệu, tôi vội vă phóng xe trên con đường vắng vẻ tự hỏi chẳng hiểu lại có thêm khủng hoảng ǵ nữa đây. Khi đến nơi th́ trong cả hai bức điện đều chẳng chứa đựng điều ǵ quan trọng. Dĩ nhiên những bức điện cũng chẳng chứa đựng điều ǵ có thể giúp tôi giải quyết những vấn đề nan giải lúc này. Tôi đang chuẩn bị về th́ lại có một cú điện thoại khác của ông Saville Davis, một trong những kư giả kỳ cựu của tờ Christian Science Monitor. Kư giả Saville Davis cho biết ông cần gặp tôi về một việc tối quan trọng. Trước đây, thỉnh thoảng tôi vẫn ăn cơm trưa cùng kư giả Davis và v́ vậy tuy đây là sáng thứ bảy tôi vẫn chẳng thể từ chối lời yêu cầu của ông được.

Vài phút sau kư giả Davis đă đến văn pḥng tôi và cho tôi xem một bức điện dài ông nhận được của Beverly Deepe, một kư giả của tờ Monitor ở Sài G̣n. Theo như nguồn tin của cô Deepe cho biết th́ đại sứ Bùi Diễm đă gửi điện cho Tổng Thống Thiệu khuyên ông không nên gửi phái đoàn đàm phán Việt Nam sang Ba Lê. Sau đó phóng viên Beverly chú thích thêm rằng dư luận đang ồn ào trong giới báo chí về việc ứng cử viên Nixon và Việt Nam đă cùng nhau thỏa thuận một kế hoạch cho cuộc chiến Việt Nam. Nội dung của kế hoạch này là Việt Nam sẽ tŕ hoăn các cuộc đàm phán ở Ba Lê nhằm làm giảm uy tín của ông Humphrey và dồn số phiếu bầu cử về phía ứng cử viên của đảng Cộng Ḥa. Để đổi lại ân huệ này, khi đắc cử tổng thống Nixon sẽ ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ hơn các đảng viên dân chủ khi trước.

Tin tức làm tôi chết sững. Tôi âm thầm đọc lại lần thứ hai ḷng nhủ thầm rằng đây chắc hẳn là những tin tức đă khiến ông Bundy tiếp đón tôi một cách phẫn nộ vài ngày trước. Tuy đă biết rơ rằng không có kế hoạch thầm kín nào cả, tôi vẫn không hiểu nổi tại sao một chuyện hiểu nhầm như vậy lại có thể xảy ra. Tôi không biết phải nói ǵ với kư giả Saville Davis, người đang nhờ tôi xác nhận những câu chuyện của Beverly Deep. Cả ông Saville lẫn tôi đều hiểu rơ rằng nếu được đăng tải câu chuyện sẽ chuyển thành một vụ ś- căng-đan có ảnh hưởng trầm trọng đến những kết quả của cuộc bầu cử.

Tôi biết đây không phải là chuyện có thể dễ dàng xác nhận qua một cuộc bàn luận ngắn gọn cho dù tôi biết rơ tất cả mọi câu trả lời. Hơn nữa, tất cả những câu tuyên bố của tôi đều vô cùng nguy hiểm. Ngay cả việc chối căi thẳng thừng cũng sẽ đưa đến những lời đồn đăi bất lợi một khi câu chuyện được đăng tải và khiến tôi phải chịu một gánh nặng về việc can thiệp vào một cuộc bầu cử ngang ngửa, một cuộc bầu cử mà chỉ cần một sự đổi ư nhẹ nhất cũng có thể xoay chuyển cán cân trong việc quyết định ai là vị tổng thống kế tiếp của Hoa Kỳ. (Nên nhớ rằng ông Nixon đă thắng cử với số phiếu hơn không quá 1% tổng số phiếu.) Dĩ nhiên tôi vẫn có thể tránh né vấn đề bằng cách viện lẽ rằng về phương diện chính thức tôi không thể nói hết được, nhưng điều khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất là phải làm cách nào để tránh cho những tin tức sai lầm này ảnh hưởng vào cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ. Tôi cũng không muốn bất kỳ ai dồn tôi phải quyết đoán trước khi tôi có đủ cơ hội suy nghĩ chín chắn về mọi việc. Tôi nói với ông Davis rằng: "Tôi không thể xác nhận mà cũng không thể cải chính bất kỳ điều ǵ. V́ là đại diện của một quốc gia, công việc của tôi là liên lạc với mọi chi nhánh của xă hội Hoa Kỳ và thông báo với chánh phủ Việt Nam những việc đang xảy ra tại đây. Những lời b́nh luận tôi gửi cho tổng thống Thiệu là những vấn đề tối mật và tôi sẽ không có lời tuyên bố ǵ cả về những vấn đề này."

Ông Davis rời ṭa đại sứ đầu óc rối bời, không biết phải làm ǵ với bức điện. Theo như tôi biết th́ tờ Monitor không hề đăng tải câu chuyện. V́ không thể biết rơ sự thật phía sau và cũng biết rơ tầm mức quan trọng khác thường của bức điện, họ đă hành động theo lương tâm. Việc khẳng định rằng ứng cử viên Nixon có thể thắng hay không một khi tin tức lan tràn về việc ông có ư phá hỏng những đàm phán ḥa b́nh là một việc vô cùng khó nói. Về sau, ông William Safire, người soạn thảo diễn văn cho ông Nixon trong giai đoạn bầu cử đă viết trong quyển Before The Fall rằng "Nếu không có ông Thiệu th́ có lẽ ứng cử viên Nixon khó thể thắng cử." Có thể câu xét đoán đă đặt quá nặng vấn đề đàm phán Ba Lê cũng như vấn đề Việt Nam, nhưng trong một cuộc bầu cử xít xoát như cuộc bầu cử năm 1968 th́ việc ǵ cũng có thể xảy ra được.

Khi tiễn ông Davis xong, tôi ngồi xuống, cố suy nghĩ về những vấn đề ẩn phía sau câu chuyện của tờ Monitor. V́ kư giả Beverly Deepe viết rằng tôi đă khuyên Sài G̣n đừng gửi phái đoàn, tôi bắt đầu xem xét lại những bức điện đă gửi về cho ông Thiệu trong thời gian hai tuần lễ từ khi vấn đề bàn luận chi tiết khởi đầu. Trong những bức điện đă gửi, tôi t́m thấy một bức điện từ ngày 23 tháng 10, sáu ngày trước bức điện ngày 29 tháng 10 gửi từ Sài G̣n, cho tôi biết là đă có sự thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về việc Việt Nam gia nhập cuộc đàm phán ở Ba Lê ngày 28. Trong đó tôi ghi rằng: "Nhiều bạn bè thuộc đảng Cộng Ḥa đă liên lạc với tôi và khuyên rằng chúng ta phải giữ vững thái độ cứng rắn. Từ những bản tường tŕnh của báo chí, họ thấy rằng tổng thống (ông Thiệu) đă trở nên có phần kém cương quyết rồi." Trong một bức điện khác vào ngày 27-10 tôi viết: "Tôi vẫn thường xuyên liên lạc với những nhân vật phụ tá của ông Nixon," khi viết như thế, ư tôi muốn nói đến bà Anna Chenault, ông John Mitchell và Thượng Nghị Sĩ Tower.

Đây cũng là những lời nhắn có liên quan đến những việc liên lạc mà tôi gửi về Sài G̣n. Rơ ràng là tin tức chẳng hề cho thấy rơ rệt tôi có âm mưu ǵ với đảng Dân Chủ. Nhưng khi đặt hai mảnh tin lại với nhau và nh́n từ khung cảnh của một cuộc bầu cử căng thẳng, tôi đă thấy rằng những mảnh tin có đủ chứng cớ để cho bất kỳ ai sẵn sàng tin vào những ǵ mờ ám nhất. (Tôi chẳng hề biết tại sao những bức điện văn của tôi lại bị chánh phủ Hoa Kỳ hoặc Beverly Deepe biết rơ, nhưng tôi vẫn thấy khó chịu về việc họ đă biết rơ cả.) Mặt khác, việc đă quá rơ ràng là ông Thiệu có rất nhiều lư do để chống đối những cuộc đàm phán mở rộng mà chẩng cần phải bàn luận với bất kỳ ai. Hơn nữa, vào ngày 28 tháng 10, Ông Thiệu đă đồng ư kư bản thông cáo chung với Hoa Kỳ. Sau đó, ông khước từ ư định chỉ v́ đại sứ Phạm Đăng Lâm đă báo cáo về những diễn biến không thực sự đi sát với những điều Hoa Kỳ đă đề ra khi trước. Nếu ông Thiệu đă quyết định không đồng ư th́ lẽ nào ông c̣n phải tŕ hoăn cho đến phút chót để đổi ư?

Mặc dù đă biết rằng ḿnh không hề có âm mưu ǵ mờ ám, tôi vẫn cảm thấy dường như có điều ǵ bí ẩn, nhất là vai tṛ của bà Anna Chennault. Tôi có cảm tưởng rằng bà đă tự ḿnh có sáng kiến thúc đẩy phía Việt Nam Cộng Ḥa và ông Nixon vào con đường cứng rắn đối với cộng sản để thủ lợi cho đảng Cộng Ḥa. Chính bà là người đă liên lạc với ông John Mitchell và ông Richard Allen (Ông Allen là cố vấn ngoại giao của ông Nixon và rồi nhiều năm sau lại là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng Thống Reagan). Và chính bà cũng đă liên lạc với tôi cũng như đă tự liên lạc thẳng với ông Thiệu qua anh ông Thiệu là ông Nguyên văn Kiểu lúc đó đang là đại sứ ở Đài Loan. Trong giai đoạn phức tạp và hỗn loạn này, chẳng ai có thể khẳng định được những tin tức nào đă được chuyển cho những ai, v́ thế tuy những diễn biến vừa kể có thể đưa đến những hậu quả lớn lao trên chính trường Hoa Kỳ, những ǵ được gọi là mưu toan của bà Anna Chennault sẽ chỉ măi măi là bí ẩn của lịch sử. Dù sao đi nữa th́ vào ngày 5 tháng 11, chỉ ba ngày sau đó, ứng cử viên Nixon đă được bầu làm tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ. Biến cố này đă khiến tôi cho những diễn biến khó chịu lui luôn vào quá khứ. Vào ngày 9 tháng 11, khi tôi đang một ḿnh làm việc trong văn pḥng th́ chuông cửa reo vang. V́ chẳng có tùy viên nào ở cạnh, tôi nh́n ra cửa sổ để xem ai nhấn chuông. Bên ngoài, một người đứng tuổi đang đứng cạnh cửa co ro tránh gió. Khi xuống đến nơi để hỏi xem ông ta cần ǵ, tôi đă giật nảy người v́ nhận ra Thượng Nghị Sĩ Everett Dirksen. Tôi mời ông vào. Ông ngỏ ư xin lỗi về việc ghé ṭa đại sứ bất ngờ mà không thông báo trước. Ông Dirksen cho biết sở dĩ ông đích thân đến gặp tôi là v́ có một tin "tối quan trọng" cần cho tôi biết.

Khi chúng tôi vừa an vị th́ ông Dirksen mở lời rằng: "Tôi đến đây nhân danh cả hai vị tổng thống, tổng thống Johnson và tổng thống Nixon." Tôi im lặng lắng nghe trong kinh ngạc. Lời nhắn tin thật là ngắn ngủi: "Việt Nam phải gửi ngay phái đoàn đại biểu tới Ba Lê trước khi việc trở nên quá trễ." Tôi chưa kịp hỏi rằng v́ sao lại "quá trễ" th́ ông Dirksen đă tiếp tục: "Tôi cũng cần khẳng định rơ rệt với ông rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ công nhận sự hiện diện của Mặt Trận Giải Phóng như một thành phần hoàn toàn biệt lập. Tôi xin xác nhận một cách tuyệt đối rằng Hoa Kỳ không bao giờ chủ trương ép buộc Việt Nam Cộng Ḥa phải chấp nhận giải pháp chính phủ liên hiệp."

Ông Dirksen đă giúp tôi rất nhiều trong quá khứ. Cách viếng thăm khác thường của ông đă khiến tôi hết sức chú tâm đến vấn đề ông đang tŕnh bày. Hơn nữa, tầm mức kính trọng của tôi đối với ông khiến tôi chẳng chút nghi ngờ ǵ về điều ông nói. Ḷng vẫn c̣n kinh ngạc, tôi cám ơn ông đă đến cho biết tin và cũng nói rằng tôi sẽ chuyển ngay tin tức về cho ông Thiệu. Vài phút sau khi chào ông Dirksen, chuông điện thoại lại reo vang. Kư giả Joseph Alsop, một kư giả và b́nh luận gia nổi tiếng của Hoa Kỳ ngỏ lời xin được gặp tôi gấp. Tôi ngồi lặng trên ghế đợi kư giả Alsop và phân vân tự hỏi chẳng hiểu lại có chuyện ǵ nữa đây?

Kư giả Alsop là bạn thân của tôi đă từ lâu. Tôi đă biết ông từ những năm của thập niên 1960, khi ông đến thăm Việt Nam và gặp Bác sĩ Quát. Kể từ khi tôi đến Hoa Thịnh Dốn, chúng tôi vẫn liên lạc với nhau thường xuyên. Tôi vẫn thường mua cả nước mắm cho ông. Kư giả Alsop và ông Dirksen là hai người tôi tin tưởng nhất trong nhóm bạn ở Hoa Thịnh Đốn. Cứ theo t́nh h́nh mà luận th́ có lẽ chánh phủ Hoa Kỳ đang cố tạo ấn tượng về mức trầm trọng của t́nh h́nh với tôi bằng cách chọn những sứ giả hữu hiệu nhất.

Mười lăm phút sau kư giả Alsop lại ngồi đúng vào chiếc ghế mà ông Dirksen vừa mới rời khỏi. Khi tôi vừa bắt đầu lên tiếng về việc ông Nixon th́ kư giả Alsop đă cắt lời: "Ông bạn ơi, tổng thống của ông bạn đang chơi một tṛ chơi nguy hiểm. Tôi mới gặp Ông Già hôm qua. Ông Già đang điên cuồng v́ giận." Kư giả Alsop đă dứt câu mà tôi vẫn chưa liên tưởng được "Ông Già" là ai. Tuy thế, chỉ một phút sau tôi nhận ra là ông đang nói về tổng thống Johnson. Nhớ lại những lời ông Dirksen vừa nói nửa giờ trước đây, tôi hỏi kư giả Alsop: "Phải chăng Ông Già nhờ ông đến gặp tôi?"

"Không đúng hẳn," ông Alsop trả lời. Thực ra chính kư giả Alsop đă nói chuyện với Tổng Thống Johnson hôm trước. Hiển nhiên là TT Johnson đă mất hết kiên nhẫn v́ những hành động bất ngờ của ông Thiệu. Sự khích động của TT Johnson đă khiến kư giả Alsop cảm thấy gần như bắt buộc phải cho tôi biết tin. Kư giả Alsop hút thuốc liên miên như thể đang cố t́m cách giảm bớt sự lo lắng. Ông khuyên tôi nên trở về Sài G̣n lập tức để nói chuyện với ông Thiệu.

Cũng trong ngày đó, tôi lại nhận được một cú điện thoại bất ngờ từ Bộ Ngoại Giao, hỏi tôi đă tiếp xúc với Thượng Nghị Sĩ Dirksen hay chưa? Vào giờ cơm tối, một chuyên viên của Bộ Ngoại Giao đến nhà tôi để đặt giây điện thoại trực tiếp về Sài G̣n. Đường giây này là đường giây an toàn của Ngũ Giác Đài. Ngay ngày hôm sau, nhằm ngày chúa nhật, tôi đến gặp ông Bundy để tổng kết lại t́nh h́nh. Tôi lên máy bay về Sài G̣n vào sáng thứ hai. Đây là lần đầu tiên trong ṿng 4 tuần tôi mới có được ít phút rảnh rang để suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về tầm quan trọng của các biến cố, về việc đảm nhiệm của vị tân tổng thống, về những chính sách khác biệt của chính phủ mới. Có lẽ những chính sách mới lại là những kế hoạch bí mật trong tương lai.

29. Tổng Thống Mới, Chính Sách Mới

Tôi trở về Sài G̣n ngày 13 tháng 11-1968. Vừa về đến nơi tôi đă t́m cách gặp ngay ông Thiệu và ông Kỳ. Tôi thuật lại câu chuyện khó chịu của tôi khi gặp ông Bundy và những lời nhắn nhủ khác thường của ông Dirksen và ông Alsop ở ṭa đại sứ. Tôi cố t́m cách cho hai ông Thiệu và Kỳ thấy rơ được sự giận dữ và thiếu nhẫn nại của thượng nghị sĩ Dirksen. Tôi cũng không quên thuật lại những lời lẽ nghiêm nghị của ông Dirksen khi ông tuyên bố "đến gặp tôi nhân danh hai vị tổng thống Hoa Kỳ." Hôm sau, tôi tới Thượng Viện ở Sài G̣n để Thuyết tŕnh trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện.

Vào ngày 16 tháng 11, tôi đến gặp đại sứ Bunker để trực tiếp t́m cách giải quyết vấn đề. Khoảng hơn một tuần lễ sau, sau khi đă trao đổi hàng loạt những đề nghị và các bản thảo, chúng tôi cùng nhau đề ra một số cách thức hợp tác chung mà chúng tôi cho là có thể phù hợp với cả hai quốc gia. Tôi cũng nói với đại sứ Bunker rằng đây có lẽ là một cơ hội tốt để hai chánh phủ có thể cùng cộng tác. Trước khi Hoa Kỳ chánh thức đưa ra chính sách để đối phó với Bắc Việt th́ đây chính là một dịp mà Hoa Kỳ có thể thảo luận với Việt Nam về những vấn đề chẳng hạn như vấn đề đàm phán với Bắc Việt. Thực ra, tôi đă suy nghĩ về vấn đề này từ lâu rồi. Trong những tháng trước, khi c̣n ở Hoa Thịnh Đốn, tôi đă nhiều lần gửi điện về Sài G̣n để nói rơ tầm quan trọng của vấn đề cần phải có sự cộng tác chung giữa hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ.

Khi nghe tôi đề nghị rằng hai chánh phủ nên cùng nhau thảo luận cách đàm phán với Bắc Việt trước khi thực sự bắt tay vào việc, đại sứ Bunker đă hưởng ứng hết sức nhiệt liệt. Ông đề nghị tôi t́m cách để thuyết phục chánh phủ Việt Nam thực thi dự định đó. Đại sứ Bunker nguyên được cử làm đại sứ ở Việt Nam một phần quả là do ông đă có kinh nghiệm ngoại giao lăo thành, nhưng một phần khác cũng là do mối cảm t́nh chân thật mà ông dành cho Việt Nam. Lúc nào ông cũng cố gắng xoay sở để có thể hướng những nỗ lực giúp đỡ của Hoa Kỳ đúng vào những lợi ích thiết thực nhất của Việt Nam. Mối giao hảo thân mật giữa chúng tôi một phần cũng là do những lư do này. Hơn nữa, khi cùng nh́n vào những vấn đề khó khăn và những mục tiêu của Việt Nam th́ chúng tôi lại c̣n cùng đồng quan điểm. Cách suy luận của chúng tôi cũng gần giống nhau, nếu không muốn nói là hoàn toàn trùng hợp. Sau khi gặp đại sứ Bunker, tôi đến gặp ông Thiệu vào ngày 5 tháng 12, trước khi lên đường trở lại Hoa Thịnh Đốn. Trước đây tôi đă nhiều lần gặp ông Thiệu để tŕnh bày vấn đề cần phải t́m cách cộng tác với Hoa Kỳ cho hữu hiệu, nhưng lần nào ông Thiệu cũng chỉ hưởng ứng lấy lệ. Trong cuộc họp riêng, mặt đối mặt, lần này tôi hy vọng cuộc họp có thể sẽ khiến ông Thiệu lưu ư hơn. Tuy vậy, cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa tôi và ông Thiệu cũng chẳng lay chuyển được sự suy nghĩ của ông khác trước là bao. Bất kể tôi đề cập đến vấn đề ra sao, ông Thiệu vẫn có cách để chuyển hướng vấn đề. Lúc tôi đưa ư kiến th́ ông vẫn lắng nghe, vẫn đưa ra những hứa hẹn tốt đẹp, nhưng rồi sau câu chuyện th́ ông cứ lẳng lặng bỏ mặc, không giải quyết vấn đề một cách dứt khoát. Lúc nào ông cũng cố t́m cách tŕ hoăn để mặc cho vấn đề có thể tự giải quyết, hoặc sẽ trôi đi với thời gian. Quyết định một cách cả quyết là một điều ông Thiệu rất hiếm khi làm được. Đối với đa số những người lănh đạo Việt Nam th́ việc tổng thống Nixon đắc cử là một biến cố có chiều hướng thuận lợi; Họ đă thấy rơ vị tổng thống mới là người có lập trường chống cộng vững chắc. Sau một vài tháng lo sợ ngại ngùng, Việt Nam giờ đây hoàn toàn lạc quan và dư luận cho rằng tương lai đă có phần được bảo đảm.

Riêng tôi vẫn ít lạc quan hơn. V́ gần gũi với chính trường Hoa Thịnh Đốn hơn những người khác, tôi biết rằng một khi những diễn biến chính trị ở Hoa Kỳ đă hướng về một chiều hướng nhất định th́ gần như chẳng c̣n cách nào để ảnh hưởng những diễn biến đó về một chiều hướng khác. Đă đành rằng chính quyền Nixon có thể ít bị các nhóm phản chiến chống đối hơn là chính quyền Johnson, nhưng đảng Cộng Hoà cũng quan niệm vấn đề chiến tranh Việt Nam chẳng khác ǵ đảng Dân Chủ. Thực sự th́ Hoa Kỳ đă bắt đầu ở trên con đường đi ra. Hiện giờ câu hỏi không c̣n là: "Liệu Hoa Kỳ có rút quân hay không?" mà là: "Hoa Kỳ sẽ rút quân thế nào?" Vào ngày 23 tháng 9, khoảng một tháng trước khi cuộc bầu cử bắt đầu, tôi đă viết một bản báo cáo mật gửi cho ông Thiệu như sau: Như đă có dịp nhiều lần trước đây tường tŕnh cùng Tổng Thống, chúng tôi thiển nghĩ rằng Hoa Kỳ đến nay đă có rất nhiều lầm lỗi trong chính sách ở Việt Nam, nhưng nếu thẳng thắn công nhận th́ chúng ta cũng có nhiều lỗi lầm. Những năm trước đây, do t́nh trạng chính trị không được ổn định, do t́nh trạng xă hội phân hóa, do những vấn đề cấp bách của chiến tranh thúc đẩy, chúng ta đă để người Hoa Kỳ (v́ sốt ruột, v́ không hiểu tâm lư người Việt Nam) có những quyết định vội vàng ảnh hưởng không ít đến t́nh trạng ngày nay.

Lúc này, chính phủ Nixon sắp nhậm chức và lại chưa hoàn toàn quyết định một chính sách rơ rệt về vấn đề Việt Nam, chúng tôi thiển nghĩ không có dịp nào tốt hơn là dịp này để chúng ta có sáng kiến và thảo luận với chính phủ mới về một chính sách có lợi cho chúng ta. Nếu đặt giả thuyết là chúng ta chờ đợi chính phủ Hoa Kỳ có thái độ rơ rệt th́ chúng tôi thiển nghĩ rằng: bộ máy Hoa Kỳ là một bộ máy hết sức nặng nề, một khi bộ máy đó đă chuyển vận và bước sang giai đoạn có quyết định, e rằng nếu những quyết định đó không có lợi cho chúng ta, sau đây khó ḷng mà sửa lại được.

Vào mùa thu năm 1968, Tuy tôi đă biết chắc chắn rồi đây thế nào Hoa Kỳ cũng rút quân, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những kế hoạch bí mật của TT Nixon trong cuộc bầu cử năm 1968 chẳng qua chỉ là những kế hoạch ông đưa ra nhằm mục đích tranh cử chứ lúc đó ông vẫn chưa có kế hoạch chính thức ǵ thiết thực. Theo như những tin tức tôi thu thập từ Bộ Ngoại Giao, từ Ngũ Giác Đài, từ CIA và từ đảng Cộng Ḥa th́ chẳng có kế hoạch ǵ rơ rệt cả. Có thể là ngay sau khi đắc cử, TT Nixon sẽ xem xét lại chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam để đưa ra những chính sách thiết thực hơn. Một khi họ đă có chủ trương nhất định để thiết lập chánh sách th́ chánh phủ Hoa Kỳ sẽ soạn thảo kế hoạch cho phù hợp với những chủ trương đó.

Theo tôi thấy th́ trong giai đoạn chuyển tiếp lúc này, rơ ràng là Việt Nam phải có sáng kiến để đóng góp trong việc soạn thảo kế hoạch của một chính phủ mới. Tôi cho rằng ông Thiệu nên chấp nhận vấn đề rút quân của Hoa Kỳ, xem đây là điều tất yếu, và rồi nỗ lực chuẩn bị mọi việc để pḥng khi Hoa Kỳ rút lui. Tôi cho rằng ông Thiệu phải chuẩn bị để nếu Hoa Kỳ có rút quân th́ họ sẽ phải rút quân theo những điều kiện của Việt Nam. Tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ đều cho thấy rằng nếu Hoa Kỳ đă có chánh sách th́ bất kể thái độ của Việt Nam ra sao, chắc chắn họ cũng vẫn hành động theo chánh sách của họ. Hậu quả là Việt Nam lúc nào cũng phải nhắm mắt đi theo v́ chẳng c̣n đường nào khác để chọn lựa. Tuy thế, nếu Việt Nam biết tự ḿnh chủ trương mọi việc cẩn thận và thấu đáo trước th́ rồi chính Việt Nam cũng được góp phần quyết định. Trái lại, nếu không chuẩn bị trước th́ rồi đây Việt Nam lại rơi vào t́nh trạng phải thụ động giống hệt khi trước.

Vào ngày 13 tháng 1-1969, một tuần trước khi tổng thống mới của Hoa Kỳ bắt đầu nhiệm chức, tôi có tŕnh bày vấn đề rơ ràng với ông Thiệu. Trong bản tường tŕnh gửi về, tôi tiếp tục đi vào chi tiết những điểm chúng tôi đă bàn luận trong tháng trước.

1)-Trong khi chính sách Hoa Kỳ chưa hoàn toàn được xác định, Tổng Thống cho cứu xét

toàn diện lại t́nh trạng quân sự, ngoại giao, chính trị và kinh tế để tiến tới một hệ thống

đề nghị hợp lư, rơ rệt bao gồm cả những phần nói trên, nhằm giải quyết vấn đề chiến

tranh.

2)-Trong một thời gian ngắn, (trung tuần tháng 2 là cùng) sau khi những đề nghị đă

được hoàn thành và không chờ đợi người Hoa Kỳ, yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ thảo luận

với chính phủ ta về những đề nghị đó. Kinh nghiệm đă cho biết rằng trong trận chiến

tranh hiện tại và trong giai đoạn qua, vị trí của Hoa Kỳ và Việt Nam đă có nhiều điểm

giống nhau, thế mà những sự sai lầm tai hại không phải là ít; trong giai đoạn tới, quyền

lợi hai nước chưa chắc đă hoàn toàn đi đôi. Nếu chúng ta không thẳng thắn nói rơ

những quan điểm thiết yếu của dân tộc, e rằng sẽ có những khó khăn lớn lao về sau.

3)-Đồng thời với việc khảo luận với chính phủ Hoa Kỳ về những đề nghị của chính phủ

ta, sắp đặt một chương tŕnh khéo léo nhằm vào dư luận báo chí Hoa Kỳ và thế giới để

chứng tỏ chúng ta thiện chí tới mức tối đa cả trong việc điều đ́nh tại Ba Lê cũng như

trong phần vụ cáng đáng lấy trách nhiệm trong cuộc chiến. Sau đó tôi trực tiếp đề cập đến vấn đề Hoa Kỳ rút quân: Trên đây chúng tôi có đề cập tới những khía cạnh quân sự ngoại giao và kinh tế. Trong vấn đề quân sự chắc chắn sẽ có trường hợp rút bớt quân đội Hoa Kỳ (rút bao nhiêu? Trong thời gian nào? Với điều kiện nào? v.v...) cũng như trong vấn đề ngoại giao sẽ có đường lối áp dụng với đối phương tại Ba Lê. C̣n về vấn đề kinh tế th́ nếu có quyết định rút dần quân đội Hoa Kỳ, quyết định này không khỏi không có ảnh hưởng tới kinh tế. (Tại cơ quan viện trợ Hoa Kỳ, chúng tôi đă thấy có những nghiên cứu dựa vào giả thuyết rút dần quân đội, tỉ dụ như nếu hàng tháng rút 10 ngàn quân, tức là hàng năm 120,000 quân, th́ sở ngoại tệ của Việt Nam sẽ hụt đi là bao nhiêu và số viện trợ thương mại sẽ thay đổi ra sao?).

Trở về vấn đề quân sự và ngoại giao, chúng tôi đơn cử một vài thí dụ để chứng tỏ sự cần thiết phải đi trước dư luận bằng những sáng kiến, đề nghị mới.

Trong dịp cuối năm, Tổng Thống có đọc một bản thông điệp nói đến việc trong năm 1969 Việt Nam sẽ cáng đáng nhiều trách nhiệm trên chiến trường. Bản diễn văn đó đă được sự hưởng ứng của hầu hết dư luận báo chí. Tại Ba Lê, mỗi lần phái đoàn ta có một đề nghị ǵ mới, (bất kỳ đề nghị ǵ) là lập tức dư luận báo chí tỏ ư hy vọng.

Cũng v́ những lư do đó mà chúng tôi tới kết luận rằng tỷ dụ như trên lĩnh vực quân sự, sau khi đă nghiên cứu kỹ càng vấn đề và kết luận rằng có thể đồng ư để một số quân đội Hoa Kỳ rút về và sau khi đă xác định được rơ là chính phủ mới của Hoa Kỳ trước sau cũng phải đến quyết định đó, chánh phủ ta nên công khai hóa vấn đề trước, đừng để cho Hoa Kỳ nói trước v́ dư luận Hoa Kỳ và thế giới sẽ có cảm tưởng là chúng ta bị dồn ép vào thế bắt buộc phải nhận.

Chúng tôi nghĩ là với t́nh trạng dư luận Hoa Kỳ hiện tại (nghi ngờ thiện chí của Việt Nam) chỉ có những quyết định lớn như trên mới dành lại được cảm t́nh, c̣n những cố gắng b́nh thường (như diễn thuyết hoặc gởi phái đoàn) th́ cũng chỉ có ảnh hưởng phần nào thôi.

Vấn đề điều đ́nh tại Ba Lê cũng vậy; chúng tôi nghĩ: chỉ trừ một vài giới có những chủ trương cực đoan muốn chấm dứt chiến tranh bằng đủ mọi cách, phần đông dư luận Hoa Kỳ sẽ ủng hộ chúng ta nếu dư luận Hoa Kỳ thấy rơ rằng trên lănh vực quân sự có hy vọng quân đội Hoa Kỹ sẽ dần dần rút về (không cần biết trong bao nhiêu lâu) tổn phí sẽ bớt dần, và trên lănh vực ngoại giao chúng ta có những đề nghị hợp lư. -KẾT LUẬN:

Những giới chính trị ở Hoa Kỳ lúc này cho rằng đối với vấn đề Việt Nam, Ông Nixon cần phải có thời gian và kiên nhẫn th́ mới giữ được Cộng Sản khỏi thắng lợi. Do thái độ của ông từ trước tới nay qua việc bổ nhiệm các nhân vật rồi đây sẽ nhận trách nhiệm trong vấn đề này, các giới chính trị cho rằng ông đủ kiên nhẫn nhưng c̣n thời gian th́ ông chỉ có một thời gian hết sức ngắn. Thời gian này tùy thuộc ở dư luận Hoa Kỳ và có ảnh hưởng được dư luận hay không điều đó cũng một phần c̣n tùy thuộc ở Việt Nam.

Với t́nh trạng trên, để kết luận, chúng tôi một lần nữa trân trọng đệ tŕnh lên tổng thống và chính phủ ư kiến rằng hơn lúc nào hết, lúc này là lúc Việt Nam cần phải xiết chặt hàng ngũ, chỉnh đốn nội bộ để có thể có những sáng kiến và đề nghị đưa ra thảo luận với chính phủ Hoa Kỳ. Chưa chắc chúng ta đă có thể đạt tới sự thống nhất các quan điểm trên mọi lĩnh vực, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể giảm bớt được t́nh trạng lủng củng hiện tại và ngăn ngừa trường hợp bị xô đẩy vào những t́nh trạng khó khăn, bất lợi cho quyền lợi của đất nước.

Tuy đă nhiều lần đề cập đến bản báo cáo này trong những lần gửi điện về Sài G̣n về sau, tôi vẫn không được ông Thiệu trả lời. Tôi cũng yêu cầu được về Sài G̣n để góp ư kiến và đă nhiều lần thảo luận vấn đề này với ông Hoàng Đức Nhă nhưng ông Thiệu vẫn hoàn toàn im lặng.

Đối với tôi th́ đây là chuyện khẩn cấp, nếu không muốn nói là chuyện sinh tử. Tôi cho rằng Việt Nam chỉ có thể ảnh hưởng trực tiếp được vào vấn đề Hoa Kỳ rút quân bằng cách tự có sáng kiến trước. Hơn nữa, nếu hành động trước, Việt Nam có thể vừa thể hiện được chính nghĩa lại vừa chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập đang được đồng minh Hoa Kỳ viện trợ chứ không phải một thuộc địa của Hoa Kỳ như dư luận vẫn thường chỉ trích. Nếu những cuộc đổ quân của Hoa Kỳ hồi năm 1965 đă khiến chánh phủ Việt Nam mất đi chính nghĩa th́ giờ đây sự ra đi của họ có thể khiến Việt Nam lấy lại được h́nh ảnh độc lập và những chính nghĩa đă mất đi khi trước.

Lúc này tôi hiểu rất rơ những ảnh hưởng của dư luận Hoa Kỳ đối với các chính sách có liên quan đến chiến tranh Việt Nam của chánh quyền Nixon. Tuy thế, tôi lại chẳng biết phải làm cách nào để chuyển đạt được những hiểu biết của tôi cho chánh quyền Việt Nam. Càng cố sức tŕnh bày tôi lại càng thấy những nỗ lực của tôi chẳng khác nào như nước đổ lá môn. Dường như chánh quyền Việt Nam không thể nào hiểu được những quan niệm chẳng hạn như những quan niệm về dư luận Hoa Kỳ, về tầm mức quyền hành có giới hạn của Tổng Thống Hoa Kỳ và tầm quan trọng của Quốc Hội Hoa Kỳ. Có lẽ v́ Việt Nam đă đắm ch́m quá lâu trong những chế độ bất chấp dư luận dân chúng, v́ Việt Nam đă trải qua quá nhiều chánh quyền độc tài và v́ ngay chính chánh quyền Việt Nam lúc đó cũng chẳng hề đếm xỉa ǵ đến quyền hạn của quốc hội Việt Nam nên chính quyền Việt Nam đă suy bụng ta ra bụng người và kết luận rằng chánh phủ Hoa Kỳ cũng hoạt động chẳng khác ǵ chánh phủ Việt Nam. Tôi cảm thấy dường như cả chánh phủ của ông Thiệu đều tin rằng bất kể chánh phủ Hoa Kỳ hoạt động ra sao, ư kiến đáng kể cuối cùng cũng vẫn là ư kiến của tổng thống Hoa Kỳ. H́nh như họ cho là ṭa đại sứ Việt Nam chỉ cần đệ tŕnh tất cả những tin tức quan trọng cho tổng thống Hoa Kỳ hiểu rơ là đủ. Tôi tự hỏi nếu chánh quyền Việt Nam quan niệm như thế th́ tại sao họ lại chẳng thấy rằng họ chỉ cần một người đưa tin liên lạc với Tổng Thống Hoa Kỳ đă là quá đủ? Nếu chánh quyền Việt Nam quan niệm như thế th́ tại sao họ lại c̣n cần phải có một đại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn để vận động? Và nếu có vận động đi chăng nữa th́ vận động với mục đích ǵ?

Trong khi đó đàm phán ở Ba Lê lại tái họp dưới công thức hai phe Bắc, Nam mà Việt Nam bắt buộc phải thỏa thuận v́ áp lực của Hoa Kỳ trước đây. Tuy chánh quyền mới của Hoa Kỳ đang bận rộn sửa soạn ngày lễ nhậm chức mà Ngoại Trưởng được chỉ định Rogers đă gọi tôi và báo rằng chánh quyền sắp nhiệm hoàn toàn đồng ư với chánh quyền đương nhiệm trong vấn đề đàm phán. Đây là một nước cờ khéo léo chứng tỏ sự liên tục của chánh phủ Hoa Kỳ trong giai đoạn chuyển tiếp. Thực ra th́ trên mặt thủ tục lúc đó ông Rogers chỉ mới là Ngoại Trưởng được chỉ định và ông Rusk vẫn là Ngoại Trưởng chánh thức của Hoa Kỳ. Có lẽ v́ thế nên Ngoại Trưởng Rogers cũng nói thêm rằng đại sứ Ellsworth Bunker đă được lệnh của Ngoại Trưởng tại vị Dean Rusk và của chính ông về việc minh xác sẽ không có ǵ thay đổi trong các chánh sách của chánh phủ Hoa Kỳ. Cách nhắc khéo của ông Rogers cũng là cách Hoa Kỳ ngấm ngầm cảnh cáo một cách gián tiếp rằng Sài G̣n không nên khước từ như trước.

Trong suốt tháng giêng năm 1968, về phía Hoa Kỳ những chính sách đối với Việt Nam vẫn liên tục. Bất kể việc chuyển tiếp giữa hai chánh phủ Hoa Kỳ bất kể là ǵ đi nữa th́ việc vẫn không ra khỏi chuyện những người trong chính phủ sắp nhiệm đang thay thế những người trong chánh phủ đương nhiệm. Những cuộc tiễn đưa bịn rịn của đảng Dân Chủ phản ngược gần như hoàn toàn với những buổi lễ nhậm chức vui vẻ của đảng Cộng Ḥa. T́nh cảnh khiến người nh́n không khỏi cảm thấy rằng một giai đoạn đă kết thúc và một giai đoạn mới sắp bắt đầu.

Đối với tôi th́ đây là khoảng thời gian buồn vui lẫn lộn. Tuy thế, những cảm giác lo lắng vẫn vượt lên trên tất cả. Trong giai đoạn này, đă đành rằng Hoa Kỳ vẫn có lập trường cương quyết đối với chiến tranh Việt Nam, nhưng chánh quyền Hoa Kỳ đang bước sang một giai đoạn cực kỳ quan trọng. Các nhân vật trong chánh phủ mới của Hoa Kỳ đang thay thế những người trong chính quyền trước. Hai nhân vật mới nổi bật nhất là Tổng Thống Nixon và ông Kissinger. Cả hai đều là những nhân vật cương quyết và có bản lănh nhưng cả hai đều hoàn toàn xa lạ với chúng tôi. Rồi đây hai nhân vật này sẽ đứng ra điều động cuộc chiến Việt Nam bằng những phương pháp riêng của họ.

Nh́n lại những sự kiện trong lịch sử cận đại của Hoa Kỳ th́ trước đây, trong thập niên 1950, Tổng Thống Truman, người khởi đầu sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến tranh Đại Hàn là người của đảng Dân Chủ. Và rồi sau đó Tổng Thống Eisenhower, người kết thúc sự can thiệp của Hoa Kỳ trong chiến tranh Đại Hàn là người của đảng Cộng Ḥa. Khi chánh quyền Eisenhower kết thúc sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Đại Hàn th́ ông Nixon là phó Tổng Thống. Vào thập niên 1960, Tổng Thống Kennedy, người khởi đầu sự can thiệp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam cũng là người của đảng Dân Chủ. Và lúc này Tổng Thống Nixon, lại tuyên bố ông sẽ chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Hơn nữa, ông Nixon lại là người của đảng Cộng Ḥa. Liệu lịch sử có tái diễn hay không? Câu hỏi này luôn ám ảnh tôi khi tôi đến dự những buổi tuyên thệ, những cuộc diễn hành và những buổi tiếp tân trong giai đoạn khởi đầu của chánh phủ mới. Tôi rất thán phục những cung cách chuyển đổi chánh quyền tại Hoa Kỳ. - Quang cảnh chuyển đổi vừa nghiêm trang lại vừa linh hoạt. Thật đúng là cách giao chuyển quyền hành của một xă hội dân chủ. Tôi cũng cảm thấy một cảm giác buồn bă thoáng qua khi thấy Tổng Thống Lyndon Johnson ra về gần như chẳng ai chú ư. Ai có thể ngờ được chỉ mới hôm qua ông hăy c̣n là một nhân vật kiêu hănh đă nắm trong tay tất cả giềng mối của những uy lực tột cùng?

Khi lễ nhậm chức kết thúc, tôi bắt đầu t́m hiểu lại t́nh h́nh Hoa Thịnh Đốn một mặt là để lượng định xem Việt Nam có thể trông đợi ǵ từ chính quyền của TT Nixon và mặt khác cũng là để xem liệu những dự đoán của tôi về những kế hoạch bí mật mà ông Nixon đă đề cập tới lúc trước có hoàn toàn đúng hẳn hay không? Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi và chánh phủ mới diễn ra bốn ngày sau đó, khi tôi có dịp hội kiến với ông Kissinger. Lúc này ông Kissinger đă được cử làm cố vấn an ninh quốc gia và đang làm việc ở ṭa Bạch Ốc.

Tôi đến gặp ông với những kư ức của lần gặp ông đầu tiên vào năm 1966 ở Sài G̣n. Năm 1966 ông Kissinger đă đến Việt Nam để t́m hiểu t́nh h́nh cho đại sứ Henry Cabot Lodge. Lúc đó ông là một giáo sư ở trường đại học Harvard và nhân dịp ông qua Việt Nam tôi có tổ chức một bữa cơm cho ông để ông có dịp gặp một số chính khách Việt Nam, kể cả những thành phần chống đối chính phủ. Trong lần gặp đầu tiên, đă có rất nhiều người thắc mắc chẳng hiểu ông đến Việt Nam làm ǵ; tại sao ông lại hỏi nhiều câu hỏi đến thế; và tại sao giọng Anh Văn của ông lại đặc biệt như vậy? Tuy lúc đó tôi chưa biết rơ mục đích của ông Kissinger khi sang Việt Nam nhưng qua những buổi tiếp tân và những buổi họp giữa ông Kissinger và ông Kỳ, tôi đă kết luận rằng ông quả là người thông minh vượt bực. Tuy ông chưa hiểu ǵ nhiều về Việt Nam mà những câu hỏi của ông vẫn thực tiễn và đi thật sát với vấn đề. Những câu hỏi của ông hoàn toàn khác hẳn những câu hỏi tôi đă dự đoán cho một nhân vật xuất thân trong thế giới học đường như ông.

Lúc này vị giáo sư đang trên đà uy quyền và danh vọng. Tuy vậy trong cuộc họp ở Ṭa Bạch Ốc, khi chúng tôi đang cố t́m hiểu lẫn nhau, có lẽ cả tôi lẫn ông ta đều cùng chưa biết rằng về sau ông sẽ là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong chánh quyền Nixon. Khi gặp ông Kissinger, tôi đă thăm ḍ ư kiến của ông về vấn đề Việt Nam bằng cách đề cập đến lời tuyên bố của cựu Ngoại Trưởng Clark Clifford. Trước đó ông Clifford đă tuyên bố rằng nếu Việt Nam không chịu tham gia đàm phán với Bắc Việt th́ Hoa Kỳ sẽ phải "tham dự một ḿnh." Tôi phát biểu rằng vấn đề bất đồng ư kiến giữa hai quốc gia là một vấn đề hoàn toàn bất lợi; V́ nếu hai chính phủ không cùng đồng quan điểm về việc đàm phán th́ rồi đây cả hai sẽ gặp rất nhiều khó khăn chẳng những với các vấn đề hiện tại mà c̣n với rất nhiều vấn đề khác về sau.

V́ đây là cuộc họp đầu tiên của tôi với ông Kissinger và chánh quyền mới cũng chỉ mới nhậm chức được vài ngày nên tôi cố tránh không dồn ông Kissinger phải bàn luận chi tiết vấn đề. Tuy nhiên có một điểm đáng chú ư mà tôi nhận thấy ngay là bất kể Hoa Kỳ hoạch định kế hoạch thế nào th́ chính phủ mới cũng hết sức chú tâm vào vấn đề Việt Nam. Trong cuộc họp với ông Kissinger, tôi thấy rơ rằng chánh quyền Nixon đă bắt đầu t́m cách để giảm thiểu những sự khác biệt giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam. V́ thế, sau khi cuộc họp chấm dứt, tôi cảm thấy hài ḷng. Tôi nhận định rằng cho đến lúc đó, Hoa Kỳ vẫn chưa có chánh sách rơ rệt và v́ vậy chánh phủ Việt Nam vẫn c̣n có chút thời gian để có thể t́m cách đối phó với t́nh h́nh nếu Hoa Kỳ chuyển hướng. Sáng hôm sau, tôi đánh điện về cho ông Thiệu như sau: Hôm qua, trong cuộc họp đầu tiên với cố vấn Kissinger, tôi đă yêu cầu Hoa Kỳ t́m cách hợp tác với Việt Nam cho hữu hiệu hơn. Tôi nói rằng hai quốc gia cần phải hợp tác chẳng những chỉ để giải quyết những khó khăn lúc này mà c̣n để đối phó với những khó khăn tương lai nữa. Tôi cũng đă đ̣i hỏi chính quyền Hoa Kỳ phải giảm thiểu những thái độ thất vọng [chẳng hạn như đối với chánh quyền Sài G̣n] để tránh việc vô h́nh chung làm hại cho đối phương. Ông Kissinger có nói với tôi: Tổng Thống Nixon vừa mới cho nghiêm lệnh yêu cầu những nhân viên chánh phủ tránh thảo luận hoặc tuyên bố trước dư luận những vấn đề có liên quan đến Việt Nam. Trong cuộc họp, ông Kissinger cũng có đề cập vấn đề thiếu liên lạc giữa hai chánh quyền Việt Mỹ trong những tuần lễ vừa qua và yêu cầu tôi đến gặp ông ta thường xuyên hơn. Ông Kissinger c̣n nói rằng nói chung th́ những mục tiêu cơ bản của hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam chẳng có ǵ khác biệt, nhưng có lẽ Hoa Kỳ cần phải uyển chuyển trong vấn đề ngoại giao. Có lẽ một trong những danh từ mà tôi vẫn chưa hiểu rơ trong cuộc nói chuyện với ông Kissinger là danh từ "uyển chuyển" (Ông Kissinger đă dùng danh từ này hai lần) mà tôi đă lập lại nguyên văn khi tường tŕnh với ông Thiệu. Ngay lúc mới nghe th́ "uyển chuyển" gợi cho tôi một cảm tưởng mơ hồ rằng có lẽ Hoa Kỳ đang muốn tránh những vấn đề khó khăn trên mặt ngoại giao khi phải để cho một đồng minh yếu hơn tham gia vào những cuộc đàm phán. Lúc đó, tôi lầm tưởng rằng đây chỉ là một việc thận trọng vô hại và tự nhiên về phía Hoa Kỳ, nhưng chỉ vài năm sau, tôi đă có rất nhiều dịp để suy nghĩ và kết luận lại vấn đề. Lúc đó, tôi vẫn chưa biết rằng "uyển chuyển" chẳng phải là một danh từ thận trọng vô hại mà là một điềm bất tường báo hiệu một thái độ mới của chánh phủ Hoa Kỳ.

Sau khi gặp ông Kissinger, tôi c̣n đến gặp tất cả những nhân vật mới vừa nhậm chức. Tôi đặc biệt chú tâm vào những nhân vật có ảnh hưởng quyết định trong việc soạn thảo những chính sách về Việt Nam. Tôi đă ở Hoa Thịnh Đốn khá lâu và đă hiểu rơ tầm mức tranh chấp giữa Bộ này với Bộ khác và một đôi khi ngay cả trong nội bộ của một bộ nữa. Tuy tôi biết cố vấn Kissinger sẽ là người nắm giữ một cương vị vô cùng quan trọng nhưng tôi lại hoàn toàn mù tịt về tầm mức quan trọng trong cương vị của Ngoại Trưởng Rogers. Lúc này, tôi cũng chưa hề hay biết ǵ về những tranh chấp kịch liệt sẽ xảy ra giữa hai người về sau này. Theo những bạn bè của tôi ở Hoa Thịnh Đốn thố lộ th́ vị Ngoại Trưởng mới nổi là người có tài đàm phán chứ không phải là người nh́n rộng thấy xa.

Lúc tôi đến gặp ông ở Bộ Ngoại Giao th́ Ngoại Trưởng Rogers tiếp tôi rất niềm nở. Ông có vẻ ít nghiêm khắc hơn cựu Ngoại Trưởng Dean Rusk. Ông Rogers đă từng là Bộ Trưởng Tư Pháp dưới thời TT Eishenhower. Ông là một trong những nhân vật điển h́nh xuất thân từ những gia đ́nh ḍng dơi lâu đời ở miền đông nguyên là một nơi nổi tiếng là thủ đô văn hóa của Hoa Kỳ. Trông ông có vẻ là một người có kiến văn quảng bác hơn là một người thông minh xuất chúng. Tôi cũng cho cảm thấy có lẽ ông không phải là người cương quyết, quyền biến hoặc đặc biệt xuất sắc.

Những nhận định ban đầu của tôi c̣n rơ rệt hơn khi Ngoại Trưởng Rogers bắt đầu có chuyện xích mích với ông Kissinger. Có lẽ đối với những sử gia th́ những chuyện xích mích giữa ông Kissinger và Ngoại Trưởng Rogers quả là một cuộc tranh chấp làm nổi bật tính chất đặc sắc của chính quyền Nixon, nhưng đối với những nhân viên ở các quốc gia khác đang phải đương đầu với những vấn đề khẩn cấp sôi bỏng như tôi th́ việc tranh chấp giữa hai bên lại gây thêm một tầng khó khăn. V́ là đại sứ của Việt Nam tôi phải chính thức liên lạc với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và lẽ đương nhiên phải cố giữ mối giây liên lạc cho được tốt đẹp. Tuy thế, tôi cũng phải tự biết đâu là nơi chính phủ Hoa Kỳ đặt trọng tâm quyền lực để có thể thu thập tin tức cho được chính xác. Công việc của tôi trở thành khó khăn bội phần khi chuyện xích mích giữa vị cố vấn an ninh và vị Ngoại trưởng ngày càng kịch liệt.

Việc tranh chấp của họ gây khó khăn ra sao? Tôi xin đan cử một cuộc tranh chấp điển h́nh để nêu rơ những khó khăn đă gặp. Vào dịp Giáng Sinh cuối năm 1969, trước khi về Việt Nam để tường tŕnh vấn đề Hoa Kỳ, tôi có đến gặp riêng hai ông Rogers và Kissinger trước khi rời Hoa Kỳ. Từ đầu cuộc chiến cho đến thời gian đó, Bắc Việt và Việt Nam vẫn ngưng bắn vào ngày Giáng Sinh và ngày Tết Tây. Lần đó, tôi đến gặp ông Rogers đúng vào giữa lúc đàm phán ở Ba Lê đang bế tắc và chẳng c̣n bao lâu nữa th́ lại đến ngày Lễ Giáng Sinh sắp tới. V́ t́nh h́nh lúc đó như vậy nên ông Rogers cho ư kiến rằng Việt Nam nên tạm kéo dài những ngày ngưng bắn từ Lễ Giáng Sinh cho đến Tết Tây. Ông Rogers cho rằng nếu kéo dài những ngày ngưng bắn th́ Việt Nam và Hoa Kỳ có thể sẽ khích lệ Việt Cộng đàm phán ḥa b́nh thực ḷng hơn ở Ba Lê. Ngay ngày hôm sau, khi đến gặp cố vấn Kissinger, tôi thông báo rằng Ngoại Trưởng Rogers hết ḷng ủng hộ đề nghị ngưng bắn. "Ngưng Bắn?" Ông Kissinger cắt lời tôi, "Không được, ngưng bắn lúc này th́ quá sớm." Sau khi ngừng lại giây lâu ông tiếp tục bằng giọng nói ồ ề ra lệnh cố hữu: "Tôi cũng xin thông báo với ông rằng chánh sách là do Ṭa Bạch Ốc đưa ra chứ không phải Bộ Ngoại Giao!"

Ngoài hai ông Kissinger và Rogers tôi cũng có đến gặp Bộ Trưởng Quốc Pḥng Melvin Laird. Tôi đă biết ông Laird là nhân vật có nhiều ảnh hưởng trong đảng Cộng Ḥa. Khi c̣n là dân biểu ông đă là một trong những người vận động rất mănh liệt để ủng hộ Việt Nam. Khi đến gặp Bộ Trưởng Laird lần này, mục đích của tôi là t́m hiểu thực sự xem vị vị dân biểu tháo vát hoạt động ra sao trong giới các tướng lănh và quân sự ở Ngũ Giác Đài. Trong văn pḥng Bộ trưởng, nơi ông McNamara và ông Clark Clifford làm việc trước đây, trông ông Laird ung dung tự tại như thể đă quen thuộc với nơi này từ lâu. Tuy trong chính quyền Nixon, những xích mích giữa Ṭa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao đă khiến người đứng ngoài nh́n vào khó thể quyết định được chính xác ai là người thực sự lập chính sách ngoại giao, nhưng việc lại khác hẳn ở Ngũ Giác Đài. Tôi đă biết rơ Bộ Trưởng Laird là người đứng đầu điều hành các vấn đề quân sự. Khi tôi đến gặp ông, ông Laird chỉ trả lời những câu hỏi ḍ dẫm của tôi bằng những nụ cười khéo léo. Những câu trả lời của ông chỉ chung chung chứ không hề biểu lộ một chi tiết nào cả.

Bộ trưởng tư pháp John Mitchell cũng là một nhân vật mới được bổ nhiệm tôi mong được gặp. Tuy trên mặt lư thuyết chức vụ Bộ trưởng tư pháp gần như chẳng có ǵ liên quan đến vấn đề Việt Nam nhưng v́ ông là bạn thân của Tổng Thống Nixon nên tuy không phải là nhân viên của hội đồng an ninh, ông Mitchell vẫn thường được mời tham dự các cuộc họp của hội đồng an ninh quốc gia. Hơn nữa, ông Mitchell c̣n là người được TT Nixon tin cậy và ưa tâm sự. Tôi đă gặp ông một lần trước cuộc bầu cử. Khi gặp lại lần này, ông Mitchell đón tiếp tôi niềm nở như một người bạn thân. Nhờ Bộ Trưởng Mitchell mà sau này ngoài những tin tức chính thức của chính phủ Hoa Kỳ, tôi c̣n có thêm được rất nhiều những tin tức khác bên trong. Mối liên lạc với ông Mitchell là một trong những mối liên lạc tôi đă hơn một lần dùng đến trong những năm về sau.

Khi đă gặp hết tất cả các nhân vật của chính quyền mới ở Hoa Thịnh Đốn, tôi tiếp tục đến Ba Lê để có thể gặp luôn phái đoàn thương thuyết mới của Hoa Kỳ. Tuy bạn tôi là ông Phillip Habib vẫn ở lại phục vụ như một trong những thành viên cố định, ông Henry Cabot Lodge và ông Lawrence Walsh đă thay thế hai ông Averell Harriman và Cyrus Vance. Ông Habib giờ đây là nhân vật chính thúc đẩy những nỗ lực đàm phán của Hoa Kỳ.

Sau chuyến tiếp xúc với các nhân vật của chính quyền Nixon, tôi bắt đầu tổng kết tất cả những nhận định. Tôi kết luận rằng tại thời điểm này, chính sách của chính phủ Nixon c̣n đang thành h́nh và sự thành h́nh của những chính sách đó hăy c̣n phôi thai -Những sự thành h́nh lúc này, bất kể định nghĩa ra sao cũng chẳng thể gọi là chính sách cho được.- Nói một cách tổng quát th́ sự thành h́nh của chính sách Nixon được dựa trên hai điểm chính: Thứ nhất, Hoa Kỳ hy vọng rằng Nga sẽ giúp họ khuyên giải Hà Nội đàm phán thực sự. Thứ hai, chánh quyền Hoa Kỳ cho rằng Sài G̣n sẽ không phản đối việc rút quân. Đây là một giả thuyết Hoa Kỳ chưa thể xác quyết. Nói chung th́ Hoa Kỳ tin rằng Nga có thể làm áp lực bắt Hà Nội đàm phán. Hơn nữa, chính quyền Nixon c̣n cho rằng một khi quân đội Hoa Kỳ đă bắt đầu rút lui th́ áp lực chống đối của dân chúng Hoa Kỳ cũng giảm theo. Trong suốt tháng hai và tháng ba, tôi liên lạc với Sài G̣n gần như hàng ngày bằng điện văn và tường tŕnh tất cả mọi tin tức tôi thu lượm được về sự thành h́nh của chính sách Hoa Kỳ. Tôi vẫn thường t́m cách gặp ông Kissinger để trực tiếp t́m hiểu tin tức. Tôi bắt đầu hiểu rơ được những suy tư sâu sắc của ông, nhưng tôi cũng nhận thấy ông rất kín đáo và khéo tránh vấn đề. Tỉ dụ như có lần khi tôi hỏi về việc đàm phán ông Kissinger đă trả lời rằng: "Tổng thống của ông biết rất rơ. Ông ta là người hiểu rất thấu đáo vấn đề." Tối đó, tôi điện về Sài G̣n cố t́m hiểu kỹ lưỡng xem ông Thiệu thật sự có biết rơ vấn đề hay không? Tôi cũng điện cho ông Thiệu biết về việc tôi e ngại ông Kissinger không nói rơ mọi chuyện.

Trong khi tất cả chúng tôi c̣n mù mịt th́ ông Kissinger đang ngày đêm bận rộn t́m cách đàm phán với Hà Nội: Vào ngày 20 tháng 12 ông Kissinger đă t́m cách đàm phán qua ông Jean Sainteny, một nhân viên ngoại giao của Pháp khi trước. Vào giữa tháng 3 ông Kissinger lại một lần nữa cố gắng đàm phán với Nga qua ông Cyrus Vance. Tuy những vận động qua ông Sainteny chỉ là những liên lạc môi giới cho những thông điệp giữa ông Kissinger và ông Hồ, những vận động của Hoa Kỳ qua ông Vance là những kế hoạch có tính toán kỹ lưỡng. Khi đàm phán với Nga, ông Kissinger đă t́m cách buộc Nga phải làm áp lực với Hà Nội bằng cách phối hợp những cuộc đàm phán vũ khí nguyên tử (SALT) chung với những cuộc đàm phán của chiến tranh Việt Nam. Ông Vance được phái đi Nga và cho thẩm quyền rộng để đàm phán với Nga Sô kể cả những vấn đề quân sự và chính trị. Cả hai nỗ lực vừa kể đều vô hiệu. Hà Nội vẫn bướng bỉnh ngoảnh mặt. Khi tôi được biết về những nỗ lực của ông Kissinger, tôi đă cảm thấy không được thoải mái cho lắm v́ những hành động xé lẻ của ông. Cách hành động của ông Kissinger không đi đôi với những đề nghị "hợp tác gần gũi" giữa hai chánh quyền do chính ông đưa ra với tôi trước đây trong lần gặp đầu tiên.

Kỳ lạ thay, ngay trong khi ông Kissinger cùng ông Vance đang âm thầm tính toán kế hoạch th́ hai chánh quyền Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với nhau trong cuộc gặp gỡ đầu tiên. Khi đi công du Âu Châu, tổng thống Nixon đă ngừng ở Pháp và xếp đặt chương tŕnh để gặp ông Kỳ. Lúc này ông Kỳ đang ở Pháp và làm trưởng phái đoàn thương thuyết của Việt Nam. Ông Kỳ yêu cầu tôi bay sang Ba Lê để dự buổi họp. Khoảng đầu tháng 3, đại sứ Phạm Đăng Lâm (thành viên cố định của Việt Nam ở hội nghị), ông Kỳ và tôi đă đến họp với tổng thống Nixon, ông Kissinger, ông Lodge và ông Phillip Habib. Chúng tôi đă duyệt xét toàn bộ vấn đề. Đây là một cuộc họp dài trong một khung cảnh thân hữu. V́ những cuộc đàm phán chính thức giữa Việt Nam và Bắc Việt ở Ba Lê đều thất bại nên trong cuộc họp lần này cả hai chánh phủ đều cùng đồng ư rằng Hoa Kỳ nên để ông Lodge tiếp tục cố đàm phán với Hà Nội bằng những đường dây riêng bên ngoài. Ngoài việc chỉ định ông Lodge tiếp tục những nỗ lực đàm phán, cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đều chẳng hề đả động đến bất cứ giải pháp nào khác cả. Sau suốt chín tháng trường đàm phán Bắc Việt vẫn chỉ tiếp tục lập đi lập lại những đ̣i hỏi bắt buộc Hoa Kỳ phải tự ḿnh rút quân và Việt Nam phải đầu hàng.

Ngay sau khi cuộc họp ở Ba Lê chấm dứt, tôi trở về Hoa Thịnh Đốn nhất định thúc đẩy ông Thiệu sửa soạn duyệt lại toàn diện t́nh h́nh và đưa ra những đề nghị mới. Tôi cho rằng đây là một điều tuyệt đối cần thiết để cùng Hoa Kỳ tiến đến một giải pháp chung. Tuy thế tôi vẫn không nhận được bất kỳ bức điện trả lời nào. Tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa tổng thống Nixon sẽ bị buộc phải công bố những dự định về ḥa b́nh. Giai đoạn chờ đợi Sài G̣n trả lời là một giai đoạn thất vọng sâu xa cho tôi. Lúc này tôi cho rằng sự im lặng của Việt Nam là do tính chần chừ và thiếu khả năng quyết định của ông Thiệu. Tôi biết đại sứ Bunker thế nào cũng khuyên ông Thiệu nên im lặng v́ giai đoạn này là giai đoạn các chính sách của chánh phủ mới ở Hoa Kỳ đang bắt đầu thành h́nh. Hơn nữa, tôi c̣n biết rằng ông Kissinger đang vận động ngầm. Tôi thấy rằng bất kể chánh quyền Nixon tuyên bố với Việt Nam ra sao, Hoa Kỳ vẫn đang cố dùng mọi cách chuyển tiên cơ hành động về phía họ.

Trong khi tôi hăy c̣n đang lo âu về vấn đề Việt Nam phải có sáng kiến trước khi Hoa Kỳ đưa ra chính sách đối với cuộc chiến Việt Nam th́ bỗng dưng lại phải bỏ thời giờ để đối phó với một vấn đề chẳng ăn nhập ǵ vào những vấn đề đang khiến tôi phải ngày đêm lo lắng. Lúc này quốc hội Việt Nam đang bắt đầu t́m hiểu các thể thức dân chủ và rồi th́nh ĺnh gửi đi hàng loạt phái đoàn thăm viếng sang Hoa Kỳ. Chẳng hiểu bằng cách nào đó, nhiều dân biểu và rất nhiều nhân viên từ các cơ quan của chính phủ Việt Nam đă t́m được cách đi công du qua những phái đoàn "t́m hiểu." C̣n nơi nào rơ rệt hơn để t́m hiểu những quá tŕnh dân chủ hơn là ngay ở trung tâm một nước dân chủ lớn nhất thế giới? Từng toán công du thi nhau đến ṭa đại sứ, đ̣i hỏi gần như bất tận về mọi nhu cầu. Tôi phải thường xuyên sắp xếp giờ giấc để những phái đoàn Việt Nam có thể gặp gỡ phía Hoa Kỳ. Hơn nữa, họ cũng có những nhu cầu du lịch hoặc mua sắm. Những lúc như thế họ thường gọi ṭa đại sứ để giúp họ liên lạc. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đă bắt đầu quen thuộc với những chuyện sắp xếp để đưa du khách đi thăm thác Niagara và những thắng cảnh nổi tiếng khác. Có lần lời yêu cầu được thăm viếng Salem đă làm chúng tôi điên đảo. Theo bản đồ của chúng tôi th́ có cả hàng chục chỗ cùng mang tên Salem. Tuy thế lại chẳng ai trong chúng tôi đủ hiểu biết để quyết định phải đến chỗ nào và tại sao chỗ đó lại là nơi nhiều người thăm viếng. Lần khác, chúng tôi nhận được điện thoại than phiền rằng có một toán công du Việt Nam đang mặc đồ Pajama đi dạo trong một khách sạn sang trọng bậc nhất nước Mỹ. Họ hoàn toàn không để ư đến quan niệm ăn bận khác biệt giữa hai dân tộc Việt, Mỹ.

Giữa lúc những chuyện phức tạp này diễn ra th́ Bộ Ngoại Giao thông báo cho tôi biết rằng Xuân Thủy, đại diện Hà Nội ở Ba Lê đă đồng ư nói chuyện riêng với đại sứ Henry Cabot Lodge. Buổi nói chuyện đầu tiên bắt đầu vào ngày 22 tháng 3. V́ chưa thảo luận được trước với Hoa Kỳ, Sài G̣n nhốn nháo lo lắng không hiểu những cuộc nói chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tuy thế những lo âu của Việt Nam về việc đàm phán giữa Hà Nội cùng Hoa Kỳ diễn ra thật là ngắn ngủi. Không hiểu v́ sao Xuân Thủy lại bằng ḷng gặp riêng ông Lodge v́ khi gặp gỡ, những đ̣i hỏi của anh ta vẫn chỉ là những lời lập lại y hệt những ǵ Bắc Việt đă tuyên bố công khai trước đây.

Năm ngày sau th́ ở Hoa Kỳ lại có một biến cố khác. Vào ngày 28 tháng 3, cựu tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower từ trần tại bệnh viện Walter Reed sau một cơn bệnh dai dẳng. Tối đó tôi được tin rằng ông Kỳ sẽ đến Hoa Thịnh Đốn thay mặt chánh quyền Việt Nam dự lễ đưa tang. Ông Kỳ dĩ nhiên cũng chỉ đến Hoa Kỳ như những quốc trưởng từ các quốc gia khác, chẳng hạn như Tổng Thống Charles de Gaulle của Pháp. Tất cả những vị quốc trưởng của các quốc gia khác đều đến Hoa Kỳ với mục đích chính là để để dự lễ đưa tang của ông Eisenhower. Tuy thế, v́ t́nh trạng Việt Nam cũng đang là một trong những vấn đề cần được chú tâm nên tôi đă nhân cơ hội ông Kỳ đến Hoa Kỳ để sắp xếp cho ông đến gặp những dân biểu quốc hội đang ủng hộ Việt Nam và các nhân viên quân sự Hoa Kỳ ở Ngũ Giác Đài. Ngoài ra tôi c̣n sắp xếp cho ông đến gặp riêng Ngoại Trưởng Rogers, cố vấn Kissinger và Tổng Thống Nixon.

Vào ngày 1 tháng 4, tôi theo ông Kỳ đến toà Bạch Ốc. Ngay lúc này tổng thống Nixon cũng mời ông Kissinger và ông Ellsworth Bunker đến họp. Ngay cả trong lần họp này mà Tổng Thống Nixon và ông Kissinger vẫn không thổ lộ bất kỳ điều ǵ quan trọng về chiến lược của Hoa Kỳ. Tổng thống Nixon tỏ vẻ hài ḷng về sự hợp tác gần gũi của hai chánh phủ Mỹ, Việt. Khi ông nhận định về cuộc chiến Việt Nam, tổng thống Nixon có nói rằng mục đích của cuộc đàm phán ở Ba Lê phải là ḥa b́nh vĩnh cửu. Nếu cuộc đàm phán đó chẳng thể đạt được ḥa b́nh vĩnh cửu, mà chỉ đạt được "một sự ngưng bắn tạm trong một khoảng thời gian nào đó" th́ quả việc chẳng có ích lợi ǵ. Ông cũng yêu cầu chúng tôi phải đặt tin tưởng vào Hoa Kỳ.

Sau cuộc họp với Tổng Thống Nixon, chúng tôi c̣n tổ chức thêm một cuộc họp riêng khác với ông Kissinger nhưng sau cuộc họp đó chúng tôi cũng chẳng thu thập được thêm tin tức ǵ mới. Và rồi thật t́nh cờ, khi Ngoại Trưởng Rogers đến dùng bữa trưa ở ṭa đại sứ, chúng tôi lại vô t́nh nghe được một số tin tức tương đối đáng lưu ư. Trong khi chúng tôi cùng ăn bữa trưa th́ ông Rogers có vẻ hân hoan khác thường. Không chút quanh co, ông Rogers đi thẳng vào vấn đề. Ông nói rằng chẳng c̣n cách ǵ khác ngoài việc rút đi một ít quân Hoa Kỳ. Ông hỏi rằng nếu Hoa Kỳ rút quân th́ họ phải làm thế nào để tăng cường quân lực Việt Nam và giúp Việt Nam đối phó được với thời cuộc? Về mặt chính trị, ông Rogers cũng ḍ hỏi những phương thức kết hợp để Mặt Trận Giải Phóng có thể tham gia chánh phủ một khi nhóm này lên tiếng từ bỏ bạo động và chấp nhận những tiêu chuẩn tranh đấu chính trị bằng những phương pháp ḥa b́nh.

Cả ông Kỳ lẫn tôi đều không tin rằng Mặt Trận Giải Phóng sẽ tách rời với Hà Nội hoặc từ bỏ những mục đích tấn công bằng bạo lực do Trung Ương Đảng Cộng Sản Bắc Việt đề ra. Nhưng v́ cả hai chúng tôi đều không biết ông Rogers đă mất đi khá nhiều quyền lực và không c̣n ảnh hưởng ǵ mạnh đối với những quyết định ngoại giao của Hoa Kỳ nên chúng tôi đă cho rằng đây có thể là những suy nghĩ về chiều hướng cuối của Hoa Kỳ.

Vào khoảng đầu tháng 4, nhờ vào nhiều nguồn tin ở Hoa Thịnh Đốn, tôi được biết ông Kissinger đă cho lệnh Ngũ Giác Đài nghiên cứu các chương tŕnh rút quân. Tôi báo cho Sài G̣n biết về việc này và cũng nói thêm rằng đă đến lúc Việt Nam phải đối phó với sự thật. Những điểm căn bản trong kế hoạch Hoa Kỳ đă bắt đầu được áp dụng: Kế hoạch của Hoa Kỳ vào lúc này là một Kế Hoạch Lưỡng Đầu nhằm kết hợp việc rút quân (Chỉ sau một thời gian ngắn sau đó chương tŕnh rút quân đă được gọi là Việt Nam Hóa Chiến Tranh) cùng những cuộc đàm phán bí mật. Thật sự kế hoạch rút quân sẽ ăn khớp ra sao với những cuộc đàm phán bí mật và Hoa Kỳ sẽ điều đ́nh thế nào là điều chúng tôi hoàn toàn không rơ. V́ vậy tôi đă yêu cầu được gặp ông Kissinger để có thể t́m hiểu vấn đề thấu đáo hơn.

Vào ngày 6 tháng 5 năm 1969, tôi tới gặp ông Kissinger tại văn pḥng. Trái với những điều tôi suy nghĩ từ trước, khi cuộc bàn luận kết thúc, tôi cảm thấy bớt bi quan. Ông Kissinger nói với tôi rằng tuy có rất nhiều "Trung tâm quyền lực" ở khắp mọi nơi trong Hoa Thịnh Đốn, nhưng Ṭa Bạch Ốc thật sự vẫn nắm vai tṛ lănh đạo. Sau đó ông Kissinger tiếp tục thảo luận vấn đề rút quân. Ông quả quyết với tôi rằng việc rút quân sẽ tùy thuộc vào khả năng của quân đội Việt Nam hơn là vào những áp lực của dân chúng Hoa Kỳ. Ngay cả sau khi quân đội Hoa Kỳ đă rút ra khỏi Việt Nam, một lực lượng tối thiểu cần thiết sẽ ở lại. Sau cùng, ông Kissinger lập lại một lần nữa rằng tổng thống Nixon luôn luôn chú ư đến tầm mức quan trọng của sự hợp tác giữa hai chánh phủ Mỹ Việt. V́ thế sẽ không có bất kỳ quyết định nào là quyết định chánh thức nếu Sài G̣n không được báo trước, chưa duyệt qua hoặc không đồng ư. Đặc biệt ông Kissinger muốn chính phủ Việt Nam hiểu rơ rằng vấn đề rút quân chắc chắn không phải là một tấm b́nh phong ngụy trang che dấu sự bỏ cuộc của Hoa Kỳ. Mặt khác, tôi đă biết rơ rằng cuộc điều đ́nh giữa ông Lodge và Xuân Thủy sẽ chẳng đi đến đâu.

Gần như sau buổi họp này, mọi hoạt động bắt đầu tiến triển. Vào ngày 8 tháng 5 ở Ba Lê, Bắc Việt đưa ra một kế hoạch 10 điểm mà họ cho là sẽ kết thúc chiến cuộc một cách công bằng. Những điểm Bắc Việt đề ra cũng lại chẳng khác ǵ những điều đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải đơn phương rút quân và Việt Nam phải tự động tuyên bố giải tán chánh phủ lúc đó.

Đề nghị do Bắc Việt đưa ra được Tổng Thống Nixon trả lời trong một buổi nói chuyện truyền h́nh toàn quốc với kế hoạch 8 điểm của Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 5-1969. Đây là kế hoạch sửa soạn kỹ càng nhất của Hoa Kỳ từ trước tới nay. Kế hoạch này đ̣i hỏi Bắc Việt phải rút quân cùng lúc với Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. (Trước đây, Hoa Kỳ vẫn đ̣i hỏi Bắc Việt phải rút quân sáu tháng trước khi Hoa Kỳ bắt đầu rút quân) Tổng thống Nixon cũng tuyên bố Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng tham gia vào đời sống chính trị ở Việt Nam. Hơn nữa, Hoa Kỳ c̣n đồng ư để dân chúng được tự do bầu cử dưới sự giám sát của các ủy ban Quốc Tế. Ngay sau khi bài diễn văn của tổng thống Nixon chấm dứt, ở một buổi họp báo liền sau đó, ông Kissinger đă nhấn mạnh tính chất "uyển chuyển" của kế hoạch đưa ra và tuyên bố rằng kế hoạch này đă được Sài G̣n "thông qua."

Tất cả mọi diễn biến xảy ra thật là kinh ngạc. Tuy đă có trao đổi sơ qua với Sài G̣n, Hoa Kỳ vẫn chưa hề tham khảo với chính quyền Sài G̣n trong chi tiết và cũng chưa hề có sự đồng ư nào đáng kể của Việt Nam. Chưa có ǵ có thể gọi là "thông qua" từ phía Việt Nam cả. Thật ra, khoảng hai ngày trước khi có cuộc họp báo của ông Kissinger, tôi có được thông báo rằng đại sứ Bunker sẽ đưa kế hoạch của Hoa Kỳ cho ông Thiệu. Điện văn của tôi gửi cho ông Thiệu dặn ông trước về việc này được gửi đi vào ngày 12 tháng 5. Chính quyền Việt Nam không hề có đủ thời gian để bác bỏ kế hoạch của tổng thống Nixon. Việt Nam đă bị buộc phải chấp nhận những điều Hoa Kỳ vừa tuyên bố. Lề lối tham khảo lấy lệ lúc đó của Hoa Kỳ thực sự đă là những triệu chứng đầu tiên về những thái độ về sau này của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Những đ̣n phép bắt buộc cũng như những toan tính cưỡng bức độc đáo của chính quyền Nixon với đồng minh đă bắt đầu mở màn với chiêu thức độc đáo đầu tiên.

30. Tŕ Hoăn

Vào ngày 14 tháng 5-1969, đúng một tuần lễ sau khi Tổng Thống Nixon nói chuyện với dân chúng Hoa Kỳ trên đài truyền h́nh th́ tôi nhận được chỉ thị của ông Thiệu nhắc tôi liên lạc với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để chuẩn bị cho cuộc họp thượng đỉnh sắp tới của Việt Nam và Hoa Kỳ. Địa điểm họp lần này là ở đảo Midway, một ḥn hoang đảo nằm giữa Thái B́nh Dương.

Khi tin tức về cuộc họp thượng đỉnh được công bố th́ chính quyền Nixon đă nhậm chức được năm tháng và tuần trăng mật của vị tân Tổng Thống Hoa Kỳ với dân chúng đă trôi qua. Lúc này đúng là một thời điểm vừa vặn để Tổng Thống Nixon chánh thức tuyên bố chính sách mới của Hoa Kỳ về vấn đề rút quân. Hơn nữa, cuộc họp thượng đỉnh lần này có lẽ cũng là để chính quyền Nixon có dịp làm tṛn những điều họ đă nói với chính quyền Việt Nam khi trước. Trước đây, khi Tổng Thống Nixon c̣n chưa đắc cử, bà Anna Chennault có nói với tôi rằng nếu đắc cử, ông Nixon sẽ đi thăm Việt Nam hoặc sẽ gửi một phái đoàn đi thay. Khi Tổng Thống Nixon đắc cử, ông Thiệu có gửi một bức điện văn rất dài sang Hoa Kỳ để chúc mừng. Lúc đó, có lẽ v́ muốn tránh tiếng đồn là Việt Nam đă can thiệp vào cuộc bầu cử của Hoa Kỳ nên thay v́ gửi điện văn thẳng đến ông Nixon, ông Thiệu lại gửi điện văn chúc mừng đến Bộ Ngoại Giao. Sau bức điện văn chúc mừng, ông Thiệu cũng đă nhiều lần nhắn tin một cách kín đáo về vấn đề gặp gỡ của cả hai chính phủ, nhưng cho tới tận tháng 5, những bức điện văn của ông Thiệu vẫn chưa được hồi âm.

Cuộc họp thượng đỉnh lần này chính là một cuộc họp để chính quyền Nixon có thể tŕnh bày những chính sách mà Hoa Kỳ đă soạn thảo trong 5 tháng vừa qua. Ở thời điểm này th́ dù có không hài ḷng với các chính sách của Hoa Kỳ, có lẽ ông Thiệu cũng phải chấp nhận những chính sách Hoa Kỳ sắp đưa ra. Hơn nữa, chính ông Thiệu lại là người yêu cầu cuộc họp.

V́ cuộc họp được dự định vào ngày mùng 8 tháng 7 nên tôi cũng c̣n một khoảng thời gian khá dài. Vào cuối tháng 5, để sửa soạn cho cuộc họp thượng đỉnh đă rất nhiều lần tôi đến gặp ông Kissinger và ông Marshall Green, (Người thay thế ông Bill Bundy) Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách Đông Nam Á và Thái B́nh Dương Sự Vụ. Lúc này, vấn đề khó khăn chính của các cuộc họp giữa tôi và các nhân viên trong chính quyền Nixon là việc Hoa Kỳ không đồng ư rằng hai chính phủ cần phải có một bản thông cáo chung cho buổi họp. Tôi đă thấy rơ rằng Hoa Kỳ đến Midway chỉ nhằm một mục đích duy nhất: Thúc đẩy ông Thiệu chấp thuận việc Hoa Kỳ rút quân. Ngoài việc này ra họ cố gắng giảm thiểu tầm mức quan trọng của cuộc họp. Cuộc họp sẽ rất ngắn (chỉ khoảng 5 tiếng đồng hồ) và địa điểm họp là một nơi hẻo lánh, xa xăm. Tất cả cuộc họp chỉ nhằm một mục đích duy nhất là chính thức hóa sự đồng ư của Việt Nam về vấn đề Hoa Kỳ rút quân. Do đó, nếu nh́n cuộc họp theo quan niệm của Hoa Kỳ th́ bản thông cáo chung quả đă chẳng có lợi ích ǵ cho Hoa Kỳ mà lại c̣n để cho Việt Nam có cơ hội đ̣i hỏi và yêu cầu về những vấn đề khác.

Dĩ nhiên, nếu đứng trên quan điểm của Hoa Kỳ th́ việc ông Kissinger và ông Green không đồng ư về vấn đề phải có một bản thông cáo chung hoàn toàn có lư, nhưng nếu nh́n vấn đề bằng quan điểm của chúng tôi th́ đây lại là một vấn đề thật cần thiết v́ nhiều lư do. Lư do quan trọng thứ nhất là việc chúng tôi muốn hiểu rơ kế hoạch của chính quyền Nixon. Nếu rút quân là việc chẳng đặng đừng, chúng tôi vẫn muốn Hoa Kỳ rút quân theo một đường lối có lợi cho Việt Nam. Lư do thứ hai là việc rút quân sẽ phải đi song song với một kế hoạch để tăng cường khả năng của quân đội Việt Nam. Hơn nữa, chúng tôi muốn biết rơ Hoa Kỳ và Bắc Việt thật sự đàm phán ra sao. Và chúng tôi cũng muốn Hoa Kỳ tuyên bố họ không chấp nhận giải pháp của một chánh phủ liên hiệp bao gồm tất cả mọi thành phần kể cả Cộng Sản. Chúng tôi muốn Hoa Kỳ chánh thức công bố rơ các chính sách của họ trước khi chúng tôi gửi phái đoàn sang Ba Lê.

Đối với chúng tôi th́ tất cả những yêu cầu vửa kể đều quan trọng. Vấn đề quan trọng thứ nhất chính là v́ giá trị căn bản của những điều chúng tôi yêu cầu. Vấn đề quan trọng thứ hai là chúng tôi dự định dùng những điều chúng tôi yêu cầu để trấn an dư luận. Lúc này những lời đồn đăi hoàn toàn sai lạc về vấn đề Hoa Kỳ rút quân đă khiến dân chúng Việt Nam hoang mang và mất tinh thần. Khi nói chuyện cùng các nhân viên Hoa Kỳ, chúng tôi nêu rơ hai điều kể trên để thuyết phục những nhân viên Hoa Kỳ. Chúng tôi đă bàn luận dằng co khá lâu với hai ông Kissinger và Green, và rồi dần dà thuyết phục được họ chấp thuận bản thông cáo chung. Trong bản thông cáo chung đưa ra, Hoa Kỳ tuyên bố bác bỏ giải pháp thành lập một chính phủ liên hiệp, chấp thuận kế hoạch "thay thế một số đơn vị Hoa Kỳ bằng những lực lượng Việt Nam," và nhấn mạnh rằng chương tŕnh rút quân sẽ được thi hành "song song từng bước tùy thuộc vào t́nh trạng an toàn của Việt Nam tại mỗi thời điểm."

Tuy rằng Việt Nam đă đồng ư chấp thuận bản thông cáo chung mà Hoa Kỳ vẫn lo rằng họ sẽ gặp khó khăn khi phải đối phó với vấn đề rút quân. Về mặt chiến lược th́ rút quân là một phần của kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh (Vào lúc này chính phủ Nixon đang t́m cách để áp dụng một kế hoạch Lưỡng Đầu bao gồm hai phần quan trọng: Phần thứ nhất là Việt Nam Hóa Chiến Tranh và phần thứ hai là Kế Hoạch Đàm Phán.) Hơn nữa, Rút Quân cũng chính là kế tŕ hoăn mà chánh quyền Nixon dùng để đối phó với những phong trào phản chiến trong nước. V́ Hoa Kỳ đă đặt rất nhiều hy vọng vào kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh nên họ muốn chánh phủ Việt Nam thỏa thuận ngay để cho mọi việc được trôi chảy như dự liệu.

Sở dĩ Hoa Kỳ lo lắng vào lúc này là v́ trước kia họ đă gián tiếp vận động và ép buộc Việt Nam phải chấp thuận vấn đề rút quân. Từ đó trở đi, Rút Quân đă trở thành một đề tài quen thuộc của dư luận và báo chí. Và rồi tất cả mọi người đều yên trí rằng Hoa Kỳ thế nào cũng rút quân. Những diễn biến phức tạp của vấn đề rút quân v́ thế đă khiến những người trong cuộc có cảm giác là họ đang phải trực diện với một sự đă rồi. Thật ra th́ kế hoạch rút quân chưa bao giờ được đệ tŕnh lên cho chánh quyền Việt Nam thỏa thuận hoặc chống đối một cách chính thức. Do đó, cả Tổng Thống Nixon lẫn ông Kissinger đều không đoán trước được phản ứng của ông Thiệu ở cuộc họp ở Midway. Như ông Kissinger đă viết trong hồi kư: Chúng tôi sợ rằng "vấn đề rút quân sẽ khiến việc trở nên khó xử."

Tuy thế trong cuộc họp thượng đỉnh ở Midway ông Thiệu đă cố nh́n vào những khía cạnh tốt đẹp của buổi họp. Ông đă đưa ra cả đề nghị về việc "tái phối trí" các lực lượng Hoa Kỳ và cũng đồng ư chấp thuận đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt với điều kiện là ông phải được thông báo tường tận về các diễn biến.

Tuy ngoài mặt ông Thiệu cố tránh việc phải trực diện đối đầu với Hoa Kỳ, nhưng trong thâm tâm ông vẫn lấy làm bất măn. Có lẽ ông Thiệu bất măn nhất là việc ông bị buộc phải gặp Tổng Thống Nixon ở một nơi heo hút và chẳng có ǵ ngoài những bầy chim hải âu như ở ḥn hoang đảo Midway. Tất cả chúng tôi có lẽ cùng đều bất măn như ông. Nh́n vào cách tiếp tân cùa Hoa Kỳ, chúng tôi đă nhận thấy sự liên hệ của chúng tôi với Hoa Kỳ thật khác hẳn sự liên hệ của Bắc Việt với Sô Viết. Tuy chúng tôi biết rơ là sau lưng Bắc Việt, người Nga vẫn nói họ là những "kẻ cứng đầu quá lố," nhưng ít ra là trước công chúng, chánh phủ Nga vẫn linh đ́nh trải thảm đón tiếp chánh phủ Hà Nội trong các cuộc tiếp tân. Ngược lại, đối với chúng tôi th́ người đồng minh cùng chia xẻ một mục đích chung với chúng tôi lại coi chúng tôi như một thứ cùi hủi cần phải tránh xa. V́ hoàn cảnh bắt buộc, chúng tôi đă phải muối mặt chịu đựng nhưng chúng tôi không thể quên nổi cách tiếp tân rẻ rúng này. Việt Nam, trong suốt bốn ngàn năm lịch sử, dù là cộng sản hay không cộng sản cũng đă nổi tiếng về việc kém chịu đựng những sự nhục nhă. Cách tiếp tân của Hoa Kỳ lúc này đă tạo ra những vết thương khó quên. Dĩ nhiên ông Thiệu không bao giờ quên và nếu về sau này ông Kissinger đă phải phẫn nộ v́ cung cách đối xử của ông Thiệu khi hai chánh phủ cùng gặp gỡ trong những buổi họp năm 1972, có lẽ ông cũng nên hiểu rơ v́ đâu mà Việt Nam lại đối xử với ông như vậy.

Với những tổn thương tự ái sau cuộc họp, chúng tôi rời Midway vào lúc 5 giờ chiều (Phái đoàn Việt Nam đến đảo vào lúc 10 giờ sáng) ghé Đài Loan để nghỉ qua đêm rồi về thẳng Sài G̣n. Trên chuyến bay tôi cùng ông Thiệu sửa soạn cho cuộc họp sắp tới của ông Thiệu và giới báo chí. Mục đích chính của chúng tôi là trấn an dư luận. Chúng tôi tường tŕnh về buổi họp Midway và nhấn mạnh đến những khía cạnh tốt đẹp của buổi họp thượng đỉnh này: Hoa Kỳ đă khẳng định rơ rệt rằng họ sẽ không chấp nhận giải pháp chánh phủ liên hiệp. Chúng tôi khẳng định rằng ngay cả việc Hoa Kỳ rút quân cũng có rất nhiều lợi điểm. Chúng tôi chẳng những đă chấp nhận mà c̣n hoan nghênh đề nghị rút quân, v́ nếu Hoa Kỳ có thể rút quân th́ việc đó có nghĩa rằng Việt Nam đă có thể hoàn toàn dựa trên sức mạnh của chính ḿnh. Chúng tôi cũng nêu rơ rằng Việt Nam càng ít phụ thuộc vào Hoa Kỳ th́ t́nh thế lại càng khả quan.

Sau cuộc họp báo, tôi trở về Việt Nam và ở Sài G̣n ngót hai tuần để thuyết tŕnh về kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Khi các tổ chức của chánh phủ đă thấu triệt quan niệm Việt Nam Hóa Chiến Tranh, tôi lên đường trở lại Hoa Thịnh Đốn. Vừa đến Hoa Thịnh Đốn tôi đă bắt đầu ḍ dẫm ư kiến của Hoa Kỳ bằng cách đưa ra ư kiến rút quân của ông Thiệu. Ông Thiệu gọi kế hoạch này là "Chiến Tranh Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp" ("Long haul/Low cost"). Nói chung th́ ư kiến của ông Thiệu là: Dù Hoa Kỳ quan niệm thế nào đi nữa th́ đối với Việt Nam cuộc chiến vẫn là một cuộc chiến tranh trường kỳ. V́ thế ông Thiệu đề nghị t́m cách giảm thiểu tối đa tất cả những tổn thất về sinh mạng cũng như về tài vật của Hoa Kỳ.

Vào ngày 24 tháng 7, tôi đến gặp Ngoại Trưởng Rogers ở Bộ Ngoại Giao để duyệt lại t́nh h́nh chung và cũng để đưa ra ít nhiều ư kiến về quan niệm của Việt Nam đối với vấn đề chiến tranh. Phản ứng của ông Rogers không khỏi làm tôi chú tâm. Ông Rogers cho rằng ư kiến của ông Thiệu quả là một ư kiến đáng bàn luận nhưng ông cũng nói thêm rằng giảm thiểu tổn thất của Hoa Kỳ ở Việt Nam vẫn không phải là phương sách toàn hảo để bảo đảm sự viện trợ của Hoa Kỳ. Theo ông th́ khuyết điểm của kế hoạch "Chiến Tranh Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp," nằm ở chỗ không ai có thể biết trước được là Hoa Kỳ nên giảm thiểu nhân mạng và tài vật đến tầm mức nào mới có thể khiến dân chúng Hoa Kỳ chấp thuận ủng hộ Việt Nam. V́ thế, để kêu gọi sự hỗ trợ của dân chúng Hoa Kỳ, Việt Nam cần phải gây dựng một chánh phủ đoàn kết có sự tham gia đông đảo của mọi khuynh hướng chính trị ở Việt Nam. Ông Rogers c̣n nói thêm rằng: "Hoa Kỳ không muốn gây trở ngại, không muốn áp bức bắt Việt Nam phải hợp tác với những phần tử chống đối. Nhưng các ông phải cố t́m cách để chứng tỏ với thế giới rằng chánh phủ của các ông không phải là một chánh phủ độc tài, không phải là một chánh phủ của riêng một đoàn thể nào ... Ông có rơ điều tôi muốn nói hay không?" (Chữ nghiêng là của tác giả)

Trong một cuộc họp khác ngay sau đó th́ ông William Sullivan, Trưởng ban đặc trách về vấn đề Việt Nam lại đề cập vấn đề mà Ngoại Trưởng Rogers đă đưa ra ngày hôm trước. Ông nói rằng Ngoại Trưởng Rogers đă cho lệnh ông duyệt lại tất cả những điểm mà hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam đă đưa ra từ trước đến nay và tổng kết những điểm đó để có thể đưa ra một kế hoạch chung cho cả hai chánh phủ. Ông Sullivan đề cập cả cuộc họp của ông Rogers vào tháng 3 lẫn cuộc họp riêng của Tổng Thống Nixon và ông Thiệu ở Midway. Cuối cùng ông kết luận rằng: Nếu nh́n lại tất cả những điểm mà hai chánh phủ đă đưa ra th́ có lẽ cả hai chính phủ đều cùng đồng ư rằng Việt Nam nên t́m cách để tổ chức một cuộc Tổng Tuyển Cử trong tương lai. Trong cuộc Tổng Tuyển Cử đó, tất cả các đoàn thể đều có quyền ứng cử trừ Mặt Trận Giải Phóng. Ông Sullivan cho rằng giải pháp Tổng Tuyển Cử có thể là một giải pháp thích ứng để giải quyết những khó khăn trong đời sống chính trị tương lai của Việt Nam.

Tôi nói với ông Sullivan rằng Việt Nam khó thể tổ chức một cuộc bầu cử như vậy nếu Bắc Việt chưa rút quân. Với t́nh thế đang bị đe dọa như lúc này, Việt Nam chắc chắn không thể buông lơi để tổ chức một cuộc bầu cử như ông Sullivan vừa đề cập. Hơn nữa, Việt Nam không thể nào tổ chức bầu cử ở các miền cộng quân đang chiếm đóng. Nghe tôi tŕnh bày vấn đề xong, ông Sullivan hỏi ngược lại tôi rằng ông Thiệu có kế hoạch ǵ khác không? Tôi trả lời có lẽ chúng tôi sẽ chấp thuận tổ chức bầu cử nếu Bắc Việt chịu rút quân. Sau cùng, có lẽ vừa để ám chỉ t́nh trạng bế tắc của các cuộc đàm phán và vừa để bày tỏ sự sốt ruột của Hoa Kỳ, ông Sullivan nói rằng ông Henry Cabot Lodge đang ở Ba Lê để chờ đợi thêm những ư kiến mới. Nếu có thêm ư kiến mới th́ ông Lodge có thể khuyến khích Bắc Việt đàm phán hữu hiệu hơn.

Cứ theo t́nh h́nh các cuộc họp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mà luận th́ có lẽ lúc đó, Hoa kỳ đang cẩn thận ḍ dẫm phản ứng của Việt Nam về vấn đề Tổng Tuyển Cử. Cuộc bầu cử mà Hoa Kỳ đề cập chắc chắn sẽ bao gồm tất cả các thành phần đối lập không cộng sản và có thể bao gồm cả những thành phần của Mặt Trận Giải Phóng. Hoa Kỳ cho rằng nếu không có những phong trào cải cách rộng lớn, nếu không có một "chánh phủ đoàn kết có sự tham gia đông đảo của mọi khuynh hướng chính trị ở Việt Nam" như ông Sullivan đă đề cập th́ Việt Nam khó thể được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ. Hơn nữa, Hoa Kỳ tin rằng nếu Việt Nam chấp thuận tổ chức tổng tuyển cử tự do và nếu Bắc Việt đồng ư rút quân th́ những phái đoàn đàm phán của Hoa Kỳ ở Ba Lê có thể đàm phán hữu hiệu hơn.

Vào thời gian này tôi đă biết rơ ông Kissinger đóng một vai tṛ hết sức quan trọng trên lănh vực Ngoại Giao của Hoa Kỳ. Tôi cũng biết giữa ông Kissinger và Ngoại Trưởng Rogers có nhiều chuyện xích mích. Nhưng tôi vẫn chưa biết đủ để có thể ngờ được rằng đến cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng không mảy may hay biết ǵ về những vận động của ông Kissinger. V́ không ngờ những vận động của chính phủ Nixon lại có thể bí mật tới mức như vậy nên tôi đă thật ḷng tin tưởng vào những lời phát biểu của hai ông Rogers và Sullivan. Vào ngày 1 tháng 7, khi tường tŕnh ư kiến của Hoa Kỳ cho ông Thiệu, tôi đă tường tŕnh thật chi tiết những cuộc bàn luận của tôi với hai ông Rogers và Sullivan.

Sau khi gặp ông Sullivan được ba ngày th́ tôi đến gặp ông Kissinger để tiếp tục thảo luận thêm về những vấn đề tôi đă thảo luận với ông Sullivan. Ngoài ra tôi cũng muốn gặp ông Kissinger để xem ông Kissinger suy nghĩ khác với ông Rogers ra sao. Bức điện văn tôi gửi về cho ông Thiệu vào thời gian đó phản ảnh khá trung thực những khác biệt về quan niệm giữa hai ông Kissinger và Sullivan. Sau khi gặp ông Kissinger, tôi điện về như sau:

Trước khi tường tŕnh tường tận về buổi họp giữa tôi và ông Kissinger, tôi xin tŕnh để Tổng Thống rơ ở Hoa Thịnh Đốn có dư luận cho rằng ư kiến của ông Kissinger hoàn toàn khác với ư kiến của Ngoại Trưởng Rogers. Tôi xin thú thực rằng chính tôi cũng chưa thấy rơ sự khác biệt. V́ là đại sứ nên thế đứng của tôi có phần khó khăn và tế nhị. Tuy đă biết cả hai người, tôi vẫn phải vô cùng thận trọng.

Khi gặp ông Kissinger, tôi cũng đưa ra quan niệm "Chiến Tranh Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp" của Việt Nam chẳng khác nào như khi tôi đến gặp Ngoại Trưởng Rogers. Ông Kissinger nói rằng ông "nhận thức được khó khăn [của Việt Nam]," khi Hoa Kỳ tự nhiên giảm thiểu quân số và từ từ rút lui. Ông Kissinger cũng có nói rằng cả ông lẫn Tổng Thống Nixon đều không hài ḷng với kết quả của những cuộc đàm phán ở Ba Lê và rồi kết luận rằng Hoa Kỳ bắt buộc phải có giải pháp khác. Giải pháp đó ra sao lúc này ông vẫn chưa thể suy nghĩ tường tận được, nhưng Tổng Thống Nixon nhất định không phải là "vị Tổng Thống đầu tiên chịu thua cuộc chiến tranh." Ông Kissinger lại hỏi tôi "Theo ông th́ giải pháp nào nên được đưa ra?"

Tôi trả lời rằng bất kể giải pháp của Hoa Kỳ có là giải pháp nào đi nữa th́ chắc giải pháp đó cũng chẳng thể khác biệt ǵ nhiều với giải pháp "Triệt Thoái Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp" của Việt Nam. Điều này có nghĩa là bất kể đàm phán ở Ba Lê kết thúc ra sao th́ quân đội Hoa Kỳ cũng vẫn phải hiện diện ở Việt Nam trong một thời gian dài. Tôi nói với ông Kissinger: " Nếu bắt buộc Việt Nam phải áp dụng giải pháp tổ chức Tổng Tuyển Cử ngay khi Bắc Việt vẫn c̣n đóng quân để giải quyết những khó khăn th́ chúng tôi cho rằng đây phải là giải pháp cuối cùng. Chúng tôi chỉ chấp thuận tổ chức Tổng Tuyển Cử ở giây phút chót và chỉ chấp nhận điều kiện này nếu chúng tôi bị buộc phải chọn hoặc giải pháp này hoặc đầu hàng và mất Việt Nam."

Ông Kissinger đồng ư nhưng vẫn bàn thêm: Ư kiến Tổng Tuyển Cử thật là hấp dẫn. Tôi cũng nhân tiện nói để cho ông Kissinger biết rơ rằng bầu cử chỉ là một trong những vấn đề mà chánh phủ Việt Nam đang chú tâm vào lúc này mà thôi. Việt Nam cũng có thể chọn một giải pháp khác. Hiển nhiên ai cũng thấy điều kiện phải có một cuộc Tổng Tuyển Cử là một điều kiện khó khăn, nhất là khi Việt Nam đang bị những nguy cơ rơ rệt đe dọa. Trong khi chúng tôi bàn luận, ông Kissinger hỏi thêm rằng nếu một số các yêu cầu của Việt Nam được thỏa thuận th́ liệu Việt Nam có thể chấp nhận giải pháp tổng tuyển cử hay không? Tôi trả lời rằng nếu có thêm một số điều kiện th́ có lẽ Việt Nam sẽ chấp thuận, nhưng tôi từ chối, không chịu bàn luận chi tiết những điều kiện nào là những điều kiện tiên quyết mà Việt Nam bắt buộc phải có trước khi chấp thuận tổ chức Tổng Tuyển Cử. V́ chưa bàn luận kỹ trước với Sài G̣n, lúc này tôi chưa thể trực tiếp đưa ra một cách rơ rệt những điều kiện của Việt Nam. Tuy thế ông Kissinger nhất định muốn tôi phải trả lời.

Ông hỏi tiếp "Tỷ dụ như việc Hà Nội rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam, đây có phải là điều kiện thiết yếu tiên quyết mà chính phủ Việt Nam đ̣i hỏi trước khi chấp thuận Tổng Tuyển Cử hay chăng?"

Tôi trả lời rằng "Có, đây quả là một điều tiên quyết mà chánh phủ Việt Nam phải có trước khi đồng ư tổ chức một cuộc Tổng Tuyển Cử."

Ông Kissinger tiếp tục bàn luận và ḍ dẫm về việc đ̣i hỏi Bắc Việt rút quân. Ông hỏi: "Phải chăng nếu một kế hoạch đề ra bị quá nhiều điều kiện tiên quyết trói buộc th́ kế hoạch đó sẽ giảm bớt tầm mức hấp dẫn?" Rồi có lẽ v́ ông cho là những đ̣i hỏi của Việt Nam có phần quá đáng, ông Kissinger hỏi tiếp: "Việt Nam có thể nào chấp thuận cuộc Tổng Tuyển Cử ngay trong khi Bắc Việt hăy c̣n đóng quân ở Miền Nam Việt Nam hay không?"

Tôi trả lời rằng "Không, chắc chắn không thể nào có chuyện tổng tuyển cử khi quân đội Bắc Việt hăy c̣n đóng binh ở Miền Nam được."

Thực sự th́ cũng như ông Rogers, ông Kissinger đang ḍ dẫm và cố t́m một giải pháp thích ứng để có thể áp dụng vào kế hoạch đàm phán ở Ba Lê. Trong khi bàn luận, ông Kissinger đă đưa ra nhiều đề tài khác nhau và có nói đến cả việc ông đang chú tâm t́m cách để giúp ông Thiệu đối phó với những khó khăn trong chính trị nội bộ Việt Nam, chẳng hạn như t́m cách "để những người quốc gia có thể ngồi lại với nhau." Khi cuộc họp kết thúc ông Kissinger nói thêm rằng ông biết tôi đă có gặp cả Ngoại Trưởng Rogers lẫn ông Sullivan rồi. Tuy nhiên nếu tôi vẫn muốn gặp Tổng Thống Nixon hoặc gặp riêng ông ta th́ tôi có thể cứ "tự nhiên gơ cửa."

Sau khi gặp ông Kissinger, tôi cố suy nghĩ để có thể t́m cách kiểm chứng lại những điều ông đă đề cập trong buổi họp. Cuối cùng, tôi cho rằng cách hay nhất để duyệt lại vấn đề là đến gặp những phụ tá của ông Kissinger ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Rồi từ đó trở về sau th́ cứ sau mỗi lần họp với ông Kissinger, tôi lại mời những nhân viên phụ tá của ông đến ṭa đại sứ dùng bữa. Dĩ nhiên là tôi mời riêng từng người. -Trong số những người tôi mời có cả các ông John Negroponte, ông Richard Smyser và ông John Holdridge. Khi bàn luận cùng những nhân viên này tôi thường đưa vào những đề tài tôi đă thảo luận cùng ông Kissinger. Tôi cố gắng t́m hiểu để xem đâu là đề mục chính, đâu là đề mục phụ và đâu là những mục nhất thời. Những người tôi mời đến toàn là những nhân vật vừa có nhiều kinh nghiệm lại vừa thận trọng nhưng qua những cuộc nói chuyện thường xuyên ở những bữa cơm trưa, tôi cũng gặt hái được phần nào những điều tôi muốn biết.

Một trong những vấn đề tôi muốn t́m hiểu là vấn đề "t́m cách để những nhân vật quốc gia ở Việt Nam có thể cùng ngồi lại với nhau." Đây là vấn đề mà ông Kissinger đưa ra trong cuộc họp ngày 28 tháng 7. Với niềm hy vọng loé mầm, tôi cố ḍ dẫm hư thực qua các nhân viên phụ tá của ông. Nhưng sau khi tôi đă tận t́nh ḍ hỏi th́ những điều tôi nghe được lại hoàn toàn khác hẳn. Tất cả những nhân viên phụ tá của ông Kissinger đều nói rằng theo họ thấy th́ vấn đề kết hợp các thành phần quốc gia không phải là vấn đề ông Kissinger thực sự quan tâm. Mà cho dù đây có là vấn đề ông Kissinger quan tâm đi nữa th́ đây vẫn không phải là vấn đề ông cho là chủ yếu.

Tôi cho đây là một điều không may. Sở dĩ tôi suy nghĩ như vậy là v́ những quan niệm của tôi về Việt Nam đă thành h́nh trong nhiều năm trời kể từ khi tôi thực sự rời xa những chuyện tranh chấp có liên quan đến chính trị nội bộ Việt Nam. Nếu nh́n lại những năm vừa qua th́ những tiến triển dân chủ ở Việt Nam thật là đáng kể. Kể từ năm 1967, tôi đă cố gắng đóng góp để chuyển dần chánh phủ Việt Nam, lúc bấy giờ hăy c̣n là một chánh phủ quân nhân, thành một chánh phủ hợp hiến. Vào năm 1966, Hội Đồng Lập Hiến được thành lập. Vào năm 1967, hiến pháp được ban hành. Cũng trong năm đó, cuộc bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các cuộc bầu cử Thượng Nghị Sĩ, dân biểu vào quốc hội đă được tổ chức. Nói chung th́ những bước đầu tiên này đă một phần chứng tỏ rằng Việt Nam đang tiến những bước đầu trên con đường dân chủ. Tuy chánh phủ dân chủ sơ khởi của Việt Nam vẫn chưa hoàn hảo và nạn xích mích bè đảng vẫn c̣n ở ngay cả trong những ngành cao nhất của chính phủ. Nhưng dù sao đi nữa th́ chánh phủ hợp hiến sơ khởi của Việt Nam vẫn là một chánh phủ với một quốc hội có khả năng hoạt động ở một mức độ dân chủ đáng kể.

Tuy trong thâm tâm quả thực tôi có rất nhiều phương diện không đồng ư với ông Thiệu nhưng đứng ở cương vị đại sứ của Việt Nam, tôi vẫn rất khó chịu khi phải nghe những lời phê b́nh khắc nghiệt và liên tục của giới báo chí Hoa Kỳ đối với chính phủ Việt Nam. Dư luận Hoa Kỳ lúc nào cũng lên án ông Thiệu là một nhân vật độc tài và chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ không được dân chúng Việt Nam ủng hộ. Hậu quả là những lời phê b́nh đó đă khiến dân chúng Hoa Kỳ và nhất là quốc hội Hoa Kỳ có ấn tượng xấu đối với chánh phủ Việt Nam. Tôi cũng đồng ư với Ngoại trưởng Rogers rằng nếu không có những phong trào cải cách rộng lớn ở Việt Nam th́ chánh phủ Việt Nam khó thể kêu gọi được sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ. V́ thế, một trong những đề tài chính tôi thường xuyên tŕnh bày với ông Thiệu là Việt Nam phải t́m cách tổ chức được một chánh phủ đoàn kết lớn rộng với sự tham gia của tất cả các thành phần quốc gia. Tôi nói rằng Việt Nam cần phải hiểu rơ vai tṛ tối quan trọng của dư luận Hoa Kỳ v́ dư luận Hoa Kỳ chính là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng những người có trách nhiệm lập chính sách trong chính phủ Hoa Kỳ. Hơn nữa, tôi c̣n nói rơ rằng Việt nam cần đào tạo những chuyên viên mới để chánh phủ có thể điều hành hữu hiệu hơn về cả hai mặt hành chánh và kỹ thuật. Việt Nam cần có những chuyên viên mới để thay thế cho những người thiếu khả năng và tham nhũng trong chánh phủ Việt Nam.

Tuy vậy, đối với những đề nghị của tôi đưa ra th́ khả năng của tôi lại thật là hạn hẹp. Trước hết, tôi không c̣n dính dáng ǵ đến chính trị nội bộ của Việt Nam và lại ở cách xa Việt Nam cả 10,000 dặm. Thứ hai, tôi biết ông Thiệu vẫn không thật ḷng tin tôi v́ cho rằng tôi là một trong những người của ông Kỳ. Có lẽ trong thâm tâm ông Thiệu vẫn tin rằng tôi thuộc phe ông Kỳ. Thứ ba, v́ tôi cộng tác gần gũi với người Hoa Kỳ nên ông Thiệu đă cho rằng tôi bị người Hoa Kỳ ảnh hưởng và v́ thế quan điểm của tôi không c̣n khách quan và chuẩn xác nữa. Nhưng nói cho cùng th́ khả năng của tôi bị hạn hẹp đối với những đề nghị của tôi đưa ra chính là v́ vấn đề xây dựng một chánh thể dân chủ ở Việt Nam không phải là vấn đề mấu chốt trong các kế hoạch của Hoa Kỳ. Tuy rằng trong quá khứ, đại sứ Bunker đă nhiều lần đồng ư rằng chánh phủ Việt Nam phải cải cách, nhưng ông không phải là người có lập trường cương quyết về vấn đề phải xây dựng một chánh thể dân chủ ở Việt Nam. Hơn nữa, ông lại càng không phải là một trong những người có quyền quyết định các chánh sách của Hoa Kỳ. Hai ông Rogers và Sullivan thỉnh thoảng cũng có bàn luận vấn đề cải cách chánh phủ Việt Nam, nhưng ngoài ra họ chẳng làm ǵ hơn. C̣n ông Kissinger th́ lúc đó đang để tâm vào những khía cạnh phức tạp của những cuộc đàm phán, ngoại giao tay ba với Trung Quốc, Nga Sô, và những vấn đề quân sự, không c̣n tâm trí nào để suy tư về vấn đề dân chủ. Kết quả là có rất ít áp lực từ phía chánh quyền Nixon trong việc thúc đẩy ông Thiệu phải cải cách. Và ông Thiệu th́ dĩ nhiên lại không phải là người tự ḿnh nh́n thấy cần phải thay đổi.

Những khung cảnh phức tạp của vấn đề thúc đẩy ông Thiệu cải cách trong giai đoạn này được phản ảnh khá trung thực qua bức điện văn tôi gửi cho ông Thiệu vào ngày 28 tháng 6 và bức thư tay của ông Thiệu gửi trả lời tôi vào ngày 5 tháng 7. Tôi điện rằng:
Kể từ ngày trở lại Hoa Thịnh Đốn, tôi đă liên lạc với rất nhiều dân biểu, Thượng Nghị Sĩ và giới báo chí của Hoa Kỳ. Theo tôi thấy th́ tuy chính quyền Nixon đă nỗ lực thuyết phục dư luận Hoa Kỳ trong sáu tháng vừa qua mà dân chúng Hoa Kỳ vẫn c̣n thiếu kiên nhẫn rất nhiều. Lúc này dư luận vẫn liên tục chỉ trích chánh phủ Việt Nam. Nếu tôi có thể tóm gọn vấn đề trong một câu phát biểu ngắn ngủi th́ vấn đề là: Đối với những người chống đối -Tuy những người chống đối vẫn chỉ là thiểu số- th́ vấn đề Việt Nam kể như đă chấm dứt. Nhưng chánh phủ Nixon và đa số những người khác vẫn cho rằng dân chúng Hoa Kỳ hăy c̣n ủng hộ Việt Nam. Sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ đang ở tầm mức nào? Đây là một vấn đề chẳng ai hiểu rơ. Tuy thế, nếu chúng ta có thể giữ được nguyên vẹn sự ủng hộ của Hoa Kỳ th́ việc giữ nằm trong tay chúng ta nhiều hơn là chính quyền Hoa Kỳ. [chữ nghiêng là của tác giả].

Sau cùng tôi xin yêu cầu Tổng Thống những điều sau đây:

1. Chỉ thị cho tôi biết rơ phải làm ǵ (tôi không thể tiếp tục bàn luận vấn đề khó khăn [của chính trị nội bộ Việt Nam] khi không có chỉ thị rơ rệt.

2. Nếu Tổng Thống đă có chủ trương [về việc hoà hợp cuộc Tổng Tuyển Cử cùng những kế hoạch đ̣i hỏi Bắc Việt rút quân trước khi đàm phán ở Ba Lê], th́ bất kể chủ trương đó là ǵ, Tổng Thống cũng phải t́m các tŕnh bày chủ trương đó với dư luận thế giới. Vấn đề cần phải tŕnh bày rơ ràng chủ trương của Việt Nam với báo chí quốc tế là một vấn đề hết sức quan trọng. Cách Việt Nam tŕnh bày vấn đề cũng quan trọng chẳng kém ǵ những chủ trương mà Việt Nam đưa ra.
Ông Thiệu trả lời tôi bằng một bức thư viết tay:

Thân gửi Anh Diễm:

Xin anh bỏ qua vấn đề Tổng Tuyển Cử vào lúc này và chỉ thảo luận vấn đề Việt Nam Hóa Chiến Tranh mà thôi. Khi có dịp, tôi sẽ thông báo cho anh rơ vấn đề Tổng Tuyển Cử. ....Xin anh cố gắng đừng để ông Rogers qua mặt tôi. Ông ta phải nể mặt tôi về vấn đề Tổng Tuyển Cử.

Trong suốt khoảng thời gian của tháng 8 và tháng 9 năm 1969 ngày tháng trôi qua thật là chậm chạp. Lúc đó, tôi vẫn chưa hề mảy may hay biết việc ông Kissinger và đại diện Xuân Thủy của Bắc Việt đă bí mật gặp nhau. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai bên diễn ra vào ngày 4 tháng 8 ở Ba Lê tại tư thất của ông Jean Sainteny. Tuy thế đây chỉ là một cuộc gặp gỡ sơ khởi. Cả hai bên đều chẳng làm ǵ khác hơn là lập lại những đ̣i hỏi đă đưa ra khi trước. Vào ngày 7 tháng 9, thượng nghị sĩ Everett Dirksen từ trần trong lúc đương nhiệm. Tuy ông Dirksen có lâm bệnh trước lúc qua đời, việc ông từ trần quả là một biến động đột ngột. Tôi mất đi một người bạn thân ở thượng viện, một nơi mà càng ngày việc t́m bạn càng khó. Hai ngày sau lại có tin ông Hồ từ trần do Hà Nội loan báo. Ông Hồ qua đời vào lúc 79 tuổi sau một cơn bệnh dai dẳng. Cũng như những quan sát viên khác, tôi đă suy nghĩ về những người có thể thay thế ông Hồ và những ảnh hưởng vào chiến cuộc sau khi ông Hồ mất. Tuy thế, cuối cùng tôi nhận thấy việc ông Hồ qua đời hoàn toàn không có ǵ ảnh hưởng đến đường lối của Bắc Việt cả.

Trong suốt tháng 8 và tháng 9, tôi dành th́ giờ đến tiếp xúc với những Cộng Đồng Việt Nam ở rải rác khắp nơi trong Hoa Kỳ, tiếp đón những phái đoàn "đi t́m sự thật" của Việt Nam. Tôi cũng thu xếp để có thể đến nói chuyện ở các trường đại học Hoa Kỳ. Khi đến nói chuyện ở các trường đại học Hoa Kỳ, tôi lại có dịp quan sát những hoạt động phản chiến trong giới sinh viên đang sắp sửa bùng lên và lúc đó thời gian lại trùng đúng vào lúc năm học mới bắt đầu khai giảng trở lại. Một trong những chuyện khá đặc biệt trong khoảng thời gian này là việc Tổng Thống Nixon chẳng hiểu sao lại mời gia đ́nh tôi đến nghe giảng lễ ở Toà Bạch Ốc. Người giảng lễ hôm đó là linh mục Billy Graham. Khi nhận được lời mời, cả tôi lẫn nhà tôi đều hết sức ngạc nhiên. Hẳn nhiên lời mời không có ư nghĩa ǵ khác hơn là một cử chỉ thân thiện đối với gia đ́nh chúng tôi, nhưng tôi vẫn chẳng hiểu tại sao một người chịu ảnh hưởng Khổng, Lăo như tôi và một Phật tử sùng đạo như nhà tôi lại được vinh dự mời đi nghe giảng lễ ở Ṭa Bạch Ốc như vậy. Riêng hai con gái của chúng tôi th́ lại nh́n vấn đề một cách khác hẳn. Đi nghe giảng lễ ở Ṭa Bạch Ốc đối với những đứa con tôi có nghĩa là mang những bộ áo dài, mặc những bộ quần lụa rất ít khi có dịp dùng đến. Đó là chưa kể đến những xoay sở khó khăn v́ phải mang những đôi guốc cao gót rất dễ ngă khi đi đứng.

Tuy thế, chúng tôi vẫn cố gạt bỏ ngạc nhiên và đến Ṭa Bạch Ốc vào giờ đă định. Cả bốn chúng tôi cùng ngồi nghe giảng với khoảng hơn bốn mươi người khác bao gồm cả gia đ́nh Tổng Thống Nixon, gia đ́nh Bộ Trưởng Tư Pháp Michell và các bạn bè khác của ông Nixon. Buổi giảng lễ thật là ngắn ngủi. Linh mục Graham thuyết giảng khoảng 15 phút về một đề tài ǵ đó mà tôi chẳng c̣n nhớ nữa. Riêng tôi đă dành gần hết thời giờ để quan sát những việc xung quanh, lúc th́ liếc mắt nh́n con gái đang lục đục trên ghế, khi th́ quan sát những người nghe lễ xung quanh để cúi đầu cho phải phép. Giữa bầu không khí lặng lẽ của chính trường vào thời gian đó, đây quả là một trong những chuyện đặc biệt đối với gia đ́nh chúng tôi.

Nhưng những khoảng thời gian b́nh lặng như vậy chẳng mấy chốc đă thoáng vút qua. Vào khoảng tháng 10, t́nh h́nh chính trị ở Hoa Thịnh Đốn lại bắt đầu sôi động. Những tổ chức phản chiến lại thành lập một Ủy Ban tổ chức để phối hợp những cuộc biểu t́nh cho tất cả các tổ chức phản chiến tham gia. Ủy Ban tổ chức phản chiến này đă soạn thảo kế hoạch cho một cuộc biểu t́nh lớn gọi là Moratorium dự định vào ngày 15 tháng 10. Quốc Hội cũng đă họp trở lại sau thời gian nghỉ nhóm mùa hè và sẵn sàng muốn thúc đẩy chánh phủ phải rút ra khỏi Việt Nam. Vào ngày 5 tháng 10, năm 1969 tôi điện cho ông Thiệu:

Thành phần phản chiến ở quốc hội và các đại học càng ngày càng gia tăng. Rơ ràng là những đoàn thể phản chiến lại hoạt động trở lại. Chẳng bao lâu nữa Quốc Hội Hoa Kỳ lại có hội thảo về những vấn đề sau:

1. Một kế hoạch bắt buộc Hoa Kỳ phải rút quân vào năm 1970 (đây là kế hoạch của Thượng Nghị Sĩ Goodell). Tuy kế hoạch này khó thể được quốc hội thông qua, Ủy Ban Liên Hệ Ngoại Giao lại có dịp để bàn bạc vấn đề.

2. Cuộc biểu t́nh chống chiến tranh lớn mà giới phản chiến gọi là "cuộc biểu t́nh Moratorium" của sinh viên.

3. Duyệt lại Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt.

4. Thảo luận những dự định của ông Mansfield về việc rút quân, ngưng bắn, và gây áp lực để bắt chánh phủ Việt Nam tổ chức một cuộc Tổng Tuyển Cử cho phép cả các thành phần của Mặt Trận Giải Phóng tham gia.

Chúng ta phải sẵn sàng đối phó với rất nhiều chỉ trích, nhất là vào khoảng thời gian giữa trung tuần tháng 10 và trung tuần tháng 11. Khoảng thời gian đó đă được những đoàn thể chống đối chọn làm giai đoạn chính của cuộc biểu t́nh. Họ gọi giai đoạn này là "Giai Đoạn Moratorium." Một "Ủy Ban Tổ Chức mới" gồm nhiều người trong các giới sinh viên, tu sĩ, thanh niên, Phụ nữ Tranh Đấu cho Hoà B́nh, Giới Kinh Doanh Tranh Đấu cho Hoà B́nh, Vấn đề của tu sĩ cùng người ngoại đạo, Ủy Ban Luật Sư chống chiến tranh, và rất nhiều các hội chống đối khác. Mọi hoạt động chống chiến tranh đều được "Ủy Ban Tổ Chức phản chiến" điều động. Những nhân viên nằm trong các Ủy Ban phản chiến phần nhiều là những sinh viên làm việc cho Thượng Nghị Sĩ McCarthy. Họ đă chọn ngày 15 làm ngày mà tất cả học sinh trên toàn quốc đều nghỉ học để chống chiến tranh.... Vào ngày 15 tháng 10 họ tổ chức một cuộc diễn hành. Họ gọi cuộc diễn hành đó là "A March against Death."

Những cuộc biểu t́nh dữ dội trong tháng 10 năm 1969 đă thu hút hết tâm trí tôi. Tôi nghĩ rằng có lẽ đa số những người trong số hàng trăm ngàn người biểu t́nh gần như đều chẳng biết rơ những mục tiêu họ chống đối. Nhưng phải làm thế nào mới có thể khiến họ thấy rằng kiến thức của họ thật là phiếm diện và thỏa măn những điều họ đ̣i hỏi có nghĩa là buộc Việt Nam phải đầu hàng trước một chế độ độc tài tàn nhẫn?

Thật ra th́ h́nh như tất cả các cuộc biểu t́nh chống đối nói riêng, hoặc hiện tượng chống đối nói chung, đều chỉ là những hành động phản ảnh những ẩn ức trong tiềm thức của những người biểu t́nh đối với xă hội của họ. Tôi đă chứng kiến hàng loạt các cuộc biểu t́nh của các sinh viên ở Pháp và Đức và đă tự hỏi: Phải chăng những sinh viên biểu t́nh đang cố mượn vấn đề chống đối chiến tranh Việt Nam để thể hiện những bất măn của họ đối với xă hội? Những sự bất măn của họ của họ rơ ràng là không phải là do chiến tranh Việt Nam. Vấn đề chống đối chiến tranh đối với họ chẳng qua chỉ là một thứ phương tiện thuận lợi cho phép họ có cơ hội phát biểu ngay những cảm tưởng bất măn của họ đối với xă hội Tây Phương lúc này mà thôi. Nếu không có chiến tranh Việt Nam th́ những cuộc biểu t́nh này có xảy ra hay không? Phải chăng chính xă hội Tây Phương đang trải những cuộc khủng hoảng riêng?

Suy tư này cứ măi dày ṿ tôi. Tôi đă biết rơ rằng Việt Nam đang tranh đấu cho lẽ phải và tôi chẳng hiểu tại sao lại có thể có nhiều người chống đối chiến tranh Việt Nam đến thế? Nhất là khi họ thật sự chẳng biết ǵ nhiều về cuộc chiến Việt Nam? Trong suốt khoảng thời gian tháng 10 và tháng 11 năm 1969, lúc nào tôi cũng bị vấn đề này ám ảnh. Tôi biết rằng đa số những người Việt Nam đều quan niệm rằng những người biểu t́nh chỉ là những người ngây thơ đang bị Cộng Sản hoặc các nhóm thiên tả ảnh hưởng. Nhưng riêng tôi lại thấy là vấn đề quả không đơn giản như vậy. Tôi có thể hiểu rằng chẳng ai muốn có chiến tranh. Chẳng ai muốn để thân nhân phải lăn ḿnh vào lửa đạn. Dĩ nhiên là đứng trên quan điểm của Việt Nam th́ họ sai, v́ cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến xứng đáng với sự hy sinh và tranh đấu của họ. Nhưng dù sao đi nữa th́ tôi vẫn hiểu được những điều lo lắng của một gia đ́nh Tây Phương có thân nhân gia nhập quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Điều mà tôi quả thật không thể hiểu được là nguyên do gây ra sự bất măn của những người Tây Phương. Lúc này, tôi đă bắt đầu thấy rơ rằng những cuộc biểu t́nh thật sự chỉ là những cuộc biểu t́nh của những người Hoa Kỳ đang bất măn với xă hội của họ chứ chẳng phải những cuộc biểu t́nh của những người đang chống đối chiến tranh. Những cuộc biểu t́nh phức tạp của xă hội Tây Phương lúc này đă gây ra một hậu quả thật là bi thảm: Tương lai Miền Nam Việt Nam đang bị những khủng hoảng của xă hội Hoa Kỳ xô đẩy mà chính chúng tôi lại hoàn toàn bất lực trước những khủng hoảng đó. Hơn nữa nguyên do của những sự khủng hoảng cũng chỉ liên hệ đến chúng tôi một phần mà thôi.

Trước đêm Biểu T́nh "March against Death" đă có một cuộc biểu t́nh ngay phía trước ṭa đại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn. Khung cảnh những người chống đối bao vây ṭa đại sứ thật chẳng khác nào một đoàn quân xung phong đang cố bao vây một tiền đồn. Có cả hàng trăm nhân viên cảnh sát đang tận lực ngăn cản những người biểu t́nh. Qua cửa sổ của ṭa đại sứ, tôi cùng những nhân viên ở ṭa đại sứ nh́n thấy lố nhố những mũ sắt, những xe cảnh sát và những ánh chớp đèn pin. Những người biểu t́nh vừa ḥ la, vừa ném đá và liệng chai lọ về phía ṭa đại sứ. Họ biểu t́nh măi cho đến thật khuya và rồi giải tán để sửa soạn cho cuộc chống đối ngày hôm sau.

Ông John Mitchell có nói với tôi rằng Tổng Thống Nixon không hề bị những cuộc biểu t́nh của các tổ chức phản chiến ảnh hưởng. Chính tôi cũng biết Tổng Thống Nixon không phải là người dễ bị lay chuyển. Tuy thế khi nh́n những cuộc biểu t́nh trước ṭa đại sứ tôi không tin sự thật sẽ hoàn toàn như vậy. Trong thâm tâm tôi nghĩ rằng chắc chắn áp lực phản chiến thế nào cũng gia tăng và đến một lúc nào đó những áp lực này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến những chính sách của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam. Tổng Thống Nixon chỉ có thể tŕ hoăn để kéo dài thêm thời gian. Nhưng rồi đây, trong giai đoạn cuối, Việt Nam sẽ phải nhận chịu những áp lực phản chiến của dân chúng Hoa Kỳ một ḿnh. Và lúc đó, Việt Nam chỉ c̣n biết trông chờ vào chính Việt Nam mà thôi.

31. Mất Tiên Cơ

Vào đầu tháng 10 năm 1969 th́ những cuộc biểu t́nh của giới phản chiến ở Hoa Kỳ bùng ra ở khắp mọi nơi. Các ủy ban tổ chức phản chiến ở Hoa Kỳ gọi giai đoạn này là giai đoạn Moratorium. Vào giữa khi những người tổ chức phản chiến đang kêu gọi biểu t́nh th́ Tổng Thống Nixon đă lên đài truyền h́nh để có thể trực tiếp thuyết phục dư luận Hoa Kỳ ủng hộ các chính sách của ông. Đây là một trong những buổi nói chuyện thành công của Tổng Thống Nixon. Trong buổi nói chuyện đó, ông tŕnh bày tỉ mỉ hai kế hoạch chính của ông là: Việt Nam Hóa Chiến Tranh và Đàm Phán. Sau khi tŕnh bày các kế hoạch, ông Nixon trực tiếp kêu gọi đại đa số những người Hoa Kỳ chưa có thái độ rơ rệt đối với vấn đề Việt Nam. Ông gọi họ là "đa số trầm lặng." và lên tiếng kêu gọi tất cả những người trong khối "đa số trầm lặng" đó ủng hộ ông.

Cuộc nói chuyện trực tiếp của Tổng Thống Nixon mang lại kết quả khả quan trông thấy. Ông đă thuyết phục được đa số dân chúng và rất nhiều các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ trong quốc hội Hoa Kỳ. Ông đă trấn an được dư luận ngay vào lúc dân chúng Hoa Kỳ đang bị hoang mang v́ các cuộc biểu t́nh. Ngay trong lúc Tổng Thống Nixon lên tiếng kêu gọi dân chúng th́ những tổ chức phản chiến vẫn tiếp tục hoạt động ở khắp nơi và khoảng hai tuần lễ sau đó th́ Ủy Ban tổ chức phản chiến đến Hoa Thịnh Đốn. Chính những toán tiên phuông của các tổ chức này đă biểu t́nh trước ṭa đại sứ Việt Nam đêm trước. Khi cuộc biểu t́nh đến Hoa Thịnh Đốn th́ số người tham gia lên đến 250,000. Những người biểu t́nh tràn ngập vào nhiều vùng trong thành phố, đập phá các cơ sở của chánh phủ và giương cao cờ Việt Cộng. Tuy thế, tin tức cho thấy rằng buổi nói chuyện của Tổng Thống Nixon lúc trước đă có ảnh hưởng. Con số thống kê cho thấy số người ủng hộ ông dâng cao và rồi vào tháng 12 th́ những phong trào phản chiến bỗng nhiên lắng xuống.

Mặc dầu đa số các cuộc chống đối ở Hoa Kỳ lúc đó đang một ngày một giảm mà chẳng hiểu sao lúc nào tôi cũng vẫn bị ám ảnh rằng đây chỉ là phong ba tạm ngừng mà thôi. Trong những tháng về sau, khi duyệt lại các tin tức ở Hoa Kỳ tôi đă viết cho ông Thiệu như sau: "Chánh phủ Hoa Kỳ có thể trấn an dư luận nhưng chánh phủ Hoa Kỳ vẫn không thể nào đi ngược lại dư luận của dân chúng Hoa Kỳ. Chính v́ thế nên dư luận của dân chúng Hoa Kỳ vẫn là một yếu tố quan trọng hơn cả. Tạm thời chúng ta đang yên ổn... nhưng điều này không có nghĩa là đă hết những khó khăn."

Trong một bản tường tŕnh dài gửi về Sài G̣n vào ngày 12 tháng 3 năm 1969, tôi có nói với ông Thiệu rằng cả những người ủng hộ chiến cuộc Việt Nam lẫn những đoàn thể phản chiến ở Hoa Thịnh Đốn đều đang đưa ra những câu hỏi chính trị hóc búa. Chẳng hạn như: "Liệu chính phủ Việt Nam có đứng vững hay không? Phải chăng sự chia rẽ và phân hóa của các nhóm chính trị ở Việt Nam đă khiến chánh phủ Việt Nam ngày càng bị cô lập? Nói tóm lại, th́ căn nguyên của mọi khó khăn là v́ chánh phủ Hoa Kỳ phải quyết định các chính sách Việt Nam sao cho những chính sách đó không bị dư luận Hoa Kỳ chỉ trích. Chính sự liên hệ phức tạp này đă khiến vấn đề ủng hộ Việt Nam trở thành khó khăn bội phần. Trong giai đoạn này th́ bất cứ lúc nào các tổ chức phản chiến cũng có thể biểu t́nh. Hơn nữa cuộc bầu cử Tổng Thống sơ khởi của Hoa Kỳ lại sắp sửa bắt đầu và giới phản chiến chắc chắn sẽ không bỏ qua cơ hội đó."

Tôi đă được mục kích Tổng Thống Nixon thuyết phục dân chúng. Tôi cũng đă được nghe chính ông Nixon tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chiến đấu cho đến khi Bắc Việt chịu chấp nhận một giải pháp đàm phán công bằng hoặc cho đến khi Việt Nam đă đủ sức để tự lực cánh sinh. Tuy thế, tôi vẫn quan niệm rằng Hoa Kỳ đang bắt đầu rút lui ra khỏi cuộc chiến Việt Nam. Tôi cho rằng năm 1970 chính là thời điểm đánh dấu một giai đoạn mới cho các kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, áp lực của dư luận và các tổ chức phản chiến ngày càng dâng cao. Rồi đây những áp lực đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của quốc hội.

Quan niệm thực tế của tôi được rút ra từ những nhận xét tôi nghe được của các bạn bè thân. Một trong những người trực tiếp cho tôi biết rơ ư kiến của Hoa Kỳ là tướng William Depuy, người đă từng là phụ tá cho tướng Westmoreland, tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Miền Nam Việt Nam. Khi tướng Depuy nói chuyện với tôi ở một căn cứ quân sự ở tiểu bang North Carolina, ông đă phát biểu như sau:
"Tôi không phải là tổng thống Nixon; tôi cũng không phải là đại diện của chánh phủ Hoa Kỳ, nhưng tôi tin rằng chánh sách của Hoa Kỳ là: V́ rất nhiều lư do -từ cả những lư do phức tạp của t́nh h́nh quốc tế lẫn những lư do khác bên trong nội bộ Hoa Kỳ- chánh phủ Hoa Kỳ đă kết luận rằng Hoa Kỳ phải giải quyết vấn đề Việt Nam trong ṿng 3, 4 hoặc 5 năm nữa. Trong ṿng 5 năm tới, Hoa Kỳ sẽ tận lực giúp Miền Nam Việt Nam bằng tất cả mọi nỗ lực. Ngày nào quân đội Hoa Kỳ c̣n đóng binh ở Việt Nam th́ ngày đó họ vẫn c̣n chiến đấu. Nhưng chánh phủ Việt Nam phải hiểu rằng Hoa Kỳ không thể làm ǵ hơn được nữa. Tôi không đặt hy vọng ǵ vào những cuộc đàm phán ở Ba Lê. Mà giả thử đàm phán ở Ba Lê có đạt được kết quả đáng kể đi chăng nữa th́ đó cũng là việc đáng mừng. Nói tóm lại th́ trong ṿng 5 năm tới, nếu Việt Nam có thể tự lực cánh sinh th́ đây quả là điều chúng tôi mong mỏi. Nhưng nếu sau 5 năm Việt Nam v́ lư do ǵ đó -hối lộ, chia rẽ, thiếu đoàn kết- mà không thể tự lực cánh sinh th́ Hoa Kỳ cũng chẳng thể làm ǵ khác hơn được."

Nh́n lại những bức điện văn và những bản tường tŕnh gửi về Sài G̣n lúc đó, tôi cho rằng tôi đă tận lực tŕnh bày để ông Thiệu có thể thấy được những biến cố Việt Nam qua lăng kính của một người đang chứng kiến những sự chia rẽ, chống đối và thay đổi lớn lao đang làm rung chuyển xă hội Hoa Kỳ. Tôi đă tường tŕnh tất cả mọi chi tiết và đă nhiều lần nhấn mạnh tầm mức quan trọng của cả dư luận Hoa Kỳ, lẫn những ảnh hưởng xấu của cuộc biểu t́nh. Tôi đă tường thuật gần như tỉ mỉ từng chữ những cuộc thảo luận ở Hoa Kỳ có liên quan đến vấn đề cải cách của chính phủ Việt Nam. Tôi cũng nói với ông Thiệu rằng: Lúc này, ở Hoa Kỳ, thái độ của những người bạn đă ủng hộ Việt Nam là là "tant mieux hoặc tant pis," nghĩa là nếu [giúp Việt Nam] được th́ càng tốt và nếu không th́ cũng đành vậy." Những người ủng hộ Việt Nam đă làm tất cả những điều họ có thể làm, giờ là lúc chánh quyền Việt Nam phải tự lực cánh sinh hoặc sụp đổ. Và nếu chúng ta có thể đứng vững được th́ đây quả là điều mọi người mong mỏi. Nếu chúng ta không thể đứng vững được th́ mọi người đều cho rằng họ cũng chẳng thể làm ǵ hơn. * * * * *




Vào ngày 17 tháng 3 năm 1969, những sự lo lắng của tôi bị chuyển hướng v́ một cuộc đảo chánh ở Cam Bốt đă lật đổ Hoàng Tử Norodom Sihanouk. Cuộc đảo chánh diễn ra khi ông Sihanouk đang nghỉ mát ở Pháp. Người cầm đầu cuộc đảo chánh là Bộ Trưởng Quốc Pḥng Lon Nol và phụ tá của ông ta là Sirik Matak. Chẳng hiểu nguyên do của cuộc đảo chánh ở Cam Bốt là ǵ mà t́nh thế hỗn loạn sau đảo chánh lại khiến những người Cam Bốt bắt đầu một chiến dịch khủng bố những người Việt cư ngụ ở Nam Vang và các khu vực miền đông Cam Bốt. Tuy từ trước tới nay, giữa Việt Nam và Cam Bốt vẫn có những xô xát về vấn đề khác biệt chủng tộc giữa hai quốc gia, nhưng chưa bao giờ mức độ xô xát lại khủng khiếp bằng lần này. Chúng tôi được những Việt Kiều ở Cam Bốt vượt thoát trở về kể lại thật chi tiết các vụ tàn sát ở đó. Khi tin tức về những cuộc tàn sát những người Việt kiều ở Cam Bốt đă rơ rệt, tôi đến gặp ông Green và ông Sullivan để yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp và t́m cách ngăn chận những vụ tàn sát đang xảy ra.

Tôi nói với ông Green rằng: Nếu Hoa Kỳ không chịu can thiệp th́ tới một lúc nào đó chính phủ Việt Nam sẽ bị buộc phải hành động để binh vực những người Việt ở Cam Bốt. Chẳng bao lâu sau, Hoa Kỳ đă đứng ra ḥa giải. Lon Nol và Sirik Matak cùng hứa rằng họ sẽ cố hết sức ổn định t́nh h́nh. Theo ông Green th́ cả hai ông Lon Nol và Matak đều là những người đáng tin cậy. Tuy thế, những khu vực phía đông Cam Bốt lại là một nơi gần 40,000 quân Bắc Việt đang chiếm đóng và cả hai ông Lon Nol lẫn Matak đều không thể làm chủ được t́nh h́nh ở những nơi đó.

Ngoài vấn đề khủng bố, cuộc đảo chánh ở Cam Bốt c̣n phá vỡ cả thế quân bằng của các lực lượng quân sự đang hiện diện ở Cam Bốt. Trước đây, nhờ tài lănh đạo khéo léo của ông Sihanouk, tất cả những lực lượng hiện diện ở Cam Bốt đều đứng trong một thế quân bằng. Trong thế quân bằng đó, Cam Bốt là một nước chánh thức trung lập và hoàn toàn đứng ngoài những sự tranh chấp của cuộc chiến tranh Việt Nam. Nguyên từ trước tới nay, quân đội Cam Bốt vẫn là những lực lượng yếu và không thể đối phó được với những lực lượng của Cộng Sản Bắc Việt bằng vũ lực. V́ thế, khi những lực lượng Bắc Việt đem quân vào chiếm đóng ở những khu vực Miền Đông Cam Bốt th́ ông Sihanouk đă nhẫn nhịn làm lơ. Tuy thế, ông đă khôn khéo biểu lộ sự bất măn của ḿnh bằng cách cho phép Hoa Kỳ tự do dội B-52 vào những khu vực Bắc Việt chiếm đóng.

Vào cuối tháng 3 năm 1969, khi hoàng tử Sihanouk bị đảo chánh th́ có lẽ v́ không hiểu rơ được thực lực của Bắc Việt và cũng không thấy rơ được những ưu điểm trong tư thế trung lập của Cam Bốt nên Lon Nol đă cho lệnh quân đội hoàng gia Cam Bốt tấn công thẳng vào những căn cứ của Bắc Việt. Chỉ một thời gian ngắn sau khi Lon Nol ra lệnh cho các lực lượng Cam Bốt tấn công vào căn cứ địa của Bắc Việt ở miền Đông Cam Bốt th́ quân đội Miền Nam Việt Nam cũng bắt đầu tấn công vào các căn cứ của Bắc Việt dọc theo Cam Bốt. Quân đội Bắc Việt phản ứng bằng cách rút lui sâu vào những căn cứ ở phía Đông Bắc Cam Bốt. Rồi từ đó, thay v́ trực tiếp chống trả với những cuộc tấn công của quân đội Miền Nam Việt Nam, những đơn vị Bắc Việt lại chuyển mũi dùi sang phía Tây và tấn công mănh liệt vào những đội quân của Lon Nol. Chẳng những thế, Bắc Việt c̣n gia tăng huấn luyện những nhóm Khmer đỏ, nguyên là những toán du kích của Cam Bốt đang chống lại chánh quyền Cam Bốt lúc đó. Những toán du kích Cam Bốt này tuy nhỏ nhưng vô cùng hung hăn. Khi Bắc Việt tận lực né tránh các cuộc tấn công của quân lực VNCH và chuyển hướng tấn công sang mé Tây th́ quân đội Cam Bốt lập tức phải chịu những áp lực quân sự nặng nề. Tuy quân đội Bắc Việt vẫn chưa đe dọa được Nam Vang nhưng những cuộc tấn công của phe Bắc Việt càng ngày càng lan rộng. Cứ theo đà tấn công ráo riết của Bắc Việt lúc đó th́ rơ ràng là chánh phủ Cam Bốt đang cần viện trợ. Tuy thế ở Hoa Kỳ lúc này, hơn bao giờ hết, lại không phải là lúc để có thể dễ dàng xin viện trợ.

Sau nhiều tuần lễ Bắc Việt tấn công, t́nh trạng Cam Bốt càng ngày càng khó khăn. Cuối cùng, khi Bắc Việt phối hợp quân đội để tấn công th́ Cam Bốt chỉ c̣n biết trông đợi viện trợ vào sự viện trợ của Hoa Kỳ. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1969, Tổng Thống Nixon ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ phối hợp với quân đội Miền Nam Việt Nam tấn công thẳng vào căn cứ và các đường tiếp vận của Bắc Việt. Khi ra lệnh tấn công, Tổng Thống Nixon nói rơ rằng quân Bắc Việt đang tập trung vào các căn cứ ở Cam Bốt. Nếu cứ để mặc cho Cộng Sản rảnh tay th́ những nơi Bắc Việt đóng quân có thể trở thành "một cứ điểm ngày càng lớn rộng. Hơn nữa, Bắc Việt có thể dùng cứ điểm này làm đường tiếp vận để tấn công Miền Nam Việt Nam." Ông đề cập những hậu quả tai hại đối với quân đội Hoa Kỳ nếu Bắc Việt đánh bại quân đội Cam Bốt. Mới chỉ 10 ngày trước, ông đă nói rằng trong năm 1970 Hoa Kỳ sẽ rút 150,000 quân ra khỏi Việt Nam mà lúc này Tổng thống Nixon lại đi ngược lại lời tuyên bố mà ông đă đưa ra với dư luận. Tổng Thống Nixon nói rằng Hoa Kỳ phải hành động để "bảo vệ quân lính Hoa Kỳ đang đóng ở Việt Nam và giữ vững kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh." Hoa Kỳ chẳng thể nào khoanh tay trước "mũi dùi của cộng sản Bắc Việt".

Đă đành rằng khi Tổng Thống Nixon trực tiếp tŕnh bày ư kiến với dân chúng Hoa Kỳ th́ mục đích chính của cuộc nói chuyện là để thuyết phục dư luận, nhưng những nhận định mà ông đưa ra trong cuộc nói chuyện đó cũng rất chính xác. Viễn tượng cộng sản sẽ chiếm đóng suốt sáu trăm dặm dọc Cam Bốt và rồi từ đó tấn công thẳng vào Miền Nam Việt Nam đă khiến ngay cả những người lạc quan nhất cũng phải e ngại. Ngoài cách tấn công, Hoa Kỳ không c̣n cách nào khác để tránh biến trường hợp đó trở thành sự thật. Nếu Hoa Kỳ có thể tấn công một cách hữu hiệu vào những căn cứ của Bắc Việt ở Cam Bốt th́ khả năng tấn công của Việt Cộng sẽ bị tê liệt trong một thời gian dài. Đây là một sự thật hiển nhiên khó có thể chối căi được.

Nhiều kế hoạch gia của cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đă cho rằng đáng nhẽ Hoa Kỳ nên chọn cách này từ lâu rồi. Họ cho là Hoa Kỳ nên áp dụng kế hoạch tấn công ngay từ khi Việt Cộng chuyển quân chiếm đóng các khu vực chiến lược của Cam Bốt. Từ trước đến nay, cộng sản vẫn cố lợi dụng các căn cứ địa và các đường tiếp vận "bất khả xâm phạm" để chiếm lấy tiên cơ của quân đội Việt Nam. Nếu đứng trên phương diện quân sự mà luận th́ những cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Cam Bốt quả là những thắng lợi đáng kể, nhưng có lẽ v́ tôi đă bị những khung cảnh chia rẽ nội bộ của Hoa Kỳ ám ảnh quá nặng nên sau khi nghe Tổng Thống Nixon tŕnh bày ư kiến với dư luận, tôi không hề cảm thấy phấn khởi v́ những lợi điểm của lời tuyên bố đó đối với cuộc chiến Việt Nam mà lại cảm thấy lo lắng v́ những hậu quả của lời tuyên bố đó đối với các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ.

Cuộc tấn công phối hợp Mỹ, Việt bắt đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1969. Ngày 2 tháng 5 tôi gửi điện văn cho ông Thiệu để đệ tŕnh những nhận xét đầu tiên của tôi vào lúc đó:
Thứ nhất. Quyết định của tổng thống Nixon [về việc ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ phối hợp với quân đội Việt Nam để tấn công ở Lào] đă khiến những nhóm phản chiến chống đối cực kỳ mănh liệt. Lúc này hăy c̣n quá sớm nên chưa ai có thể biết được rồi đây những chống đối của những nhóm phản chiến sẽ ảnh hưởng tổng thống Nixon được đến mức nào. Trong khi đó th́ sinh viên lại bắt đầu biểu t́nh trở lại. Có lẽ trong tuần tới th́ mức độ chống đối c̣n gia tăng nhiều hơn.
Thứ hai. Trong khi phản ứng của dân chúng Hoa Kỳ đối với quyết định của Tổng Thống Nixon vẫn chưa hoàn toàn rơ rệt th́ hai tờ báo thiên tả lớn đă lên tiếng kết án hành động của tổng thống Nixon. Tờ New York Times gọi những lư do mà Tổng Thống Nixon đưa ra để kết luận Hoa Kỳ phải tấn công là những "ảo tưởng chính trị" chứ không phải là những lư do thực tế. Tờ Washington Post lên án rằng quyết định của Tổng Thống Johnson là một quyết định "sai lầm, và thiếu suy xét"
Thứ ba. Tất cả những người đang theo dơi t́nh h́nh chính trị ở Hoa Kỳ đều cho rằng quyết định của ông Nixon là một sự liều lĩnh khác thường trên phương diện chính trị và quân sự... Nếu nh́n dư luận của Hoa Kỳ lúc này qua quan niệm của một người đứng trong nội bộ Hoa Kỳ th́ hiển nhiên là quyết định của tổng thống Nixon sẽ gây ra rất nhiều điều bất lợi v́ rằng quyết định của ông chẳng những đă khiến những người trong đảng Cộng Ḥa chia rẽ mà c̣n khơi lại những cuộc tranh luận sôi nổi đang trôi dần vào im lặng.

Sau khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ tấn công th́ ở Hoa Kỳ những "cuộc tranh luận sôi nổi" lại bùng ra khắp nơi trên đường phố, trong các khuôn viên đại học, trên báo chí cũng như trong quốc hội. Tin tức về diễn hành chống đối, biểu t́nh và tố cáo đầy nghẹt xen lẫn với những bài tường tŕnh t́nh h́nh chiến sự. T́nh trạng mâu thuẫn của những mục đả kích đă làm xôn xao dư luận Hoa Kỳ và khiến cho t́nh trạng chống đối càng ngày càng dữ dội. Ở Ohio, chánh phủ đă phái Vệ Quốc binh đến giữ trật tự trực diện với những người chống đối. Tại đại học Kent State, Vệ Quốc binh đă nổ súng vào một đám sinh viên. Bốn thanh niên bị thiệt mạng. Ngay ngày hôm sau, khắp toàn quốc đều sôi sục. Tôi điện cho ông Thiệu rằng: "Bầu không khí ở Hoa Thịnh Đốn đang nặng nề v́ những cuộc tranh luận sôi nổi bên trong quốc hội, v́ những dự định của các nhóm biểu t́nh, dự định của các nhóm sinh viên và dự định của các đoàn thể phản chiến. Tin tức loan báo suốt ngày về chiến tranh ở Cam Bốt và những cuộc biểu t́nh đang xảy ra ở Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ có lẽ khó ai có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào bầu không khí sôi sục của dư luận lúc này."

Vào thứ bảy ngày 9 tháng 5 năm 1969, 100,000 người chống đối tụ tập tại một công viên phía sau ṭa Bạch Ốc; Cảnh sát dùng xe buưt để dàn thành một hàng rào nhằm ngăn chận những người biểu t́nh. Cảnh tượng trông chẳng khác nào chính tổng thống Nixon đang bị bao vây. Những nhân viên được tôi phái đi xem xét t́nh h́nh vô cùng ngạc nhiên khi thấy số người tham gia vào các cuộc biểu t́nh và sự phẫn nộ của những nhóm phản chiến khi họ biểu t́nh.

Đúng ngay vào lúc dư luận Hoa Kỳ đang xôn xao v́ các cuộc biểu t́nh th́ ông Ellsworth Bunker trở lại Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ư kiến. Nhân dịp này ông Bunker, ông Sullivan và ông Phillip Habib cũng kể cho tôi nghe những trận giao tranh của quân đội Việt Nam và Hoa Kỳ ở Cam Bốt. Họ nói rơ thời gian tấn công mà họ tiên liệu và những mục đích quân sự của Hoa Kỳ. Tuy những tin tức này có vẻ lạc quan, tôi vẫn chẳng thể nào quên được những cuộc biểu t́nh tôi thấy khi nh́n qua khung cửa sổ của ṭa đại sứ hoặc những cuộc biểu t́nh tôi theo dơi trên Ti Vi hàng đêm. Nh́n những cuộc biểu t́nh đang xảy ra ở khắp mọi nơi, tôi có cảm tưởng rằng tất cả những nỗ lực trấn an dư luận của Tổng thống Nixon như Tuyên Bố Rút Quân, Việt Nam Hóa Chiến Tranh, kêu gọi " Đa số trầm lặng" dường như đều vô hiệu. Có lẽ khi áp dụng kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh, chính quyền Nixon đă vô t́nh kích thích sự thiếu kiên nhẫn của dân chúng Hoa Kỳ. Lúc này chánh phủ Hoa Kỳ đang ra công t́m một giải pháp khác. Dĩ nhiên, khi Tổng Thống Nixon và ông Kissinger cho lệnh quân đội Hoa Kỳ tấn công, th́ trên phương diện quân sự họ đă chiếm được phần nào tiên cơ. Cuộc tấn công quả đă khiến Bắc Việt phải mất khoảng một năm để thiết lập lại căn cứ địa. Nhưng v́ họ đă quyết định quá gấp rút và đă quyết định bất kể những chỉ trích của dư luận nên họ đă phạm phải một lỗi lầm quan trọng. Từ sau quyết định tấn công của họ trở đi, họ không c̣n được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ. Trong các bản tường tŕnh hàng ngày gửi về Sài G̣n tôi đă tŕnh bày tất cả các diễn biến ở Hoa Kỳ thật chi tiết và khi t́nh trạng sôi sục ở Hoa Thịnh Đốn vừa mới giảm xuống đôi phần th́ tôi yêu cầu được về Sài G̣n để có thể đích thân tường tŕnh mọi việc.

Tôi đến Sài G̣n vào ngày 1 tháng 7. Vừa về đến nơi tôi đă tổ chức ngay những buổi tường tŕnh cho các ủy ban lập pháp, hành pháp và đến họp riêng với ông Thiệu rất nhiều lần. Trong những buổi họp đó, tôi lại bắt đầu đề cập những đề tài mà tôi đă đưa ra với ông Thiệu không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi nhấn mạnh ảnh hưởng của các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ và cố nêu rơ những ảnh hưởng của dư luận Hoa Kỳ. Tôi nói rằng chánh phủ Việt Nam cần cải cách và đưa ra cả những đề nghị thiết thực trên phương diện này. Tuy trong các buổi tường tŕnh với chánh phủ Việt Nam và với ông Thiệu, tôi biết ḿnh đă nhiều lần lập lại vấn đề, nhưng tôi vẫn chẳng thể làm ǵ khác hơn. Và lần này, tôi lại nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng chánh quyền Việt Nam phải thấy rằng Việt Nam chưa thể đứng vững nếu không có sự viện trợ của Hoa Kỳ. Tôi nêu rơ vấn đề Hoa Kỳ có viện trợ cho Việt Nam hay không hoàn toàn tùy thuộc vào quốc hội Hoa Kỳ. Và đă hẳn là quốc hội Hoa Kỳ sẽ quyết định dựa vào ư kiến của dư luận Hoa Kỳ. Điều đáng lo là lúc này dư luận của Hoa Kỳ lại đang chỉ trích cuộc chiến Việt Nam. Tuy từ trước tới nay, tổng thống Nixon quả có thuyết phục được dư luận một phần, nhưng lần này ông đă bị dư luận chỉ trích dữ dội khi ông quyết định cho lệnh quân đội Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt ở Cam Bốt. Từ nay về sau, Tổng Thống Nixon sẽ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn mới có thể hy vọng lật ngược được thế cờ. V́ chính phủ Nixon đang gặp khó khăn như vậy nên tôi cho rằng Việt Nam cần phải cải cách chánh quyền, bài trừ nạn tham nhũng và thiếu khả năng trong chánh phủ để gây ấn tượng tốt với dư luận Hoa Kỳ. Tôi cho rằng Việt Nam cần thay đổi chẳng những chỉ xoa dịu bớt những chỉ trích của dư luận Hoa Kỳ mà c̣n để cải tiến chánh phủ. Những nạn hối lộ và chính trị bè cánh đă khiến cả chánh phủ lẫn quân đội của Việt Nam trở nên suy yếu. Nếu chánh phủ Việt Nam không t́m cách đưa những người có khả năng vào làm việc th́ chẳng bao lâu nữa toàn thể guồng máy chính quyền sẽ lụn bại.

Trong những năm về trước, tôi đă nhiều lần thảo luận vấn đề Việt Nam cần phải xây dựng lại chánh phủ Việt Nam với đại sứ Bunker. V́ chúng tôi đă cùng thảo luận vấn đề này không biết bao nhiêu lần rồi nên quan niệm của cả hai chúng tôi gần giống hệt nhau. Đại sứ Bunker thường bảo tôi phải nói rơ vấn đề cần phải xây dựng lại chính phủ với ông Thiệu. Lần này, khi tôi đến gặp ông th́ ông Bunker cũng nói rằng tôi nên t́m cách trực tiếp đặt vấn đề với ông Thiệu. Ông Bunker bảo tôi rằng: "Anh phải nói rơ cho ông Thiệu biết rằng ông ấy cần phải có những biện pháp để cải thiện t́nh h́nh trong nước và để gây ấn tượng tốt với dư luận Hoa Thịnh Đốn. Đây là điều kiện tiên quyết phải có để viện trợ có thể được tiếp tục." Dĩ nhiên là tôi đồng ư với những ư kiến của đại sứ Bunker. Tôi chỉ không đồng quan điểm với ông Bunker về cách phải tŕnh bày thế nào để cho một người đa nghi và ngoan cố như ông Thiệu thật sự hiểu rơ được tầm mức quan trọng của vấn đề?

Trước đây, khi dư luận Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích sự tham nhũng của chánh phủ Việt Nam, ông Bunker đă cho lệnh các nhân viên của ông ngấm ngầm điều tra những nhân viên của chánh phủ Việt Nam ở các quận. Qua những cuộc điều tra đó, ông đă thu thập được rất nhiều bằng cớ cụ thể về vấn đề tham nhũng của đa số các nhân viên Việt Nam. Ông lên án rằng tệ nạn tham nhũng đang đầy dẫy trong chính quyền ông Thiệu. Và vào lúc này, khi chúng tôi đang cùng nhau t́m cách để giải quyết vấn đề th́ ông Bunker đă cho tôi xem hồ sơ của những nhân viên hối lộ. Đại sứ Bunker nói rằng chính ông đă nói chuyện với ông Thiệu về tệ nạn tham nhũng. Và giờ đây ông muốn chính tôi phải đưa những hồ sơ điều tra của ông cho ông Thiệu.

Đây là một trong những lần tôi thực sự nổi nóng với đại sứ Bunker. Tôi bảo ông rằng: "Ông Ellsworth à, tôi sẽ nói chuyện với ông Thiệu và trong các cuộc họp riêng với ông Thiệu trước đây tôi cũng đă nhiều lần đề cập vấn đề này. Nhưng nếu cần phải làm áp lực với ông Thiệu th́ chính ông mới là nhân vật chính. V́ ông là đại sứ của Hoa Kỳ nên chỉ có ông mới có thể trực tiếp ảnh hưởng ông Thiệu." Đại sứ Bunker vốn là người tế nhị. Lúc nào ông cũng tŕnh bày vấn đề thật là nhẹ nhàng, kín đáo. Tôi có thể đoán trước được những phản ứng của ông khi ông đến gặp ông Thiệu. Cá tính tế nhị bẩm sinh của đại sứ Bunker đă khiến ông khó thể trực tiếp đề cập thẳng đến vấn đề chính một cách rơ ràng. Ngay cả khi ông bàn luận về vấn đề cải cách với ông Thiệu mà ông Bunker cũng vẫn cả nể và không nói hết những suy nghĩ của ḿnh.

Phương pháp đặt vấn đề nhẹ nhàng của ông Bunker đối với ông Thiệu đă hơn một lần làm tôi khó nghĩ. Hơn ai hết, tôi biết rơ sự quan hệ gần gũi giữa ông Thiệu và ông Bunker. Tôi biết rằng trong tất cả các đại sứ Hoa Kỳ mà ông Thiệu đă từng giao thiệp th́ ông Thiệu có thiện cảm với ông Bunker nhiều nhất. Trước đây, trong suốt thời gian ông Lodge làm đại sứ ở Việt Nam, ông Thiệu lúc nào cũng nghi ngờ ông Lodge và sau này, khi đại sứ Bunker về nước th́ ông Thiệu lại chưa bao giờ có dịp tiếp xúc nhiều để biết rơ đại sứ Martin. Nhưng đối với ông Bunker th́ sự liên hệ của ông Bunker đối với ông Thiệu lại khác hẳn. Trước đây, trong thời gian ông Thiệu vừa mới nhậm chức, ông Bunker đă tận t́nh giúp đỡ ông. Lúc đó, ông Thiệu vẫn chưa được nhiều người ủng hộ. Sự ủng hộ của ông Bunker đă làm gia tăng uy tín của ông Thiệu trong chánh phủ. Chính v́ thế nên ông Thiệu rất biết ơn ông Bunker. Ông Bunker đă được ông Thiệu tin tưởng lại c̣n được quyền tự do ra vào dinh độc lập. V́ vậy tôi cho rằng ông Bunker có thể thuyết phục được ông Thiệu về vấn đề cần phải có cải cách. Tuy thế, cách can thiệp của ông Bunker lại quá lịch sự, quá nhẹ nhàng và v́ thế lại không ảnh hưởng ǵ được ông Thiệu cả. Ít ra th́ đây cũng là quan niệm riêng của tôi.

Riêng ông Thiệu th́ dĩ nhiên chẳng bao giờ từ chối điều ǵ. Lúc nào ông Thiệu cũng đồng ư, thỏa thuận và hứa hẹn rồi sau đó đợi chờ xem mọi sự đưa đẩy đến đâu. Nếu cảm thấy Hoa Kỳ không làm áp lực mạnh mẽ, ông Thiệu sẽ dần dà bỏ mặc để cho vấn đề theo thời gian mà biến đi hoặc mất tính chất khẩn thiết v́ nhiều vấn đề khác dồn đến khuất lấp mọi việc. Tính chần chừ bẩm sinh của ông Thiệu quả là một ngón đ̣n hữu hiệu đối với phương pháp nhẹ nhàng cả nể của đại sứ Bunker. Đă có lần tôi nghĩ đến lời của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Clark Clifford nói với tôi sau Tết Mậu Thân, lúc tôi đến chào ông để trở về Sài G̣n. Ông Clifford đă nói dằn từng chữ một: "Chúng tôi chán đến tận cổ rồi... Nhân dân Hoa Kỳ đă quá mệt mỏi và sự ủng hộ của chúng tôi chỉ có giới hạn mà thôi!" Đây là một câu nói thẳng không cần dùng những danh từ ngoại giao hoa mỹ. Lần đó, câu nói của ông Clifford đă khiến tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Tuy thế đây quả là một phương pháp hữu hiệu. Đă hơn một lần tôi mong mỏi đại sứ Bunker dùng phương pháp này với ông Thiệu.

Nhưng thực sự th́ những vấn đề khó khăn không phải chỉ do cách làm việc của ông Bunker. Tuy lúc nào ông cũng nhẹ nhàng, đại sứ Bunker vẫn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp lăo thành có thừa khả năng để tŕnh bày những chính sách của chánh phủ Hoa Kỳ. Vấn đề khó khăn thực sự là do từ trước đến nay các chánh sách của Hoa Kỳ chưa hề đặt nặng vấn đề phải bài trừ tham nhũng và xây dựng một chánh phủ dân chủ ở Việt Nam. Điều này đă rơ rệt kể từ trước cả khi ông Kissinger nắm quyền. Kể từ khi Hoa Kỳ can thiệp, các chính sách của Hoa Kỳ đă không chú trọng đến vấn đề phải cải thiện để xây dựng một chánh phủ dân chủ ở Việt Nam. V́ vậy những nỗ lực của Hoa Kỳ trong vấn đề này nếu có đi chăng nữa th́ cũng chỉ là những nỗ lực của từng cá nhân. V́ thế, khi thấy rằng chính phủ Việt Nam cần phải cải tổ, đại sứ Bunker đă xoay sở bằng những phương pháp cá nhân. Ông đă cố đối phó với vấn đề cải thiện chính phủ Việt Nam một ḿnh chẳng khác ǵ đại sứ Lodge lúc trước hay đại sứ Graham Martin vào lúc sau này.

Thật ra, nếu nói rằng Hoa Kỳ hoàn toàn bỏ qua vấn đề cải tổ th́ cũng không đúng hẳn. Cả hai ông Rogers cùng Sullivan đều có để ư và thỉnh thoảng cũng có nêu lên vấn đề. Ông Kissinger cũng thế. Nhưng vấn đề chính lúc nào cũng nhằm vào những đề tài khác hẳn nếu không phải là đàm phán th́ cũng là các sách lược quân sự hoặc ngoại giao với các đại cường quốc. Nói chung th́ thái độ của các chánh phủ Hoa Kỳ đối với vấn đề nội bộ của chánh phủ Việt Nam gần giống hệt nhau. V́ họ thấy rằng t́nh trạng Việt Nam đă tạm ổn định hơn khi ông Thiệu lên nắm quyền nên khi cần phải ḍ dẫm hoặc làm áp lực mạnh với Việt Nam Hoa Kỳ lại đâm ra do dự. Thay v́ chú tâm vào những vấn đề chính của chánh phủ Việt Nam th́ họ lại chỉ chú trọng vào những sự an toàn hời hợt ngoài mặt. Có thể họ cho rằng vấn đề xây dựng dân chủ không cần thiết hoặc chẳng có mục đích ǵ thiết thực. Có lẽ v́ họ phải bận tâm đeo đuổi những mục tiêu khác to lớn hơn nên chánh phủ Hoa Kỳ, nhất là chính quyền Nixon, chưa hề biết rơ rằng sự ổn định ngoài mặt của Việt Nam chẳng qua chỉ là một bức màn giả dối che đậy toàn thể những ǵ mong manh gần đổ vỡ phía dưới. Như thế, tầng lớp lănh đạo cao nhất của Hoa Kỳ đă không nh́n rơ được thực trạng của đồng minh. Hơn nữa, khi đă t́m hiểu được rơ ràng về thực trạng của đồng minh th́ họ lại bỏ qua, không hành động kịp thời. Trong suốt thời gian Hoa Kỳ can thiệp, họ vẫn chỉ nghĩ rằng ảnh hưởng của những vấn đề như vấn đề cải thiện để xây dựng một chính phủ dân chủ ở Việt Nam chỉ là một vấn đề thứ yếu. Phải đợi đến giai đoạn thử thách của họ và của Việt Nam vào năm 1975 họ mới nhận định được đúng tầm mức nguy hiểm của các chính sách can thiệp của họ trong suốt hai thập niên.

Vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1969, sau khi tôi trở về Sài G̣n được ba ngày th́ Ngoại trưởng Rogers cùng đại sứ Sullivan cũng tới Sài G̣n để tiếp xúc với chính phủ Việt Nam. Đề tài chính của họ là đàm phán. Ông Rogers cho rằng đây là lúc Hoa Kỳ và Sài G̣n phải có sáng kiến và t́m cách mở lối cho Bắc Việt dễ dàng đàm phán. Lúc này, ông David K. E. Bruce được cử làm trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ ở Ba Lê để thay thế cho ông Lodge (Ông Lodge đă từ chức từ tháng 10 trước đây và cho đến ngày đó vẫn chưa được thay thế.) Ông Bruce là một nhà Ngoại giao lăo thành đứng tuổi và rất được kính trọng. V́ ông đă chấp nhận làm trưởng phái đoàn nên mọi người đều cho rằng có lẽ sẽ có nhiều điều mới lạ trong cuộc đàm phán.

Thật ra th́ làm ǵ có điều ǵ mới lạ. Vào thời gian này những cuộc đàm phán bí mật giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đă bắt đầu, tuy lúc đó tôi vẫn chưa biết ǵ cả. Trừ một vài người ra th́ tất cả đều mù tịt về những cuộc đàm phán bí mật, kể cả Ngoại trưởng Rogers. Trên thực tế th́ vào năm 1969 ông Kissinger đă nhiều lần gặp gỡ và ngấm ngầm đàm phán với các đại diện Bắc Việt. Trong những cuộc đàm phán bí mật đó, ông Kissinger hy vọng rằng ông sẽ tạo được những thành quả khác hơn những bế tắc của các cuộc đàm phán bốn bên đang diễn ra công khai ở Ba Lê. Nếu nh́n lại các kết quả đàm phán kể từ năm 1968, khi Bắc Việt hưởng ứng lời mời đàm phán của tổng thống Johnson cho tới tháng 7 năm 1969 th́ cả hai bên vẫn chưa đạt được bất kỳ kết quả nào. Ngay cả đến đàm phán bí mật cũng lại chẳng khác ǵ đàm phán công khai, vẫn hoàn toàn bế tắc. Vào mùa hạ năm 1970, khi Hoa Kỳ tấn công vào Cam Bốt th́ cuộc đàm phán lại bị đ́nh trệ v́ hai bên c̣n đang lượng định t́nh h́nh của các lực lượng quân sự sau cuộc tấn công. Đàm phán bí mật được dự trù tiếp tục vào tháng chín, vẫn bí mật với tất cả trừ những người trong cuộc. Dĩ nhiên ông Thiệu cũng biết việc đàm phán bí mật. Nhưng về sau ông thố lộ rằng ông không được thông báo tường tận chi tiết những trao đổi giữa Kissinger, Xuân Thủy và Lê Đức Thọ.

Riêng tôi th́ vẫn không mảy may hay biết ǵ về các cuộc đàm phán bí mật. Vào ngày 30 tháng 7, tôi rời Sài G̣n về Hoa Thịnh Đốn, trên đường bay tôi ghé Ba Lê để gặp ông Kỳ, lúc này ông Kỳ đang theo dơi cuộc đàm phán chính thức ở Ba Lê. Trong thời gian này, v́ không có việc ǵ quan trọng ở Sài G̣n nên ông Thiệu đă gửi ông Kỳ sang Ba Lê. Khi gửi ông Kỳ đi, có lẽ ông Thiệu cho rằng nếu ông Kỳ được rảnh tay th́ nên để ông Kỳ rảnh tay ở Ba Lê hơn là ở Việt Nam. Mặt khác, nếu có chuyện ǵ không hay xảy ra ở Ba Lê th́ ông Kỳ sẽ chịu lănh hoàn toàn trách nhiệm. Cách vận động của ông Thiệu lúc này khó thể gọi là trung thực nhưng v́ vô tâm nên ông Kỳ vẫn lên đường sang Ba Lê không chút đắn đo. Nhân dịp tôi ghé Ba Lê, trong một bữa ăn trưa với ông Philip Habib, tôi đă hỏi ông về t́nh trạng cuộc đàm phán. Có lẽ ông Habib cũng biết về những cuộc đàm phán bí mật, nhưng v́ chưa tiện tiết lộ nên ông cũng không nói ǵ hơn với tôi là chưa có ǵ mới lạ cả.

Vào tháng 9 năm 1969, v́ chẳng có biến cố nào đáng chú tâm trong các cuộc đàm phán ở Ba Lê và cũng chẳng có triệu chứng ǵ cho thấy sẽ có biến cố nào quan trọng sắp sửa xảy ra trong tương lai, ông Kỳ bắt đầu cảm thấy chán Ba Lê. Đằu tháng 9, ông Kỳ điện thoại nhờ tôi thu xếp cho ông sang thăm Hoa Kỳ vào đầu tháng 10. Ông nói rằng ông đă nhận được thư mời của tu sĩ Carl McIntire sang thăm Hoa Kỳ. Tu sĩ McIntire lúc này đang tổ chức một cuộc diễn hành gọi là "Diễn Hành Cho Chiến Thắng." Ông Kỳ có ư muốn nhận lời mời.

Tôi chưa hề nghe đến tên McIntire bao giờ nhưng khi t́m hiểu tôi thấy rằng tu sĩ McIntire là một nhân vật cực đoan, đang lănh đạo một tổ chức cực hữu. Gần như ngay sau đó, tôi bắt đầu được các nhân viên Hoa Kỳ cho ư kiến dồn dập. Trước hết là ư kiến của ông Kissinger, sau đó là lời khuyên của các ông Rogers, Sullivan và Green, cuối cùng là ư kiến của tất cả những người được nghe chuyện ông Kỳ. Tất cả đều cho rằng chuyện ông Kỳ sang Hoa Kỳ lúc này là chuyện không nên. Nếu ông Kỳ đến viếng thăm Hoa Kỳ dưới sự bảo trợ của tu sĩ McIntire th́ phe phản chiến sẽ chống đối cực kỳ mănh liệt. Mà cuộc viếng thăm của ông Kỳ cũng chẳng mang lại lợi ích ǵ thiết thực (Họ không nói thẳng điều này) cho cuộc bầu cử sắp tới của chánh phủ.

Tôi không hiểu tại sao ông Kỳ lại chấp thuận lời mời của tu sĩ McIntire. Chẳng những tôi đă biết chắc rằng ông Kỳ không hề biết ǵ về tu sĩ McIntire tôi c̣n biết rơ rằng Việt Nam không nên cộng tác với những đoàn thể cực hữu. Tôi viết cho ông Kỳ bằng những lời lẽ cẩn trọng nhưng thật cứng rắn, khuyên ông rằng đây "không phải là lúc" ông nên nhận lời.

Ông Kỳ trả lời bằng cách mời tôi đến Ba Lê để sửa soạn cho cuộc họp của ông với ông Kissinger và ông David Bruce vào cuối tháng 9. Tôi đến Ba Lê ḷng nhủ thầm rằng việc này diễn ra tuy chẳng hợp ư ông Kỳ nhưng việc tôi đến Ba Lê thật sự đáng mừng hơn việc ông Kỳ sang Hoa Thịnh Đốn rất nhiều. Vào cuối tháng 7, tôi và ông Kỳ đến họp với ông Kissinger, ông Bruce, ông Habib và một phụ tá đắc lực của ông Kissinger là ông Dick Smyser. Cuộc họp diễn ra tại tư thất của ông Kỳ gần Bois de Boulogne và chẳng có mục đích ǵ thiết thực. Trong suốt buổi họp chúng tôi chỉ bàn luận những vấn đề tổng quát chẳng hạn như phái đoàn Việt Nam và Hoa Kỳ phải có sáng kiến nhằm mục đích đẩy mạnh cuộc đàm phán. Lúc này, tôi lấy làm lạ không hiểu v́ sao tôi lại được triệu đến Ba Lê chỉ để họp bàn về những chuyện chung chung chẳng đâu vào đâu như vậy. Sau này, khi tôi khám phá ra rằng Kissinger đă bí mật hẹn với Xuân Thủy vào ngày hôm sau để bàn luận chi tiết những điều Hoa Kỳ đưa ra từ nhiều tháng trước th́ mọi sự trở nên sáng tỏ. Tôi và ông Kỳ chỉ là một phần của bức màn che đậy. Ngay cả khi đă nh́n lại vấn đề mà tôi vẫn c̣n kinh ngạc v́ thủ đoạn của ông Kissinger có thế khéo léo đến độ vừa vờ vĩnh nói chuyện không đâu với phó tổng thống Việt Nam lại vừa dùng cuộc nói chuyện này làm bức b́nh phong che đậy những cuộc đàm phán bí mật với Cộng Sản. Dĩ nhiên đây là kiệt tác độc đáo của một nhân vật đặc biệt, một thành tích diễn xuất mà người Pháp gọi là theatre de fantome. Tuy thế kế hoạch của ông Kissinger vẫn chưa được tính toán kỹ lưỡng tới mức toàn hảo. V́ rằng một khi đàm phán bí mật bị phơi bày trước dư luận th́ ông Kissinger đă làm mất hết sự tin tưởng của cả đồng nghiệp lẫn đồng minh.

Chỉ có một điểm lạc quan trong cuộc họp ngày 26 tháng 9 là sau buổi họp ông Kỳ đă bỏ ư định đến Hoa Kỳ để tham dự buổi Diễn Hành cho Chiến Thắng. Tuy thế, câu chuyện cũng chưa hẳn kết thúc ngay. Ngày 27-9, khi tôi về đến Hoa Thịnh Đốn th́ có điện thoại của ông Kỳ. Dĩ nhiên tự ái của ông Kỳ đă bị tổn thương phần nào. Chưa nói đến vấn đề ông không hề hay biết ǵ về việc đàm phán bí mật của ông Kissinger! Rồi vào ngày mùng 2 tháng 10, tôi nghe tin rằng tuy ông Kỳ không đến Mỹ, ông sẽ gửi bà Kỳ đi thay. Câu chuyện đẩy đưa đă phá tan sự kiên nhẫn của tôi. Trong cuộc nói chuyện trên điện thoại với ông Kỳ ngay sau đó tôi đă trả lời một cách dứt khoát rằng: "Không được! Không thể nào có thể như vậy được!" Ngay hôm sau báo chí loan báo rằng v́ "Trục trặc kỹ thuật" bà Kỳ không thể đến dự buổi diễn hành.

Nếu vào tháng chín ở Hoa Thịnh Đốn và Ba Lê chẳng có biến chuyển ǵ mới lạ th́ ở Sài G̣n việc lại hoàn toàn khác hẳn. Tháng chín là tháng bầu cử bán phần thượng nghị sĩ cho quốc hội Việt Nam. Bầu không khí Sài G̣n thật là nhộn nhịp v́ những cuộc tranh cử của các ứng cử viên và các danh sách tranh cử. Một trong những vấn đề đáng chú ư nhất là sự xuất hiện của nhiều đoàn thể đă tạo nên nhiều khối phiếu khác nhau. Và những khối phiếu này lại ủng hộ những ứng cử viên hoàn toàn khác biệt. Một số ủng hộ tướng Trần Văn Đôn, người đảo chánh ông Diệm và sau đó ra khỏi quân đội để theo đuổi chính trị. Một số khác ủng hộ ông Vơ Văn Mẫu, Ngoại Trưởng dưới thời ông Diệm; lại có cả một liên danh của các ứng cử viên Phật Giáo. Trong số ứng cử viên có rất nhiều người từ các nhóm đối lập, người ngoại cuộc có thể thấy những thành phần quốc gia trước kia hoạt động bí mật chẳng hạn như những người quốc gia trong các đảng Đại Việt, VNQĐD cũng đă bắt đầu bước vào hàng ngũ của những đoàn thể tranh cử công khai lúc này. Nói chung th́ mọi người đều cho rằng đây là một cuộc bầu cử công bằng và có tính cách dân chủ.

Tuy báo chí Hoa Kỳ không hề đề cập ǵ nhiều về các cuộc bầu cử bán phần ở Việt Nam, những cuộc bầu cử này vẫn là những bước tiến đáng kể. Sau bầu cử năm 1969, Việt Nam đă tiến thêm được một bước trên con đường dân chủ như đă đề ra trong bản hiến pháp năm 1967. Những thay đổi chính trị trong chế độ Việt Nam được thể hiện rơ ràng qua những thành quả kể từ mùa xuân năm 1966. Vào năm 1966, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều là những người lănh đạo quân sự, nắm quyền chẳng kể ǵ đến hiến pháp. Vào thời gian đó th́ những người ủng hộ ông Thích Trí Quang và tướng Nguyễn Chánh Thi không hề ngần ngại nếu họ thấy phải cần dùng đến vũ khí để chống đối chánh quyền. Thế mà giờ đây, dù ǵ đi nữa th́ ông Thiệu cũng là một vị tổng thống hợp hiến. Hơn nữa, dưới chánh quyền ông, những người đối lập chẳng hạn như những người trong đoàn thể Phật Giáo đang được quyền tranh cử. Nếu đây không phải là dân chủ nh́n theo đôi mắt của Hoa Thịnh Đốn th́ ít ra đây cũng là một bước tiến đáng kể so với t́nh trạng trước đây. Khi đem so sánh chính phủ Việt Nam và chánh phủ Bắc Việt -Một chánh phủ mà nhiều người phản chiến, thiên tả và nhiều Thượng Nghị Sĩ "chuộng ḥa b́nh" khác trong quốc hội Hoa Kỳ vẫn cho là tốt đẹp hơn- th́ chẳng ai có thể lầm lẫn được những điểm khác biệt trong chế độ dân chủ của Miền Nam Việt Nam với một chế độ áp bức và giáo điều như chế độ Cộng Sản của Bắc Việt.

Vào ngày mùng 7 tháng 10, tổng thống Nixon lại lên đài truyền h́nh để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ ông. Nếu trước đây ông đă khiến dư luận phải phẫn khích khi quyết định cho lệnh quân đội Hoa Kỳ tấn công ở Cam Bốt th́ giờ đây ông có vẻ ôn ḥa hơn. Ông đưa ra một đề nghị ḥa b́nh bao gồm cả vấn đề ngưng bắn trên toàn cơi Đông Dương, vấn đề đem lại ḥa b́nh cho tất cả mọi khu vực, vấn đề đơn phương rút quân của Hoa Kỳ và một kế hoạch ổn định t́nh h́nh chính trị ở Việt Nam phản ảnh đúng "hiện trạng của các lực lượng chính trị ở Việt Nam."

Điều khoản cuối cùng làm tôi lo lắng v́ rằng lời tuyên bố h́nh như muốn ám chỉ việc Hoa Kỳ có thể sẽ chiều theo dư luận để ép buộc chính phủ Việt Nam phải chấp nhận những điều bất lợi. Nhưng tầm quan trọng thực sự của vấn đề là việc Hoa Kỳ đă công khai nêu lên nguyên tắc tự ḿnh đơn phương rút quân. Họ đă kín đáo từ bỏ những đ̣i hỏi yêu cầu nếu Hoa Kỳ rút quân th́ Bắc Việt cũng phải rút quân ra khỏi lănh thổ Việt Nam. Đây là một thay đổi quan trọng của chánh sách Hoa Kỳ cho thấy chính sách đánh và đàm của Bắc Việt đă mang lại ít nhiều kết quả hữu hiệu trong việc bắt buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trước đây Hoa Kỳ đă đ̣i hỏi Bắc Việt phải rút quân sáu tháng trước khi Hoa Kỳ bắt đầu rút quân. Một thời gian sau đó, th́ Hoa Kỳ nhượng bộ và chỉ đ̣i hỏi Bắc Việt phải rút quân cùng lúc với quân đội Hoa Kỳ và vào lúc này th́ Hoa Kỳ tự động rút quân đơn phương mà chẳng cần đ̣i hỏi điều kiện ǵ từ Bắc Việt cả.

Một thời gian ngắn sau khi tổng thống Nixon nói chuyện trên đài truyền h́nh th́ tôi lại nhận được điện thoại của ông Kỳ cho biết ông sẽ sang Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 10. Lần này chuyến đi của ông Kỳ không c̣n dính dáng ǵ đến ông McIntire. Cuộc bầu cử bán phần ở Hoa Kỳ cũng vừa chấm dứt. Đây là một thời gian an toàn hơn lúc trước. Tôi lập tức đến Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để chuẩn bị cho chuyến đi của ông Kỳ. Chẳng bao lâu sau một chương tŕnh nghị sự chi tiết đă được soạn thảo. Chương tŕnh viếng thăm của ông Kỳ bao gồm các cuộc họp với tổng thống Nixon và ông Kissinger, những cuộc gặp gỡ với Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia và một cuộc gặp gỡ khác với Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện. Những chuyện đáng nhớ nhất của lúc đó bao gồm cả chuyến thăm viếng nông trại của cựu Tổng Thống Johnson, bữa tiệc tiếp tân của Phó Tổng Thống Spiro Agnew tổ chức và buổi gặp gỡ với Thống Đốc Tiểu Bang California lúc bấy giờ là ông Ronald Reagan.

Vào ngày 24, Tổng Thống Nixon mời chúng tôi họp cuộc họp đầu tiên trong một bữa điểm tâm cùng với các ông Kissinger, Sullivan và Holridge. Phần nhiều thời giờ của buổi họp đó được dành vào việc duyệt lại t́nh h́nh. Ông Kỳ đưa ra những vấn đề khó khăn kinh tế nếu Hoa Kỳ rút quân. Đặc biệt là những khó khăn của các quân nhân và các công chức. Ông Kỳ cũng bàn luận tổng quát về những khó khăn trong tương lai.

Riêng về vấn đề chính trị th́ ông Kỳ có nói rằng chính ông và ông Thiệu đă bàn luận vấn đề sửa đổi hiến pháp để thay đổi guồng máy chính quyền Sài G̣n. Khi ông Kỳ bắt đầu đưa vấn đề này ra th́ Tổng Thống Nixon ngồi thẳng người dậy (cả tôi cũng thế) và tỏ vẻ vô cùng chú tâm. Ông hỏi thêm ông Kỳ về những cuộc bầu cử vào tháng 9 sắp tới: "Thế c̣n việc bầu cử năm 71 th́ sao?" Tuy Tổng Thống Nixon tỏ ư hoan nghênh tất cả những hoạt động dân chủ của Việt Nam, ông cũng khuyên Việt Nam không nên có hành động nào phương hại đến sự ổn định của chánh phủ. Ông nói rằng nếu nh́n bằng con mắt của một người làm chính trị, ông đă thấy rơ ràng trong cuộc bầu cử năm 1971 ở Việt Nam sẽ có nhiều ứng cử viên khác biệt ra tranh cử. Tuy thế ông vẫn hy vọng là những cuộc bầu cử sắp tới sẽ không làm Việt Nam xáo trộn và mất ổn định. Rồi quay sang phía tôi, tổng thống Nixon nói tiếp: "Ông đại sứ Diễm đây cũng đồng ư rằng nếu chúng ta làm bất cứ việc ǵ khiến Việt Nam trở nên mất ổn định th́ vấn đề viện trợ cho Việt Nam quả không thể nào thực hiện được." Ông Kỳ đă hiểu rơ những sự cảnh cáo ngấm ngầm trong câu nói của Tổng Thống Nixon và đáp lời rằng: Chắc chắn cuộc bầu cử sẽ diễn ra vô cùng êm đẹp. Nếu cần ông Kỳ có thể bỏ hết quyền lợi cá nhân để bảo đảm cuộc bầu cử được thành công.

Tổng Thống Nixon vừa dứt lời th́ giờ điểm tâm cũng chấm dứt. Sau khi mọi người chia tay, ông Kissinger mời tôi và ông Kỳ cùng đến văn pḥng của ông để tiếp tục thảo luận. Cũng như Tổng Thống Nixon, ông Kissinger hết sức quan tâm đến vấn đề chánh phủ Việt Nam có thể có những quyết định táo bạo trên phương diện chính trị. Ông Kissinger khuyên rằng những quyết định táo bạo của Việt Nam có thể sẽ làm chậm đi cuộc bầu cử và " làm suy nhược cơ cấu luật pháp căn bản của Việt Nam." Có lẽ ông Kỳ không khỏi buồn cười khi những lời phát biểu tùy hứng của ông lại làm cho những người lănh đạo Hoa Kỳ lo âu đến thế, ông Kỳ nói thêm rằng: "Nói cho cùng th́ đây cũng chỉ mới là một ư định thế thôi chứ thực sự ông Thiệu và tôi cũng chưa hề cùng nhau thỏa thuận điều ǵ." Khi đă b́nh tĩnh hơn, ông Kissinger tỏ vẻ hài ḷng và nói rằng tuy chánh phủ Việt Nam nên có giải pháp mới để cải thiện, giới lănh đạo Việt Nam cũng nên t́m cách để giữ cho Việt Nam hoạt động ở một mức tương đối ổn định. Ông đề nghị rằng chánh phủ Việt Nam nên tránh tất cả những hành động có thể đưa Việt Nam vào t́nh trạng xáo trộn và bất ổn.

Thực sự th́ cuộc họp với tổng thống Nixon và ông Kissinger chẳng hề đưa lại kết quả ǵ đáng kể. Chính tôi cũng chẳng mong mỏi bất kỳ kết quả nào. Tuy thế phản ứng của Tổng Thống Nixon và ông Kissinger đối với câu phát biểu vô t́nh của ông Kỳ đă khiến tôi chú tâm về thái độ e ngại của Hoa Kỳ khi chánh phủ Việt Nam muốn có những sáng kiến thay v́ để mặc Hoa Kỳ d́u dắt. Cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đều muốn t́nh trạng Việt Nam hoàn toàn ổn định (Danh từ ổn định đă nhiều lần được đưa ra) trong khi họ nỗ lực kéo Hoa Kỳ ra khỏi vũng lầy Đông Dương.

Sau ngày họp, ông Kỳ và tôi bay xuống Texas để thăm viếng tổng thống Johnson ở nông trại riêng của ông gần chỗ bờ sông Pedernales. Cả ông Walt Rostow và ông Bill Jorden cũng đến tham dự làm cho khung cảnh có vẻ như một buổi họp của những người bạn cũ. Cựu tổng thống Johnson lúc nào cũng ân cần nhưng v́ không c̣n ở cương vị của một vị Tổng Thống, nên ông có vẻ trầm tĩnh hơn trước. Ông chở chúng tôi đi xem cảnh chung quanh nông trại và nói rằng ông vẫn thường xuyên theo dơi tin tức chiến cuộc Việt Nam. Ông hỏi ông Kỳ: Liệu những cuộc tấn công vào mùa khô của Việt Cộng năm nay sẽ tác hại ra sao.

Có lẽ đây là câu hỏi chiếm lĩnh đầu óc tất cả mọi người. Ngay ngay hôm qua, ông Kissinger cũng đă hỏi một câu hỏi in hệt. Chẳng phải cuộc tấn công của Bắc Việt trong mùa khô năm nay có ǵ khác biệt, nhưng v́ Hoa Kỳ đă rút đi 200,000 quân và những binh lính trấn đóng ở Việt Nam càng ngày càng lâm vào thế thủ. Năm 1971 là năm thử thách của kế hoạch Việt Hóa Chiến Tranh. Câu hỏi chính không phải là kẻ thù sẽ hành động ra sao mà là: Quân Đội Việt Nam sẽ ứng phó thế nào.

Hoa Kỳ đă bắt đầu rút quân và giờ phút thử thách của Việt Nam càng ngày càng gần. Trong những tháng tới, những yếu tố chính góp phần định đoạt tương lai Việt Nam bao gồm những vấn đề chẳng hạn như sự ủng hộ của Hoa Kỳ sẽ ở tầm mức nào? Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ có thái độ ra sao? Sức mạnh của quân đội Việt Nam thực sự ra sao và Hoa Kỳ dự định đối phó thế nào với cuộc chiến ở Việt Nam.

Sau chuyến viếng thăm cựu Tổng Thống Johnson th́ những ngày thăm viếng c̣n lại của ông Kỳ đi vút qua thật nhanh và đầu óc mọi người lại bị những yếu tố khác quan trọng hơn ảm ảnh. Tối đó bữa tiệc phó tổng thống Agnew tổ chức diễn ra hoàn toàn tốt đẹp. Ngoại trừ một câu hỏi bất ngờ của ông Agnew "Chúng ta phải làm thế nào để xâm nhập lănh thổ của Bắc Việt?" Câu hỏi khiến tôi đâm lo về việc liệu đề tài này sẽ dẫn hai vị phó tổng thống đến đâu. Cả hai ông đều nổi tiếng về việc thiếu thận trọng. May thay, ông Kỳ cũng ngạc nhiên như tôi và đă yên lặng để câu hỏi của phó tổng thống Agnew trôi qua.

Sau khi dự tiệc, ông Kỳ đến họp với Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện. Lúc này cuộc họp với Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện có thể là một cuộc tranh luận khó khăn. Nhưng có lẽ v́ nể mặt thượng nghị sĩ George Aiken là người tổ chức cuộc họp nên tuy đa số những nghị sĩ phản chiến như ông Church, ông Cooper, ông Mansfield, ông Fullbright, ông Kennedy đều có đến tham dự mà buổi họp vẫn không xảy ra chuyện ǵ đáng tiếc. Ông Kỳ đă tỏ ra khéo léo về vấn đề ngoại giao hơn bao giờ và các thượng nghị sĩ hiển nhiên cũng không muốn đi xa quá trong việc tranh luận với ông Kỳ.

Khi đưa ông Kỳ qua bờ biển mé Tây trong chặng đường đầu trở lại Việt Nam, tôi cảm thấy vô cùng thơ thới. Chuyến thăm viếng của ông Kỳ thành công thật là mỹ măn. Khi nh́n máy bay cất cánh và nh́n ánh đèn Hoa Thịnh Đốn mờ dần, tôi như người vừa trút được gánh nặng khỏi vai. Mười bảy năm sau, khi nh́n lại vấn đề tôi không khỏi lấy làm kỳ v́ những nỗi sợ hăi của một diễn biến chẳng có ǵ khác hơn là một cuộc thăm viếng của một nguyên thủ quốc gia đối với một đồng minh khác. Tuy thế đây quả là một trong những lúc cực kỳ khó khăn. Một mặt th́ bầu không khí ở Hoa Thịnh Đốn lúc đó đang căng thẳng. Mặt khác th́ ông Kỳ lại là một người có hành động thất thường và t́nh thế lúc này đă khiến chúng tôi coi chuyến viếng thăm là một thành tích đáng kể, không làm ǵ tổn thất đến những mục tiêu cùng nỗ lực của cả hai chánh phủ.

32. Cuộc Độc Cử

Vào tháng 2 năm 1971, sau khi ông Kỳ từ Hoa Thịnh Đốn trở về Sài G̣n được khoảng sáu tuần th́ kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh bắt đầu bước vào giai đoạn thử thách. Ngược hẳn với sự tiên đoán của tôi, sự thử thách không phải là những cuộc pḥng thủ tự vệ mà lại là những cuộc tấn công của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa vào quân đội Bắc Việt.

Tôi bắt đầu có linh cảm về những sự thử thách của Việt Nam khi nhận được điện văn của ông Thiệu vào ngày mùng 1 tháng 2 cho lệnh tôi phải ngưng công bố những tin tức chiến sự có liên quan đến Lào và Cam Bốt cho đến khi có lệnh mới. Nhiều ngày sau đó, tôi nhận được một bức điện văn bằng mật mă cho biết quân đội Việt Nam sắp sửa tấn công vào các đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào. Cuộc tấn công ở Lào sẽ được phối hợp để những đơn vị của Việt Nam ở đó có thể tấn công cùng lúc với một cuộc tấn công tương tự khác ở Cam Bốt. Trong cả hai cuộc tấn công vừa kể, quân đội Việt Nam sẽ tự điều động các cuộc hành quân. Tuy Hoa Kỳ vẫn yểm trợ nhưng trong cả hai cuộc tấn công đều không có cố vấn người Mỹ. (Nghị Quyết Cooper-Church ban hành vào cuối năm 1970 đă cấm các đội quân Hoa Kỳ không được hoạt động phía ngoài ranh giới Miền Nam Việt Nam) Vào ngày mùng 7, phụ tá của ông Thiệu là ông Hoàng Đức Nhă điện thoại xin tôi giúp ư kiến nếu Việt Nam cần phải tŕnh bày các cuộc hành quân với giới báo chí. Việt Nam đặt mật danh cho những cuộc hành quân này là Lam Sơn 719.

Chiến dịch Lam Sơn chứng tỏ sự lạc quan của ông Thiệu và các tướng lănh Việt Nam. Tuy tôi không được rơ nhiều chi tiết về những cuộc hành quân, sự lạc quan của họ không mấy làm tôi ngạc nhiên. Mới tháng 7 trước đây, tôi đă ở lại Việt Nam suốt một tháng trường để quan sát. Trong những chuyến đi qua nhiều vùng khác biệt, tôi đă cố gắng tự ḿnh t́m hiểu t́nh h́nh. Ở gần như tất cả các vùng đi qua, tôi đều thấy rằng tinh thần chiến đấu của các binh sĩ Việt Nam rất cao. Ít ra là về mặt tinh thần họ cũng tự tin là họ có thể đối phó được với việc rút quân của Hoa Kỳ một cách dễ dàng. Tôi có cảm giác là có lẽ họ đă đi tới kết luận rằng nếu t́nh trạng bó buộc th́ sự hiện diện của Hoa Kỳ cũng chẳng phải là điều cần thiết. Cuộc hành quân vào Cam Bốt lúc này quả là một niềm khích lệ đối với họ. Dĩ nhiên trong cuộc hành quân đó, Hoa Kỳ vẫn c̣n hỗ trợ phần nào, nhưng quân đội Việt Nam đă chứng tỏ được rằng những đơn vị của họ hoàn toàn tự chủ. Khi cuộc hành quân kết thúc họ cảm thấy họ trở về như những người hùng đă chinh phục được Cam Bốt.

Sau khi kết thúc chuyến đi thăm những nơi quân đội Việt Nam đóng quân, tôi đă thấy tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam rất cao. Tuy thế tôi vẫn lo lắng chẳng hiểu quân đội Việt Nam có được huấn luyện đúng mức hoặc có được trang bị vũ khí đầy đủ hay chưa? Sở dĩ tôi lo lắng như vậy là v́ tôi đă có dịp chứng kiến những cách làm việc tắc trách về phía Hoa Kỳ kể từ sau cuộc họp thượng đỉnh ở Midway. Thực ra th́ sau cuộc họp ở Midway, quốc hội Hoa Kỳ có lập ra một Ủy Ban đặc trách để theo dơi các chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Tuy trên thủ tục th́ Ủy Ban đặc trách này bao gồm cả các nhân viên của Ṭa Bạch Ốc, của Ngũ Giác Đài, của t́nh báo CIA và của Bộ Ngoại Giao, nhưng trên thực tế th́ vấn đề lại khác hẳn. Hoạt động của Ủy Ban đặc trách Việt Nam Hóa Chiến Tranh không hề có kế hoạch ǵ nhất định cả. Tuy cứ hai tuần lại có một lần họp, nhưng kỳ thật th́ chẳng có ǵ đáng gọi là kế hoạch hoặc kỹ thuật tổ chức. Vấn đề Việt Nam Hóa Chiến Tranh tuy quan trọng là thế mà Hoa Kỳ vẫn chẳng chỉ định nhân vật nào làm người đứng đầu tổ chức. Theo dự định của Ủy Ban đặc trách th́ đáng nhẽ Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ phải đứng ra điều động chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh, nhưng trên thực tế th́ Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ chỉ theo dơi một cách lơ là và chính tướng Creighton Abrams, người thay thế tướng Westmoreland vào năm 1968, cùng ông Cao Văn Viên và ông Thiệu đă phải đứng ra tự điều động một phần các kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Cách tổ chức lỏng lẻo này vừa thiếu hẳn những mục tiêu nhất định lại vừa thiếu phối hợp v́ thế tầm mức hữu hiệu của chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh thật là khó đoán. Dĩ nhiên vẫn có những lớp huấn luyện cùng những đợt chuyển giao vũ khí nhưng ngoài những điểm tổng quát như vậy h́nh như chẳng c̣n ǵ đáng kể.

Cuộc hành quân Lam Sơn bắt đầu vào ngày mùng 8 tháng 2-1971. Ngay hôm sau đó, tôi đến Ngũ Giác Đài vừa để nghe tin tường tŕnh, vừa để kiểm lại những tin tức tôi đă thâu nhận được từ Sài G̣n và cũng vừa là để xem giới quân sự Hoa Kỳ suy xét ra sao. Lúc đến nơi tôi cảm thấy nhẹ nhơm phần nào khi thấy Hoa Kỳ có vẻ lạc quan đối với diễn tiến cuộc hành quân. T́nh h́nh chiến sự Việt Nam đang tiến triển khả quan so với những mục tiêu chiến dịch Lam Sơn đặt ra. Tuy rằng cuộc tiến quân có phần hơi chậm, quân đội Việt Nam vẫn chưa gặp phải khó khăn nào đáng kể.

Khoảng một hai ngày sau, tin tức từ Sài G̣n cho thấy mọi sự vẫn tiến hành tốt đẹp và rồi sau đó tôi chẳng c̣n nhận được tin tức ǵ. Mặc dầu tôi đă đánh điện và yêu cầu Sài G̣n cho tôi biết rơ rệt chi tiết mà vẫn chẳng có tin tức ǵ của Sài G̣n cả. T́nh trạng im lặng trái ngược vào lúc này so với những tin tức ồ ạt lúc đầu quả là kỳ quái. Tin tức từ Ngũ Giác Đài cho biết rằng quân đội Việt Nam đă gặp khó khăn gần tỉnh Tchepone nguyên là mục tiêu chính của cuộc hành quân và cũng là nơi Việt Cộng đặt căn cứ. Nhưng dường như cả Ngũ Giác Đài cũng không có tin tức ǵ rơ rệt về những khó khăn của quân đội Việt Nam.

Dần dà, qua những tin tức của Ngũ Giác Đài, của báo chí, và những tin tức từ Sài G̣n, t́nh h́nh chiến sự ngày càng rơ rệt. Bắc Việt đă tăng cường quân đội ở TChepone và khiến quân đội Việt Nam phải chịu nhiều tổn thất, nhưng vào ngày 8 tháng 3, trước khi lui về biên giới, quân đội Việt Nam đă t́m cách chiếm được Tchepone. V́ áp lực liên tục của Bắc Việt, tại vài nơi cuộc rút lui đă gặp khó khăn. Tuy thế, ở nhiều nơi khác những đơn vị Việt Nam đă mở đường rút lui vô cùng can đảm. Trong khi đó th́ ở Hoa Kỳ, đài truyền h́nh đă chiếu những đoạn phim tài liệu quay cảnh binh sĩ Việt Nam đang bám vào những chiếc trực thăng tản cư. Những khúc phim đó đă đơn giản hóa vấn đề quá mức và hoàn toàn bóp méo sự thật. Hậu quả là những người xem phim đă có ấn tượng khó phai rằng quân đội Việt Nam đă hoàn toàn thất bại. Riêng về phương diện quân sự th́ phản ứng đối với cuộc hành quân Lam Sơn thật là phức tạp. Một mặt th́ một vài giới chức quân sự Hoa Kỳ đă lên án rằng quân đội Việt Nam chưa tấn công hết sức, nhưng trái lại, những giới chức quân sự Việt Nam lại cho rằng những ủng hộ không lực của Hoa Kỳ chỉ lúc có lúc không và không hoàn toàn hữu hiệu.

Vào giữa tháng 3 1971, th́ cuộc tấn công Lam Sơn hoàn toàn kết thúc. Những phân tách gia bắt đầu tính toán, cân bằng những tổn thất nhân mạng, vật liệu và tinh thần của Việt Nam cùng những tổn thất của các hệ thống tiếp vận của Bắc Việt.

Bất kể là phản ứng về cuộc hành quân Lam Sơn phức tạp ra sao đối với giới quân sự, nhưng riêng về mặt dân sự th́ phản ứng của dân chúng Hoa Kỳ thật là rơ rệt: Cuộc hành quân Lam Sơn đă khơi lại những sự chống đối vẫn c̣n âm ỉ trong dư luận Hoa Kỳ. Chống đối nổ bùng ngay vào lúc bắt đầu có tin tức về cuộc hành quân Lam Sơn. Càng ngày chống đối càng mănh liệt và tiếp tục dâng cao đến cả nhiều tuần lễ sau khi cuộc hành quân Lam Sơn đă hoàn toàn chấm dứt. Vào ngày 24 tháng 4, gần 200,000 người chống đối tụ họp ở Hoa Thịnh Đốn và bắt đầu biểu t́nh suốt một tuần lễ ngay trên các đường phố. Trong giai đoạn này, hai nhân viên của chính quyền Việt Nam là ông Nguyễn Văn Huyền, chủ tịch Thượng Viện và ông Trần Văn Lắm Bộ Trưởng Ngoại Giao cũng có mặt ở Hoa Thịnh Đốn. Nhân cơ hội họ đang ở Hoa Kỳ tôi bèn hướng dẫn họ để họ có thể tự nh́n thấy những sự chống đối đă làm rung chuyển Hoa Thịnh Đốn từ nhiều năm qua. Chúng tôi cùng nhau lái quanh ṿng đai phía ngoài những cuộc biểu t́nh trên một chiếc xe Buick màu nâu xám để tránh sự chú ư. Tôi cố lách đến sát chỗ những cuộc biểu t́nh để cho hai ông Huyền và Lắm có dịp thấy rơ những y phục rách rưới, những khuôn mặt căm phẫn của những người biểu t́nh và những khuôn mặt lầm lỳ, lạnh lùng của các Vệ Quốc Binh đứng giữ trật tự. Cả ông Huyền lẫn ông Lắm đều hết sức kinh ngạc. V́ cả hai ông vừa là bạn tôi lại vừa là những nhân vật quan trọng trong chính phủ, nên trước đây họ đă nhiều lần nghe tôi tường tŕnh về những cuộc biểu t́nh dữ dội ở Hoa Kỳ. Tuy thế, sự kinh ngạc của họ cho thấy những điều họ được nghe lúc trước quả thật chưa thấm thía ǵ với những điều họ đang thấy lúc này.

Vào ngày 3 tháng 5-1971, số cảnh sát cùng vệ quốc binh canh gác ở Hoa Thịnh Đốn lên đến 10,000. Số người chống đối bị bắt lên đến cả trăm. Ngay ngày hôm sau trong một cuộc diễn hành đi về phía quốc hội Hoa Kỳ, lại có nhiều người khác bị bắt. Vào ngày 6 tháng 5-1971, cảnh sát bao quanh ṭa đại sứ để ngăn chận một cuộc bao vây do những người chống đối tổ chức. Tuy cuộc bao vây thất bại, chúng tôi vẫn chẳng thấy tâm thần an ổn thêm được chút nào. Và rồi khoảng một thời gian ngắn sau đó th́ những cuộc chống đối trở thành hỗn loạn và bạo động. Cuối cùng, t́nh trạng bạo động quá khích của các nhóm phản chiến đă khiến dân chúng Hoa Kỳ mất cảm t́nh với các cuộc chống đối. Nhũng người theo dơi sát t́nh h́nh lúc đó có thể thấy thống kê ủng hộ tổng thống Nixon có phần tăng. Nhưng tất cả những mức độ tăng giảm của các diễn biến đều chỉ là những biến chuyển tạm thời. Trong một bản tường tŕnh dài gửi cho ông Thiệu vào ngày 14 tháng 5, năm 1971, lúc ghi lại những biến cố trong giai đoạn này tôi đă viết như sau: H́nh ảnh nổi bật ở Hoa Thịnh Đốn lúc này là quang cảnh hàng ngàn sinh viên mang cờ Việt Cộng cùng những h́nh ảnh của 10,000 binh lính Hoa Kỳ được lệnh giữ trật tự đang tụ tập khắp nơi trên các đường phố. Tối đến Ti Vi lần lượt chiếu lại tất cả những quang cảnh chống đối ban ngày. Dĩ nhiên cảnh tượng không khỏi làm người dân Hoa Kỳ đặt câu hỏi: -Chừng nào cuộc chiến mới kết thúc? Câu hỏi ám ảnh này sẽ khiến một người dân Hoa Kỳ b́nh thường kết luận rằng Hoa Kỳ nên từ bỏ cuộc chiến Việt Nam hơn là tiếp tục. H́nh ảnh chống đối luôn luôn ám ảnh tổng thống Nixon khi ông suy nghĩ về tương lai chiến cuộc Việt Nam... Trong khi đó những đoàn thể phản chiến lại quan niệm rằng việc rút quân của Hoa Kỳ vào lúc này thật đă quá muộn. Bây giờ th́ câu hỏi ngắn gọn của họ chỉ là: -Chừng nào mới chấm dứt chiến tranh? Hay nói một cách khác th́ thái độ của họ là: -Chúng tôi không cần biết hậu quả ra sao, miễn là chiến tranh phải chấm dứt.

Thật sự th́ sau khi những cuộc biểu t́nh chống đối vào tháng 4 và đầu tháng 5-1971 giảm xuống, một ư nghĩ tai hại đă len lỏi vào đầu óc dân chúng Hoa Kỳ. Bất kể mục tiêu ngoại giao của Hoa Kỳ thế nào, bất kể những khát khao của những người Việt Nam muốn sống tự do ra sao, bất kể tất cả các cách lư luận từ bất kỳ quan niệm nào, đối với nhiều người dân Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến hoàn toàn sai lầm.

Đối với tôi th́ quan niệm này thật là lệch lạc. Cứ nh́n vào lịch sử hiện đại để so sánh th́ trước khi các nước ở Âu Châu tham gia thế chiến thứ hai để chống lại Hitler và Đức Quốc Xă, ở Âu Châu cũng đă có những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh chẳng khác ǵ những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh ở Hoa Kỳ lúc này. Nếu so sánh những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam lúc này với những cuộc biểu t́nh trong thập niên 1930 ở Âu Châu và nh́n vấn đề theo một quan niệm lịch sử th́ những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh lúc này quả không khác ǵ những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh của dân chúng Âu Châu lúc trước. Tuy thế trong sự so sánh đó có một điểm khác biệt quan trọng duy nhất đáng kể là trong thập niên 1930 nếu Anh và Pháp khoanh tay th́ sự khoanh tay của họ chẳng khác nào tự vẫn. Nhưng hiện giờ, những cuộc biểu t́nh của các nhóm phản chiến chỉ đe dọa vấn đề sinh tử của một ḿnh Việt Nam mà thôi, c̣n Hoa Kỳ thật ra chẳng hề hấn ǵ. Viễn tượng hăi hùng khi so sánh cảnh tượng đệ nhị thế chiến với chiến cuộc Việt Nam là khi Đệ Nhị Thế Chiến xảy ra, Âu Châu c̣n có Hoa Kỳ đứng sau hậu thuẫn cứu giúp. Nhưng đối với hoàn cảnh của Việt Nam lúc này th́ chẳng có quốc gia nào đứng sau để cứu giúp Việt Nam nếu Hoa Kỳ rút đi cả.

Tôi biết rằng dầu sớm, dầu muộn, những đề tài của các nhóm phản chiến trong dư luận cũng sẽ ảnh hưởng các quyết định của quốc hội Hoa Kỳ. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1971, tôi đă điện cho ông Thiệu như sau: "Hiện giờ những người chống đối chiến tranh đặt vấn đề một cách hết sức rơ rệt là: "Bao giờ th́ chấm dứt chiến tranh?" chứ không phải là "Phải chấm dứt chiến tranh bằng cách nào?" Những tổ chức thiên tả và phản chiến năm nay đă khôn ngoan vận động sự thiếu kiên nhẫn của nhân dân Hoa Kỳ. Họ cũng khéo léo lợi dụng những khía cạnh về nhân đạo và luân lư của chiến cuộc Việt Nam."

Lúc này, những nhóm phản chiến không những chỉ đặt áp lực vào tổng thống Nixon mà c̣n cả vào quốc hội nữa. Tôi viết cho ông Thiệu rằng: "Nỗ lực của những nhóm phản chiến sẽ khiến chánh phủ Hoa Kỳ gặp phải rất nhiều khó khăn v́ [những sự chống đối này sẽ ảnh hưởng quốc hội trực tiếp và] quốc hội bao giờ cũng nắm quyền tối thượng trong việc định đoạt ngân sách quốc gia... Nói tóm lại th́ trong giai đoạn kế tiếp chính quyền Nixon sẽ phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Chính quyền Nixon sẽ phải đối phó với dư luận và các phong trào phản chiến được tổ chức rất kỹ lưỡng."

Trong tất cả những lời khuyến cáo tôi gửi về chẳng có điều nào có thể gọi là quá xa sự thực. Vào mùa xuân năm 1971, quốc hội Hoa Kỳ đưa ra một loạt các đạo luật nhằm giảm thiểu khả năng giúp đỡ Việt Nam của chánh phủ Nixon. Các đạo luật giới hạn ngân sách chi tiêu cho các cuộc hành quân ở Lào và Cam Bốt rồi th́ các đạo luật cắt hẳn những ngân sách đó, và sau cùng là các đạo luật bắt buộc Hoa Kỳ phải rút hết quân ở Việt Nam về. Tôi đă tham gia vào những trận chiến này, vận động, tranh luận vấn đề, tŕnh bày lập trường và cố làm tất cả mọi việc để lật ngược thế cờ. Nhưng càng ngày t́nh trạng càng khắc nghiệt và số người ủng hộ Việt Nam giảm dần. Vào ngày 22 tháng 2, Đảng Dân Chủ đă đưa ra một quyết nghị yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1972. Tuy rằng nghị quyết này chưa ép buộc được chánh phủ Nixon phải rút quân ngay, nghị quyết đó đă chuyển chiến cuộc Việt Nam thành một đề tài tranh chấp giữa hai đảng dân chủ và cộng ḥa. Sau bốn tháng vật vă kế tiếp, chính thượng viện thông qua một quyết nghị đ̣i hỏi chánh phủ phải rút quân "càng sớm càng tốt." Mỗi ngày tôi lại mỏi ṃn thêm v́ mất dần đi ít nhiều ủng hộ và mỗi đêm tôi lại cố tŕnh bày những kinh nghiệm tôi đang trải qua hàng ngày trong các bức điện gửi về Sài G̣n.

Khi t́nh trạng chống đối ở Hoa Kỳ ngày càng sôi sục th́ lại có một vấn đề khó khăn khác từ từ xuất hiện: Cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam dự trù vào tháng 9 đă gần kề. Vào ngày 14 tháng 5, sau khi tôi đă gửi cho ông Thiệu một bức điện văn dài:

Theo những nhận định chính trị ở Hoa Thịnh Đốn lúc này th́ Hoa Kỳ đang chú tâm vào cuộc bầu cử ở Việt Nam. Hiện tại có hai dư luận nổi bật hoàn toàn khác biệt: Ư kiến thứ nhất cho rằng Hoa Kỳ nên gửi những phái đoàn quan sát viên với mục đích ngấm ngầm ngăn cản Hoa Kỳ vận động để ủng hộ tổng thống khi tổng thống ra ứng cử. Dự định này được gọi là Kế Hoạch Bầu Cử Việt Nam. Trái lại dư luận thứ hai lại cho rằng đây là một vấn đề riêng của nội bộ Việt Nam. Cả hai ông Sullivan cùng ông Holdridge đều đă hứa rằng Hoa Kỳ sẽ phối hợp với chúng ta trước khi có thái độ rơ rệt.

Thực sự th́ chánh phủ Hoa Kỳ đă chú ư đến cuộc bầu cử ở Việt Nam từ đầu tháng 4. Trong lúc những cuộc biểu t́nh đang được tổ chức rầm rộ ở thủ đô Hoa Kỳ th́ thực sự Hoa Kỳ không có thời giờ để chú tâm đến những vấn đề nội bộ của Việt Nam, nhưng một khi những cuộc biểu t́nh đă lắng xuống th́ chính phủ Hoa Kỳ sẽ phải trở lại lo về vấn đề này. Những chống đối chiến cuộc ngày càng tăng đă khiến Hoa Kỳ hoặc ít ra là một số nhân viên trong chánh phủ Hoa Kỳ ngày càng chú tâm vào vấn đề Việt Nam. Vào ngày 14, tôi đă điện về Sài G̣n như sau:

Nói tóm lại, nhiều nhân viên ở ṭa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao đă hy vọng tổng thống chú tâm vào những vấn đề liệt kê phía dưới. Tất cả đều đồng ư rằng đây là những vấn đề có ảnh hưởng nhiều đến dư luận dân chúng Hoa Kỳ.

1. Khả năng của quân đội Việt Nam.

2. Thể thức bầu cử của Việt Nam.

3. Tham nhũng.

4. Vấn đề thuốc phiện.

5. Nỗ lực của Việt Nam trong việc liên lạc với giới báo chí quốc tế để tránh chỉ trích và gây ấn tượng tốt với thế giới.

Chính quyền Sài G̣n đă bắt tay vào tất cả những vấn đề tôi liệt kê trừ vấn đề soạn thảo các thể thức bầu cử. Thể thức bầu cử chắc chắn sẽ là mục tiêu chính cho mọi sự chú ư và theo dơi của dư luận Hoa kỳ. V́ nắm giữ vai tṛ vận động và liên lạc với các đoàn thể, tôi quan niệm rằng, cuộc bầu cử sẽ ảnh hưởng đến h́nh ảnh dân chủ của chánh phủ Việt Nam đối với cả Hoa Kỳ lẫn thế giới. Từ trước đến nay, Hoa Kỳ lúc nào cũng chú tâm vào những tệ trạng của chánh phủ Việt Nam, nhất là vấn đề tham nhũng và vấn đề đàn áp. Thật ra th́ những chỉ trích về vấn đề tham nhũng cũng có phần đúng nhưng những chỉ trích của Hoa Kỳ về vấn đề đàn áp có vẻ quá khắc nghiệt. C̣n về những tiến triển khả quan của chế độ Việt Nam chẳng hạn như vấn đề dân chủ vẫn phát triển trong khung cảnh chiến tranh th́ lại không thấy những người chỉ trích hoặc chống đối ở Hoa kỳ nhắc nhở ǵ đến.

Riêng đối với tôi th́ từ một vị trí cách xa Việt Nam quá nửa quả địa cầu, tôi thấy dường như những diễn biến chính trị ở Việt Nam đang cùng một lúc đi vào hai ngă. Một mặt những tiến triển cho thấy Việt Nam càng ngày càng biến dần để trở thành một chánh phủ dân chủ hợp hiến. Mới đây Việt Nam lại chứng tỏ điều này qua cuộc bầu cử Thượng Viện. Tại cả Thượng lẫn Hạ viện đều có những nhân vật chống đối chánh phủ đắc cử. Một trong những nhân vật chống đối điển h́nh đă đắc cử là ông Trần Văn Tuyên, giáo viên dạy tôi ở trường trung học Thăng Long cùng thời với ông Vơ Nguyên Giáp. Kể từ năm 1966, các biến cố chính trị ở Việt Nam cho thấy chánh phủ Việt Nam đang cải thiện để tiến tới một chánh phủ hoàn toàn dân chủ.

Nhưng nếu nh́n qua một khía cạnh khác th́ bên trong chánh phủ Việt Nam vẫn c̣n nạn bè cánh và tranh chấp. Nguyên do chính gây ra vấn đề này là bản tính thích quyền uy của ông Thiệu. Ông Thiệu lúc nào cũng muốn có quyền lực cá nhân và luôn nghi ngờ tất cả những người toan tính giới hạn quyền lực của ông. Tuy ông chính là tổng thống đắc cử của một nước dân chủ mà lề lối làm việc của ông lại không dân chủ chút nào. Những người do chính phủ ông thâu nhận đa số đều nhu nhược và thiếu khả năng. Và chính v́ thế nên họ ít khi dám chống đối ông. Chính họ đă khiến thế giới bên ngoài nh́n vào chánh phủ Việt Nam như một chánh phủ lúc nào cũng thụ động và bất lực. Đă thế, ngay cả trong quân đội ông Thiệu cũng dùng người dựa trên quan điểm trung thành với ông hơn là tài năng. Hậu quả là những viên tướng bất tài đă lăng phí rất nhiều tài năng, ḷng can đảm và nếu không nói đến cả tính mạng của những binh sĩ dưới quyền họ.

Đối với Hoa Kỳ là một nước đă đóng góp cả tài nguyên lẫn sinh mạng của binh sĩ cho Việt Nam th́ những khía cạnh xấu của Việt Nam lúc nào cũng nổi bật c̣n những khía cạnh tốt đẹp th́ lúc nào cũng mù mờ khó thấy. V́ tôi đang cùng làm việc với những dân biểu, Thượng Nghị Sĩ của quốc hội Hoa Kỳ nên tôi biết rằng cuộc bầu cử năm 1971 sẽ là một biến cố vô cùng quan trọng. Cuộc bầu cử này chính là cơ hội để Việt Nam có dịp thể hiện tính cách dân chủ của chính phủ Việt Nam. Nếu có một cuộc bầu cử công bằng, chính trực, Việt Nam sẽ gạt bỏ được tất cả những chỉ trích lên án việc Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho Việt Nam là việc sai lầm.

Vào tháng tư, tôi được tin là ông Kỳ sẽ đứng ra tranh cử với ông Thiệu. Tin tức cũng nói rằng Tướng Minh, người đảo chánh ông Diệm năm 1963 cũng dự định ra tranh cử. Rồi vào ngày 2 tháng 7-1971, quốc hội Việt Nam bắt đầu bàn luận về vấn đề luật lệ bầu cử. Theo hiến pháp năm 1967 th́ cứ bốn năm lại có một cuộc bầu cử tổng thống. Nhưng hiến pháp lại chưa quy định rơ rệt thể thức bầu cử. Lúc này quốc hội đang bàn luận chi tiết các thể thức này. Vào ngày 22 tháng 7, quốc hội thông qua một đạo luật đ̣i hỏi các ứng cử viên phải thâu thập được chữ kư của 40 người trong quốc hội hoặc chữ kư của 100 nhân viên trong các Hội Đồng địa phương. Đạo luật này có thể được coi là một âm mưu của ông Thiệu nhằm mục đích gạt bỏ những ứng cử viên đứng ra tranh cử với ông. Việc ban hành đạo luật đă khiến cuộc bầu cử mất đi tính chất công bằng. Tin tức chưa ghi rơ rệt ông Kỳ và tướng Minh có hội đủ tiêu chuẩn hay không nhưng việc ban hành đạo luật đă khiến mọi người thấy rơ ông Thiệu đang vận động ráo riết để có thể tái đắc cử. Tin tức ngày càng lan rộng về việc ông Thiệu đă dùng cả những phương pháp dọa nạt và hối lộ đối với nhiều dân biểu quốc hội.

Nhưng chỉ vài hôm sau th́ tuy bị những điều khoản trong đạo luật bầu cử mà quốc hội Việt Nam vừa ban hành cản trở, tướng Minh đă t́m được cách hội đủ tiêu chuẩn. Riêng ông Kỳ th́ lại không hội đủ tiêu chuẩn. Quá phẫn khích, ông Kỳ đ̣i hỏi tối cao pháp viện xét lại tính chất hợp pháp của đạo luật bầu cử do quốc hội ban hành. Thấy những diễn biến ngày càng phức tạp, tướng Minh đă bắt đầu ngần ngại về việc đứng ra tranh cử. Tuy lúc này thời gian hăy c̣n quá sớm để kết luận mọi việc, tôi bắt đầu cảm thấy thất vọng. Tôi đă hy vọng cuộc bầu cử sẽ mang lại phần nào những ấn tượng tốt đẹp có thể dùng vào việc ảnh hưởng các quyết định của quốc hội Hoa Kỳ. Thế nhưng diễn biến lúc này cho thấy những vận động rơ rệt của ông Thiệu đă làm cho bộ mặt của Việt Nam trên chính trường quốc tế trở nên khó coi.

Vào ngày 12 tháng 7, cố vấn của ông Thiệu là ông Hoàng Đức Nhă đến Hoa Thịnh Đốn để lượng định phản ứng của Hoa Kỳ. Ông Nhă ở lại một tuần với tôi và tôi đă dẫn ông đến gặp các giới trong chánh phủ và các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ. Ông Nhă nói tiếng Anh rất lưu loát và là người thông minh. V́ đă tốt nghiệp ở một đại học ở Hoa Kỳ, ông Nhă hiểu rơ Hoa Kỳ hơn đa số những người Việt Nam khác. Tuy cách đặt vấn đề một cách thẳng thắn của ông đă khiến nhiều người cho rằng ông quá tự kiêu, tôi lại thấy ông dễ nói chuyện và rất cởi mở. Tôi tin rằng ông Nhă sẽ nh́n thấy ngay tầm mức quan trọng của việc cần phải có một cuộc bầu cử công bằng. Và tôi cũng tin rằng ông Nhă sẽ tŕnh bày rơ rệt những nhận định này với ông Thiệu.

Đối với tôi, ông Nhă là người trung gian giữa tôi và ông Thiệu và tôi cũng khá hiểu ông Nhă để tin ông sẽ thận trọng trong vai tṛ tế nhị này. Nhưng tôi cũng biết rơ vị trí của tôi là một vị trí hết sức khó khăn. Quá tŕnh liên hệ giữa tôi và ông Kỳ, cộng thêm những nghi ngờ của riêng ông Thiệu đối với tôi đă khiến những nhận định của tôi về cuộc bầu cử có thể bị giảm bớt đi ít nhiều giá trị. Trong quá khứ, tôi đă từng trải qua quá nhiều kinh nghiệm tranh chấp giữa ông Thiệu và ông Kỳ v́ vậy trong những năm về sau này, lúc nào tôi cũng cố tránh không để bị vướng vào những sự mâu thuẫn và xích mích giữa ông Kỳ và ông Thiệu. Thật ra th́ đă rất nhiều năm qua tôi không hề suy nghĩ thiên lệch chút nào giữa ông Thiệu và ông Kỳ. V́ hoạt động xa Sài G̣n, tôi không c̣n chú tâm đến những đụng độ cá nhân giữa các nhân vật Việt Nam nữa. Suy tư của tôi đă chuyển hẳn vào sự liên hệ của Việt Nam đối với Hoa Kỳ và các ảnh hưởng của sự liên hệ này đối với vấn đề sống c̣n của Việt Nam. Bởi vậy, sau khi ông Nhă ra về, tôi đă ngồi lại quan sát, phát biểu rất ít và chẳng hề quan tâm (ít nhất th́ tôi cũng có cảm giác là vậy) đến việc yêu cầu được gọi về để tham khảo ư kiến. Ngay cả khi ông Kỳ c̣n đang dằng co kiện cáo trước ṭa, tôi đă dẫn gia đ́nh đi nghỉ mát một tuần ở Haiti.

Lúc tôi trở về th́ Tối Cao Pháp Viện Việt Nam phán xét rằng đạo luật ban hành về việc bầu cử hoàn toàn hợp lệ. Như vậy ông Kỳ không hội đủ tiêu chuẩn để ra tranh cử. Sau quyết định của Tối Cao Pháp Viện Việt Nam, đại sứ Ellsworth Bunker trở lại Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ư kiến. Thường thường mỗi khi trở về, đại sứ Bunker hay cùng tôi ăn trưa và chuyện tṛ rất lâu về những diễn biến đang xảy ra. Lần này tôi rất mong được gặp ông Bunker để t́m hiểu rơ t́nh h́nh Sài G̣n. Vào ngày 13 tháng 8-1971, tôi đă đến Bộ Ngoại Giao để gặp ông Bunker và ông Sullivan. Ngay sau đó, tôi đă gặp riêng ông Bunker. Cả hai ông Bunker, Sullivan và tôi đều lo ngại về những biến chuyển mới của cuộc bầu cử ở Sài G̣n mà giờ đây người ta đă bắt đầu gọi là cuộc độc cử. Vào ngày 14 tháng 8 tôi điện cho ông Thiệu:

Tôi vừa mới nói chuyện với hai ông Bunker và Sullivan trong mấy ngày qua. Trong lúc nói chuyện, cả hai ông đều lo rằng cuộc bầu cử ở Việt Nam sẽ chỉ có một ứng cử viên trong đó mà thôi. . . . Họ suy luận rằng nếu trường hợp này xảy ra th́ quốc hội cùng nhân dân Hoa Kỳ sẽ có cơ hội tha hồ chỉ trích và Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi xin viện trợ. Họ cũng nói rằng tuy chánh phủ Hoa Kỳ là cơ quan hành pháp, nhưng ngân sách của Hoa Kỳ thật sự nằm trong tay quốc hội, nhất là trong t́nh cảnh hiện thời, những suy nghĩ của quốc hội Hoa Kỳ thật là vô chừng, khó đoán. Mới đây, Hạ viện cũng đồng ư với thượng viện từ chối không viện trợ quân sự cho Pakistan và Hy Lạp. So với một năm trước đây th́ việc quốc hội quyết định như vậy thật khó thể tưởng tượng. V́ thế chánh phủ Hoa Kỳ đang dự định gửi một phái đoàn quan sát viên sang Việt Nam để theo dơi cuộc bầu cử. Tuy thế, đa số dân biểu đều cho rằng Hoa Kỳ chẳng nên gửi phái đoàn quan sát nào sang Việt Nam cả...

Về điểm này th́ tôi cũng nhận xét thấy rằng những quan niệm của ông Bunker và ông Sullivan về cuộc bầu cử lại không phản ảnh toàn thể ư kiến của Hoa Kỳ. Ít ra th́ đây cũng là những điều tôi cảm thấy khi gặp ông John Holdridge, phụ tá của ông Kissinger vào ngày 18. Qua ông Holdridge tôi thấy rơ rằng ông Kissinger đă xem vấn đề bầu cử hoàn toàn là vấn đề thứ yếu so với vấn đề phải có một t́nh h́nh "ổn định" ở Việt Nam. Về sau, chính ông Kissinger cũng xác nhận những suy nghĩ của tôi. Ông đă viết trong hồi kư rằng: Tuy những vận động của ông Thiệu "thiếu sáng suốt... cả tổng thống Nixon lẫn tôi đều không có ư định bỏ rơi ông Thiệu; Thật ra th́ cắt bỏ viện trợ kinh tế và quân sự tức là vô h́nh chung hành động để hỗ trợ Bắc Việt. Chúng tôi cho rằng tiếp tục ủng hộ chánh quyền Sài G̣n thật sự không phải là một đặc ân dành cho ông Thiệu mà thật ra là hành động theo chiều hướng lợi ích quốc gia [đối với Hoa Kỳ]."

Thực ra th́ trong giai đoạn này, ông Kissinger vẫn đang cố xoay sở để thực thi những kế hoạch ngoại giao của chính phủ Nixon. Lúc này ông Kissinger mới vừa bắt đầu mở màn đàm phán bí mật cùng Bắc Việt và đang sửa soạn để đàm phán với Trung Hoa. V́ vậy ông Kissinger chẳng muốn ǵ hơn là có một Việt Nam hoàn toàn ổn định. Theo cách nh́n của ông Kissinger th́ cuộc bầu cử là một biến cố rủi ro, "khởi nguồn của những sóng gió bấp bênh và bất định." Nhưng v́ đă chọn ủng hộ ông Thiệu và làm lơ trước những thao túng quyền hành của ông Thiệu, ông Kissinger đă vô t́nh chào đón cuộc độc cử của Việt Nam. Cuối cùng, diễn biến cho thấy trong tất cả các quyết định, quyết định làm lơ trước những vận động của ông Thiệu là quyết định tai hại nhất khiến Việt Nam suy sụp. Thực t́nh th́ từ lúc đó cho đến bây giờ tôi vẫn cho là ông Kissinger thiếu sáng suốt.

Ngày 19 tháng 8, ngay ngày kế tiếp sau khi tôi gặp ông Holdridge th́ tin tức từ Sài G̣n cho biết ông Minh đă tự động rút lui khỏi cuộc bầu cử. Rồi vào ngày 21, Tối Cao Pháp Viện Việt Nam chuyển đổi lại quyết định lúc trước, tuyên bố rằng thật ra ông Kỳ hội đủ điều kiện để ra tranh cử. Tuy thế, hai ngày sau ông Kỳ lại tuyên bố không ra tranh cử nữa. V́ cả ông Kỳ lẫn tướng Minh đều đă thấy rơ việc ông Thiệu quyết tâm kềm chế cuộc bầu cử, nên họ cho rằng nếu họ có đứng ra tranh cử th́ cũng chỉ là cố làm một việc vẫy vùng vô hiệu. Vào ngày 2 tháng 9, ông Thiệu tuyên bố tuy không có ứng cử viên nào đứng ra tranh cử với ông, cuộc bầu cử Tổng Thống ở Việt Nam vẫn tiến hành như dự định.

Những tuyên bối của ông Thiệu đă kết thúc tiến tŕnh dân chủ ở Việt Nam. Viễn tượng (và chẳng bao lâu sau viễn tượng này biến thành sự thật) độc cử đă khiến dân chúng Việt Nam cho rằng quan niệm dân chủ không phải là một quan niệm thực tế. Kể từ lúc đó trở đi, họ kết luận rằng chính trị là một vấn đề đă được quyết định sẵn. Theo họ th́ cuộc độc cử đă khẳng định rơ thực chất của chánh phủ Việt Nam. Họ kết luận rằng dù cho nh́n từ bên trong hay bên ngoài, chánh phủ Việt Nam quả thật là một chánh phủ thối nát và áp bức.

Những hậu quả tai hại của việc thao túng quyền bính sẽ từ từ thâu hẹp ủng hộ của các đoàn thể bên trong Việt Nam và ăn ṃn hàng ngũ các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ ủng hộ Việt Nam trong quốc hội Hoa Kỳ. Cuộc độc cử đă khiến những nghị viên Hoa Kỳ phải suy nghĩ lại xem thực sự Việt Nam có xứng đáng được họ ủng hộ hay không? Đă đành rằng không hẳn tất cả những hậu quả vừa kể đều do cuộc độc cử năm 1971 gây ra, nhưng trong lịch sử dân chủ ngắn ngủi của Việt Nam, cuộc độc cử quả là một ngă rẽ quan trọng. Tại điểm này, chánh phủ Việt Nam đă gạt bỏ những mục tiêu dân chủ của quốc gia để thỏa măn những tham vọng uy quyền của một chế độ độc tài.

Vào mùa thu năm 1971 tôi vẫn chưa hề có ư niệm rơ rệt ǵ về tương lai rồi sẽ ra sao, dĩ nhiên tôi chưa hề tiên liệu được những tai họa đang chờ đón Việt Nam. Tuy thế, tôi đă cảm thấy mệt mỏi và thất vọng. Vào ngày 2 tháng 10, khi nghe tin ông Thiệu chánh thức tái đắc cử, tôi nhận ra rằng ḿnh đang bị đặt vào một t́nh trạng khó xử. Một mặt v́ là đại sứ của một quốc gia có tổng thống vừa mới tái đắc cử, lẽ ra tôi phải xem đây là một dịp đáng mừng và phải đánh điện chúc mừng. Nhưng mặt khác, những lời chúc tụng quả không phản ảnh trung thực ư nghĩ của tôi. Có lẽ đây cũng chỉ là một điều nhỏ mọn, nhưng tôi đă phải suy nghĩ khốn khổ về cách phải làm thế nào để vừa tránh không làm trái với lương tâm lại vừa tránh phải đối xử một cách bất nhă với ông Thiệu v́ dù muốn, dù không th́ ông Thiệu cũng là tổng thống.

Sau khi đă bỏ ra một ngày một đêm suy nghĩ, tôi đi đến một kết luận có lẽ chỉ là một kết luận hiển nhiên đối với những người có đầu óc thực tế hơn tôi. Dĩ nhiên tôi chỉ có hai đường chọn lựa: Gửi điện văn chúc mừng hoặc là không gửi điện văn chúc mừng. Nếu tôi không gửi, chắc chắn sẽ có tin đồn gần, đồn xa, suy nọ luận kia. Nhưng nếu tôi gửi th́ lại hóa ra tự ḿnh từ bỏ tất cả những điều mà tôi đă trọn đời tranh đấu. Cuối cùng tôi quyết định chẳng gửi ǵ cả ngoài một bản tường tŕnh lạnh lùng tŕnh bày phản ứng của Hoa Kỳ đối với cuộc bầu cử.

Sau khi gửi bản tường tŕnh tôi bắt đầu suy nghĩ đến việc từ chức. Tôi biết rơ ông Thiệu, và biết rơ rằng dù ông Thiệu có nói ra hay không về việc tôi cố ư không chúc mừng th́ trong thâm tâm lúc nào ông cũng không quên nổi điều này. Ông Thiệu đă hiểu quá rơ tôi suy nghĩ ra sao về việc độc cử. Hơn nữa, có lẽ ông đă nghi ngờ tôi cùng về phe với đại sứ Bunker để làm áp lực ông và tôi nghĩ rằng rồi đây ông Thiệu cũng sẽ t́m cách thay thế tôi.

Càng suy nghĩ, tôi lại càng thấy rơ vấn đề và lại càng cho rằng lúc này quả là lúc tôi có thể ra đi gọn gàng. Tôi đă ở Hoa Thịnh Đốn gần 5 năm rồi; có lẽ khoảng thời gian phục vụ đă quá đủ. Đời sống sẽ thú vị hơn khi tôi được trở về với tờ Saigon Post. Thỉnh thoảng vào năm trước đây, tôi cũng đă suy nghĩ về việc bắt đầu khởi sự một tờ tuần báo khác hẳn những tờ báo hàng tuần khác. Trong chuyến về thăm Sài G̣n lần trước, tôi đă bàn luận với một số bạn trong giới nhà văn và báo chí. Tất cả đều cho đây là ư kiến rất hay. Ngay trong buổi bàn luận lúc đó th́ ư kiến của tôi mới chỉ là một dự định nhưng lúc này tôi tự hỏi phải chăng đă đến lúc nên chuyển ư kiến này thành hành động?

Tôi quyết định về Sài G̣n nói chuyện cùng bạn bè khi ư kiến làm báo bắt đầu thôi thúc mạnh mẽ. Tuy thế khi gửi điện yêu cầu được về Sài G̣n tôi không hề nhận được điện hồi âm. Rơ ràng đây là một dấu hiệu ǵ đó. Tới lúc này, tôi yêu cầu được chánh thức cho phép quay về. Thay v́ trả lời yêu cầu của tôi mạch lạc, ông Nhă đă điện thoại cho tôi nói vắn tắt rằng chúng ta sẽ "bàn luận chuyện này" sau. Bỗng dưng tôi linh cảm đă có diễn biến ǵ đó và tôi càng cảm thấy ḿnh nên từ chức.

Hẳn nhiên là tôi đă tự đặt ḿnh vào một hoàn cảnh khó xử. Dĩ nhiên, nếu cần ra đi th́ việc tự tôi ra đi vẫn tốt hơn là đợi để ông Thiệu chính thức buộc tôi phải ra đi. Tôi chợt suy nghĩ về ông thân. Cả đời, ông đă sống cuộc sống thanh đạm của một nhà nho coi thường thế sự. Rồi tôi lại nghĩ đến ông chú tôi là cụ Kim vẫn thường nhắc nhở rằng: "con người ta ở đời làm việc ǵ cũng phải cho nó chững." Có lẽ tôi vẫn chưa hoàn toàn thừa hưởng trọn vẹn được những cách sống gạt hẳn thế sự ra ngoài của ông thân nhưng chắc chắn là tôi đă thừa hưởng một phần tính của ông thân và ông chú tôi về vấn đề cảm thấy rất khó chịu khi bị buộc phải làm việc ǵ. Tôi cũng chẳng hiểu đây là ưu điểm hoặc khuyết điểm, nhưng dù có là ǵ đi nữa th́ chính những cảm nghĩ này cũng đă giúp tôi quyết định rất nhiều. Và giờ đây lại một lần nữa tôi quyết định dựa trên sự suy nghĩ đă thừa hưởng từ ông thân. Đây là lúc mà tôi nghĩ rằng tôi cần phải có quyết định từ giă chính trường.

Sau khi đă quyết định rơ rệt mọi sự, đầu tháng 12 tôi tường tŕnh vấn đề thật chi tiết cho ông Thiệu. Bản tường tŕnh tổng kết tất cả các vấn đề trong quá khứ cũng như những sự tiên liệu của tôi trong tương lai. Tôi dùng những thống kê lúc này để tŕnh bày rằng tất cả những sự ủng hộ của Hoa Kỳ đang càng ngày càng cạn dần. Hoa Kỳ lúc này đă đặt câu hỏi về những vấn đề như liệu có nên để lại một ít quân khi rút lui hoặc liệu có nên viện trợ kinh tế cho Việt Nam hay không. Trong bản tường tŕnh tôi nhắc lại một lần nữa những ǵ có lẽ đă trở thành thông lệ vào lúc này rằng mặc dầu chánh phủ Nixon vẫn c̣n một chánh sách ủng hộ tương đối vững vàng, một chánh phủ khác yếu hơn có lẽ đă phải buông trôi từ lâu. Nhưng rồi đây viện trợ và ngay cả đến vấn đề rút quân cũng sẽ tùy thuộc vào quốc hội Hoa Kỳ. "Chúng ta phải biết rằng, tuy tổng thống Hoa Kỳ nắm giữ quyền uy tối thượng trong tay, trên thực tế, những diễn biến chính trị vẫn thường làm ông giảm bớt rất nhiều uy quyền. Quan niệm rằng tổng thống Hoa Kỳ có thể làm được tất cả mọi điều ông muốn là một quan niệm sai lầm." Bản tường tŕnh của tôi tiếp tục như sau:
Trong những tháng vừa qua, v́ những lư do của cả chúng ta lẫn chánh quyền Hoa Kỳ, mức độ viện trợ cho chúng ta đă suy giảm đến độ chỉ c̣n một giọt thừa lại mà thôi. Nếu chúng ta lư luận rằng Hoa Kỳ đang tự động rút quân và Việt Nam quả không cần đến sự viện trợ của họ nữa th́ chẳng c̣n ǵ để nói.
Nhưng nếu chúng ta vẫn nghĩ rằng ít nhất Việt Nam cũng c̣n cần viện trợ trong một thời gian ngắn nữa th́ vấn đề cố gắng giữ lại viện trợ dĩ nhiên quan trọng. Cho dù Việt Nam đồng ư hoặc không đồng ư với những kết luận của dư luận hoặc chánh phủ Hoa Kỳ (chẳng hạn như về vấn đề bầu cử đơn phương, thối nát, thiếu đoàn kết v.v...) th́ Việt Nam cũng không thể làm ngơ trước những thực tế chính trị này. Việt Nam không thể làm ngơ trước những diễn biến mà chính tổng thống Hoa Kỳ cũng không thể bỏ qua...
Chúng ta phải bắt đầu một chiến dịch mới nhằm vào dân chúng Hoa Kỳ cũng như các đoàn thể chính trị để chứng tỏ rằng Việt Nam ngày nay không c̣n cần đến "xương máu" của Hoa Kỳ nữa mà chỉ cần viện trợ về các mặt kinh tế, quân sự. Hơn nữa, chỉ cần những viện trợ này trong một thời gian ngắn mà thôi. Mặc dù có những khuyết điểm không thể tránh khỏi của một quốc gia chậm tiến trong thời chiến tranh, người Việt Nam xứng đáng được Hoa Kỳ viện trợ. Theo tôi th́ một trong những điểm quan trọng nhất của chiến dịch này là h́nh ảnh của một nước Việt Nam đoàn kết, trong sạch, sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm của chính ḿnh.

Như kết luận của bài tường tŕnh nêu ra, tôi đang cố gói ghém tâm sự của tôi hơn là phát biểu bất kỳ điều ǵ đặc biệt mà chính phủ Sài G̣n vẫn chưa biết. Khi đọc lại bản tường tŕnh, tôi có thể thấy những thất vọng của tôi phản ảnh thật rơ rệt qua những danh từ nổi bật như "lỗi lầm của chúng ta", và những đề cập không chút dấu diếm như "cuộc độc cử," "thối nát," "thiếu đoàn kết". Dù sao đi nữa th́ đây cũng là một bản tường tŕnh chót tôi ném vào khoảng không. Tôi cố đưa tất cả những điều tôi tŕnh bày vào tài liệu. Nói tóm lại th́ lời khuyên cuối cùng của tôi với ông Thiệu là sự lập lại một bài học hoàn toàn đơn giản mà riêng tôi đă học hỏi được ở Hoa Thịnh Đốn nhưng ông Thiệu th́ chưa. Bài học đó là: "Tổng Thống Hoa Kỳ không phải hoàn toàn có thể tự quyết. Những người xin viện trợ phải biết phóng tầm nh́n vượt qua ông để quan sát cả quốc hội, phải biết phóng tầm nh́n vượt qua quốc hội để nh́n thẳng vào dư luận dân chúng và báo chí." Trong suốt năm năm trời tôi đă t́m đủ mọi cách để diễn tả điều này. Nhưng trong suốt giai đoạn tôi phục vụ ở Hoa Thịnh Đốn, tôi vẫn chưa học được cách phải làm thế nào để những điều tôi tường tŕnh được ông Thiệu và các nhà lănh đạo ở Việt Nam để ư.

Chẳng bao lâu sau, khi đă thảo xong bản tường tŕnh cho ông Thiệu, tôi điện thoại về cho ông Nhă, nhắn rằng nếu ông Thiệu đang suy nghĩ về việc thay đổi đại sứ hoặc thay đổi chánh phủ, th́ ông Thiệu cứ tự nhiên thay đổi chứ đừng nghĩ ǵ đến việc phải sắp đặt ǵ cho tôi cả. Sau một tháng yên lặng, tôi nhận được điện thoại của ông Trần Văn Lắm. Ông Lắm bảo tôi rằng chánh phủ quả thật đang có thay đổi ở một vài nhiệm sở. Tuy ông Lắm không hề nói rơ rằng tôi là một trong những người có tên trong danh sách thay đổi, nhưng ông muốn biết ư kiến của tôi về vấn đề này.

Thấy rằng việc ông Lắm điện thoại là một dấu hiệu rơ rệt, tôi lập tức soạn thảo một bức thư từ chức gửi ngay đến văn pḥng ông Thiệu. Tôi nói rằng tôi đă phục vụ quá lâu và thấy rằng giờ là lúc tôi cần nghỉ ngơi để quay lại đời sống b́nh thường và chăm sóc gia đ́nh, nhất là mẹ tôi giờ đă quá già. Nhiều ngày sau đó, ông Nhă điện thoại cho tôi báo rằng Tổng Thống Thiệu hiểu rơ t́nh thế của tôi và đồng ư nếu tôi thấy cần phải nghỉ ngơi. Hiện tại đang có rất nhiều thay đổi trong các chức vụ đại sứ và cả hai nơi Luân Đôn cũng như Canberra đều đang cần phải người mới bổ nhiệm. Liệu tôi có muốn thuyên chuyển đi một trong hai chỗ này hay chăng? Tối đó, tôi viết thư cho ông Thiệu ngỏ ư cám ơn những sự ưu đăi của ông đối với tôi, nhưng tôi đă quyết từ chức. Tôi nói với ông Thiệu lúc này đă đến lúc tôi nên trở về Sài G̣n rồi.

33. Hai Màn Ngoạn Mục

Vào ngày 25 tháng giêng năm 1972, khi tôi đang sửa soạn để rời Hoa Thịnh Đốn th́ trong một buổi nói chuyện trực tiếp trên đài truyền h́nh th́ Tổng Thống Nixon đă công bố những hoạt động bí mật của chánh quyền ông với Bắc Việt. Những điều ông công bố đă khiến dư luận xôn xao, kinh ngạc. Riêng đối với tôi th́ những điều ông công bố đă xác nhận tất cả những điều mà tôi vẫn nghe từ trước tới nay. Tổng thống Nixon tuyên bố rằng ông Kissinger đă bí mật đàm phán với Bắc Việt kể từ năm 1969. Trong suốt giai đoạn đàm phán đó đă có cả thảy 12 cuộc họp, cuộc họp lần cuối là vào ngày 13, tháng 9 năm 1971. Trong cuộc đàm phán cuối cùng, Hoa Kỳ đă gửi cho Bắc Việt một đề nghị ḥa b́nh nhưng vẫn chưa được Bắc Việt trả lời. Trong buổi nói chuyện lần này, tổng thống Nixon lên tiếng công khai hóa những đề nghị đă gửi cho Bắc Việt trước kia. Những điều kiện trong đề nghị đó như sau: Hoa Kỳ sẽ rút quân trong ṿng sáu tháng và chấp nhận quốc tế đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống ở Việt Nam cho phép tất cả các ứng cử viên từ "tất cả các đoàn thể chính trị" ở Việt Nam được quyền ứng cử. Ông Thiệu sẽ từ chức một tháng trước khi cuộc bầu cử bắt đầu. Bài diễn văn của Tổng Thống Nixon lần này là một ngón đ̣n chánh trị ngoạn mục để đánh vào cả dư luận quốc tế cũng như dư luận của các giới phản chiến.

Những tiết lộ về các cuộc đàm phàn bí mật của Hoa Kỳ với Bắc Việt trong bài diễn văn của tổng thống Nixon thật là ly kỳ và những tiết lộ về những cuộc đàm phán ở Bắc Kinh của ông Kissinger vào năm trước đây cũng ly kỳ không kém. Những tiết lộ đó đă khiến những đoàn thể phản chiến thấy ḿnh bị hố nặng. Họ không khỏi chưng hửng khi thấy tất cả những đ̣i hỏi nhượng bộ của họ đă được chánh phủ Hoa Kỳ, một chánh phủ mà họ cho là sai lầm, chấp thuận từ lâu nhưng Bắc Việt vẫn hoàn toàn ngoảnh mặt.

Riêng phần tôi th́ sự tuyên bố của Tổng Thống Nixon lại khiến tôi hết sức lo ngại cho tương lai Việt Nam. Thật khó ai có thể tưởng tượng được rằng ông Kissinger đă tự ḿnh đàm phán bí mật cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Vào lúc này, chẳng ai biết rơ hơn tôi về việc những quyền lợi của Hoa Kỳ không c̣n đi đôi với sự sống c̣n của Việt Nam nữa. Tôi đă nhận thấy điều này kể từ khi chánh phủ Nixon bắt đầu nhậm chức. Thực ra th́ việc rút quân của Hoa Kỳ và vấn đế sống c̣n của Việt Nam không phải là hai vấn đề hoàn toàn không thể đi đôi. Tuy thế, vấn đề đáng ngại là việc Hoa Kỳ đă tự đảm nhận trách nhiệm và tự tham gia các cuộc đàm phán như thể đây hoàn toàn là những cuộc đàm phán của riêng Hoa Kỳ. Vào đầu năm 1969, lúc chính phủ Nixon vừa mới nhậm chức, v́ chần chờ và thụ động, ông Thiệu đă để mất cơ hội đóng góp vào các kế hoạch của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến Việt Nam khi các kế hoạch này hăy c̣n phôi thai. Kể từ đó tổng thống Nixon và ông Kissinger đă hoàn toàn chủ động các cuộc đàm phán với Bắc Việt. Trong suốt ba năm trường, điểm nổi bật của chính sách Hoa Kỳ trong việc đàm phán là cố giữ cho Việt Nam tạm ổn định và hoàn toàn thụ động. Tôi đă biết rơ ông Thiệu không hề tham gia soạn thảo các kế hoạch do ông Kissinger đề ra, chẳng những vậy, tôi cũng không biết ông Thiệu thật sự được báo cáo chi tiết rơ rệt đến độ nào? Chỉ cần nh́n vào lề lối hành động bí mật của ông Kissinger và tính hay né tránh vấn đề của ông Thiệu tôi cũng thừa biết rằng ông Thiệu và ông Kissinger khó có thể cùng nhau bàn luận vấn đề đàm phán một cách hữu hiệu cho được.

Tôi không muốn gửi điện hỏi ông Thiệu xem ông có thật sự biết rơ việc đàm phán của Hoa Kỳ hay không. Vụ bà Anna Chenault đă dạy tôi rằng những bức điện của tôi thật sự chẳng có ǵ an toàn, bởi vậy, thay v́ gửi điện, tôi điện thoại cho ông Nhă. Nhưng ông Nhă lại có vẻ không muốn bàn bạc ǵ. Ông Nhă không hề nói rơ là ông Thiệu có hoàn toàn hài ḷng về những cuộc đàm phán bí mật hay không mà chỉ nói vắn tắt rằng "chúng ta sẽ bàn bạc chuyện này sau."

Một thời gian ngắn sau khi Tổng Thống Nixon đọc diễn văn, đại sứ Bunker trở về Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ư kiến. Như thường lệ, tôi mời ông Bunker đến ṭa đại sứ để tôi có dịp nói chuyện với ông. Với tư cách là đại sứ của Hoa Kỳ ở Sài G̣n, ông Bunker thực sự đă là người trung gian giữa ông Kissinger và ông Thiệu. Tôi muốn gặp ông Bunker để có thể biết rơ phản ứng của ông Thiệu. Khi chúng tôi gặp nhau, ông Bunker nói với tôi rằng: "Như anh cũng biết, thăm ḍ phản ứng của ông Thiệu nào phải là chuyện dễ dàng." Ông Bunker nói rằng ông có chuyển tất cả những bản báo cáo của ông Kissinger cho ông Thiệu nhưng ông chẳng biết phản ứng của ông Thiệu thực sự ra sao.

Vào cuối tháng 2, th́ tin tức về mọi việc bắt đầu sáng tỏ đôi phần khi ông Nhă đến Hoa Kỳ. Ông Nhă cho biết rằng tuy có được báo cáo, những tin tức báo cáo ông Thiệu nhận được rất là sơ sài. Thường th́ ông Kissinger chỉ gởi một bản báo cáo rất ngắn cho ông Bunker để ông Bunker chuyển thẳng cho ông Thiệu. Ông Thiệu cũng được hỏi ư kiến về một số những điều tổng quát, nhưng không hề biết rơ chi tiết như ông mong mỏi. Đương nhiên ông Thiệu có rất ít cơ hội để bày tỏ quan niệm riêng. Ông đă gượng gạo đồng ư những vấn đề như vấn đề quốc tế sẽ đứng ra tổ chức cuộc bầu cử và vấn đề ông phải tự động từ chức tổng thống. Ông Thiệu chấp nhận những đ̣i hỏi của Hoa Kỳ v́ hai lư do. Thứ nhất: Ông Thiệu cho rằng Bắc Việt sẽ không bao giờ chấp nhận những đề nghị của Hoa Kỳ. Thứ hai: Ông Thiệu muốn tránh việc phải đương đầu với tổng thống Nixon. Nói chung th́ những diễn biến trong giai đoạn này là một triệu chứng tôi đă có dịp quan sát kể từ năm 1965. Kể từ khi Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp, lúc nào họ cũng nắm phần quyết định các chính sách đi đôi với vấn đề sinh tử của Việt Nam nhưng lại quyết định dựa trên những quyền lợi của Hoa Kỳ. Khi quyết định những chính sách có liên quan đến sự sống c̣n của Việt Nam Hoa Kỳ thường chẳng để ư ǵ đến chánh phủ Việt Nam, hoặc giả nếu có để ư đi chăng nữa th́ họ cũng chỉ là để ư một cách rất sơ sài và hời hợt.

Thái độ làm việc độc đoán của Hoa Kỳ đă dẫn đến một t́nh trạng bế tắc trong sự cộng tác của cả hai quốc gia Mỹ, Việt. Hậu quả của những thái độ đó là do những thất bại của chánh phủ Hoa Kỳ trên b́nh diện luân lư đi đôi cùng với những thất bại của Việt Nam v́ thiếu khả năng lănh đạo, thụ động, và không đủ khả năng để nhận lănh trách nhiệm quốc gia. Dĩ nhiên một trong những lư do chính khiến Hoa Kỳ có thái độ độc đoán khi cộng tác với người Việt cũng là do những đúc kết dị biệt giữa lịch sử Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng dầu ǵ đi nữa th́ tôi vẫn qui lư do chính vào vai tṛ của những người lănh đạo. Những lư do dó là: Bản tánh thích bí mật, thích mưu mẹo và vận động của ông Kissinger; Bản tính quanh co, lưỡng lự và hay tránh né vấn đề của ông Thiệu.

V́ gần gũi với cả hai phía, tôi đă có dịp quan sát sự liên hệ này kéo dài trong suốt những năm qua. Chẳng những thế, tôi c̣n nh́n rơ cả sự bất lực của tôi khi phải đối phó với vấn đề này. Khi viết thư từ chức, tôi đă nghĩ rằng ít nhất th́ sau khi từ chức tôi cũng tránh được phần nào những thất vọng đi đôi với công việc. Nhưng lạ thay, dường như vấn đề từ chức của tôi vẫn chưa được Sài G̣n để ư. Tôi biết Sài G̣n chắc chắn đă nhận được thư từ chức của tôi rồi, nhưng chẳng hiểu sao chính phủ Sài G̣n vẫn âm thầm yên lặng, chẳng hề gửi lại cho tôi một chữ nói rằng ngày nào là ngày tôi chuyển nhiệm hoặc tỏ vẻ nhận biết yêu cầu từ chức của tôi.

Hậu quả là cho đến cuối tháng 3 năm 1971, tôi vẫn c̣n làm việc, vẫn c̣n loay hoay t́m hiểu tin tức của cả Sài G̣n lẫn Hoa Thịnh Đốn. Khi tin tức về những cuộc đàm phán bí mật được công bố, tôi lại càng cảm thấy lo lắng v́ cách làm việc của ông Kissinger. Tôi không biết chẳng hiểu phải t́m cách nào để có thể tiên liệu cho đúng được các chiều hướng và quyết định của chính phủ Hoa Kỳ. Để t́m hiểu các vấn đề này, tôi đến gặp các phụ tá của ông Kissinger như các ông Holdridge, Negroponte và nhà báo kỳ cựu Marvin Kalb của đài CBS chuyên về các vấn đề ngoại giao. Ông Marvin Kalb là người đi sát với ông Kissinger và hiểu rơ cách làm việc của ông Kissinger. Tôi muốn hiểu rơ quan niệm "uyển chuyển," một danh từ tôi đă nghe ông Kissinger dùng trong cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và ông vào năm 1969. Lúc này danh từ "Uyển Chuyển" đă mang nhiều sắc thái của một điềm bất tường.

Trong khi những điềm bất tường về mặt chính trị chỉ mới manh nha th́ những đe dọa về mặt quân sự lại rơ rệt hơn. Tuy vào ngày 13 tháng 9 năm 1972, Bắc Việt vẫn c̣n đàm phán mà vào tháng 10 họ đă chấm dứt các cuộc đàm phán. Lúc này đang là năm 1972, năm bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ và dĩ nhiên Việt Cộng vẫn c̣n nhớ những kết quả họ đă gặt hái được vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 trong lần bầu cử tổng thống Hoa Kỳ trước đây. Ông Robert Thompson, một chuyên viên dầy kinh nghiệm chống du kích đă khẳng định rằng Việt Cộng sẽ mở cuộc tấn công trước tháng 10 để có thể lợi dụng dư luận trong giai đoạn Hoa Kỳ tiến hành cuộc bầu cử năm 1972. Ngoài những dự đoán của các chuyên gia, c̣n một yếu tố khác cho thấy Việt Cộng sắp sửa tấn công là yếu tố thời tiết. Thời tiết ở Việt Nam lúc này đang bắt đầu chuyển sang mùa khô. Tất cả những tin tức t́nh báo đều cho thấy Bắc Việt đă sửa soạn từ nhiều tháng trước. V́ tháng 7 là tháng thời tiết chuyển mùa nên trễ lắm là vào tháng 6 bắt buộc miền Bắc sẽ phải rục rịch. Lúc này đă vào giữa tháng 3. Thời khóa biểu của tôi đặc nghịt các cuộc họp với Bộ Ngoại Giao và những nhân viên quân sự. -Ông Sullivan, ông Wesmoreland, ông Laird, và nhiều tướng lănh khác đang điều khiển chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Lúc này, quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam đă giảm đến độ sự hiện diện của Hoa Kỳ gần như không đáng kể. Hơn nữa, Hoa Kỳ không c̣n giữ vai tṛ lănh đạo quân sự. V́ thế nên, những trận đụng độ lúc này sẽ là những đụng độ của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa và Cộng Sản. Ở thời điểm này th́ Đàm Phán, nguyên là phần đầu của chiến thuật lưỡng đầu, đă thất bại hoàn toàn. Giờ là lúc thử thách của phần hai. Kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh sắp bước vào giai đoạn thử thách. Một cuộc đụng độ lớn sắp bắt đầu. Câu hỏi chỉ c̣n là: Cuộc đụng độ sẽ xảy ra ở đâu và vào lúc nào. Vào ngày 30 tháng 3, quân đội Bắc Việt vượt qua vùng phi quân sự tấn công vào thành phố Quảng Trị. Lúc đầu chưa ai có thể xác định đây là một phần của cuộc tổng tấn công hay chỉ là một cuộc công kích ḍ dẫm. Nhưng trong ṿng một tuần cuộc tấn công thứ hai bắt đầu từ biên giới Cam Bốt tấn công nhắm vào An Lộc, phía bắc Sài G̣n.

Khi Quảng Trị và An Lộc bị tấn công th́ lúc nào tôi cũng gần như gắn liền với máy điện thoại. Tôi nói chuyện với chánh phủ Sài G̣n, với các nhân viên của tôi ở Ngũ Giác Đài và Bộ Ngoại Giao. Tôi cố theo dơi An Lộc trong những trận giao tranh ngày càng lan rộng. Tuy tôi đă đoán trước rằng thế nào Việt Cộng cũng tấn công, nhưng tôi quả thật chưa thể tiên đoán trước được tầm mức rộng lớn và dữ dội của những cuộc tấn công lúc này. Cả các đồng nghiệp của tôi ở Bộ Ngoại Giao và Ngũ Giác Đài h́nh như cũng kinh ngạc chẳng kém ǵ tôi. Vào tuần lễ thứ hai, đă có 12 sư đoàn Bắc Việt nhập trận. Một số quân khổng lồ từ Bắc Việt đang tiến vào xâm lược Việt Nam.

Giờ phút thử thách của quân đội Việt Nam làm tôi lo lắng. Một mặt, tôi vô cùng tin tưởng các đơn vị thiện chiến như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động của quân đội Việt Nam. Nhưng một mặt khác th́ lúc này, sự hỗ trợ của quân đội Hoa Kỳ đă hoàn toàn mất hẳn. Tôi theo sát những diễn biến ở chiến trường và những chi tiết về sư đoàn 3 đang bị tấn công và cảnh quân đội Bắc Việt tiến dần tới vùng thủ đô Quảng Trị. Nhưng dù Tổng Thống Nixon đă áp dụng kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh, ông vẫn nhất định không bỏ mặc những cuộc tấn công của Bắc Việt. Vào ngày 5 tháng 4, phi cơ Hoa Kỳ dội bom vào những nơi tiếp vận của Bắc Việt, trong khi những hải quân và không quân của Hoa Kỳ sửa soạn nhập trận.

Vào ngày 15 tháng 4, khi những cuộc tấn công của Bắc Việt phát động toàn lực th́ máy bay B-52 đă dội bom xuống Hà Nội và Hải Pḥng. Đây là lần đầu tiên trong suốt bốn năm những thành phố như Hà Nội và Hải Pḥng bị tấn công. Đối với tổng thống Nixon và ông Kissinger th́ những cuộc tấn công này chứng tỏ sự quyết tâm của Hoa Kỳ. Nhưng giới phản chiến ở Hoa Kỳ lại có thái độ khác hẳn. Sinh viên Hoa Kỳ phản ứng tức thời. Biểu t́nh bùng ra khắp mọi nơi trên toàn quốc, một cuộc biểu t́nh trong khuôn viên đại học đă khiến hàng trăm sinh viên chống đối bị bắt. Tại thượng viện, Ủy ban Ngoại Giao của Thượng Nghị Sĩ Fullbright gọi Bộ trưởng Quốc Pḥng Laird và Ngoại Trưởng Rogers ra điều trần trước quốc hội. Cuộc điều trần trước máy truyền h́nh diễn ra chẳng khác nào một cuộc đụng độ giữa hai vị hai vị Bộ trưởng và các Thượng Nghị Sĩ phản chiến.

Lúc này, cuộc chiến đă bước vào giai đoạn quyết định. Cộng sản đang thu thập tất cả mọi lực lượng tấn công mănh liệt vào Miền Nam. Về phía Hoa Kỳ th́ tổng thống Nixon đă cho lệnh các lực lượng hải quân và không quân của Hoa Kỳ tự do tấn công bất chấp các cuộc biểu t́nh hoặc sự chống đối của quốc hội Hoa Kỳ. Những cuộc biểu t́nh diễn ra ngày càng ồ ạt ở Hoa Thịnh Đốn đă khiến những quan sát viên của Hoa Kỳ hết sức theo dơi những trận đụng độ ở Việt Nam. Câu hỏi đơn giản của họ là: Liệu các lực lượng quân đội Việt Nam cùng với sự yểm trợ của Hoa Kỳ, có đủ sức bảo vệ Việt Nam không? Hay là những chính sách trong gần suốt 20 năm của Hoa Kỳ sẽ tiêu tan thành mây khói cùng với sự sụp đổ của Việt Nam?

Vào trung tuần tháng 4, vấn đề vẫn chưa hoàn toàn ngă ngũ. Vào ngày 21, ông Alexander Haig từ Việt Nam trở về mang theo những tin tức rơ rệt nhất. Tối đó tôi điện cho ông Thiệu: "Ông Haig cho rằng tinh thần quân đội Việt Nam rất cao. Trừ vài trường hợp lẻ tẻ, quân đội Việt Nam đă chiến đấu rất hữu hiệu. Ông Haig cũng đồng ư với những nhận định t́nh h́nh của chúng ta rằng các lực lượng Việt Nam vẫn c̣n có thể cầm cự trong một khoảng thời gian ngắn nữa. Việc duy nhất khiến ông Haig lo ngại là sự tổn thất của quân đội Việt Nam có thể khiến tinh thần chiến đấu của các binh sĩ Việt Nam suy giảm. Dư luận Hoa Kỳ cho rằng câu trả lời về sức mạnh của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa hoàn toàn phụ thuộc vào những trận đụng độ của quân đội hai miền Nam, Bắc và những phản ứng của quân đội Miền Nam Việt Nam."

Vào ngày 1 tháng 5, mạn bắc của Quảng Trị bị hai sư đoàn 304, 308 và xe tăng yểm trợ của Bắc Việt đánh chiếm. Sư đoàn 3 Bộ Binh của Việt Nam tan ră dưới áp lực của cuộc tấn công này. Khi Quảng Trị mất, những toán tàn quân của sư đoàn 3 và dân chúng Quảng Trị đă ùa ra đường phố để chạy tản cư. Trên nhiều đoạn đường tản cư nằm trong tầm pháo binh của Việt Cộng những đoàn tản cư đă bị dội pháo. Cả Huế lẫn Kom Tum đều bị đe dọa. Cách Sài G̣n khoảng sáu mươi dặm, gần biên giới Cam Bốt, lúc này An Lộc cũng đang bị bao vây.

Sau ngày mất Quảng Trị, Kissinger đến họp cùng Lê Đức Thọ ở Ba Lê. Đây là cuộc họp đầu tiên trong suốt 8 tháng. Sau này Kissinger viết lại rằng cung cách của Lê Đức Thọ thật là kiêu ngạo. Thọ đă cả quyết rằng Bắc Việt chắc chắn sẽ toàn thắng. Ít lâu sau t́nh thế cho thấy sự lạc quan của Thọ hăy c̣n quá sớm. Tuy những đơn vị của Việt Nam Cộng Ḥa đă ngỡ ngàng vào lúc đầu v́ tầm mức lớn rộng của cuộc tấn công cùng những xe tăng, đại pháo của Bắc Việt, chẳng bao lâu sau họ đă bắt đầu chấn chỉnh, chiến đấu mănh liệt để giữ từng tấc đất. Trên tất cả các mặt trận Bắc Việt tấn công, những bước tấn của Bắc Việt đều bị chặn đứng. Quân đội Miền Nam Việt Nam đă anh dũng chiến đấu dưới sự yểm trợ của không quân Hoa Kư.

Trong ba mặt trận kể trên, An Lộc là nơi đẫm máu và bi thảm nhất. Nh́n dưới một khía cạnh nào đó th́ đây chính là một trận đánh điển h́nh cho tất cả những trận đánh khác đang diễn ra khắp mọi nơi trong toàn lănh thổ Miền Nam Việt Nam. Thị Trấn An Lộc nằm ở giữa quốc lộ 13 và là một khu vực chỉ cách những căn cứ Việt Cộng ở Cam Bốt khoảng 15 dặm. Bên trên An Lộc là những triền thung lũng và những đồn điền cao su. Vào ngày 7 tháng 4 và ngày 9 tháng 7, An Lộc bị bao vây trong một chiến trận chẳng khác ǵ cuộc bao vây Stalingrad.

Tại An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng có khoảng 6000 quân, bao gồm phần nhiều địa phương quân cùng với một số đơn vị của sư đoàn 5. Trong khi đó Việt Cộng đă tấn công ông bằng các sư đoàn 5, 7, 9, sư đoàn pháo binh 75 và ba tiểu đoàn thiết giáp. Tổng cộng số quân Bắc Việt dùng tấn công vào An Lộc kể cả các đơn vị chặn đường là 28,000. Vào ngày 11 tháng 4, Việt Cộng phá tan những tiền đồn phía trước An Lộc. Vào ngày 12 quân đội Bắc Việt vây kín thành phố An Lộc.

Ngày 13-7, sau khi đă pháo kích kịch liệt, đợt tấn công đầu của Việt Cộng tấn công thẳng vào các đơn vị của Miền Nam Việt Nam đang bị bao vây. Cuộc tấn công ngừng lại khi đă chiếm được một phần ba thành phố An Lộc. Hai ngày sau một cuộc tổng tấn công khác lại bắt đầu. Lần này Việt Cộng tiến sâu hơn, cuộc đụng độ diễn ra ngay tại những ngôi nhà trong thành phố cho đến khi Việt Cộng bị đẩy lui bằng những trận dội bom gần sát nơi Bộ Tư Lệnh của tướng Hưng.

Những người lính tử thủ và những người dân An Lộc lúc này chỉ sống nhờ những thực phẩm, thuốc men và vũ khí tiếp liệu bằng dù. Hơn hai phần ba những phần tiếp liệu rơi vào phía sau hàng tiền tuyến của quân đội Bắc Việt khi những máy bay tiếp vận C-130 phải di chuyển để tránh né những loạt tác xạ của súng pḥng không. Tuy ṿng đai tự vệ của quân đội An Lộc ngày càng thu hẹp, họ đă chiến đấu nhiều tuần trong t́nh trạng cô thế, thiếu binh sĩ, thiếu vũ khí và đă đẩy lui được những đoàn bộ binh và thiết giáp của Bắc Việt.

Một tháng sau, sư đoàn 5 và sư đoàn 9 Việt Cộng lại đồng loạt tấn công các mặt bắc, đông bắc, nam và tây. Rồi qua cửa phía Tây An Lộc, trung đoàn 272 của Việt Cộng tấn công thẳng vào những binh lính tự vệ Việt Nam. Vào lúc 10 giờ sáng, Việt Cộng đă chiếm những ṭa Bin Đinh công cộng và chỉ c̣n cách Bộ Tư Lệnh của Tướng Hưng khoảng 150 thước. Ở mặt Bắc, Việt Cộng tấn công chọc thủng pḥng tuyến của quân đội Việt Nam và vào gần đến trung tâm thành phố. Tại mặt Nam, các lực lượng Việt Cộng đang cố tiến qua những hàng rào tự vệ của quân lính Việt Nam lúc này đă kiệt sức và bị chấn động nhiều v́ bom.

Rạng đông ngày 12 tháng 5, hai sư đoàn 5 và 9 của Việt Cộng lại tấn công vào trung tâm thành phố. Nhưng những binh sĩ Miền Nam cùng những phi công yểm trợ của cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ vẫn anh dũng chiến đấu. Oanh tạc cơ yểm trợ cùng những lằn đạn gần kiệt của quân đội Việt Nam đă đánh bật trả lại những cuộc tấn công hung hăn của Việt Cộng. Vào lúc cuối ngày, t́nh thế cho thấy quân đội Việt Cộng đă mất cả tinh thần lẫn nhuệ khí. Sau đợt tấn công cuối cùng vào An Lộc Việt Cộng đă dùng cạn khả năng tấn công.

Những ngày sau đó sư đoàn 5 Bắc Việt tháo lui để nghỉ ngơi và bù đắp những tổn thất trong lúc tấn công. Tuy thế sư đoàn 9 của Bắc Việt vẫn đóng quân bao vây thành phố và tấn công vào trung tâm An Lộc bằng những đơn vị nhỏ. Lúc này sự tự vệ của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa ở An Lộc quả đă vượt trên tầm ước định của Bắc Việt. Vào cuối tháng 5, khi phần lớn các súng cao xạ bắn máy bay của Bắc Việt đă bị triệt hạ, trực thăng và máy bay chuyển vận đă có thể tới lui thường xuyên hơn. Cuối cùng, vào ngày 9 tháng 7, quân tiếp viện của sư đoàn 21 Việt Nam cùng những đơn vị khác chọc thủng ṿng vây của sư đoàn 7 Bắc Việt dọc theo quốc lộ 13 và liên lạc được với những binh sĩ đang tử thủ ở An Lộc. Trong cuộc tấn công để chọc thủng ṿng vây của Bắc Việt ở An Lộc, các đơn vị của Việt Nam Cộng Ḥa đă đụng độ với sư đoàn 7 của Việt Cộng suốt hai tháng trường. Sau cuộc tấn công đó, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa thiệt hại mất 4000 quân, trong khi Bắc Việt thiệt hại 6000 quân.

An Lộc không phải là một chiến thắng có tính cách chiến thuật mà là một sự thành công thể hiện được sự trưởng thành của quân đội Việt Nam qua kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Mặc dầu kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh vẫn c̣n nhiều khuyết điểm, nhưng nói chung th́ kế hoạch này vẫn thành công đáng kể. Chiến thắng An Lộc đă chứng tỏ khả năng chiến đấu kiêu hùng của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Qua chiến thắng đó, quân đội Việt Nam đă chứng tỏ rằng họ có thể đẩy lui được những cuộc tấn công của các lực lượng Cộng Sản được trang bị đầy đủ hơn hẳn về mọi mặt. Chiến thắng An Lộc c̣n cho thấy rằng nếu có các lực lượng không quân yểm trợ, th́ quân đội Việt Nam sẽ thừa sức chu toàn những nhiệm vụ được giao phó.

Đợt tấn công cuối cùng của Cộng Sản vào An Lộc bị đẩy lui vào ngày 12 tháng 5. Tuy Quảng Trị bị lọt vào tay Bắc Việt, nhưng quân đội Bắc Việt vẫn không đủ khả năng để tấn công vào Huế. Và cả những cuộc tấn công của Bắc Việt vào cao nguyên cũng thất bại. Khi t́nh thế đă rơ rệt rằng Miền Nam Việt Nam vẫn đứng vững sau cuộc tổng tấn công mùa xuân th́ tôi bắt đầu chuẫn bị để từ chức. Vào cuối tháng 5, tôi bắt đầu sửa soạn từ giă các bạn bè trong giới ngoại giao, và vào đầu tháng 6, tôi đến ṭa Bạch Ốc để chào tổng thống Nixon. Tôi và nhà tôi cùng ăn bữa trưa giă từ với ông bà Averell Harriman rồi đến dự một bữa trưa giă từ khác với ông bà George Aiken. Tôi gặp tất cả những bạn bè và đồng nghiệp và những cộng sự viên đă cùng làm việc với tôi trong suốt bao năm: Ông Rogers, ông Westmoreland, ông Laird, ông William Sullivan, ông Alexis Johnson, ông Alexander Haig, các nhân viên phụ tá của ông Kissinger như các ông John Holdridge và John Negroponte, và các bạn bè trong quốc hội như Thượng Nghị Sĩ Tower và dân biểu Clement Zablocki.

Buổi lễ giă từ thật là bịn rịn đối với rất nhiều người. Tôi cảm thấy dường như tôi đă ở Hoa Thịnh Đốn lâu lắm rồi. Dĩ nhiên là tôi đă tự ư rời Hoa Thịnh Đốn. Và v́ thế tôi cho rằng tôi đă sửa soạn kỹ lưỡng trước khi giă từ. Tuy vậy, ở những phút cuối, khi chia tay bạn bè và những cộng sự viên tận tụy đă cùng làm việc với tôi trong nhiều năm, tôi cũng vẫn cảm thấy có đôi phần xao xuyến.

Từ phi trường Dulles International tôi và gia đ́nh bay qua Ba Lê. Chúng tôi ở lại Ba Lê một tuần rồi mướn một chiếc xe Peugeot, cả gia đ́nh chen chúc chạy thẳng route Napoléon tới Nice, Cannes và Grenoble, rồi vào St. Gervais, một tỉnh nhỏ nằm cạnh biên giới Thụy Sĩ, nơi chúng tôi đă từng trú ngụ suốt một năm khi nhà tôi phải đi dưỡng bệnh. Tại đây chúng tôi ghé thăm những người đă từng săn sóc nhà tôi hai mươi năm về trước, rồi đi thẳng sang Ư Đại Lợi.

Chuyến đi này quả thật là một chuyến du hành khó quên. Chúng tôi đến Geneva, vượt những ngọn núi Alps ở Ư Đại Lợi, vào thành phố Venice huyền thoại ở Áo và đi qua những nhà thờ sáng chói của thành phố Florence diễm lệ. Trong chuyến đi đó, chúng tôi ḥa ḿnh vào với những toán du khách khác để thưởng thức những cảnh đẹp xung quanh. Đôi khi chúng tôi chẳng c̣n nhớ rơ là ḿnh đang ở đâu nữa. Tôi cảm thấy gia đ́nh tôi lúc này chẳng khác nào một gia đ́nh người Nhật đang trên đường du ngoạn.

Sau hai tháng du ngoạn du ngoạn, chúng tôi trở lại Ba Lê để sửa soạn cho chuyến bay về Sài G̣n. Lúc này là giữa tháng 8. Tôi vẫn chưa biết rằng Kissinger cùng Lê Đức Thọ đă tiếp tục những cuộc đàm phán bí mật. Tôi cũng chưa biết rằng hai bên đă hiểu rơ sức mạnh của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa sau cuộc Tổng Tấn Công Mùa Xuân và đă bắt đầu thảo luận những vấn đề tổng quát của kế hoạch đàm phán.

Tạm thời những biến chuyển động trời này vẫn c̣n nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tuy tôi đă trở về với bầu không khí chính trị sôi sục của Sài G̣n, nhưng lúc này tôi chỉ là một người ngoại cuộc. Tôi bắt đầu đến ṭa soạn Saigon Post, t́m cách ghép ḿnh vào kỷ luật làm việc hàng ngày của ṭa báo. Tôi cũng đă bắt đầu sắp xếp để cho ra một tờ báo văn học nghệ thuật mà tôi đă nghĩ đến lúc trước. Tôi thu xếp các vấn đề tài chánh, mướn chủ bút và các văn sĩ và bắt đầu cho ra một tờ báo văn học nghệ thuật mà chúng tôi đặt tên là Gió Mới.

Dĩ nhiên là khi tôi quay lại th́ Sài G̣n và cảm tưởng của tôi đối với đời sống Sài G̣n vẫn chẳng có ǵ thay đổi. Tôi lại bắt đầu chú tâm lắng nghe những diễn biến trong bầu không khí sinh hoạt của thành phố. V́ chiến cuộc ngày càng giảm dần nên những đa số những bạn bè tôi ở trong giới quân sự đều có vẻ phấn khởi hoặc ít ra th́ họ cũng rất lạc quan. Họ đă nhiều lần bàn luận về trận đánh anh dũng bảo vệ An Lộc và họ cho rằng nếu đụng độ thực sự xảy ra th́ Việt Nam có thể đối phó được với Bắc Việt. Tuy nhiên vấn đề đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn làm mọi người lo lăng. Ông Kissinger vừa đến Sài G̣n. Chuyến đi của ông cho thấy vấn đề quân sự đă tạm lắng xuống để nhường chỗ cho cho những cuộc đàm phán trên trường Ngoại Giao. Gần như ai cũng biết rằng rồi đây Kissinger và Lê Đức Thọ sẽ cùng đi đến một kết luận nhưng kết luận đó ra sao th́ lại chẳng ai có thể đoán trước được.

Vào đầu tháng 9-1972, tôi đến dinh độc lập thăm ông Thiệu. Cuộc gặp gỡ hoàn toàn vui vẻ với những nụ cười, những cái bắt tay và những câu chuyện xă giao. Cả hai chúng tôi đều tránh nói đến chuyện chính trị. Trong những tháng kế tiếp sau đó, ông Thiệu lại nhiều lần mời tôi và nhà tôi đến dự những bữa tiệc vừa xă giao nhưng cũng vừa chính trị của ông. Có lẽ ông Thiệu đă cố dùng những buổi tiệc này để xoa dịu những sự khó chịu giữa chúng tôi trong quá khứ.

Vào giữa tháng 10, người thay thế tôi ở Hoa Thịnh Đốn là ông Trần Kim Phượng trở về Sài G̣n để sửa soạn cho cuộc gặp gỡ của ông Thiệu và Kissinger vào ngày 19-10. Trong thời gian ông Phượng ở Việt Nam, th́ chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Qua ông Phượng tôi biết rằng Kissinger và Lê Đức Thọ đă đạt được một thỏa hiệp. Kissinger đến Sài G̣n lần này là để t́m cách thuyết phục ông Thiệu đồng ư.

Nếu chỉ nói riêng về việc đàm phán th́ ư kiến của ông Phượng cũng trùng đúng với ư kiến của tôi. Ư kiến đó là: Hoa Kỳ đang t́m mọi cách để rút ra khỏi Việt Nam. Vấn đề chính của họ là làm thế nào để đạt được sự thỏa thuận của Bắc Việt. Lúc này t́nh thế cho thấy Bắc Việt đă đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của tổng thống Nixon và ông Kissinger: Trao trả tù binh và gián tiếp nh́n nhận chánh phủ Miền Nam Việt Nam. Để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ rút quân toàn bộ, không để lại dù chỉ là những số quân tối thiểu như ở Đại Hàn trước đây. Hơn nữa, Hoa Kỳ cũng không bắt buộc Bắc Việt phải rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Chúng tôi cùng nghĩ rằng thế nào Hoa Kỳ cũng sẽ chấp nhận. Dĩ nhiên, ông Thiệu sẽ cực lực phản đối những vấn đề đă được Hoa Kỳ thỏa thuận. Sự phản đối của ông Thiệu có thể sẽ đưa đến những t́nh trạng khó khăn. Tuy thế, cả hai chúng tôi đều biết rằng rồi đây ông Thiệu cũng sẽ phải đầu hàng v́ những áp lực của Hoa Kỳ.

Khi bản dự thảo của hiệp định Ba Lê được công bố, ông Thiệu chẳng những chỉ phản đối mà c̣n tỏ vẻ phẫn nộ về nhiều điều khoản trong bản thỏa hiệp. Tin đồn càng ngày lan rộng về việc ông Thiệu không được thông báo ǵ về những điều đă được thỏa thuận giữa Kissinger và Lê Đức Thọ trong giai đoạn đàm phán cuối cùng. Dĩ nhiên ông Thiệu khó thể chấp nhận việc Kissinger đưa ra những sự đă rồi, nhất là trong một bản dự thảo đầy dẫy những thiếu sót và trước sau bất nhất như bản dự thảo của Kissinger và Lê Đức Thọ . Một trong những điểm khó thể chấp nhận là vấn đề bản dự thảo đă đề cập đến "ba quốc gia" Đông Dương tức là Việt Nam, Lào, Cam Bốt và chỉ đề cập đến một -chứ không phải hai- nước Việt Nam. Vào ngày 23 tháng 10, khi ông Kissinger rời Sài G̣n th́ dư luận đồn rằng ông Thiệu đă bác bỏ những thỏa hiệp mà ông Kissinger đă điều đ́nh. Ngày 24, ông Thiệu lên tiếng phản đối trên đài phát thanh, chính thức tuyên bố ông không chấp nhận bản dự thảo thỏa hiệp. Ông Thiệu nói rằng ông không chấp nhận bất kỳ một h́nh thức liên hiệp nào cả và không đồng ư về việc Hoa Kỳ cho phép Hà Nội vẫn được đóng quân trong lănh thổ Miền Nam Việt Nam. Ông đưa ra đề nghị đàm phán trực tiếp giữa Sài G̣n và Hà Nội cũng như đàm phán trực tiếp giữa Sài G̣n và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Việt Cộng.

Sau bài diễn văn của ông Thiệu, Sài G̣n lại xôn xao bàn luận về những áp lực của Hoa Kỳ cũng như về mức độ chịu đựng của ông Thiệu. Thái độ cứng rắn của ông Thiệu được dân chúng ủng hộ. Có lẽ đây là phản ứng tự nhiên của một quốc gia nhỏ bé phẫn hận trước những hành động của một đồng minh khổng lồ. Tuy thế, đây chỉ là những phản ứng ban đầu. Chẳng bao lâu sau t́nh thế cho thấy ông Thiệu không thể tiếp tục chống đối và đă bị buộc phải chấp nhận bản dự thảo thỏa hiệp của Hoa Kỳ và Bắc Việt. Sự thể cho thấy chánh phủ của ông Thiệu quả thật không thể chịu đựng nổi những sự mất mát lớn lao như mất tất cả những sự ủng hộ của Hoa Kỳ.

Trong tháng 10, tôi và ông Hoàng Đức Nhă gặp nhau thường xuyên hơn. Đây là một trong những giai đoạn khó khăn cho ông Nhă và ông Thiệu. Chánh phủ Việt Nam đă đưa cho ông Kissinger một bản liệt kê gồm 69 điều khoản cần thay đổi trong bản dự thảo thỏa hiệp mà ông Kissinger đă kư kết với Hà Nội. Tuy Kissinger hứa sẽ cố gắng hết sức, mọi người đều thấy rơ Lê Đức Thọ khó thể đồng ư với những điều khoản chính mà chánh phủ Việt Nam yêu cầu, nhất là vấn đề đ̣i hỏi Hà Nội phải rút quân. Đây đúng là một giai đoạn thử thách của ông Thiệu. Trong giai đoạn này ông Thiệu đă cố gắng đẩy Hoa Kỳ đi vào con đường ông mong mỏi. Riêng về phía Hoa Kỳ th́ đây chính là giai đoạn mà họ cho là cần phải đe dọa ông Thiệu. Chánh quyền Hoa Kỳ đă đe dọa rằng nếu ông Thiệu không chịu kư kết th́ Hoa Kỳ sẽ cắt đứt tất cả mọi viện trợ bất kể đến vấn đề sinh tử của Việt Nam. Vào ngày 6 tháng 10, tổng thống Nixon đă viết một bức thư nhắc nhở ông Thiệu về trường hợp của ông Ngô Đ́nh Diệm vào năm 1963.

Riêng đối với ông Kissinger th́ phản ứng của ông Thiệu là một sự kiện bất ngờ và đầy cay đắng. Ngay từ lúc đầu tiên ông Kissinger đă xem vai tṛ của chánh phủ Việt Nam trong các cuộc đàm phán chỉ là vai tṛ phụ. Chính v́ vậy nên ông Kissinger đă cùng soạn thảo mọi việc với tổng thống Nixon và cố tránh tham khảo ư kiến với chúng tôi ít chừng nào hay chừng nấy. Khi Hoa Kỳ quyết định rút lui th́ giới lănh đạo Hoa Kỳ cũng quyết định một cách độc đoán chẳng khác ǵ chẳng khác ǵ khi họ tự ư nhập cuộc hoặc tự ư điều động cuộc chiến Việt Nam trong thời gian họ can thiệp. Trong khi đó, về phía Việt Nam th́ v́ không muốn phải đối đầu với Hoa Kỳ và v́ những đe dọa bất an, ông Thiệu đă đóng trọn vai tṛ thụ động như Hoa Kỳ mong mỏi. Ông đă đồng ư -hoặc tỏ vẻ đồng ư- với tất cả những chính sách và đề nghị do Hoa Kỳ đưa ra. Thực ra th́ những cách đối xử của Hoa Kỳ đă khiến ông Thiệu vô cùng phẫn uất. Tuy thế, ông vẫn cố nén sự phẫn uất v́ cho rằng Bắc Việt sẽ chẳng bao giờ chấp thuận những điều khoản do Hoa Kỳ đưa ra.

Thế mà giờ đây, sau suốt bốn năm ngoan cố, Lê Đức Thọ đă bất ngờ đổi thái độ. Và khi Bắc Việt thay đổi thái độ th́ việc ǵ phải đến đă đến. Từ trước đến nay ông Kissinger vẫn chưa bao giờ coi ông Thiệu là bạn cùng cộng tác nên vào giữa lúc ông đang có bản ḥa ước trong tay, ông Kissinger chưa hề chuẩn bị đủ để đối phó với những thái độ bất ngờ của ông Thiệu. Trong khi đó, đối với ông Thiệu th́ bản dự thảo thỏa hiệp thật chẳng khác nào một tờ giấy nợ bất ngờ tổng kết tất cả những lỗi lầm, thiếu sót ông đă bỏ qua khi đánh mất cơ hội hợp tác với Hoa Kỳ. Sau tất cả những năm tránh né và đồng ư gượng gạo, giờ đây ông Thiệu phải chấp nhận một bản hiệp định mà ông cho là bản hiệp định khai tử Việt Nam.

Những đàm phán giữa ông Kissinger và Lê Đức Thọ tiếp tục ở Ba Lê vào ngày 20 tháng 10. Hôm đó, Kissinger đem quà tặng cho hai đại diện đàm phán Bắc Việt: Một quyển sách chụp h́nh đại học Harvard cho Lê Đức Thọ và một đầu ngựa bằng Pha Lê cho Xuân Thủy. Sau đó, ông đưa ra 69 điều tu chỉnh và bổ túc của Việt Nam. Tuy đă có nhiều pha đàm phán thực sự, chẳng bao lâu sau Hoa Kỳ đă thấy chiến thuật đàm phán của Bắc Việt là lửng lơ, không hoàn toàn đi đến kết luận mà cũng không hoàn toàn từ chối đàm phán. Bắc Việt có vẻ như muốn kéo dài thời gian. Có lẽ Bắc Việt đă nhận ra rằng có thể trong cuộc nhóm họp trở lại sau ngày lễ Giáng Sinh có thể quốc hội mới được bầu lên của Hoa Kỳ sẽ cắt bỏ viện trợ cho Việt Nam. Dĩ nhiên họ cũng nóng ḷng khai triển những sự bất đồng ư kiến giữa Hoa Kỳ cùng Việt Nam để chuyển những hiềm khích này thành hố thẳm.

Sau hơn ba tuần đàm phán vô hiệu, vào ngày 13 tháng 12, Lê Đức Thọ trở về Hà Nội để tham khảo ư kiến. Trước khi lên đường trở về, Thọ đă đồng ư hẹn ngày tiếp tục đàm phán vào sau ngày Lễ Giáng Sinh. Tuy thế, vào ngày 14, trong một cuộc họp ở văn pḥng tổng thống cùng ông Kissinger và ông Haig, tổng thống Nixon đă kết luận rằng Bắc Việt đang chủ trương kéo dài thời gian. Ông cho rằng ngay cả vào lúc Bắc Việt đang ḍ dẫm t́m hiểu những hiềm khích thực sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, Bắc Việt cũng vẫn mưu toan buộc chánh phủ Hoa Kỳ phải đối phó với những đạo luật cắt giảm viện trợ của quốc hội.

Cả ba nhân vật tham dự cuộc họp đều cho rằng Hoa Kỳ cần phải gia tăng áp lực và chứng tỏ sức mạnh quân sự để buộc Bắc Việt phải đàm phán nhanh chóng hơn. Ba ngày sau, những trận mưa bom thay nhau rưới xuống Hải Pḥng. Ngay ngày sau đó máy bay B-52 dội bom xuống các mục tiêu ở cả Hải Pḥng lẫn Hà Nội. Cuộc dội bom vào ngày Lễ Giáng Sinh đă thực sự bắt đầu.

Cuộc dội bom là một dấu hiệu nhắn nhủ nhằm hai mục đích: Đối với trung ương đảng ở Hà Nội th́ đây là một dấu hiệu chứng tỏ nếu Bắc Việt chịu đàm phán lập tức th́ kết quả sẽ tốt đẹp hơn. Tổng thống Nixon nhất định không chịu ngồi yên khi Hà Nội cố ư kéo dài thời gian. Đối với Sài G̣n th́ hành động của tổng thống Nixon đă chứng tỏ Việt Nam có thể tin tưởng vào ông trong việc đàm phán. Hành động của Tổng Thống Nixon cũng cho thấy ông không hề e dè khi hành động trái với ư kiến dư luận nếu thực tế đ̣i hỏi. Cùng với những chuyến tiếp liệu của chương tŕnh Enhance Plus, (Chương tŕnh Enhance Plus chủ trương tiếp tục viện trợ tối đa cho Việt Nam trước khi quốc hội Hoa Kỳ có thể cắt bỏ viện trợ) cuộc dội bom là một hành động chứng tỏ Hoa Kỳ đáng được tin cậy.

Vào đầu tháng 12, ông Thiệu mời tôi vào dinh độc lập để trao đổi những ư kiến về t́nh h́nh chung. Khi cuộc dội bom kết thúc ông Thiệu cho vời tôi trở lại. Lần này ông yêu cầu tôi đi Hoa Thịnh Đốn để chu toàn một sứ mệnh. Mặc dù các áp lực của Hoa Kỳ đang đè nặng, ông Thiệu vẫn muốn thuyết phục Hoa Kỳ phải cứng rắn hơn trong việc điều đ́nh với cộng sản. Ông Thiệu nói với tôi rằng: "Tuy là đă trễ nhưng chúng ta vẫn phải cố gắng làm những ǵ chúng ta có thể làm được. Tôi nhờ anh giải thích hộ với những nhà lănh đạo Hoa Kỳ rằng sự có mặt của quân đội Bắc Việt ở Miền Nam là một vấn đề sinh tử đối với Việt Nam Cộng Ḥa. Có thể giờ phút này đă là quá trễ. Tôi cũng không rơ nữa. Nhưng như anh đă biết: C̣n nước, c̣n tát."

Tuy đă gặp rất nhiều khó khăn với ông Thiệu, nhưng lúc này tôi cũng cảm thông được t́nh cảnh đặc biệt của ông và hơn nữa, tôi nghĩ rằng ư kiến của ông Thiệu về việc không chấp nhận cho phép Bắc Việt có quân đóng ở Miền Nam Việt Nam hoàn toàn đúng. Tôi cũng biết rơ chẳng khác ǵ ông Thiệu rằng rồi đây chúng tôi khó ḷng mà có thể tránh né được áp lực của Hoa Kỳ. Tuy thế, tôi vẫn tin là những nỗ lực cuối cùng dù sao cũng vẫn có vẻ thích đáng. V́ không đề pḥng trước cuộc dội bom vào lúc giáng sinh, Bắc Việt đă bị tổn thất nặng nề. Nếu ông Kissinger có thể làm áp lực mạnh hơn không chừng Bắc Việt sẽ lại mềm dẻo. Biết đâu đây chẳng là một cơ hội tốt để khai thác vấn đề?

34. Hiệp Định Ba Lê

Thể theo lời yêu cầu của ông Thiệu, tôi đến Hoa Thịnh Đốn vào sáng ngày 5 tháng giêng. Chiều hôm đó tôi cùng cụ Trần Văn Đỗ, ông Trần Kim Phượng (Đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ lúc này) đến gặp ông Kissinger tại văn pḥng. Dĩ nhiên chúng tôi đến đây để tiếp tục cuộc thảo luận về bản dự thảo thỏa hiệp đă được Hoa Kỳ và Bắc Việt chấp nhận hồi tháng 10, nhưng sự hiện diện của tôi và cụ Đỗ một phần nào có tính cách tượng trưng. V́ một người là cựu ngoại trưởng, một người là cựu đại sứ, hai chúng tôi được mọi người biết đến như những người có tư tưởng ôn ḥa, hiểu biết các quan điểm của Hoa Kỳ. Sự hiện diện của hai chúng tôi ở Ṭa Bạch Ốc có nghĩa rằng lập trường của Việt Nam về sự có mặt của quân đội Bắc Việt ở Miền Nam là một lập trường được sự ủng hộ rộng răi của đa số dân chúng Việt Nam.

Trong tất cả những năm tôi được biết ông Kissinger, lúc nào ông cũng cố tạo ra một bầu không khí dễ dăi, thân thiện để bắt đầu các vấn đề, cho dù là những vấn đề gay go nhất. Thường th́ ông hay mở đầu bằng một vài câu bông đùa làm cho bầu không khí bớt căng thẳng đi. Nhưng lần này ông Kissinger không hề bông đùa. Tôi mở đầu câu chuyện bằng cách nói thẳng ngay rằng tại sao tôi phải trở lại Hoa Thịnh Đốn, rồi đi vào vấn đề Việt Nam không thể nào thỏa thuận điều kiện để cho Bắc Việt đóng quân ở Miền Nam Việt Nam như đă ghi trong bản dự thảo hiệp định Ba Lê được.

Ông Kissinger trả lời rằng việc Bắc Việt tiếp tục đóng quân đă được ông Thiệu mặc nhiên chấp nhận từ lâu. Ông Thiệu đă thỏa thuận việc này khi chấp thuận những nguyên tắc ngưng bắn tại chỗ vào tháng 5 năm 1971. Ông Kissinger tiếp lời: "V́ thế đưa ra vấn đề vào lúc này thật là quá trễ. Dầu sao tôi cũng sẽ cố gắng hết sức." Ông Kissinger cả quyết rằng ông không có ảo tưởng ǵ về những mưu đồ của Bắc Việt trong tương lai, nhưng theo ông th́ tương lai của chính sách Hoa Kỳ và những "chiến lược toàn cầu" lệ thuộc vào việc kư kết hiệp định với Bắc Việt. Chính v́ thế, ông cho rằng hơn lúc nào hết, lúc này chính là lúc Hoa Kỳ cần phải đoàn kết với Việt Nam. Ông Kissinger tŕnh bày tư thế của Tổng Thống Nixon và ông từ trước đến nay. Ông nêu rơ rằng trong quá khứ, dù là những khi vấn đề chiến cuộc gay go, ông vẫn chưa bao giờ chịu chấp thuận những giải pháp thiển cận của giới phản chiến. Và giải pháp của ông đề ra lúc này không phải là một giải pháp một chiều chỉ nhằm gỡ rối cho Hoa Kỳ và bỏ mặc Việt Nam. Sau khi tŕnh bày tỉ mỉ quan niệm của ông và Tổng Thống Nixon, ông Kissinger kết luận: Đối với t́nh thế hiện thời tổng thống Nixon và ông đă bị buộc phải quyết định một cách "lạnh lùng" rằng Hoa Kỳ bắt buộc phải kư kết hiệp định Ba Lê vào lúc này. Ngoài ra, ông Kissinger c̣n tin bản hiệp định sẽ đặt định một căn bản mới cho việc tiếp tục viện trợ cho Miền Nam Việt Nam. Ông cho biết Hoa Kỳ sẵn sàng trả đủa nếu Việt Cộng vi phạm hiệp định.

Hôm đó, giọng ông Kissinger thật là sắc bén và cách nói chuyện của ông nặng vẻ chống chế. Ông tỏ vẻ bất b́nh về những tin đồn ở Ba Lê cho rằng ông xem nhẹ ư kiến của những người Miền Nam Việt Nam. Ông phát biểu rằng đây là những tin đồn nhảm nhí. Ông cũng tỏ vẻ bất b́nh v́ những tin đồn khác cho rằng ông đang mưu tính đàm phán sách lược toàn cầu với Nga và một trong những đề mục của cuộc đàm phán đó là Hoa Kỳ sẽ giúp Nga ngăn cản sự ảnh hưởng của Tàu, bất kể đến lợi hại của Việt Nam. Cả hai vấn đề ông bất b́nh đều là hai vấn đề tự ông đưa ra chứ chính tôi lại chưa đề cập ǵ những việc đó cả. Tôi tŕnh bày rằng tuy vấn đề Bắc Việt đóng quân ở Miền Nam Việt Nam chẳng làm thương tổn ǵ đến Hoa Kỳ, đây quả là vấn đề sinh tử của Việt Nam. Ông Kissinger cho biết ông hiểu tầm mức quan trọng của vấn đề và sẽ cố chuyển vấn đề tôi nêu vào việc thương thảo. Tuy thế tôi thấy rằng đây chỉ là một câu trả lời lấy lệ, chẳng có ǵ đáng tin cậy. Nói tóm lại chỉ có một điểm đáng chú ư trong cuộc tranh luận giữa tôi và ông Kissinger là việc ông Kissinger không muốn tranh luận trở lại những điểm mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đă thỏa thuận khi trước. Cuộc họp của chúng tôi với ông Kissinger là một cuộc họp tràn đầy thất vọng. Chúng tôi chẳng thấy dấu hiệu nào chứng tỏ sự quyết tâm của ông Kissinger. Tuy rằng về phía Việt Nam chúng tôi chủ quan rằng cuộc dội bom vào lúc Giáng Sinh đă khiến Bắc Việt phải chịu nhiều tổn thất và phải đàm phán mềm dẻo hơn, nhưng sau khi gặp ông Kissinger, tôi thấy rằng Hoa Kỳ không suy nghĩ như chúng tôi. Rơ ràng là Hoa Kỳ cho rằng những tổn thất sau cuộc dội bom vào lúc Giáng Sinh vẫn chưa đủ để ông Kissinger có thể đàm phán quyết liệt cùng Bắc Việt trong lần đàm phán dự định vào ba ngày sắp tới.

Ngay ngày hôm sau ông Phượng, cụ Đỗ và tôi cùng được mời đến Bộ Ngoại Giao dùng bữa trưa với ông Alexis Johnson. Lúc đó ông Alexis Johnson đang làm việc dưới quyền Ngoại Trưởng Hoa Kỳ. Ngoài ông Johnson ra c̣n có cả ông Marshall Green, ông John Holdridge, đại sứ Sam Berger và ông Warren Nutter, phụ tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng đặc trách an ninh quốc tế. Lại thêm một lần nữa tôi cùng ông Phượng trở lại vấn đề sự có mặt của quân đội Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam. Hai chúng tôi đều quả quyết rằng vấn đề này thực sự chưa được giải quyết ổn thỏa và đây quả là lúc có thể trở lại vấn đề. Ông Alexis Johnson không hề tranh luận. Trái lại, ông đồng ư rằng cả hai chúng tôi đều đúng trên mặt lư thuyết. Và ông hỏi lại chúng tôi rằng: Nhưng nếu áp lực của quốc hội đang càng ngày càng tăng và Bắc Việt cứ khăng khăng ngoan cố th́ c̣n giải pháp nào khác nữa?

Sau khi bữa cơm trưa hôm đó chấm dứt, ông Johnson kéo tôi vào một góc pḥng và nói nhỏ: "Với tư cách của một người bạn cũ, tôi xin nói với anh rằng, những thái độ cứng rắn của tổng thống Việt Nam trong những tháng vừa qua đă cho thấy rơ rằng ông ta chẳng phải là bù nh́n của bất cứ ai. Nếu tôi không lầm th́ có lẽ lúc này ông Thiệu đang ở một trong những cao điểm của cuộc đời chính trị. Lúc này ông ta nên cố giữ những ǵ gặt hái được. Lúc này là lúc ông Thiệu phải nhận thấy rằng Hoa Kỳ không bao giờ đổi chính sách. Nếu Hoa Kỳ có thay đổi chiến lược th́ chẳng qua cũng chỉ là để cố giữ nguyên những chính sách đă đề ra mà thôi. Nếu ông Thiệu từ chối không chịu chấp nhận kư một bản hiệp định, mà chính tổng thống Nixon đă chấp thuận th́ hậu quả sẽ tai hại vô lường. Hoa Kỳ sẽ phải cắt đứt tất cả những sự liên hệ với Việt Nam. Và đến giây phút đó th́ chính những sự liên hệ của tôi với Việt Nam cũng phải chấm dứt. Tất cả những người bạn mà Việt Nam c̣n sót lại cũng không c̣n cách ǵ khác hơn là hành động giống tôi. Đây là những điều hoàn toàn chân thật tôi nói như một người bạn của Việt Nam đă từ nhiều năm qua."

Tôi chống chế là Hoa Kỳ đă buộc ông Thiệu phải chấp nhận một t́nh trạng vô cùng nguy hiểm và lúc này là lúc Hoa Kỳ phải giúp ông Thiệu chu toàn trách nhiệm với người dân Việt Nam. Nhưng ông Johnson lại lộn ngược câu hỏi: "Liệu ông Thiệu có chịu để cho chúng tôi giúp đỡ ông hay không? (Có nghĩa là: Liệu ông Thiệu có chịu kư kết hay không?")

Ông Alexis Johnson quả thật là một người bạn cũ lâu năm của Việt Nam. Vào năm 1964-1965 ông là phó đại sứ dưới quyền đại sứ Maxwell Taylor. Trong những năm đó, ông đă cố gắng ngăn cản sự can thiệp ồ ạt của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Chính ông Alexis Johnson cũng cảm thấy thất vọng khi chánh phủ dân sự của bác sĩ Quát sụp đổ. Ngoài ra ông c̣n là người đứng đắn, hiểu biết và đă cộng tác gần gũi với tôi rất lâu. Thế mà giờ đây chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau như hai người điếc. Hố sâu ngăn cách đă quá rộng, chúng tôi chẳng c̣n cách nào có thể dung ḥa các chánh sách của Hoa Kỳ và Việt Nam được nữa.

Tuy thế cuộc tranh luận vẫn c̣n tiếp tục. Sau khi hết giờ cơm trưa, ông Phượng, cụ Đỗ và tôi lại lên thẳng lầu 7 của Bộ Ngoại Giao để gặp Ngoại Trưởng Rogers. Khi đến nơi, chúng tôi tŕnh bày tỉ mỉ mọi chuyện, và rồi nói với Ngoại Trưởng Rogers rằng sở dĩ chúng tôi phải yêu cầu Hoa Kỳ lưu ư là v́ đây là một vấn đề có liên quan đến sự sinh tử của Việt Nam. Nếu các ông đặt ḿnh vào tư thế của chúng tôi th́ các ông sẽ thấy quả thật chúng tôi không hề có ư cản trở ḥa b́nh. Chúng tôi chỉ yêu cầu những điều kiện tối cần mà thôi. Tôi nói rằng đối với Hoa Kỳ th́ vấn đề Việt Nam chỉ là một trong những vấn đề chính trị. Nếu Hoa Kỳ thua cuộc ở Việt Nam th́ vấn đề chỉ là một trang sử của Hoa Kỳ nhưng đối với chúng tôi th́ dù có đồng ư, không đồng ư, hoặc đồng ư với điều kiện nào đi nữa th́ tất cả vẫn chỉ là một vấn đề độc nhất: Đây là vấn đề sinh tử của Miền Nam Việt Nam.

Ông Rogers một mực cả quyết rằng tổng thống Nixon chưa bao giờ xem Việt Nam là một vấn đề thứ yếu. Khi bàn đến vấn đề Việt Nam ông Rogers lư luận rằng "những yêu cầu của chúng tôi quả đúng trên mặt lư thuyết (chẳng khác ǵ ông Johnson đă tuyên bố vài phút trước đây) nhưng, nếu chỉ có lư thuyết mà không có những sự kiện thực tế để bênh vực th́ những lư thuyết đó cũng cầm bằng vô dụng. Vấn đề chỉ là chọn cách nào trong số những chọn lựa c̣n sót lại. Nhưng quả thật th́ c̣n cách chọn lựa nào nữa? C̣n con đường nào khác hơn nữa? Với áp lực quốc tế vào lúc này cùng những áp lực của quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ, t́nh thế cho thấy tổng thống Nixon đă liều lĩnh v́ Việt Nam quá nhiều rồi. Ông ta không thể nào đi xa hơn được nữa!"

Tôi cố dành th́ giờ của những ngày c̣n sót lại, để đến họp với các Thượng Nghị Sĩ, các dân biểu và giới báo chí. Tôi quyết chí t́m cho bằng được những đầu mối có thể ảnh hưởng các chính sách của Hoa Kỳ có liên quan đến việc ủng hộ Việt Nam. Tôi đă t́m đến rất nhiều bạn bè cũ ở quốc hội như ông Hubert Humphrey, ông Jacob Javits, ông John Tower và ông George Aiken. Tôi nghĩ rằng sau khi gặp bốn Thượng Nghị Sĩ vừa kể, tôi sẽ thông tỏ phần nào t́nh h́nh của quốc hội Hoa Kỳ vào lúc này. Bốn Thượng Nghị Sĩ đều nói thẳng với tôi rằng quốc hội đă quyết ư chấm dứt chiến tranh. Tôi cũng chẳng thấy ngạc nhiên cho lắm. Cuộc dội bom vào dịp Lễ Giáng Sinh đă gây ra quá nhiều chống đối. Ngay cả những thượng nghị sĩ của đảng Cộng Ḥa ủng hộ tổng thống Nixon khi trước cũng đă bắt đầu phản đối ông. Tổng thống Nixon không thể kêu gọi thượng viện ủng hộ được nữa. Từ trước tới nay, lúc nào Hạ Viện cũng đứng sau Thượng Viện trong những quyết nghị cắt giảm viện trợ cho Việt Nam. Thế mà giờ đây cả vấn đề này cũng thay đổi. Mới đây, Hạ Viện c̣n dẫn đầu Thượng Viện khi bỏ phiếu cho các quyết nghị cắt giảm viện trợ cho Việt Nam. Dĩ nhiên, trong quốc hội Hoa Kỳ chẳng có dân biểu hoặc Thượng Nghị Sĩ nào muốn đứng ra nhận lănh trách nhiệm cho những nghị quyết cắt bỏ viện trợ, nhưng rất nhiều dân biểu đă tỏ thái độ bằng những cách gián tiếp khác. Họ t́m cách tŕ hoăn những nghị quyết viện trợ cho Việt Nam và cố giới hạn những quyền hạn của Tổng Thống Nixon về vấn đề viện trợ. Lúc này, tất cả bốn Thượng Nghị Sĩ đều đồng ư rằng vấn đề viện trợ cho Việt Nam có rất ít hy vọng được quốc hội chấp thuận. Tuy vậy, nếu Việt Nam chịu kư hiệp định Ba Lê th́ họ cho rằng có thể quốc hội sẽ thay đổi thái độ. Cả bốn Thượng Nghị Sĩ đều nói nếu Việt Nam chịu kư hiệp định Ba Lê th́ chính họ sẽ t́m cách vận động để thuyết phục quốc hội thông qua các nghị quyết viện trợ.

Khi cuộc họp kết thúc, cả hai ông Aiken và Tower vốn là hai bạn thân của tôi trong thượng viện, đều khuyên tôi rằng đây là lúc Việt Nam phải "thực tế" và hiểu rằng Hoa Kỳ thật sự chẳng c̣n làm ǵ hơn được nữa.

Tôi lại đến gặp các bạn bè trong giới báo chí, nhất là những người có nhiều liên lạc với ông Kissinger để cố t́m hiểu xem họa chăng c̣n có vấn đề ǵ đă bỏ qua mà không nh́n thấy chăng? Tôi t́m đến các ông Joe Kraft, Marvin Kalb, Murray Marder, ông Chalmers Roberts, tất cả đều có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về vấn đề ngoại giao. Tất cả những người tôi t́m đến đều cùng đồng ư kiến. Họ tŕnh bày với tôi bằng cách này hay cách khác rằng chẳng c̣n ǵ để bàn luận. Họ đều đồng loạt cho rằng đă có một sự mặc nhiên đồng ư giữa các cường quốc về việc ngưng bắn. Họ quan niệm rằng đă có nhiều điều được hai bên thỏa thuận: Bắc Việt không c̣n đ̣i hỏi lật đổ ông Thiệu. Đây là một trong những điều mà Bắc Việt đă đ̣i hỏi trong suốt bốn năm. Để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ không đ̣i hỏi Bắc Việt phải rút quân ra khỏi Miền Nam. V́ thế, sẽ không có biến chuyển ǵ quan trọng trong những cuộc đàm phán lúc này.

Vào ngày 9 tháng 1-1972 tôi đến gặp ông Alexander Haig mà trong ḷng thất vọng năo nề. Ông Haig là người có nhiều kinh nghiệm cả về mặt quân sự lẫn dân sự. Ông đă từng là phụ tá cho cả ông Kissinger lẫn tổng thống Nixon trong suốt 4 năm. Kinh nghiệm của ông Haig về vấn đề Việt Nam thật là hiếm có. Ông chẳng những chỉ hiểu biết Việt Nam trên mặt ngoại giao mà đă từng gia nhập cả quân đội tác chiến ở Việt Nam. V́ đă từng là tiểu đoàn trưởng ở Việt Nam trong thập niên 60 nên ông Haig hiểu rơ phong thổ và tánh t́nh người Việt. Kinh nghiệm đặc biệt này đă khiến ông có những nhận định chính xác về t́nh h́nh chiến cuộc Việt Nam. Trước đây, khi tôi c̣n là đại sứ của Việt Nam ở Hoa Kỳ, tôi đă nhiều lần gặp ông Haig. Lẽ dĩ nhiên tôi thấy tôi có thể nói chuyện với ông Haig rất dễ dàng.

Khi tôi đến văn pḥng ông ở Ngũ Giác Đài, ông Haig cho biết ông vừa mới họp với tổng thống Nixon trong một cuộc họp rất dài. Ông Haig nói rằng Tổng Thống Nixon "hết sức lo ngại" v́ những sự chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam v́ đây chính là cơ hội hiếm có mà Bắc Việt đă hết ḷng mong mỏi. Tổng thống Nixon cũng "rất khó chịu" về thái độ của ông Thiệu khi thấy rằng ông Thiệu đang khước từ bản hiệp định trong khi chíng Tổng Thống Nixon đă chấp thuận bản hiệp định đó. Hành động của ông Thiệu đă khiến tổng thống Nixon không thể giúp ông.

Tôi cắt lời ông Haig để tŕnh bày rằng chính chúng tôi cũng khó chịu không kém. Khi ông Kissinger và tổng thống Nixon mang bản dự thảo thỏa hiệp đến Sài G̣n vào tháng 10-1971, chúng tôi chưa hề được tham khảo ư kiến đầy đủ dù chỉ là trên những điểm chính của bản hiệp định. Ông Haig trả lời rằng: "Đúng, đây quả là một lỗi lầm lớn, một sai lầm đáng kể về phía chúng tôi." (Đây là nguyên văn câu nói của ông Haig. Ngay sau khi gặp ông Haig, tôi đă ghi lại các diễn tiến của cuộc họp và cũng đă gửi điện về Sài G̣n cho ông Thiệu biết rơ vào ngay đêm đó.)

Tôi nói với ông Haig: "Như ông đă biết, ngay từ khi tôi c̣n là đại sứ tôi cũng đă nhiều lần nói với ông rằng kể từ tháng 9 năm 1971 cho tới tháng 1 năm 1972 sự trao đổi ư kiến giữa hai chánh phủ không được đầy đủ."

"Đúng vậy," ông Haig trả lời, "đây là một trong những sai lầm, nhưng thái độ của các ông đối với ông Kissinger cũng có phần quá đáng. Tổng thống Việt Nam đă hiểu lầm ông Kissinger và một phần lỗi quả là do ông Kissinger. Nhưng dẫu sao th́ lúc này tất cả đều là chuyện đă qua. Và ngay trong thời gian hiện tại, chẳng lẽ ông vẫn chưa thấy rơ t́nh cảnh của chúng tôi? Tổng thống Nixon chẳng c̣n xoay sở ǵ được nữa. Nếu Việt Cộng đă đồng ư nói chuyện triệt quân, đă đồng ư với mọi thủ tục ngưng bắn, đă đồng ư với mọi thủ tục kư kết th́ Tổng Thống Nixon sẽ phải kư kết. Tôi biết chắc ư định của tổng thống Nixon là chấp thuận kư kết. Rồi đây, chính tổng thống Nixon sẽ chánh thức kêu gọi ông Thiệu hợp tác. Nếu ông Thiệu từ chối th́ Hoa Kỳ sẽ phải cắt bỏ Việt Nam. Chính tôi cũng sắp sang Việt Nam và khi đó th́ chắc chắn là chẳng ai có thể bưng mắt khi phải trực diện với sự thật."

Tôi trở về ṭa đại sứ viết bản báo cáo cuối cùng cho ông Thiệu và sửa soạn sang Pháp cho kịp loạt đàm phán cuối cùng, bên tai tôi vẫn vẳng câu nói "trực diện với sự thật".

Chiều hôm đó, cụ Đỗ và tôi cùng bay sang Ba Lê. Tại đây Kissinger đă đàm phán cùng Lê Đức Thọ được ba ngày. Tuy chúng tôi vẫn chưa mảy may hay biết những điểm quan trọng đă được thỏa thuận. Vào ngày 8 tháng 1-1972, Kissinger cùng Lê Đức Thọ đă quyết định chú tâm vào hai vấn đề chính: Vùng phi quân sự và các thủ tục kư kết. Nếu vấn đề hiện diện của quân đội Bắc Việt có được bàn căi đi chăng nữa th́ cùng chỉ là một vấn đề bàn căi suông. Ngay ngày hôm sau, ngày 9 tháng 1, vấn đề ranh giới vùng phi quân sự được hai bên thỏa thuận. Hai bên đều khẳng định sẽ có một hàng rào phân đôi hai miền Nam Bắc. Như vậy vấn đề cuối cùng c̣n lại chỉ là: Làm thế nào để chữ kư của Ngoại Trưởng Việt Nam sẽ không cùng xuất hiện với chữ kư của đại diện Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Từ trước tới nay chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn không chánh thức nh́n nhận chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời và v́ không chánh thức nh́nh nhận chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời nên chánh phủ Việt Nam chưa bao giờ kư kết bất cứ điều ǵ với đoàn thể này. Tuy thế, ông Kissinger cho rằng đây chỉ là một vấn đề thủ tục hơn là hơn là một điểm có tính cách quan trọng thực tế.

Vào tối ngày 12 tháng giêng, năm nhà ngoại giao của Việt Nam họp mặt cùng các ông Kissinger, William Sullivan và nhiều nhân viên khác để thảo luận những diễn tiến của cuộc đàm phán. Tại Faubourg Saint-Honore, trong cuộc họp mặt tại tư thất của đại sứ Hoa Kỳ, ông Kissinger mở đầu bằng cách tấn công vào hai đặc sứ của Việt Nam là tôi và cụ Đỗ. V́ đă bị quá nhiều nhân viên Việt Nam truy vấn về các điều khoản đàm phán, ông Kissinger lúc này chào đầu chúng tôi với đề nghị rằng có lẽ cả hai chúng tôi nên về Việt Nam ngay để cho ông Thiệu biết rơ lập trường của Hoa Kỳ lúc này. Ông Kissinger lư luận rằng ông Thiệu ắt hẳn phải thấy đây là lúc Việt Nam nên kư kết để hiệp định Ba Lê có thể được công bố trước khi quốc hội Hoa Kỳ có cơ hội cắt viện trợ. Bởi vậy lúc này có lẽ là lúc Việt Nam nên hành động gấp để có thể ảnh hưởng quốc hội Hoa Kỳ. Ư Ông Kissinger có ư nhấn mạnh sự cần thiết của việc phải khẩn cấp đàm phán. Cụ Đỗ đáp trả rằng việc phải đàm phán khẩn cấp với Cộng Sản là việc dễ dàng như trở bàn tay. Các ông chỉ cần thỏa thuận cho họ tất cả những điều họ đ̣i hỏi là xong.

Sau những câu chào đón hục hặc đó th́ cuộc bàn luận có vẻ bớt xung khắc tuy rằng bên chúng tôi lúc nào bầu không khí cũng nặng nề, nghiêm trọng. Ông Kissinger tổng kết t́nh h́nh tất cả các cuộc đàm phán và chỉ ra những tiến triển khả quan. Ông tŕnh bày những điểm khả quan trong những vấn đề như khẳng định vùng phi quân sự, tiếp tục viện trợ cho Việt Nam về mặt quân sự, tăng cường ủy ban giám sát quốc tế và những điểm khả quan trên nhiều phương diện khác. Khi ông Kissinger dứt lời th́ pḥng họp lặng yên trong ṿng một phút rồi cụ Đỗ (theo như tôi nhớ) lên tiếng hỏi rằng: "Thưa ông Kissinger, những tiến triển ông vừa bàn đến quả thật quan trọng nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự hiện diện của các đội quân Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam. Vấn đề này đă được bàn bạc ra sao?" Ông Kissinger trả lời rằng:
Tuần này, tôi cũng đă bàn đến vấn đề rút quân của các quân đội Bắc Việt gần suốt ba tiếng đồng hồ mà cũng vẫn không đạt được thêm kết quả nào. Tuy nhiên, nếu những điều khoản liên quan đến các vùng phi quân sự ở Lào và Cam Bốt được giữ đúng như bản hiệp định đă đề ra th́ trên mặt pháp lư Bắc Việt hoàn toàn không có lư do ǵ để đóng quân ở Miền Nam Việt Nam. Theo tôi thấy th́ Bắc Việt chưa hề đ̣i hỏi chúng ta phải cho phép quân đội của họ đóng binh ở Miền Nam. Hơn nữa, trong tất cả các điều khoản của hiệp định Ba Lê cũng chẳng có điều khoản nào cho quyền họ đóng quân ở Miền Nam. Tôi có thể cho ông xem những phần trích dẫn trong các tài liệu đàm phán ghi chú lại những điều các đại diện Bắc Việt tuyên bố. Trong những tài liệu đó Bắc Việt tuyên bố rằng họ không hề có quân đóng ở Miền Nam. Chúng tôi có thể cho ông xem một bản chú thích trích dẫn những điều họ tuyên bố. Qua các điều tuyên bố trong tài liệu đó chúng tôi suy luận rằng họ không hề yêu cầu chúng ta phải cho phép họ đóng quân ở Miền Nam Việt Nam.

Có thể trên phương diện pháp lư thuần túy th́ câu trả lời của ông Kissinger c̣n mang một ư nghĩa nào đó nhưng khi đem áp dụng vào một cuộc chiến giữa hai kẻ thù không đội trời chung th́ câu trả lời đó đối với chúng tôi quả là một câu trả lời mang tính chất siêu h́nh hoàn toàn vô nghĩa. Theo tôi th́ đây là một câu trả lời thiếu thành thật. Thử hỏi người Hoa Kỳ sẽ suy nghĩ ra sao nếu có một thành phần thứ ba đứng ra đàm phán cho Hoa Kỳ kư kết một hiệp định cho phép kẻ thù của Hoa Kỳ đóng quân dọc theo suốt biên giới Hoa Kỳ từ California qua New York rồi bằng vào một lô lư luận, kết luận rằng kẻ thù của Hoa Kỳ quả thật không có quyền hiện diện ở những nơi này trên mặt pháp lư?

Ông Kissinger tiếp tục nói thêm: "Chẳng bao lâu nữa, tổng thống của các ông sẽ phải quyết định liệu có chấp thuận cùng Hoa Kỳ kư kết hiệp định Ba Lê hay không. Qua lần từ chối kư kết vào tháng 10 vừa rồi, rất nhiều đ̣i hỏi của ông Thiệu đă được thỏa măn: Một tỷ đô la vũ khí, ba tháng để sửa soạn ngưng bắn và một t́nh h́nh khả quan hơn rất nhiều. Nhưng rồi đây chúng ta sẽ phải trực diện với sự thật. Việt Nam phải thỏa thuận hoặc sẽ bị Hoa Kỳ cắt bỏ tất cả viện trợ."

Cuộc họp với ông Kissinger và ông Sullivan kéo dài đến nửa đêm. Khi trở về khách sạn, tôi lập tức bắt đầu soạn bản tường tŕnh cho ông Thiệu, tóm tắt tất cả những nhận định của tôi sau suốt bảy ngày chống trả:
Qua các tổng kết của nhiều trường hợp, ư kiến quốc tế và nhất là ư kiến của dân chúng Hoa Kỳ, việc đă cho thấy Hoa Kỳ nhất định sẽ không tŕ hoăn vấn đề kư kết hiệp định ḥa b́nh ở Việt Nam. Đúng hay sai không c̣n là vấn đề nữa. Vấn đề chính lúc này chỉ là câu hỏi: Chừng nào sẽ có Ḥa B́nh? Ngay dù chỉ là một nền ḥa b́nh tạm bợ. Rồi đây, Việt Nam sẽ phải khốn khổ cố tránh né những chỉ trích của toàn thế giới để khỏi bị cô lập hoàn toàn.

Nếu nói riêng phía Hoa Kỳ th́ tôi cho rằng Ngoại Trưởng Rogers, ông Kissinger và ông Haig trên một mức độ nào đó đă có vẻ như cố đe dọa chúng ta. Tuy thế, chúng ta cũng phải nhận thấy những khó khăn của Chánh Phủ Nixon. Một mặt họ không thể giải quyết vấn đề. Mặt khác, họ cảm thấy không thể đi sâu hơn được nữa. Theo như tôi thấy th́ tổng thống Nixon không c̣n chỗ để xoay sở nữa. Tại Ba Lê ông Kissinger đă nói với tôi rằng, "Chắc ông cũng biết chúng tôi rất muốn chiến thắng về mặt quân sự, nhưng việc này vượt ngoài khả năng chúng tôi. Bây giờ là lúc chúng tôi phải tạm ổn định trước khi chúng tôi phải hoàn toàn bó tay."

Trong t́nh trạng thúc đẩy ḥa b́nh của Hoa Kỳ và ư kiến chung của cả quốc tế cùng những thực tế chính trị ở Hoa Kỳ, tôi đă hết sức [t́m một giải pháp khác], bởi v́ "C̣n nước c̣n tát..." Nhưng quả thật tôi thấy ḿnh đang ở trong một t́nh trạng cực kỳ thất vọng. Tôi khó thể thu thập b́nh tĩnh để đưa bất cứ lời khuyên hoặc đề nghị ǵ vào lúc này. Tuy thế, tôi biết rơ rằng chúng ta đang ở vào một khúc quanh lịch sử. Việc quyết định thật là khó khăn, phức tạp vô độ. Nhưng đây là việc không thể tránh được.

Theo tôi th́ chúng ta phải phấn đấu với tất cả sức mạnh của chúng ta. Và chỉ vào lúc đó chúng ta mới nên quyết định. Việc quyết định nằm giữa hai sự chọn lựa: Khước từ vấn đề kư kết (và nhận lănh tất cả mọi hậu quả v́ quyết định của chúng ta) hoặc kư kết với hy vọng rằng mặc dầu bản hiệp định có rất nhiều khuyết điểm nhưng bằng vào sự đoàn kết của những người trong nhóm quốc gia cùng những hứa hẹn viện trợ của Hoa Kỳ, chúng ta sẽ có thể vượt qua mọi khó khăn. Dĩ nhiên, giữa hai cách chọn, chúng ta cũng có thể chọn cách thứ ba, cách này là chấp nhận hiệp định nhưng khước từ không kư kết. Dầu vậy, tôi xin nói ngay rằng nếu trên mặt lư thuyết cách chọn thứ ba có vẻ hấp dẫn th́ trên thực tế cách chọn này vẫn chẳng khác ǵ cách chọn khước từ không chịu kư kết. Và trong trường hợp này, những hậu quả tai hại giữa chúng ta và Hoa Kỳ cũng vẫn chẳng khác ǵ [trường hợp chúng ta khước từ không chịu kư kết].

Tôi hoàn tất bản tường tŕnh vào khoảng 4, 5 giờ sáng. Toàn thể bản tường tŕnh dài khoảng hơn 25 trang. Khi tôi viết xong, bản tường tŕnh được gửi thẳng về Sài G̣n.

Tôi biết rơ rằng cuối cùng ông Thiệu cũng sẽ phải kư kết. Nhưng bất kể kết cục ra sao, tôi vẫn muốn hết sức làm tất cả mọi việc để thuyết phục các đồng minh khác ngoài Hoa Kỳ. Trước tiên, tôi muốn tŕnh bày cho họ hiểu rơ rằng Việt Nam quả thực không hề có ư ngăn cản ḥa b́nh. Tôi muốn gây cảm t́nh với những đồng minh khác ngoài Hoa Kỳ v́ cho rằng bất kể ông Thiệu có kư kết hay không th́ việc vận động để các đồng ḿnh khác ủng hộ Việt Nam vẫn là vấn đề quan trọng.

Với những toan tính này trong đầu, tôi đến gặp ông Robert Schumann, Ngoại Trưởng Pháp. Tuy rằng những liên hệ ngoại giao giữa Pháp và Việt Nam lúc này có hơi căng thẳng, ông Schumann vẫn đón tiếp tôi rất thân mật . Ông Schumann cho biết rằng Pháp sẽ đồng ư tham gia hội nghị quốc tế về vấn đề Đông Dương. Từ trước tới nay, tất cả những nước ủng hộ Việt Nam Cộng Ḥa đều đề cập đến 4 quốc gia ở Đông Dương là Bắc Việt, Việt Nam Cộng Ḥa, Lào và Cam Bốt. Nhưng riêng Bắc Việt th́ vẫn có ư coi Việt Nam là một quốc gia và đề cập đến Đông Dương như chỉ bao gồm 3 quốc gia. Việt Nam được đề cập đến như một chứ không phải hai quốc gia như thế giới vẫn thường quan niệm. Tuy rằng lúc này ông Kissinger và Bắc Việt đă cùng thỏa thuận rằng chỉ có 3 quốc gia ở Đông Dương, theo tôi biết th́ trong lần đọc diễn văn mới đây, Tổng Thống Pompidou của Pháp đă đề cập đến bốn quốc gia ở Đông Dương. Ông có ư công nhận hai nước Việt Nam thay v́ một như Kissinger đă đề trong hiệp định Ba Lê. Những phát biểu của tổng thống Pompidou không hề có ǵ vô ư cả. Lời nói của ông Pompidou là lời nói của một vị nguyên thủ quốc gia. Lời nói đó xác nhận rằng Pháp sẽ tiếp tục công nhận Việt Nam Cộng Ḥa như một chánh phủ hợp pháp khác hẳn với chánh phủ Bắc Việt.

Trong khi ở Ba Lê, tôi cũng nhân cơ hội đến gặp một số nhà trí thức Pháp và Việt Nam. Tại đây tôi cố dùng cương vị ngoại giao của tôi để gián tiếp ảnh hưởng ông Thiệu. Tôi nói rơ cho ông Thiệu biết ư kiến của giới trí thức và giới ngoại giao ở Pháp về hiệp định Ba Lê, nhưng cố ư nhấn mạnh những điều trùng hợp với sự suy nghĩ của riêng tôi, nhất là về vấn đề đoàn kết. Tôi viết cho ông Thiệu rằng: "Dù chúng ta có được một hiệp định thỏa đáng [ở Ba Lê], nếu không có đoàn kết th́ hiệp định này cũng chẳng đi đến đâu. Ngược lại, tuy bản hiệp định mang đầy khuyết điểm nhưng nếu chúng ta đều đồng ḷng đoàn kết th́ việc cũng chưa hẳn hoàn toàn vô vọng. Cho đến giờ phút này chúng ta cũng vẫn c̣n chưa tận dụng được những tiềm lực của quốc gia. Vẫn c̣n rất nhiều những nhân vật quốc gia chưa cộng tác với chính phủ."

Vào ngày 17, tôi rời Ba Lê sang Luân Đôn đến gặp Ngoại Trưởng Anh Quốc là ông Alec Douglas- Home. Ngoại Trưởng Douglas-Home nhấn mạnh rằng nếu có việc ǵ nước Anh có thể làm th́ xin Việt Nam đừng ngần ngại. Ông Home c̣n giới thiệu tôi với nhiều dân biểu khác của quốc hội, nhất là những dân biểu cũng cùng ủng hộ Việt Nam như ông. Một trong những người ông Home giới thiệu với tôi là dân biểu James Callaghan của đảng Lao Động, người sau này là thủ tướng Anh Quốc. Ông Callghan cho tôi biết rằng trong những cuộc họp của các đảng xă hội quốc tế mới đây, Anh Quốc cùng Thủ Tướng Golda Meir của Do Thái đă tuyên bố ủng hộ Miền Nam Việt Nam.

Tôi trở về Ba Lê vào ngày 21 tháng 1-1972 khi có tin cho biết ông Thiệu chấp nhận bản dự thảo hiệp định. Ông Thiệu chỉ bỏ cuộc sau khi đă trao đổi hàng loạt thư từ với tổng thống Nixon và đă "trực diện với sự thật", chẳng những một mà rất nhiều lần. Diễn biến cuối cùng cho thấy ông Thiệu vẫn phải kư kết. Tổng thống Nixon đă nghiêm trang cam kết tiếp tục ủng hộ Việt Nam nếu ông Thiệu chịu kư kết hiệp định Ba Lê, và cũng đă nghiêm trang cam kết cắt bỏ hoàn toàn viện trợ nếu ông Thiệu khước từ. Ông Thiệu hiểu rơ nếu không có viện trợ th́ cả chánh phủ của ông lẫn Miền Nam Việt Nam đều không thể đứng vững. Với viện trợ của Hoa Kỳ, ít nhất ông cũng c̣n một cơ hội. Kết quả là vào ngày 23 tháng 1-1972, hiệp định đă được Lê Đức Thọ và Kissinger kư kết ở Ba Lê. Bốn ngày sau đó hiệp định được tất cả các đương sự kư kết. Hà Nội cùng chính phủ Lâm Thời kư chung trong một trang, Việt Nam cùng Hoa Kỳ kư chung trong một trang khác.

Một trong những lư do chính khiến ông Thiệu kư kết là việc Hoa Kỳ hứa sẽ mời ông sang Hoa Kỳ gặp tổng thống Nixon. Ông Thiệu cho là chuyến sang Hoa Kỳ đó là tối quan trọng v́ hai lư do: Thứ nhất, nếu ông Thiệu được mời sang Hoa Kỳ để gặp Tổng Thống Nixon th́ uy tín trong nước của ông Thiệu sẽ gia tăng. Thứ hai: Ông Thiệu muốn đo lường sự quyết tâm của Hoa Kỳ. Ông Thiệu cho rằng ông chỉ có thể khẳng định được thái độ của Hoa Kỳ nếu ông có dịp tiếp xúc mặt đối mặt với Tổng Thống Nixon. Đây là lần đầu tiên ông Thiệu sang Hoa Kỳ. Một trong những câu hỏi đă ám ảnh ông Thiệu trong suốt cuộc đời chính trị của ông là: "Hoa Kỳ thực sự tính toán, mong mỏi điều ǵ?" Chuyến sang Hoa Kỳ lần này là một cơ hội để ông có thể t́m ra câu trả lời.

Chuyến viếng thăm của ông Thiệu được dự trù vào ngày 3 tháng 4, năm 1972, ông Thiệu nhờ tôi đến Hoa Kỳ vào tháng hai để sửa soạn mọi việc. Trong khi đó, th́ con gái lớn của chúng tôi đang học ở đại học Georgetown lại sắp sửa lập gia đ́nh nên nhà tôi cũng cần phải sang Hoa Kỳ để sắp xếp. Bởi thế trong khi tôi lo sửa soạn cho cuộc họp của ông Thiệu và tổng thống Nixon th́ nhà tôi cũng có nhiều việc riêng cần phải sắp xếp, lo liệu.

Việc sửa soạn chu tất cho chuyến viếng thăm đă khiến tôi liên lạc trở lại với những phụ tá của Ṭa Bạch Ốc, với các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ, Phóng viên và giới báo chí ở Hoa Thịnh Đốn. Tôi bắt đầu ḍ dẫm t́nh h́nh sau khi hiệp định Ba Lê được kư kết và đă cảm thấy những khác biệt đáng kể. Những áp lực chống đối đè nặng chỉ mới hai tháng trước đây đă tan biến. V́ tất cả binh lính Hoa Kỳ đă hồi hương và tất cả những tù binh đă được giao trả hoặc sẽ được giao trả, cơn sốt chống đối của Hoa Kỳ đă giảm dần.

Vào ngày 2 tháng 4, tôi bay từ Hoa Thịnh Đốn tới Honolulu nhằm đón máy bay ông Thiệu để có thể cùng ông sang Los Angeles và từ đó bay về hướng Nam sang San Clemente nơi tổng thống Nixon cư ngụ. Tưởng cũng không cần nói thêm rằng, so với Midway th́ San Clemente quả dễ chịu hơn, nhưng đây vẫn không phải là Hoa Thịnh Đốn và tất cả chúng tôi đều không cảm thấy hoàn toàn thỏa măn. Chẳng hiểu v́ sao một người rành rẽ về giao tế như tổng thống Nixon mà lại có thể không nhận thấy những ảnh hưởng của cuộc họp này đối với dư luận báo chí Việt Nam.

Nhưng tuy ông Thiệu có vẻ hơi thất vọng về nơi chốn gặp gỡ, ông đă xoay sở để có dịp bàn luận với vị tổng thống Hoa Kỳ. Tổng thống Nixon đă nói những câu ông Thiệu mong mỏi được nghe: "Ông có thể tin tưởng nơi chúng tôi. Hoa Kỳ chắc chắn sẽ phản ứng thích đáng nếu Bắc Việt vi phạm các điều khoản trong hiệp định Ba Lê." Trong khi ông Thiệu nói chuyện với tổng thống Nixon th́ tôi và ông John Holdridge lại không đồng ư về vấn đề nên soạn thảo một bản thông cáo chung thế nào cho phù hợp. Tôi muốn bản thông cáo chung phải bao gồm những ngôn từ mạnh mẽ và chi tiết trong khi ông Holdridge lại có ư muốn dùng những ngôn từ tổng quát. Cuộc tranh luận cứ loay hoay măi chẳng đi đến đâu và cho đến măi khi bắt đầu món cocktail th́ chúng tôi cũng giải quyết được vấn đề tranh luận.

Trong bữa ăn tối đó, tôi ngồi cạnh ông Graham Martin, người mà tôi được biết sẽ thay thế ông Ellsworth Bunker làm đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Lúc này ông Bunker đă làm đại sứ được sáu năm và đang sắp sửa về hưu. Dĩ nhiên là tôi cố t́m cách t́m hiểu ông Martin. Tôi đă bỏ ra rất nhiều thời giờ mà vẫn không đạt được kết quả như ư. Tuy tôi biết ông đă từng là đại sứ ở Thái Lan và đă có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc với các quốc gia ở Á Châu, trong bữa ăn tối đó tôi vẫn chẳng biết được thêm điều ǵ. Cũng giống như tất cả những nhà ngoại giao khác, ông Martin lúc nào cũng giữ đúng phép xă giao nhưng ông lại rất ít nói và có vẻ hơi lạnh lùng. Tôi chẳng biết ǵ nhiều về ông và cũng chưa biết được rằng về sau ông lại là một đại sứ thiếu thực tế và quá chủ quan.

Tuy rằng ông Kissinger đă viết trong hồi kư rằng ông cảm thấy hổ thẹn về cung cách Hoa Kỳ đón tiếp ông Thiệu -có vẻ là một cuộc đón tiếp xă giao và quá giới hạn đối với những cuộc tiếp xúc có tính cách quốc gia như những cuộc gặp gỡ này- thật sự th́ những nhân vật Việt Nam cảm thấy được khích lệ rất nhiều. Riêng ông Thiệu đă cho buổi gặp gỡ là một thành công. Ông đă được hứa ủng hộ viện trợ về các mặt kinh tế, quân sự cũng như được hứa rằng Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng trả đủa bằng những biện pháp quân sự nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Dĩ nhiên là tin tưởng của ông Thiệu tăng lên rất nhiều. Sau đó, chúng tôi bay về Hoa Thịnh Đốn. Trên đường về, ông Thiệu đă mở Champagne và ăn mừng ngày sinh nhật của ông trên máy bay.

Trong khi tất cả chúng tôi đang ăn mừng th́ có lẽ chẳng ai có thể ngờ rằng lúc này, tổng thống Nixon đă bước sâu vào vũng lầy của vụ Watergate. Thực ra th́ vào ngay cả khi Tổng Thống Nixon tiếp đón chúng tôi ở San Clemente th́ chính ông cũng đang khốn đốn v́ tuyệt vọng. Vụ Watergate lúc này sắp sửa được đưa ra trước dư luận và Tổng Thống Nixon đang cố xoay sở để gỡ rối cho t́nh thế nan giải ngay trong nội bộ Hoa Kỳ. Tuy thế, những ǵ chúng tôi mục kích trong cuộc tiếp xúc với ông lại hoàn toàn khác hẳn: Tổng Thống Nixon là một vị Tổng Thống đang ở vào lúc tột đỉnh của quyền uy. Đây là một vị tổng thống vừa mới tái đắc cử với gần như tổng số phiếu. Khi gặp ông Nixon ở San Clemente, chúng tôi không hề nh́n thấy bất cứ điểm ǵ có thể gọi là một điềm bất tường báo hiệu những phong ba sắp sửa xảy ra trên trường chính trị ở Hoa Thịnh Đốn. Chẳng một ai trong chúng tôi lại có thể ngờ rằng rồi đây thế đứng của tổng thống Nixon sẽ hoàn toàn khác hẳn với những ấn tượng của chúng tôi về ông ở San Clemente. Lúc đó, ông Nixon không c̣n có đủ quyền hạn để chu toàn những nhiệm vụ cơ bản nhất, chứ đừng nói đến ủng hộ Việt Nam vốn là một việc đ̣i hỏi rất nhiều cương quyết và can đảm.

Tại Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi gặp phó tổng thống Spiro Agnew, người đứng ra tổ chức bữa tiệc tối để đón tiếp ông Thiệu. Ngay đêm sau đó, ông Thiệu đọc diễn văn ở Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia. Buổi diễn văn diễn ra hoàn toàn tốt đẹp. Ông Thiệu tŕnh bày xuôi chảy v́ tôi và ông Nhă đă h́ hục suốt cả đêm hôm trước để sửa đổi lại bài diễn văn đă được những nhân viên của ông Thiệu soạn trước cho ông ở Sài G̣n. Chúng tôi đă sửa lại bài diễn văn cho phù hợp với những cử tọa đa nghi ở Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên trong buổi nói chuyện của ông Thiệu, cử tọa vẫn có những câu nghi vấn nhưng họ không hề có những câu hỏi có tính cách chống đối quá đáng như tôi đă lo.

Khi ông Thiệu đang ở Hoa Thịnh Đốn th́ t́nh cờ vào lúc đó, ông Haig cũng đang ở Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi nhân dịp mời ông Haig đến ṭa đại sứ để trao tặng ông Bảo Quốc Huân Chương của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên tôi có dịp gặp ông Haig sau đợt đàm phán cuối cùng ở Ba Lê. Ông Haig cho biết ông sắp sang Việt Nam. Tin tức t́nh báo cho thấy đà xâm nhập cùng những kho tiếp vận của Việt Cộng đang ngày càng lan rộng. Tổng Thống Nixon đă ngỏ lời nhờ ông Haig đến xem rơ t́nh h́nh hư thực ra sao. Việc ông Haig được tổng thống Nixon gửi đi cũng là một niềm khích lệ đối với Việt Nam. Ông Haig là người hiểu biết, tinh tế và cứng rắn. Khi gửi ông đi, tổng thống Nixon chứng tỏ rằng Hoa Kỳ đă sẵn sàng hành động. Buồn thay, lúc ông Haig trở về để tường tŕnh về những vi phạm trầm trọng của Bắc Việt th́ vụ Watergate đă bắt đầu sôi sục và lúc đó Tổng Thống Nixon không c̣n đủ khả năng để đối phó.

Hai ngày sau khi gặp ông Haig ở ṭa đại sứ, chúng tôi bay sang Châu Âu. Tại đây lại một lần nữa ông Thiệu mở Champagne ăn mừng chuyến đi thành công. Không khí ấm áp tỏa ra khắp cả máy bay. Ông Thiệu ngỏ lời cám ơn tất cả chúng tôi đă bỏ sức góp phần vào chuyến viếng thăm. Khi nh́n lại th́ có lẽ đây là một trong những cao điểm của mối liên hệ phức tạp giữa tôi và ông Thiệu qua gần một thập niên. Ít nhất là vào lúc này cả hai chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhàng. Ông Thiệu có vẻ như không c̣n thủ thế, nghi ngờ như trước và tôi th́ cũng không đến nỗi phải đè nén những nỗi thất vọng như những năm trước đây. Khi chiếc phản lực cơ 707 vượt qua Đại Tây Dương đêm đó, những tiệc tùng vui vẻ vẫn tiếp tục và vẫn chẳng một ai trong chúng tôi có thể nh́n thấy trước được những diễn biến của vụ Watergate sắp xảy ra trong tương lai. Tôi vẫn chưa nh́n thấy rơ những vụ điều trần mở màn cho việc điều tra vụ Watergate.

Tại Rome, ông Thiệu được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến. Sau đó phái đoàn Miền Nam Việt Nam ở Ba Lê đến gặp chúng tôi để duyệt lại những tiến triển trong cuộc đàm phán liên quan đến việc thực thi hiệp định Ba Lê. Bản tường tŕnh của ông Phạm Đăng Lâm về những cuộc đàm phán thật là thất vọng. Tại Ba Lê, một cuộc nói chuyện tay ba đang diễn ra giữa những người điếc. Những cuộc đàm phán bao gồm những cuộc nói chuyện của Việt Nam Cộng Ḥa và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời, những cuộc thảo luận Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ và những cuộc nói chuyện của Hoa Kỳ và Bắc Việt. Tuy thế, lúc này chúng tôi chẳng c̣n coi trọng những chuyện đàm phán như trước nữa. Tất cả đều dửng dưng khi ông Lâm nói rằng chẳng có tiến triển ǵ đặc biệt. Tất cả chúng tôi đều đă cùng đoán trước được điều này. Chẳng hiểu về phía Hoa Kỳ th́ ông Kissinger và các phụ tá đă hoan hỉ đến độ nào khi hiệp định Ba Lê được kư kết, nhưng về phía Việt Nam th́ tất cả chúng tôi đều đă biết trước câu trả lời cho câu hỏi chính về hiệp định Ba Lê: "Liệu Hiệp Định Ba Lê có đem lại được ḥa b́nh hay không?" Chúng tôi biết rơ rằng câu trả lời của câu hỏi này tùy thuộc vào một câu hỏi khác: "Liệu Hoa Kỳ có trả đủa thích đáng nếu Việt Cộng vi phạm Hiệp Định Ba Lê hay không?" Và chính chúng tôi vừa được nghe Tổng Thống Nixon xác nhận rằng "Có" ở San Clemente.

Tôi bay từ Âu Châu về Hoa Thịnh Đốn vừa kịp lúc con gái tôi làm lễ cưới cùng một sinh viên trẻ cũng cùng học với con gái tôi ở đại học Georgetown. Sau khi lễ cưới kết thúc, tôi cùng nhà tôi lại bay về Sài G̣n.

35. Những Việc Cuối Cùng

Nếu nói về phương diện chính trị th́ kể từ giữa năm 1973 trở đi, những biến cố bên trong Việt Nam và trên trường chính trị quốc tế sắp sửa ảnh hưởng đến sự sống c̣n của Việt Nam. Tuy thế, nếu chỉ nói riêng đến đời sống cá nhân th́ cuộc sống của tôi lại hết sức thảnh thơi. Mặc dù những vấn đề trong cũng như ngoài nước đang ngày càng phức tạp, nhưng tôi và nhiều người Việt Nam khác vẫn cho rằng đây chỉ là những khó khăn b́nh thường như những khó khăn ở các giai đoạn b́nh thường khác trong lịch sử thế giới. Đă đành rằng nếu nói riêng th́ ở Việt Nam vẫn có những tệ nạn tham nhũng và bè cánh trong chính phủ và nói chung th́ dư luận thế giới vẫn đang xôn xao v́ những xích mích giữa các quốc gia ở Trung Đông, nhưng đây không phải là những vấn đề khó khăn mà Việt Nam và thế giới chẳng thể nào giải quyết. Mặc dù lúc đó đă có tin tức về vụ Watergate ở Hoa Kỳ nhưng ở Việt Nam vẫn chưa ai có thể đo lường được vụ Watergate sẽ ảnh hưởng Hoa Kỳ đến độ nào. Và nếu chỉ nói riêng về sự hiện diện của các vấn đề khó khăn trong trường chính trị th́ ở Việt Nam, có lẽ chưa có lúc nào tôi và những nhân viên khác trong chánh phủ không phải đối phó với những vấn đề khó khăn hết sức hiểm nghèo. Chẳng hạn như các khó khăn ở Huế hồi Tết Mậu Thân, các khó khăn trong trận tập kích mùa hè năm 1972..v.v. Hơn nữa, lúc nào chúng tôi cũng vượt qua.

Riêng về cuộc sống cá nhân th́ lúc này tôi bắt đầu sống cuộc sống của một nhân viên ngoại giao bán phần. Tôi đă trở lại làm việc với tờ Post và tờ Gió Mới. Nhưng cũng cùng lúc này, ông Thiệu bắt đầu mời tôi làm đặc sứ. Tôi được gửi đi nhiều công tác khác biệt ở Á Châu, Âu Châu và Hoa Kỳ. Cuộc sống của tôi lúc này khiến tôi cảm thấy ḿnh có thể làm việc trong một khung cảnh thật dễ chịu. Tôi là một công dân có đời sống cá nhân tự do, nhưng hoàn cảnh cũng đưa đẩy tôi gần gũi với chính phủ và tôi cảm thấy ḿnh vẫn có thể tiếp tục đóng góp ít nhiều vào những điều to tát đáng kể hơn.

Thật ra, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về những ǵ mà Việt Nam phải làm sau hiệp định Ba Lê và tôi cho rằng việc tôi có thể gặp gỡ ông Thiệu cũng là một dịp tốt để tôi có thể đóng góp ư kiến phần nào vào việc xây dựng quốc gia. Kể từ tháng giêng trước đây, tôi đă bắt đầu soạn thảo một kế hoạch chỉ rơ phương hướng cho các công việc của Việt Nam sau giai đoạn Hiệp Định Ba Lê. Kế hoạch của tôi gồm hai điểm chính: Thứ nhất: Chuyển hướng ngoại giao Việt Nam để tái tạo chính nghĩa cho chính quyền Việt Nam trên trường ngoại giao quốc tế. Thứ hai: Phải cải tổ chính phủ Việt Nam và t́m cách kêu gọi những người quốc gia khác tham gia chánh phủ. Vào giữa năm 1973, tôi bàn luận những ư kiến này với ông Hoàng Đức Nhă và sau đó trực tiếp, thường xuyên hơn với ông Thiệu.

Tôi nói rằng đây là lúc chính phủ Việt Nam nên trực diện với vấn đề Hoa Kỳ rút quân. Bất cứ chiến lược tương lai nào của Việt Nam cũng khó thể tránh khỏi bắt đầu bằng việc Hoa Kỳ rút quân. Tuy vấn đề Hoa Kỳ rút quân quả là một trong những vấn đề bất lợi cho Việt Nam, tôi cho rằng nếu nh́n qua một khía cạnh khác th́ đây vẫn có thể là một lợi điểm. Trong suốt cuộc chiến, tôi đă khốn khổ v́ sự hiện diện và ảnh hưởng cuả Hoa Kỳ trong mọi lănh vực. Vào năm 1965, khi c̣n là Đổng Lư Văn Pḥng cho chính phủ của bác sĩ Quát, tôi đă tham gia vào những biến cố dẫn đến việc đổ bộ của lính Hoa Kỳ. Lúc đó, cả tôi lẫn Bác Sĩ Quát đều đă hết sức lo lắng về những ảnh hưởng bất lợi khi để Hoa kỳ đổ quân vào Việt Nam. Sau này, khi là phụ tá cho ông Kỳ, tôi lại đồng ư là sự can thiệp của Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là la lemoindre mal, một sự lựa chọn bất đắc dĩ. Nhưng cũng như nhiều nhân vật khác trong các đảng quốc gia, lúc nào tôi cũng lo rằng rồi đây hành động can thiệp của Hoa Kỳ sẽ khiến chính phủ Việt Nam Việt Nam phải chịu nhiều tai tiếng và mất đi rất nhiều chính nghĩa.

V́ thế, tôi nghĩ rằng Hiệp Định Ba Lê có thể là một khúc quanh trong đời sống chính trị của Việt Nam. Dĩ nhiên khi Hoa Kỳ rút đi trong một hiệp định cho phép Cộng Sản Bắc Việt tiếp tục đóng quân ở Việt Nam Việt Nam th́ họ đă buộc chánh phủ Việt Nam phải chấp nhận một t́nh trạng nguy hiểm. Nhưng nếu nh́n vấn đề bằng một quan niệm khác th́ việc Hoa Kỳ rút quân có thể được xem như một yếu tố có lợi cho Việt Nam. Khi Hoa Kỳ lui binh, ít nhất chánh phủ Việt Nam cũng có cơ hội văn hồi lại được một phần những chính nghĩa đă mất đi khi Hoa Kỳ can thiệp. Vấn đề của chúng tôi là làm thế nào để xây dựng và tái tạo lại được những chính nghĩa đă mất.

V́ quan niệm như thế, tôi bắt đầu khai triển một kế hoạch nhằm chuyển hướng ngoại giao của chánh phủ Việt Nam để xóa tan những chỉ trích hiếu chiến và độc tài mà dư luận thế giới đă gán cho Việt Nam, và cũng để xây dựng h́nh ảnh của Việt Nam như một quốc gia độc lập, có chủ quyền và được cả thế giới công nhận. Muốn áp dụng một kế hoạch như vậy trên phương diện ngoại giao th́ chính phủ Việt Nam cần phải tạo được những mối liên hệ tốt đẹp với các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á cũng như trên thế giới.

Vào những năm 1973-1974, chính những cuộc bàn luận với ông Thiệu đă góp phần thúc đẩy tôi thăm viếng các quốc gia khác ở Á Châu như Nam Dương, Mă Lai, Singapore, Ấn Độ, Nhật. Tôi cũng được phái sang Nhật và Anh Quốc để t́m các mối liên lạc và t́m viện trợ. Tại Nam Dương và Mă Lai, tôi đă tạo được những mối giao hảo tốt đẹp với những nhà lănh đạo như ông Abdul Rahman của Mă Lai và Ngoại Trưởng Adam Malik của Nam Dương. Một trong những điều đáng quan tâm khi tôi cùng các lănh tụ Đông Nam Á đàm luận là việc họ thường xuyên hỏi han về những cam kết của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Mối ưu tư của họ có thể gồm trong hai điều: 1) Liệu Việt Nam có đứng vững hay không? 2) Liệu Hoa Kỳ có đủ kiên nhẫn tiếp tục giúp đỡ Việt Nam hay không? Theo quan niệm của ông Suharto, tổng thống Nam Dương th́ Đông Nam Á cần một Việt Nam vững mạnh để chống cộng sản. V́ thế vai tṛ của Hoa Kỳ trong việc này vô cùng quan trọng. Ông Suharto quan niệm rằng việc ông Thiệu chống đối là việc hoàn toàn đúng. Ông cho rằng bất kể Hoa Kỳ đă điều đ́nh ra sao, ông Suharto nhận định là vẫn khó thể có một hiệp định hoàn hảo giữa chánh phủ Miền Nam Việt Nam và Bắc Việt.

Tuy thế, đây chỉ là ư kiến mà các lănh tụ trong khối các quốc gia không liên kết phát biểu trong những cuộc nói chuyện riêng với nhau. Và khi cần phải phát biểu công khai th́ họ lại tuyên bố khác hẳn. Ông Malik đă nói với tôi rằng: "Chắc ông cũng rơ là trước công chúng, chúng tôi chẳng thể nào phát biểu như ḿnh suy nghĩ. Chính thật th́ chúng tôi cũng chỉ là một quốc gia thuộc khối các quốc gia không liên kết và v́ thế chúng tôi phải giữ kín thái độ bên ngoài." Tuy tôi không gặp trở ngại ǵ khi trao đổi với ông Malik và những nhân vật khác, tôi vẫn lấy làm lạ v́ những thực tế chính trị trên trường ngoại giao quốc tế. Nếu đây là những cuộc gặp gỡ từ hai mươi năm trước có lẽ tôi đă phải sững sờ, nhưng giờ đây tôi chỉ âm thầm ghi lại mà thôi. Tôi đă thấy qua quá nhiều lần và biết rằng đây chẳng qua chỉ là những chuyện hàng ngày.

Riêng ở Ấn Độ th́ tôi ít phải đụng chạm với những thực tế trong trường chính trị như ở các nước Nam Dương. Tuy thế, bầu không khí cũng khó chịu hơn. Lúc đầu tôi chỉ bàn luận với những người trong Bộ Ngoại Giao, nhưng rồi tôi cũng không tránh khỏi phải đối diện với bà thủ tướng Indira Gandhi khó tính của Ấn Độ. Những đồng minh quốc tế của Ấn Độ đă xếp nuớc Ấn vào hàng đồng minh với Nga. Và chính Nga cũng đă cung cấp cho Ấn Độ rất nhiều vũ khí. Từ trước tới nay bà Gandhi lúc nào cũng ủng hộ Cộng Sản Bắc Việt. V́ thế, chúng tôi chưa bao giờ có thể sắp xếp để hoàn toàn tiến đến quan hệ ngoại giao với Ấn Độ, nhưng chúng tôi cũng đă có thiết lập một mối dây liên hệ tổng quát qua lănh sự quán của Việt Nam ở Ấn Độ. V́ t́nh trạng ngoại giao của Việt Nam đối với Ấn Độ thật là lỏng lẻo và tôi lại đang cố xây dựng lại những giềng mối Ngoại Giao của Việt Nam nên tôi đến Ấn Độ rất thường xuyên. Đất Ấn bao la đă gây cho tôi những ấn tượng hết sức đặc biệt. Dân số Ấn thật là vô bờ và tôi nghĩ rằng những nỗi thống khổ của người dân Ấn Độ có lẽ cũng vượt quá khả năng và giới hạn của con người. Có lần đi ngang qua một nơi ở Ấn Độ, tôi đă thấy hàng ngàn người dân Ấn ăn mặc rách rưới cứ túa ra xúm vào những người du khách để dành dựt những thứ vặt vănh như bút máy, luợc chải đầu..v.v. Lần đó, tôi đă so sánh những vấn đề khó khăn của Ấn Độ với những khó khăn của Việt Nam. Tôi cho rằng nếu những khó khăn của Việt Nam không đơn giản hơn th́ cũng không đến nỗi quá tầm tay với như những khó khăn của Ấn Độ.

Tuy ông Thiệu cảm thấy quan niệm việc thực hiện bang giao với các nước lân cận quả thật không mấy khó khăn nhưng ông lại cảm thấy chật vật khi phải đối diện với vấn đề cải tổ thứ hai mà tôi đă đề ra: Phải thống nhất chánh phủ bằng đoàn kết. Đây chính là quan niệm chính trị mấu chốt nhất của các thành phần quốc giao đă ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim khi trước. Đây cũng chính là quan niệm chính trị của những người đă cộng tác với bác sĩ Quát. V́ chính tôi cũng là người đă tham gia các đoàn thể chính trị này nên quan niệm của tôi cũng chẳng khác ǵ quan niệm của những người mà tôi đă từng có dịp cộng tác chung. Tôi đă cố gắng duy tŕ ư kiến về vấn đề cần đoàn kết trong những môi trường chính trị khắc nghiệt của Việt Nam kể từ khi những nhà lănh đạo quân sự đứng ra thay thế chính phủ của bác sĩ Quát. Qua những chánh phủ quân sự, những nỗ lực tiến đến dân chủ đă bắt đầu phát triển và chứng tỏ một phần thành đạt khả quan để rồi cuối cùng chết hẳn sau cuộc độc cử năm 1971. Tuy thế, quan niệm của một quốc gia đoàn kết, tuyển dụng tất cả những nhân tài chính trị từ mọi đoàn thể vẫn chẳng phải là một quan niệm lỗi thời. Trái lại, vào năm 1973-1974, dường như đây là một đề tài càng lúc càng trở nên cần thiết cho vấn đề sống c̣n của Việt Nam.

Lúc này, những t́nh trạng khó khăn bên trong Việt Nam ngày càng gia tăng. Lệnh cấm dầu của Ả Rập ban hành vào mùa thu năm 1973 đă khiến lạm phát tăng vọt lên 50%. Nạn lạm phát cùng những sự giảm thiểu viện trợ của Hoa Kỳ đă khiến cho nền kinh tế Việt Nam gần như khủng hoảng. Đối với đại đa số dân chúng, việc sinh nhai kiếm sống nuôi gia đ́nh ngày càng khó khăn. Về mặt quân sự th́ tin tức t́nh báo ước lượng rằng vào cuối năm 1973 những cuộc tải quân xâm nhập đă đưa con số binh quân đội Bắc Việt trấn đóng ở Miền Nam Việt Nam lên đến 13 sư đoàn. Các lực lượng này đă dùng các tiểu đoàn và có khi cả trung đoàn liên tục tấn công vào các đơn vị Việt Nam để ḍ xét phản ứng của Hoa Kỳ. Đầu tiên, v́ sợ bị Tổng Thống Nixon trả đủa Hà Nội chỉ tấn công một cách dè dặt, nhưng cứ sau mỗi cuộc tấn công ḍ dẫm không bị B-52 phản công Hà Nội lại gia tăng tầm mức tấn công. Dần dần những nhịp tấn công trở nên ráo riết.

Khi những đe dọa xă hội, kinh tế và quân sự ngày càng lan rộng, vấn đề cần thiết phải cải tổ đă trở thành hiển nhiên. Chính ông Thiệu cũng biết rằng rất nhiều nhân viên làm việc trong chính quyền ông là những người tham nhũng và thiếu khả năng. Tuy vậy, ông lại không thể kêu gọi ủng hộ và cũng chẳng đủ quyết tâm để tiến hành cải tổ chính phủ. Tuy biết rất rơ những khó khăn và cũng rất thất vọng, ông vẫn chần chừ không chịu giải quyết. Mặc dù thấy rơ Việt Nam cần phải có một chánh phủ đoàn kết và cần phải tận dụng tất cả những tiềm lực của các các đoàn thể chính trị khác, nhưng v́ bản tính đa nghi, và cố tật lưỡng lự, chần chờ, ông Thiệu vẫn để mặc cho mọi sự trôi qua. Có lẽ ông tin rằng dù cho chế độ của ông có thiếu khả năng đến đâu đi nữa th́ Hoa Kỳ vẫn không thể bỏ rơi ông. Hoa Kỳ đă đầu tư quá nhiều xương máu cùng vật liệu vào Việt Nam. Hơn nữa, những đ̣i hỏi của chính sách toàn cầu và những lời hứa nghiêm trang của tổng thống Nixon sẽ không cho phép Hoa Kỳ khoanh tay để mặc Cộng Sản nắm phần chiến thắng.

Chính ngay cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao ông Thiệu lại vui ḷng nghe tôi nói về những nhược điểm của chế độ Việt Nam và những yêu cầu phải lập tức sửa đổi. Nỗi thất vọng to lớn của tôi là việc ông Thiệu thường đồng ư với những chỉ trích của tôi.

Tôi c̣n nhớ trong một buổi họp Hội Đồng chính phủ thu hẹp do ông Thiệu đứng ra triệu tập vào tháng 3 năm 1974. Cuộc họp lần đó rơi vào đúng khi tôi sửa soạn đi công cán nước ngoài để t́m viện trợ. Mục đích của buổi họp là để các bộ trưởng tŕnh bày với tôi về t́nh trạng kinh tế cùng quân sự lúc này rồi sau đó ông Thiệu sẽ cho tôi chỉ thị riêng. Trong những lần họp trước, những buổi họp thường kéo dài cả ngày trời mà vẫn chẳng đi đến quyết định ǵ cụ thể. Lần họp này cũng vậy, các bộ trưởng vẫn chỉ bỏ thời giờ tranh luận với nhau trong khi Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm ngồi đó mà đầu óc dường như đâu đâu, chẳng hề chú ư ǵ đến những việc đang xảy ra trước mặt. Quá giận, ông Thiệu đă phải chấm dứt cuộc họp. Khi chỉ c̣n lại ḿnh tôi, ông Thiệu bày tỏ ư kiến của ông một cách bực tức: "Đó, anh có thấy rằng tôi phải chịu đựng như thế nào chưa?"

Nhưng ông Thiệu không bao giờ có đủ khích động để quyết định. Thay v́ hành động, ông Thiệu chỉ đồng ư với những lời chỉ trích thậm tệ của tôi rồi yêu cầu tôi chu toàn công việc này hay công việc nọ. Ông Thiệu hứa rằng ông sẽ đối phó với vấn đề này sau khi tôi trở lại. Có lẽ ông Thiệu có ư muốn nói rằng cơ hội tốt nhất để cải tổ là khi quốc hội Hoa Kỳ đồng ư tăng viện trợ trên các mặt kinh tế và quân sự. Dường như ông Thiệu vẫn chưa hiểu rằng với t́nh thế Hoa Kỳ lúc này việc tăng viện trợ quả không có chút nào thực tế. Ông Thiệu cho rằng chỉ khi những ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam đă hoàn toàn vững vàng, ông mới có thể ra tay hành động quyết liệt. Và lúc đó sẽ là khi ông thật sự cải tổ. Bởi thế, với những chính sách chần chừ, chờ đợi, thời cơ bắt đầu vượt qua ông và qua cả Việt Nam.

Từ giữa năm 1973 cho đến năm 1974, tôi thường xuyên đến Hoa Kỳ, theo dơi các diễn biến ở Hoa Thịnh Đốn và làm tất cả mọi việc có thể làm được để giữ viện trợ khỏi bị cắt bỏ. Tôi theo dơi vụ Watergate với nỗi lo lắng ngày một gia tăng, ngạc nhiên khi thấy những nhân viên của tổng thống Nixon cảm thấy cần phải làm những việc họ đă làm. Lúc đầu tôi c̣n tin rằng rồi đây mọi việc sẽ được dàn xếp ổn thỏa. Làm sao một việc kỳ lạ thế này lại có thể phá hủy được cả một tổng thống Hoa Kỳ? Nhưng vào mùa thu năm 1973, tôi bắt đầu nhận thấy mức độ trầm trọng thực sự của vấn đề và bắt đầu lo lắng về những hậu quả do biến cố này gây ra. Vào cuối tháng 4, hai nhân viên thân tín nhất của tổng thống Nixon là ông Bob Haldemand và ông John Ehrlichman từ chức. Vào ngày 10 tháng 10, tin tức loan báo việc phó tổng thống Spiro Agnew cũng từ chức. Khoảng hơn một tuần lễ sau đó, ông Richardson và phụ tá ông là ông William Ruckelshaus tuyên bố từ chức khi ông Archibald Cox, công tố viên đặc biệt của vụ Watergate bị đuổi. Việc xảy ra vào lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn, cố xin đủ các viện trợ quân sự cho Việt Nam. Hành động của ông Richardson đánh thẳng vào Hoa Thịnh Đốn như một tiếng sét trên chính trường Hoa Thịnh Đốn. Qua rất nhiều ngày thành phố dường như tê liệt; chẳng c̣n ai để tôi có thể nói chuyện về các vấn đề viện trợ Việt Nam. Chánh phủ Nixon đang ngă quị và khả năng tự vệ của Việt Nam đối với những cuộc tấn công của kẻ thù càng trở nên mong manh bội phần.

Vào tháng 10, quốc hội cho thông qua một đạo luật tổng thống Nixon đă phủ quyết lúc trước, giới hạn quyền lực tổng thống trong việc dùng các lực lượng vũ trang. Lúc này ông không c̣n đủ quyền lực để nhận lănh trách nhiệm cho những điều khoản trong hiệp định Ba Lê và cũng chẳng thể chu toàn những lời hứa ông tuyên bố ở San Clemente. Vào đầu năm 1974, tôi đă nhận xét rằng dù cho tổng thống Nixon c̣n có thể tại nhiệm đi chăng nữa, ông vẫn chẳng thể làm bất cứ việc ǵ cho Việt Nam như ông đă hứa từ trước.

Tất cả những diễn biến này, tôi đều đă bàn bạc chi tiết cùng ông Thiệu. Đầu tiên ông Thiệu không thể tin rằng một chuyện nhỏ nhặt tầm thường như thế lại có thể ảnh hưởng đến vị tổng thống Hoa Kỳ. Những khi t́nh thế ngày càng ngặt nghèo, ông Thiệu bắt đầu lo lắng. Vào tháng 3 năm 1974, ngay khi việc tố cáo c̣n đang tiếp diễn, ông Thiệu đă gửi tôi đến Hoa Thịnh Đốn để thẩm định t́nh h́nh và xem xét khả năng viện trợ của Hoa Kỳ. Trong chuyến đi tôi có gặp Phó Tổng Thống Gerald Ford cùng nhiều nhân vật đă từng cộng tác hoặc cho tin tức tôi trước đây. Nhưng những cuộc gặp gỡ quả thực không cần thiết. Dĩ nhiên chẳng cần phải những người có đầu óc tinh tế mới có thể hiểu rằng giữa tấn thảm kịch của chánh phủ Nixon, vấn đề Việt Nam là một vấn đề chẳng ai thèm chú tâm để ư.

Khi trở lại Việt Nam, tôi thấy ông Thiệu hoàn toàn đăm chiêu và ít nói năng. Tuy hiển nhiên là đang gặp khó khăn, ông Thiệu vẫn cố gắng dấu những điều ông suy nghĩ. Tôi tin là trong thâm tâm, ông Thiệu vô cùng hoang mang về cả tầm vóc khủng khiếp của những biến cố đang xảy ra ở Hoa Thịnh Đốn lẫn những hậu quả tai hại theo sau. Lúc này, chính tôi cũng đang hoang mang v́ những điều như vậy. Vào ngày 9 tháng 8-1973, ông Thiệu cũng rúng động khi thấy tổng thống Nixon từ chức.

Tuy thế ngay sau đó ông Thiệu lại nhận được một lá thư do tân tổng thống Ford gửi đến như sau: "Tôi tưởng không cần phải viết rơ để thông báo với ông rằng một trong những nét chính của chánh sách Hoa Kỳ là tính cách liên tục của chính sách ngoại giao từ Tổng Thống này qua Tổng Thống khác." Tổng thống Ford viết rằng: "Hơn bao giờ hết, điều này hoàn toàn đúng vào lúc hiện tại. Những lời cam kết của Hoa Kỳ khi trước vẫn được Hoa Kỳ giữ đúng vào lúc này, dưới chánh phủ của tôi." Quá vui mừng, ông Thiệu cho mọi người xem lá thư của tổng thống Ford như thể ông đang nắm trong tay một tờ bảo đảm sinh tồn của Việt Nam. Khi nh́n ông Thiệu, tôi phân vân không hiểu trong thâm tâm ông có nhận định được rằng đây là một trong những điều mong manh nhất trong tất cả mọi điều mong manh, hay quả thực ông vẫn mù mờ chẳng thể nhận định rơ được rằng quyền lực của tổng thống Hoa Kỳ lúc nào cũng bị quốc hội kềm hăm?

Nếu tháng 8 quả là tháng của những tin tức đưa đến biến động lịch sử Watergate ở Hoa Thịnh Đốn th́ ở Việt Nam, Sài G̣n vẫn tiếp tục ch́m trong một bầu không khí phẳng lặng. Chúng tôi biết rơ rằng các lực lượng cộng sản vào lúc này đă thiết lập căn cứ quân sự ở Việt Nam với ư đồ cùng tầm mức khác hẳn những lần trước đây. Cộng Sản đang thiết lập nhiều ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam và đang tổ chức một mạng lưới liên lạc quân sự tinh vi. Lúc này Bắc Việt đă chuyển được cả hàng ngh́n tấn nguyên liệu chiến tranh về các kho tiếp liệu của cộng sản gần nơi trận địa. Tuy thế, dù đă sẵn sàng về mọi mặt, trung ương đảng Bắc Việt vẫn chưa có quyết định chiến lược nào để mở cuộc tổng tấn công.

Việc từ chức của tổng thống Nixon đă khiến Bắc Việt quyết định táo bạo hơn. Vào tháng 9, các lực lượng cộng sản gia tăng phạm vi các mặt tấn công. Hiển nhiên những lănh tụ Hà Nội tin rằng một khi tổng thống Nixon từ chức th́ những dự định trả đủa chắc chắn phải giảm bớt. Đă hẳn là sự tin tưởng của họ không có ǵ sai lầm. Nhưng họ vẫn tiếp tục thử. Mùa khô, vốn dĩ là mùa phù hợp cho các cuộc tấn công lớn chỉ c̣n cách xa vài tháng. H́nh như t́nh thế vẫn chưa đủ căng thẳng, vào giữa tháng 8, bất kể những lời khẳng định trấn an của tổng thống Ford quốc hội lại cố sức t́m cách cắt bỏ những viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam. Một trong những đạo luật cuối cùng của tổng thống Nixon là viện trợ cho Việt Nam 1.1 tỷ đô la. Nhiều ngày sau đó, quốc hội biểu quyết chỉ viện trợ 700 triệu mà thôi. Cuối cùng, v́ nhiều chính sách khác biệt của các Bộ Quốc Pḥng, số tiền chánh thức nhận được là 400 triệu. Nạn lạm phát cùng giá dầu tăng vọt đă khiến số tiền viện trợ này thật sự chẳng là bao.

Chỉ vài tuần lễ sau khi chánh quyền Nixon sụp đổ, chính ông Thiệu cũng phải đối phó với nhiều cuộc khủng hoảng chính trị ở Việt Nam. Những khủng hoảng chính trị ở Việt Nam khởi đầu là do phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Trước đây linh mục Trần Hữu Thanh là người rất gần gũi với ông Ngô Đ́nh Diệm. Phong trào chống tham nhũng của linh mục Thanh khởi đầu v́ rất nhiều lư do, bao gồm cả những lư do thực tế lẫn những lư do chính trị. Chỉ trong ṿng một tháng, Phong Trào Chống Tham Nhũng đă gây được nhiều ảnh hưởng trong dư luận. Linh mục Thanh tố cáo ông Thiệu, bà Thiệu và những nhân viên trong chính quyền ông Thiệu đúng vào lúc kinh tế đang suy sụp và nạn lạm phát đang ngày càng tăng. Những tầng lớp binh lính, sĩ quan cấp nhỏ, công chức, nông dân và công nhân lúc này đang khốn đốn vất vả. Ngay lúc chống đối, có lẽ phải đến cả 95% những người đang t́m kế sinh nhai bị buộc phải suy nghĩ về vấn đề kiếm sống trong tương lai. Bất kể nguyên do nào khiến họ phải vất vả, phong trào chống tham nhũng của linh mục Thanh vẫn là một nơi khiến họ có thể trút bỏ phần nào những nỗi bất b́nh mà họ đă phải chịu đựng. Dĩ nhiên một khi linh mục Thanh và nhiều chính trị gia khác đă lên tiếng chỉ trích tệ đoan ở các tầng lớp cao nhất th́ những người đang thiếu đủ mọi bề khó thể ngồi yên.

Tuy vấn đề tham nhũng của chính phủ Việt Nam quả là trầm trọng, riêng cá nhân tôi không cảm thấy vấn đề tham nhũng là nguyên nhân chính tạo nên mọi chuyện. Tôi đă từng đi thăm nhiều nơi ở Đông Nam Á và đă mục kích vấn đề tham nhũng ở rất nhiều quốc gia. Nhưng v́ hoàn cảnh Việt Nam lúc này đang giữa lúc chiến tranh nên t́nh trạng tham nhũng đă bị dư luận chỉ trích dữ dội hơn rất nhiều.

Chỉ trong một thời gian ngắn, Phong Trào chống tham nhũng đă chuyển thành một chỗ phát tiết chẳng những cho các tầng lớp dân chúng mà c̣n là nơi phát tiết cho những chính trị gia đối lập với ông Thiệu. Kể từ khi ông Thiệu nắm quyền cho đến năm 1971, ông đă tuyển dụng phần đông những tay chân thân tín của ông và v́ thế đă gây ra rất nhiều chống đối. Những người chống đối ông lúc này bao gồm cả những người thiên tả, những người trung lập, Phật Giáo, Công Giáo và ngay cả những người cực hữu. Chống đối dường như từ tất cả mọi mặt, và từ tất cả những đoàn thể đối lập. Lúc này, họ nhân cơ hội phát tiết tất cả thất vọng. Gần như tất cả mọi đoàn thể dưới sự lănh đạo của linh mục Thanh đă biến thành một phong trào chống chính phủ thay v́ chống tham nhũng. Mặt Trận Giải Phóng cũng dính líu vào các vụ chống đối và trong những chống đối hàng ngày chẳng ai có thể phân biệt được chống đối nào là do những đoàn thể hợp pháp tổ chức hoặc chống đối nào là do các ổ Việt Cộng bí mật sách động. Chỉ cần liếc nh́n vào tờ báo mỗi sáng cũng đủ thấy cả Miền Nam đang bùng cháy.

Trong khi đó th́ bên trong chính phủ của ông Thiệu cũng đă có nhiều thay đổi. Lúc này, ông Hoàng Đức Nhă không c̣n làm việc trong chánh phủ nữa. Ông Thiệu đă bị áp lực trực tiếp của phía Hoa Kỳ buộc ông phải loại ông Nhă ra khỏi chính phủ. Tuy thế, v́ tinh thần họ hàng, nên ông Nhă và ông Thiệu vẫn tiếp tục liên lạc với nhau. Vào cuối tháng 9, khi tôi cùng ông Nhă bàn luận về những sự chống đối đang xảy ra khắp nơi trên đường phố th́ ông Nhă hỏi có thể giúp ǵ ông Thiệu để ra khỏi được cuộc khủng hoảng không? Chúng tôi bàn luận thêm rồi cố t́m cách làm giảm bớt các cuộc chống đối. Câu chuyện đẩy đưa và rồi ông Nhă cho tôi biết ông Thiệu sắp sửa lên đài truyền thanh để thuyết phục dân chúng. Ông Nhă hỏi tôi liệu tôi có thể soạn trước một bài diễn văn cho ông Thiệu được không?

Tôi nghĩ có lẽ đây cũng là một dịp để làm cho t́nh thế lắng dịu xuống và trả lời rằng nếu cần th́ tôi cũng vui ḷng góp sức. Cũng như nhiều người khác, tôi hiểu rất rơ những vấn đề tai hại ông Thiệu đă tự ḿnh chuốc lấy khi cô lập hóa những người đầy khả năng có thể là đồng minh hoặc ít ra th́ cũng có thể là một nhóm đối lập nhưng vẫn chung thành với ông. Và nếu chỉ nói riêng về chính phủ của ông Thiệu th́ dĩ nhiên chẳng ai lại không thấy đa số nhân viên của ông Thiệu chỉ là những người tham nhũng và bất tài. Chẳng những vậy, những phong trào chống đối chính phủ bùng nổ c̣n cho thấy trong cơn phẫn khích dân chúng đă quên cả vấn đề sinh tử thật mong manh của Việt Nam. Lúc này là lúc Việt Cộng sắp sửa một cuộc tổng tấn công với tầm mức lớn rộng hơn tất cả những lần trước đây. Tôi thấy rơ rằng chính phủ Việt Nam cần phải t́m cách ổn định ngay những cuộc biểu t́nh chống đối. Và tôi cho rằng ông Thiệu nên kềm bớt phẫn nộ và chú tâm vào những hiểm họa đang kề gần sát sắp sửa phủ chụp xuống Việt Nam.

Để có thể thực sự giải quyết vấn đề, tôi đề nghị là ông Thiệu nên dùng bài diễn văn như một bước đầu tiên của kế hoạch xoa dịu dư luận. Tôi sẽ vui ḷng soạn thảo phần diễn văn nhưng chỉ với điều kiện ông Thiệu phải thực thi những điều ông nói. Ông Nhă cho là chắc chắn ông Thiệu sẽ thỏa thuận, nhưng ông đề nghị tôi nên nói chuyện với Chánh Văn Pḥng Phủ Tổng Thống, Đại Tá Vơ Văn Cầm trước. Khi nói chuyện với ông Cầm th́ ông Cầm cũng hứa sẽ hết sức.

Tối đó, tôi bắt đầu soạn thảo diễn văn cho ông Thiệu. Đây chẳng qua là một bài diễn văn tôi đă dùng đi dùng lại nhiều lần trong rất nhiều năm. Tôi chuyển bài diễn văn cho hợp với t́nh trạng chống đối ở Sài G̣n lúc này:

Tuy tôi không hoàn toàn chấp nhận tất cả những lời lẽ buộc tội của linh mục Thanh và những người đối lập, tôi quả có nhận biết những tệ đoan trong chánh phủ và tôi nhận rằng việc đương đầu với những vấn đề này thật là cần thiết. Tôi vui ḷng cùng các ông ngồi lại để bàn luận những cách ngăn ngừa tệ trạng. Nhưng tham nhũng không phải là vấn đề chính mà chúng ta cần đương đầu vào lúc này. Vấn đề chính mà chúng ta cần đương đầu vào lúc này c̣n trầm trọng hơn vấn đề tham nhũng. Đây là vấn đề sinh tử của quốc gia chúng ta. Như thế, tôi xin chúng ta cùng ngồi lại với nhau, nhưng không phải ngồi lại với nhau trong tư thế chánh phủ và những người đối lập mà là ngồi lại với nhau trong tư thế của những người yêu nước tuy có đang bất đồng ư kiến mà vẫn tạm dẹp hiềm khích cá nhân sang một bên v́ quốc gia đang ở vào giờ phút sinh tử.

Theo tôi nghĩ th́ đây chỉ là một lời mở đầu, chưa có ǵ cụ thể nhưng là một bước tiến quan trọng trong kế hoạch làm dịu bớt căng thẳng cũng như đưa ra vấn đề chính cần thiết cần được bàn luận.

Vài ngày trước, tôi đă chuyển cho đại tá Cầm bản diễn văn do tôi soạn thảo. Nhưng sau đó, tôi vẫn chưa hề nghe tin ǵ cả. Buổi tối hôm ông Thiệu đọc diễn văn là lúc tôi đang dùng bữa tối ở nhà một người bạn. Ông Thiệu đang nói chuyện với cả nước nhưng không phải bằng những ngôn từ tôi đă soạn cho ông. Thay v́ t́m cách ḥa hoăn, nh́n nhận vấn đề rồi từ đó tiếp tục bước tới, ông Thiệu bỏ thẳng vấn đề. Thay v́ nói chuyện với những nhân vật đối lập, ông lại nói về Cộng Sản. Ông nói về những người cộng sản đang chống đối ông, về những người cộng sản đang đứng sau giật giây tất cả mọi chuyện. Thay v́ chấp nhận chia xẻ một phần trách nhiệm và vui ḷng thảo luận với các đoàn thể trong nước, ông Thiệu lại quyết định né tránh vấn đề.

Khi nghe bài diễn văn, tôi nghĩ thầm rằng có lẽ ông Thiệu đă cho ḿnh là trung tâm của vũ trụ, đă tin rằng chính ông đang mang thiên mệnh. Nh́n ông Thiệu trên Ti Vi tôi thấy dường như ông không hề biết rằng ông đang nói chuyện cùng dân chúng cả nước. Dường như ông Thiệu đă mất hết thăng bằng, có lẽ những năm nắm giữ uy quyền đă khiến ông trở nên mê muội. Ông đă không hiểu những biến cố xảy ra ở Hoa Kỳ và giờ đây chính tôi tận mắt mục kích ông cũng không hiểu nổi chính cả những vấn đề đang xảy ra ngay ở Việt Nam. Nh́n ông Thiệu trên màn truyền h́nh tôi không khỏi ngột ngạt khi thấy rằng dù đang lúc thập tử nhất sinh mà ông Thiệu vẫn chẳng thể phóng tầm nh́n lên trên những vấn đề uy quyền cá nhân. Quan niệm của ông chỉ là quan niệm của một người làm chính trị, cố theo đuổi và giữ chặt quyền lực. Ngay cả khi kẻ thù đă đến cận kề, sửa soạn nuốt chửng tất cả mà ông Thiệu vẫn chưa nhận thấy ông phải đoàn kết với những đoàn thể đối lập để chống lại kẻ thù chung. Có thể ông Thiệu đă từ chối giải pháp đoàn kết v́ ông thấy rằng ông không đủ tài để đáp ứng những yêu cầu đ̣i hỏi. Thản hoặc có thể nhăn quan của ông đă khước từ không nh́n nhận những biến cố sắp sửa xảy ra.

Từ tháng 9-1974 cho đến tháng giêng năm 1975, những vấn đề xích mích nội bộ của Sài G̣n đă làm kiệt quệ tất cả sinh lực và chuyển cả hướng chú tâm của người dân Việt Nam. Miền Nam Việt Nam đă quên hẳn những hiểm họa đang ŕnh rập đón chờ. Chánh phủ đă ngoan cố không chịu thương lượng, những nhóm đối lập lại quá mù quáng không thể nh́n thấy hiểm họa chỉ như mảnh treo chuông. Đa số những người dân Sài G̣n chỉ c̣n nghĩ đến cách kiếm cơm ngày hai bữa và quá bận rộn v́ việc sinh nhai, không thể suy nghĩ về bất cứ vấn đề ǵ khác. Thật sự th́ Sài G̣n đă đứng gần bên bờ vực sụp đổ v́ những áp lực bên trong.

Ngay trong lúc Việt Nam đang kiệt lực th́ các lực lượng Cộng Sản mở cuộc tấn công vào giữa tháng 12-1974. Sau ba tuần chiến đấu cam go, Phước B́nh đă lọt vào tay Cộng Sản. Các lực lượng Việt Nam không hề phản công. Tại Hoa Thịnh Đốn, chánh quyền Ford cũng chẳng có hành động ǵ chứng tỏ Hoa Kỳ sẽ ra sức giứp đỡ. Khi chiến cuộc ngày càng lan rộng, tôi bắt đầu thấy ḿnh đang bị dằng co giữa hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược. Một mặt th́ tôi đă thấy và hiểu rơ những ǵ đang xảy ra. Nhưng mặt khác, tôi lại không thể chấp nhận những điều trông thấy. Tôi cứ tự trấn an một cách giả dối rằng vấn đề khó khăn lần này chẳng qua cũng giống như vấn đề khó khăn của những lần trước đây, và rồi đây bằng cách nào đó Việt Nam cũng sẽ ổn định trở lại. Nói cho cùng th́ chúng tôi cũng đă mục kích nhiều rồi. Chúng tôi đă mục kích Tết Mậu Thân, chúng tôi đă tái chiếm Huế. Chúng tôi đă cầm cự trong khung cảnh khốc liệt của An Lộc. Chúng tôi đă tái chiếm lại được Quảng Trị. Có những lần tưởng như đă đến bước đường cùng mà chúng tôi lại vẫn vượt qua được. Lần này thật ra có ǵ lấy làm khác biệt?

Tết năm 1975 rớt vào ngày tháng giêng. Ngay trước ngày tết, ông Thiệu lại phái tôi sang Ấn Độ để xiết chặt mối bang giao với Ấn Độ. Tôi cũng chẳng c̣n nhớ là mối bang giao nào cần phải xiết chặt vào lúc này nữa. Nhưng bất kể mối bang giao đó là ǵ, nhà tôi vẫn nhất quyết không cho tôi rời nhà vào ngày Tết đầu năm. Nhà tôi lư luận là tôi phải ở nhà để cùng ăn Tết với gia đ́nh. Hơn nữa, nhà tôi c̣n nói thêm rằng chắc tôi cũng đă biết ngày đầu năm sẽ là ngày định đoạt may rủi cho suốt cả năm. Nếu vào ngày đầu năm mà tôi lại đi gặp người ngoại quốc th́ trong năm c̣n biết may rủi thế nào được nữa?

Cuối cùng tôi nói với ông Thiệu vụ ngoại giao ở Ấn Độ sẽ phải hoăn lại; tôi sẽ đi khi sau Tết. Tôi ở lại Sài G̣n cho tới tận măi tháng 2. Khi tôi trở lại th́ một tháng mới đă lại bắt đầu. Đợt tấn công thứ nh́ của Việt Cộng đă khởi đầu với những cuộc tấn công của nhiều sư đoàn vào vùng cao nguyên Ban Mê Thuật. Ban Mê Thuật bị tấn công bất ngờ và chỉ hai ngày sau đă lọt vào tay quân địch. Quân đội Việt Nam đă rút lui khỏi Ban Mê Thuật. Có lẽ bất kỳ một người nào khác thực tế hơn tôi cũng phải nh́n thấy ngay rằng đây là những giây phút cuối của Việt Nam. Tôi c̣n đang chưa biết phải làm ǵ th́ vài ngày sau ông Thiệu cho gọi tôi vào để bàn luận về một sứ mạng cuối cùng. * * * * *




Sứ mạng bất thành của tôi ở Hoa Thịnh Đốn kết liễu vào ngày 11 tháng 4 năm 1975, khi quốc hội bỏ phiếu khước từ việc gửi viện trợ khẩn cấp sang cho Việt Nam. Ba ngày sau kư giả Bob Shaplen gọi tôi. Ngày 17-4 tôi trở lại Sài G̣n, vừa kiệt sức v́ cơn cảm cúm vẫn c̣n hoành hành, vừa bàng hoàng v́ những biến cố xảy ra trong tuần trước. Khi gọi ông Thiệu ở văn pḥng th́ chánh văn pḥng của ông Thiệu là ông Vơ Văn Cầm nhắn rằng: "Tổng Thống đang xúc động v́ mất Phan Rang. Tổng Thống nhắn rằng xin ông đại sứ để Thủ Tướng tiếp xúc với ông đại sứ trước, rồi sau đó Tổng Thống sẽ tiếp xúc với ông đại sứ sau." Thế là thay v́ trực tiếp tường tŕnh mọi chuyện với ông Thiệu, tôi lại được lệnh tường tŕnh với các phụ tá của ông Thiệu trong một buổi họp chính phủ thâu hẹp.

Cuộc họp thật là ngắn ngủi và căng thẳng. Vài ông Bộ Trưởng bàn luận về việc có thể tiếp tục chiến đấu bằng cách thu quân về vùng đồng bằng Cửu Long và trấn thủ tại đó. Nếu đồn trú đủ lớn và cơ hội trấn thủ vững vàng th́ Hoa Kỳ có gửi viện trợ không? Tôi nói với họ rằng "V́ mới về, tôi chưa được rơ t́nh h́nh trong nước nhưng đối với Hoa Kỳ th́ mọi sự hoàn toàn kết thúc. Việt Nam sẽ chẳng nhận được bất kỳ loại viện trợ nào cả." Chắc chắn sẽ không có viện trợ ǵ thêm, không súng ống, không đạn dược, không thủy quân lục chiến, hoàn toàn không có ǵ. Họ ngồi đó, đắm ch́m trong im lặng theo những suy tưởng riêng tư. Chẳng ai c̣n có đủ nghị lực để phá tan bầu không khí yên tĩnh của căn pḥng.

Tại pḥng họp tôi gọi ṭa đại sứ Hoa Kỳ và được đại sứ Graham Martin mời đến gặp ông tức khắc. Từ trước tới nay ông Martin vốn vẫn là người lạc quan về khả năng thuyết phục của ông đối với Quốc Hội Hoa Kỳ. Trên đường tới gặp ông, tôi thắc mắc chẳng hiểu trong t́nh thế này th́ một người lạc quan như ông Martin sẽ phát biểu ǵ. V́ là đại sứ, ông Martin tin là ông có thể giúp đỡ Việt Nam và hoàn thành được sứ mạng của ông là giữ được Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng Sản. Ngay cả trong những lúc hiểm nghèo nhất, dường như ông vẫn tin tưởng sứ mạng của ông rồi đây sẽ thành công. Mặc dù mối giao hảo giữa ông và ông Thiệu không mấy đằm thắm, đại sứ Martin vẫn ủng hộ ông Thiệu mạnh mẽ và đều đặn; có lẽ chẳng ai không cảm thấy rằng ông Martin đă chủ quan đến độ gần như không c̣n thực tế.

Tuy nhiên lúc này, khi phân nửa lănh thổ của Việt Nam đă rơi vào tay Bắc Việt và chính phủ vẫn không hề có giải pháp nào khác để ngăn chận bước tiến kẻ thù, ông Martin đă thay đổi hoàn toàn. Trông ông xanh xao tiều tụy và đầy vẻ lo âu. Ông Martin hỏi tôi rằng: "Ông đă gặp ông Thiệu chưa?" Chính đại sứ Martin cũng chưa gặp ông Thiệu mấy lúc gần đây. "T́nh trạng thật là trầm trọng. Không ai tại Sài G̣n, kể cả những nhân vật trong giới quân sự c̣n cho rằng ông Thiệu có thể tiếp tục làm tổng thống." Bất kể nguyên do sợ hăi của ông là ǵ, đại sứ Martin vẫn tránh bàn luận những vấn đề liên quan đến việc mất Việt Nam. Ông chẳng lượng định t́nh h́nh mà cũng không hề có kế hoạch ǵ thiết thực trong giai đoạn cuối cùng này. Ông chỉ muốn nói về ông Thiệu. "Ông Thiệu không c̣n có thể đứng vững -Ông Thiệu phải được báo cáo về việc này." Ngay cả vào lúc này mà ông Martin vẫn c̣n tin tưởng có thể t́m cách điều đ́nh để ổn định t́nh thế với Bắc Việt. Ông Martin nói với tôi rằng: "Ông phải báo cho ông Thiệu biết rơ sự thật. Nếu cần chính tôi sẽ đến gặp ông Thiệu nhưng ông có thể nào gặp và nói rơ với ông Thiệu rồi liên lạc với tôi sau đó được không?"

Tôi rời ṭa đại sứ và tự hỏi chẳng hiểu tại sao đến giờ phút này mà ông Martin vẫn tin rằng hăy c̣n những giải pháp chính trị có thể dùng ổn định t́nh h́nh, ngay dù chỉ là những giải pháp ngụy trang cho việc đầu hàng. Vài ngày sau, tôi thấy rằng nếu quả thật đại sứ Martin có suy nghĩ sai lầm th́ ông cũng không phải là người độc nhất suy nghĩ theo chiều hướng sai lầm đó. Nhiều người khác, từ các nhà chính trị Việt Nam cho đến những viên chức ngoại quốc nhất là Pháp. Mọi người đều có vẻ thiên về chuyện điều đ́nh. Bầu không khí sôi sục trở nên một đề tài cho những ư niệm vô nghĩa xa vời nhất. V́ đă chống ông Thiệu và ủng hộ giải pháp thương lượng cùng Bắc Việt, vài chính trị gia trong các "lực lượng thứ ba" thật sự tin tưởng rằng họ có thể là một nhịp cầu ḥa giải giữa hai miền Nam, Bắc. Đă có nhiều người cho đây là một cơ hội để tạo danh tiếng, một cơ hội để làm bộ trưởng hoặc một chức vụ nào đó cao hơn nữa trong một chánh phủ "tạm thời." Dù chỉ là trong khoảng thời gian một hai ngày.

Trong giới ngoại giao ở Sài G̣n th́ các nhà ngoại giao Pháp nổi bật nhất với đề nghị của họ là: "Đàm phán để ổn định t́nh h́nh." Những đề nghị của họ một phần là để lấy lại những uy tín đă mất trước đây trong những năm Việt Nam chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ và một phần cũng để sửa soạn cho họ những cơ hội tốt đẹp khi chiến tranh kết thúc. Hơn nữa, những đề nghị của họ cũng là do họ được Hà Nội khích lệ, vị đại sứ Pháp đă công khai đề nghị một giải pháp chính trị để kết thúc thù hận Nam, Bắc. Nhưng khi cố gắng đóng trọn vai tṛ "trung gian ngay thẳng," đại sứ Jean-Marie Merrillon đă vô t́nh giứp Hà Nội dồn Việt Nam vào thế bí và đánh lừa dư luận Hoa Kỳ trong lúc Việt Nam đang cố gắng t́m một giải pháp khác với chánh quyền ông Thiệu.

Tuy thấy rằng những nhà ngoại giao Pháp có thể dựa vào những đề nghị thương lượng để củng cố cương vị cho Pháp, tôi vẫn chẳng hiểu v́ sao đại sứ Graham Martin lại có thể cùng suy nghĩ giống họ. Tôi gặp vị đại sứ Hoa Kỳ thêm một lần nữa vào thứ sáu ngày 18 tháng 4 và nói chuyện cùng ông trên điện thoại vào ngày thứ bảy. Ông Martin muốn hỏi rằng tôi đă gặp ông Thiệu hay chưa? Tôi vẫn chưa hề gặp ông Thiệu. Tuy tôi đă nhờ cả đại tá Cầm cùng tướng Trần Văn Đôn lúc này mới được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng quốc pḥng nhắn lời mà ông Thiệu vẫn hoàn toàn im lặng. Sau khi nghe tôi thông báo, ông Martin kết luận: "Nếu vậy th́ chính tôi phải đến gặp ông Thiệu."

Những ngày sau đó, tôi về lại chỗ ở thuê của tôi cố dành thời giờ thu xếp tất cả mọi chuyện. Chẳng hiểu bằng cách nào đó, một hệ thống máy in tôi đặt mua cho tờ Saigon Post từ cả năm về trước bỗng nhiên lại được chở đến. Thời gian lúc này cứ trôi qua vun vút, tôi dành đa số thời gian vào việc nói chuyện cùng những bạn bè và họ hàng đang lũ lượt kéo đến chật cả chỗ tôi ở. Người nào cũng nóng ḷng hỏi thăm tin tức hoặc xin ư kiến. Tôi đă phải lập đi lập lại câu chuyện không biết bao nhiêu lần: "Đối với Hoa Kỳ th́ cuộc chiến đă kết thúc và đối với chúng ta cuộc chiến cũng đă kết thúc." Mỗi lần tôi nói phản ứng của họ đều giống hệt như nhau. Đầu tiên họ lộ vẻ sững sờ -có nhiều khuôn mặt tôi đă quá quen thuộc- như thể họ chẳng thể tin được mức độ tàn nhẫn của sự thật. Sau đó họ yên lặng và cuối cùng họ gục đầu ra về, đắm ch́m trong trầm mặc suy tư. Có lẽ họ đang nghĩ về gia đ́nh và chính bản thân của họ. Những khoảng thời gian rảnh rỗi c̣n thừa lại tôi dùng vào việc thu xếp đồ đạc. Tôi lục đục măi cho đến thật khuya, đọc kỹ lại những giấy tờ, những sưu tầm của cả một cuộc đời, đốt đi một ít và quyết định mang đi những giấy tờ c̣n lại.

Vào ngày 21 tháng 4 năm 1975, ông Thiệu từ chức. Tôi đă đoán trước được việc này; Tôi biết đại sứ Martin đă nói chuyện với ông Thiệu và ông Thiệu chẳng c̣n đường nào khác. Nhưng khi xem ông Thiệu trên màn truyền h́nh, tôi vẫn sững sờ. Cũng có thể tôi đă cảm thấy vậy v́ quá kiệt quệ cả vật chất lẫn tinh thần. Tôi lắng nghe khi ông Thiệu nói loạn xạ về ông Kissinger, về Hoa Kỳ và về những đàm phán có thể xảy ra, nửa khóc nửa cười trong cùng một lúc. Trong một giây phút ngắn ngủi, đầu óc tôi bỗng dưng tràn ngập suy nghĩ về những cảnh vô chính phủ sau khi ông Thiệu từ chức. Nhưng giây phút ngắn ngủi đó trôi qua thật nhanh. Khi h́nh ảnh của ông Thiệu biến mất trên màn truyền h́nh, tôi chỉ có thể nghĩ về một điều duy nhất: Thời cuộc đă đến hồi kết thúc.

Lúc này là lúc bắt buộc phải ra đi v́ quân đội Việt Cộng đă sát gần Sài G̣n và tôi phải sửa soạn rất nhiều nếu tôi muốn mang theo mẹ và chị tôi đi. Vô h́nh chung, tôi đă chống đối ư niệm ra đi trong tiềm thức. Tôi đă cố đè nén những suy luận thực tế rằng nếu càng ở lâu lại càng phải xoay sở khó khăn hơn vào lúc ra đi. Tôi bước ra khỏi căn gác ngột ngạt để hít lấy ít không khí thoáng mát bên ngoài mà cũng là để nh́n lại thành phố một lần cuối. Khi đi bộ qua đường Nguyễn Huệ, tôi thấy người ta vẫn c̣n mua hoa ở các quầy bán đứng bên đường và tự hỏi làm sao họ c̣n có đủ b́nh thản trong tâm hồn để mua hoa vào lúc này. Tôi hít sâu vào bầu không khí của Sài G̣n lúc đó chẳng khác nào một du khách đang cố t́m ra những nét đặc biệt của nơi chốn ḿnh viếng thăm. Tôi hít sâu như thể đang cố giữ lấy để về sau c̣n có thể nhớ lại những nét đặc biệt của khung cảnh lúc này.

Chuyến đi cuối cùng của tôi cũng là nhờ đại sứ Martin tự tay sắp xếp. Ngay lúc đầu tiên, ông đă ngỏ ư giúp tôi. Lúc này, khi tôi gọi lại báo rằng mọi sự đă sẵn sàng, ông lập tức thu xếp cho tôi cùng mẹ và chị tôi đáp chuyến máy bay của Hải Quân sang thẳng Bangkok, rồi từ Bangkok lộ tŕnh của chúng tôi được sắp xếp để chúng tôi có thể đến Hoa Thịnh Đốn bằng một chuyến bay thương mại. Ngày đó, tôi bỏ th́ giờ hỏi thăm bạn bè, phần đông tôi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ gặp lại. Tôi nh́n quanh nhà lần cuối rồi đưa ch́a khóa cho chị người làm. Đêm cuối cùng tôi thức trắng, bỏ th́ giờ khuyên mẹ tôi, lúc này đă chín mươi tuổi rằng đây là lúc phải lên đường bỏ lại nhà cửa và tất cả. Tôi cũng xem lại các giấy tờ một lần nữa, đốt thêm một ít, gói phần c̣n lại vào một chiếc va li lớn. Tôi nhét đầy những h́nh ảnh gia đ́nh và một số tài liệu riêng trong một chiếc vali nhỏ hơn.

Trưa hôm sau, ông Joe Bennet, cố vấn chính trị ở ṭa đại sứ Hoa Kỳ đến đưa chúng tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất, nơi một chiếc máy bay nhỏ đang đợi chúng tôi ngoài phi đạo. Tôi cùng mẹ và chị mang hành lư vào bên trong cùng nhau đợi suốt một giờ trước khi máy bay cất cánh. Cuối cùng máy bay chuyển bánh trên phi đạo và chỉ vài giây sau, chúng tôi đă ở trên không, nh́n Sài G̣n cùng các vùng ngoại ô lướt đi ngay phía dưới.

Khi những luống cây xanh của vùng đồng bằng Cửu Long hiện ra phía dưới, tôi đă rướn mắt để nh́n rơ những cánh đồng chiêm cùng những con kênh ngang dọc tạo thành những khung bàng bạc trải khắp vùng đồng bằng. Tự dưng buồn bă trào dâng như uất nghẹn. Nước mắt tôi làm mờ dần những h́nh ảnh thân yêu đang lướt xa phía dưới.

36. Lời Hậu Luận

Nếu không kể đến những hoàn cảnh đặc biệt đă cho phép tôi mục kích rơ những yếu tố phức tạp của cuộc chiến Việt Nam, và không kể đến những sự may mắn không cùng đă đưa tôi tránh khỏi những nỗi khốn khó mà những người khác đă gặp phải, th́ cuộc đời tôi hoàn toàn giống hệt với cuộc đời những người Việt Nam khác trong cùng thế hệ. Những ước mơ, những nguyện vọng, những bất măn và những thất vọng trong đời sống của tôi quả không khác ǵ họ.

Những người Việt Nam trong cùng thế hệ tôi chớm hiểu biết vào đầu những thập niên 1940 đă hy vọng rằng sau gần một thế kỷ sống như những công dân hạng nh́ trong chính quốc gia của ḿnh, rồi đây họ sẽ có cơ hội để phục hồi lại những niềm tự hào cho bản thân và dành lại được chủ quyền cho dân tộc. Họ cũng mong mỏi một ngày nào đó đất nước sẽ ḥa b́nh để họ và con cháu họ được sống một cuộc sống an lành. Rủi thay, thay v́ được độc lập, ḥa b́nh và một đời sống an lành như họ mong mỏi, họ chỉ thấy toàn cách mạng, chiến tranh và tàn phá. Trong suốt ba thập niên, họ bị cuộn vào lớp sóng gió phong ba. Cho đến cả thời gian hiện tại tuy Việt Nam không c̣n phải đối phó với nạn ngoại xâm nữa mà những nỗi khốn khó của họ vẫn chẳng hề suy giảm. Nỗi khốn khổ của họ thật là một tấn thảm kịch vĩ đại của lịch sử.

Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên Walter Cronkite vào năm 1963, tổng thống Kennedy phát biểu rằng: "Suy luận kỳ cùng th́ đây là chiến tranh của họ [những người Việt Nam] và chính họ sẽ là những người phải tự định đoạt lấy phần thắng, bại." Có lẽ tất cả những người sống trong thế hệ chúng tôi đều muốn né tránh những trách nhiệm nặng nề của lời b́nh luận đó, nhưng chúng tôi vẫn chẳng biết làm cách nào để có thể chối bỏ được nhận định của tổng thống Kennedy. Những người dân Miền Nam, nhất là những người lănh đạo Miền Nam Việt Nam, trong số có cả tôi, phải nhận chịu tất cả mọi trách nhiệm cho số phận của Miền Nam Việt Nam. Quả t́nh th́ khi suy xét lại cuộc đời chúng tôi đă có rất nhiều điều đáng hối hận và đáng hổ thẹn. Nhưng mặt khác, cuộc chiến Việt Nam cũng là một cuộc chiến mang nhiều yếu tố phức tạp nằm ngoài khả năng của chúng tôi nói riêng và vượt quá giới hạn của khả năng con người nói chung. Chính những yếu tố phức tạp đó đă tạo nên những t́nh cảnh khắc nghiệt và buộc chúng tôi phải xoay sở trong những t́nh thế khó xử.

Yếu tố đáng kể đầu tiên là sự ngoan cố của Pháp khi họ khăng khăng nhất quyết đ̣i nắm quyền kiểm soát Việt Nam như một thuộc địa thay v́ trao lại chủ quyền đúng lúc cho những phần tử quốc gia đang khao khát đợi chờ ngày độc lập. Yếu tố thứ hai là sự ám ảnh về ư thức hệ của những người cộng sản. Tuy chính quyền thực dân của Pháp đă bị lật đổ rời mà những người lănh đạo cộng sản ở Việt Nam vẫn nhất quyết phải áp đặt cho bằng được những lư thuyết đấu tranh giai cấp của cộng sản trong toàn cơi Việt Nam. Yếu tố cuối cùng là sự can thiệp ồ ạt của Hoa Kỳ. Ba yếu tố này cùng kết hợp bóp méo những cơ cấu nguyên thủy và quá tŕnh tiến hóa của Việt Nam từ giai đoạn sau thực dân trở đi, khiến cho cuộc đấu tranh của Việt Nam trở thành phức tạp và đẫm máu hơn những cuộc đấu tranh của các quốc gia khác cũng ở trong cùng hoàn cảnh.

V́ bị những gịng giao lưu mănh liệt của cả ba yếu tố này xô đẩy, những phần tử quốc gia Việt Nam đă rơi vào những t́nh cảnh vô cùng khắc nghiệt. Trong đa số trường hợp, họ thường bị ép buộc phải chọn một trong những điều khó thể chọn lựa; nói đúng ra th́ họ thường chẳng có ǵ để chọn lựa cả. Khi cuộc sống bị đe dọa, họ bị buộc phải tạm thời chấp nhận những loạt quyết định khó khăn đă làm giảm đi rất nhiều uy tín của họ. Từ biến cố này cho đến biến cố khác -đầu tiên với Pháp, sau đó với Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm và rồi cuối cùng với Hoa Kỳ và một chính phủ quân nhân. Lúc nào họ cũng loay hoay cố tạo ra vai tṛ cho chính ḿnh để gây ảnh hưởng. Nhưng lúc nào họ cũng bị xô dạt ra ngoài, và những ảnh hưởng mà họ tạo được chưa bao giờ đủ mạnh để có thể ảnh hưởng đến những diễn tiến của thời cuộc. Ngay trong lúc chiến tranh c̣n đang tiếp diễn, đă có lúc tôi và nhiều người khác cùng thấy rằng đất nước có cơ hội để xây dựng dân chủ và phát triển kinh tế. Tuy thế càng lúc những cơ hội ban đầu lại càng mất dần đi và cuối cùng khi Miền Nam Việt Nam phải đương đầu với những cuộc tấn công qui mô của quân đội xâm lăng Bắc Việt được trang bị đầy đủ với súng ống của Nga th́ vấn đề c̣n lại chỉ là chiến đấu để sinh tồn trong một t́nh cảnh bế tắc không lối thoát. Lúc này, những phần tử quốc gia đă bị buộc phải đấu lưng với những người Việt Nam khác chỉ biết thụ động buông trôi theo số mạng.

Khi nh́n lại tất cả những yếu tố phức tạp bên ngoài đă đưa đẩy cuộc đời chúng tôi th́ sự can thiệp của Hoa Kỳ nổi bật rơ rệt hơn cả. V́ rằng chế độ thực dân của Pháp đă suy sụp hoàn toàn và chỉ c̣n là những chất liệu cho các sử gia t́m ṭi, phân tích. Đối với yếu tố cộng sản th́ chỉ có những người mù quáng hoặc cuồng tín mới có thể ủng hộ một chế độ khởi đầu bằng chiến tranh, bóc lột và những cuộc tản cư của đại đa số dân chúng. Như thế, nếu đứng trên phương diện lập chính sách mà kể th́ trong ba yếu tố quan trọng vừa kể, chỉ c̣n sự can thiệp của Hoa Kỳ là một vấn đề mà những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ vẫn cần chú ư. Sau khi Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam, họ vẫn c̣n phải đối phó với những quyết định khó khăn tại các nơi khác. Những câu hỏi đúng, sai và những vấn đề luân lư đi đôi với những câu hỏi này vẫn là những vấn đề Hoa Kỳ hăy c̣n tranh luận khi họ thiết lập các chính sách ngoại giao. Ngay cả trong thời gian hiện tại, Hoa Kỳ vẫn c̣n xem xét, học hỏi những bài học rút ra từ sự can thiệp của họ ở Việt Nam và các đồng minh nhỏ hơn ắt hẳn cũng khó tránh khỏi việc nh́n số phận của Việt Nam để có thể tiên liệu những vấn đề họ có thể sẽ phải đối phó.

Nếu đi ngược lại lịch sử cận đại của Hoa Kỳ và bắt đầu nh́n vào những dư luận Hoa Kỳ trong thập niên 1960 th́ giới phản chiến ở Hoa Kỳ lúc đó chỉ trích rằng những quyết định can thiệp của Hoa Kỳ vào lúc ban đầu là những quyết định sai lầm, v́ thế, như một b́nh luận gia đă lên tiếng: "Hậu quả [của cuộc chiến Việt Nam] là những chuỗi sai lầm." Họ cho rằng chính sách can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam sai lầm là v́ giới lănh đạo của thập niên 1960 đă nhận định sai những mục tiêu quyền lợi của Hoa Kỳ. Khi quyết định các chính sách ngoại giao, giới lănh đạo của thập niên 1960 đă nhận định sai cả tầm mức quan trọng của Việt Nam lẫn khả năng thực sự của Hoa Kỳ.

Tuy việc Hoa Kỳ định nghĩa thế nào là quyền lợi của họ chẳng phải là việc của tôi và cũng thực sự vượt quá khả năng của tôi, tôi vẫn tin rằng những định nghĩa này được đưa ra dựa trên những sự kiện hoàn toàn thực tế. Tôi c̣n nhớ rất rơ bầu không khí chính trị tại Hoa Kỳ trong mùa hè năm 1964, vào giữa lúc quốc hội Hoa Kỳ đưa ra nghị quyết vịnh Bắc Việt (Tonkin Resolution) và ngay đúng lúc ứng cử viên Barry Goldwater ra ứng cử. Lần đó là lần đầu tiên tôi đến Hoa Kỳ. Vào thời gian đó, toàn thể chánh phủ Johnson và gần như cả quốc hội Hoa Kỳ đều đă đồng ḷng ủng hộ lời cam kết bảo vệ Miền Nam (nghị quyết được Thượng viện thông qua với 98% số phiếu và được Hạ viện thông qua với với toàn thể 416 số phiếu). Báo chí khắp nơi cũng tường tŕnh rơ rệt không kém.

Hơn nữa, t́nh h́nh quốc tế trong thập niên 1960 c̣n cho thấy rơ rằng chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với thế giới gần như đồng nhất. Chẳng ai có thể bảo rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam chỉ đơn thuần là do vấn đề Bắc Việt hiếu chiến. Vào những năm Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp, Cộng Sản mới vừa tấn công Đại Hàn và đài phát thanh Trung Hoa đang phát thanh những quan niệm hiếu chiến nhất và bành trướng nhất: Khối Cộng Sản Trung Hoa toan tính hợp tác với tổng thống thiên cộng Sukarno của Nam Dương để thiết lập một khối liên minh cộng sản từ Bắc Kinh qua suốt qua Jakarta. Đối với những quốc gia vừa thoát ách thực dân và mới thiết lập được chánh phủ vào lúc đó tại Đông Nam Á th́ những đe dọa của Trung Hoa quả là một đe dọa trầm trọng đáng kể. Tuy 25 năm sau, nhiều người trong giới lănh đạo Hoa Kỳ đă đua nhau chế diễu những đe dọa của Cộng Sản, nhưng trong thập niên 1960 những sự đe dọa của khối Cộng Sản đă khiến chánh phủ Hoa Kỳ lo lắng không cùng. Và nếu nh́n lại t́nh trạng chính trị vào thời gian đó th́ chẳng có ǵ đáng gọi là phi lư trong quyết định can thiệp của Hoa Kỳ. Sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam, ngay cả trong lúc Hoa Kỳ đổ bộ để can thiệp, dường như cũng chỉ là những phát triển tự nhiên của các chính sách ngoại giao khác của Hoa Kỳ ở Âu Châu (chẳng hạn như Kế Hoạch Marshall, Kế Hoạch Không Vận ở Bá Linh, Hy Lạp) và Á Châu (như ở Đại Hàn). Tất cả những kế hoạch này đều được đặt ra nhằm ngăn chận sự bành trướng của Nga và Tàu (ít nhất th́ vào đầu thập niên 1960, chưa ai có thể ngờ rằng về sau Nga và Tàu lại có chuyện xích mích). Đối với những quốc gia đă thành công trong việc xây dựng lại xứ sở và chánh phủ của họ sau thế chiến thứ II như các nước Tây Đức, Hy Lạp và Nam Hàn th́ chánh sách can thiệp của Hoa Kỳ thật không có ǵ lầm lẫn hoặc dựa trên những chánh sách toàn cầu sai lệch. Ở Việt Nam chính sách này thất bại. Nhưng ngay cả sự thất bại ở Việt Nam cũng không phải là những sai lầm trên mặt lư thuyết mà là những sai lầm khi áp dụng. Theo tôi nhận xét th́ những nguyên tắc căn bản của chiến thuật ngăn chặn các thế lực cộng sản và bảo vệ các quốc gia dân chủ chẳng có ǵ sai lầm. Trái lại, tôi cho đây là một điều Hoa Kỳ có thể lấy làm hănh diện.

Vào thập niên 1960-1970 những người chỉ trích chiến cuộc tàn khốc hơn đă cho rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam không những chỉ là một quyết định sai lầm mà c̣n là một quyết định không hợp với tiêu chuẩn đạo đức. Phần lớn những chỉ trích của họ đặt lư thuyết trên quan niệm rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến. Do đó, quyết định can thiệp của Hoa Kỳ là một quyết định sai lầm. Họ cho rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ đă ngăn cản những người Việt đang tranh đấu để lật đổ một chế độ áp bức độc tài trong nước. Và rồi họ kết luận rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ đi ngược lại với những nguyện vọng của dân chúng Miền Nam.

Theo tôi thấy th́ giả thuyết này đă thu hút được đại đa số dân chúng Hoa Kỳ trong một thời gian dài là v́ đây quả là một giả thuyết cho phép những người dân Hoa Kỳ đang bất măn với xă hội có dịp để bày tỏ sự phẫn khích của họ trực tiếp với chánh phủ của họ. Nhưng trên thực tế th́ ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến Việt Nam, cả Sài G̣n lẫn Hoa Thịnh Đốn đều biết chắc rằng Mặt Trận Giải Phóng là sản phẩm của đảng cộng sản Bắc Việt và nếu không có sự tổ chức, lănh đạo, tiếp tế và kể từ năm 1964, nếu không có quân đội chính qui Bắc Việt th́ chắc chắn đă chẳng có cách mạng hoặc chiến tranh. Một trong những thất vọng lớn nhất của tôi là việc chúng tôi chẳng thể dùng những sự hiểu biết đặc biệt của chúng tôi -bằng vào cả những chứng cớ hiển nhiên lẫn những kinh nghiệm cụ thể của bản thân- để thuyết phục được dư luận Tây Phương. Bất kể sự thật có là ǵ đi nữa, th́ dư luận vẫn chỉ nh́n sự thật qua con mắt riêng của dư luận.

Sau khi cuộc chiến kết thúc, khi tuyên truyền không c̣n là vấn đề quan trọng, trung ương đảng ở Hà Nội đă hất bỏ lớp ngụy trang. Trong bài diễn văn nói về chiến thắng 1975, Bí thư của đảng cộng sản Hà Nội là Lê Duẩn tuyên bố: "Đảng là người lănh đạo duy nhất đă tổ chức, kiểm soát và điều khiển toàn thể cuộc đấu tranh của nhân dân Miền Nam kể từ ngày đầu tiên của cuộc cách mạng." Trong suốt cuộc chiến, Bắc Việt chưa bao giờ chánh thức công nhận họ có quân đóng tại Miền Nam. (Lê Đức Thọ c̣n giả vờ che đậy với Kissinger tuy rằng Kissinger đă biết rơ sự thể chẳng kém ǵ Thọ. Dĩ nhiên, Thọ cũng biết là Kissinger biết rơ mọi sự) Nhưng sau đó, đảng cộng sản vẫn thản nhiên dùng miếng vơ lừa phỉnh này trên trường ngoại giao quốc tế. Chẳng những thế, họ c̣n lấy làm tự đắc đă lợi dụng được sự ngây thơ của thế giới Tây Phương. Năm 1983, trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền h́nh Pháp, tướng Vơ Ban của Bắc Việt đă tuyên bố: "Vào năm 1959, tôi vinh dự được đảng giao phó sứ mạng tấn công vào Miền Nam để giải phóng và thống nhất đất nước."

Trong những ngày các phong trào phản chiến đang ở đỉnh cao, tôi đă vô cùng ngạc nhiên khi thấy những nhân vật lănh đạo của giới phản chiến lại có thể tin tưởng hoàn toàn những điều Bắc Việt tuyên bố. Ngay cả cho đến bây giờ tôi cũng vẫn c̣n thắc mắc không hiểu họ có hổ thẹn ǵ về việc họ đă quá dễ tin và vô t́nh biến thành đồng lơa của Việt Cộng trong tấn thảm kịch Miền Nam hay không? Nhưng thử hỏi có ai c̣n giữ tin tức của họ? Và nói cho cùng th́ đây chẳng qua cũng chỉ là một giai đoạn đă qua trong cuộc đời họ nói riêng cũng như chỉ là một chương sử của Hoa Kỳ nói chung.

Như thế vấn đề cuối cùng c̣n sót lại trong câu hỏi "đúng hay sai?" chỉ c̣n là: Liệu việc Hoa Kỳ can thiệp để ủng hộ cho một chế độ bị coi là tham nhũng và thiếu dân chủ như chế độ của Miền Nam Việt Nam chống lại cộng sản có đúng hay không? Ngay cả tại điểm này, câu trả lời cũng đă quá rơ. Nếu đem so sánh chế độ của Miền Nam với Miền Bắc th́ cho dù ông Thiệu có tệ đến độ nào đi chăng nữa, Miền Nam vẫn c̣n có nhiều triển vọng để thay đổi. Ít ra th́ ở Miền Nam người dân cũng c̣n có thể hy vọng nh́n thấy được tương lai và c̣n có thể tranh đấu cho những mục tiêu tốt đẹp. Hơn nữa, đă có nhiều chính trị gia, nhiều nhà trí thức cũng như nhiều nhà văn đă từng tranh đấu cho những mục tiêu này. Và nếu nói đến những thể chế của Bắc Việt th́ ngoại trừ những lư thuyết gia, có lẽ chẳng ai có thể nghĩ đến việc đem so sánh hơn kém giữa Miền Nam với chế độ khủng bố khiếp hăi của Miền Bắc. Do đó, tôi cũng tin rằng chẳng ai lại đi đặt câu hỏi liệu những nỗ lực bảo vệ Miền Nam có đúng hay không?

Tôi nghĩ rằng những bài học về sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng chẳng dính líu ǵ nhiều đến vấn đề sách lược toàn cầu hoặc những câu hỏi đúng, sai trên phương diện luân lư và đạo đức. Những sai lầm của Hoa Kỳ nếu có th́ phải là những khuyết điểm trong cách can thiệp của họ. Câu hỏi chính không phải là: "Có nên can thiệp hay không?" mà là: "Làm thế nào để can thiệp cho hữu hiệu?"

Trong quyển sách này tôi đă diễn tả khá tường tận những biến cố ở Việt Nam khi chánh phủ Johnson bắt đầu can thiệp. Vấn đề nổi bật nhất trong quá tŕnh mù mờ và phức tạp của việc đổ quân (như ông Bill Bundy đă diễn tả) không phải là do thiếu kế hoạch hay thiếu chiến lược mà là thái độ chủ quan quá mức của Hoa Kỳ đối với đồng minh. Ở những cơ quan tối cao của chánh phủ Hoa Kỳ, chẳng hạn như Bộ Ngoại Giao, và Ngũ Giác Đài, gần như chưa có nhân viên nào xem chánh phủ Miền Nam là một cơ quan xứng đáng để họ cộng tác. Đại đa số những người Hoa Kỳ đến phục vụ ở Việt Nam trong thập niên 1960 đều đến Việt Nam với những lư do gần như không dính líu ǵ đến Việt Nam. Họ tự nắm lấy cục diện Việt Nam một phần v́ nóng ḷng với lư tưởng, và một phần khác là v́ ngây thơ và chủ quan quá mức. Thái độ này kéo dài măi cho đến ngày cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Kể từ khi họ bắt đầu can thiệp cho đến khi họ rút khỏi Việt Nam, lúc nào Hoa Kỳ cũng hành động như thể cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến của riêng Hoa Kỳ. Dường như Hoa Kỳ cho rằng nếu Việt Nam có thể giúp sức th́ việc tốt nhất mà Việt Nam có thể giúp sức là cứ đứng nguyên, đừng lung lay cục diện để Hoa Kỳ có thể làm việc.

Hậu quả về mặt quân sự của thái độ này là thay v́ t́m những giải pháp hữu hiệu và cố giới hạn sự can thiệp của họ ở Việt Nam th́ Hoa Kỳ lại tự khoác gánh nặng lên vai. Thực ra th́ nếu giới lănh đạo Việt Nam được tham khảo ư kiến vào năm 1965 th́ có lẽ họ sẽ xin Hoa Kỳ đừng can thiệp hoặc chỉ xin Hoa Kỳ can thiệp với những nỗ lực quân sự hết sức giới hạn. Có lẽ họ chỉ xin Hoa Kỳ can thiệp quân sự ở những miền biên giới để có thể ổn định t́nh h́nh quân sự và chặn đứng sự xâm lược của Bắc Việt mà thôi. Một hiệp định giữa Hoa Kỳ, Miền Nam và Lào cho phép Hoa Kỳ đóng quân dọc theo vĩ tuyến thứ 17 như một hàng rào để ngăn chận Bắc Việt có lẽ là giải pháp thích hợp nhất vào lúc đó. Khi Hoa Kỳ đă đóng quân ngăn chận tại biên giới, kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh có thể được thi hành để huấn luyện đúng mức quân đội Miền Nam.

Một chiến thuật đơn giản như vậy có thể nào thành công không? Đây là một trong những câu hỏi "Nếu" trong phạm vi chiến cuộc Việt Nam. Đại tá Harry Summers, trong quyển Chiến Lược Luận (On Strategy) đă viết rằng chiến thuật này có thể thành công. Ông cũng kết luận rằng phân cách hai lực lượng Nam Bắc và rồi gia tăng sự huấn luyện cho những đơn vị của quân đội Miền Nam quả là giải pháp can thiệp hữu hiệu nhất của Hoa Kỳ. Dù ǵ đi nữa th́ giải pháp này cũng thể hiện được những mục đích tối đẹp của quân đội Hoa Kỳ như những lực lượng bảo vệ ḥa b́nh và giúp đồng minh Việt Nam thoát khỏi ách xâm lăng. Chiến thuật này cũng sẽ khiến Hoa Kỳ có thể giảm thiểu tổn thất về tài vật, đạn bom và nhân mạng của cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam và giúp Hoa Kỳ tránh được những chỉ trích của dư luận thế giới.

Tiếc thay, chính sách can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam lại là một chính sách khác hẳn kế hoạch của đại tá Summers về mặt quân sự. Và nếu nh́n trên phương diện ngoại giao th́ chánh sách can thiệp của Hoa Kỳ thường là những chính sách được áp đặt một cách độc đoán bất kể thái độ của đồng minh. Chính thái độ này đă khiến Hoa Kỳ phải hứng lấy cả những hậu quả tai hại về mặt chính trị. Nếu chỉ xét riêng về các chính sách can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam th́ có lẽ ai cũng phải thấy ngay rằng chính sách của Hoa Kỳ thiếu liên tục. Trong suốt cuộc chiến, các chính sách của Hoa Kỳ không thúc đẩy đều những tiến triển dân chủ ở Việt Nam. Dĩ nhiên xây dựng một chế độ dân chủ ở Việt Nam là một việc có nhiều triển vọng. Giữa năm 1965 và năm 1967, Việt Nam đă soạn thảo và công nhận hiến pháp, bầu cử tổng thống, phó tổng thống, các nhân viên lập pháp và thành công trong các cuộc bầu cử địa phương. -Tất cả những tiến tŕnh này đều xảy ra vào giữa lúc Việt Nam đang có chiến tranh. Tuy rằng những tiến triển dân chủ ở Việt Nam trong năm 1960 quả là những tiến triển đáng kể nhưng có lẽ nếu những tiến triển dân chủ trong giai đoạn đó không ngẫu nhiên trùng hợp với những mục tiêu của chánh phủ Johnson th́ những phong trào dân chủ ở Việt Nam vẫn khó thể thành công.

Rủi thay, những mục tiêu của chính quyền Johnson lại không được tiếp tục. Khi chính quyền Nixon đưa ra chiêu bài "uyển chuyển" th́ những mục tiêu dân chủ ở Việt Nam không c̣n được chú ư. Vào giai đoạn cuối thập niên 1960-đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ chỉ đ̣i hỏi Sài G̣n chứng tỏ một vẻ mặt ổn định mong manh phía ngoài. Tuy Hoa Kỳ cũng biết rằng phương châm "uyển chuyển" có thể làm những tiến tŕnh dân chủ ở Việt Nam suy nhược, nhưng họ lại không mấy chú tâm về điểm này. Vào năm 1969, ông Kissinger và tổng thống Nixon đă bắt đầu một cuộc cờ phức tạp, vận động ngoại giao giữa các thế lực siêu cường, vận động quân sự và đàm phán bí mật để kéo Hoa Kỳ ra khỏi vũng lầy Việt Nam. Giữa những biến số chập chồng của bài toán phức tạp này, họ cần phải có một Miền Nam hoàn toàn ổn định, bảo sao nghe vậy. Họ cho rằng nếu ông Thiệu có thể đáp ứng được điều này th́ tất cả những hành động khác của ông đều không đáng kể.

Đây là một lỗi lầm trầm trọng đă đưa đến những bất lợi lớn lao cho cả hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam. Thứ nhất, nếu chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ tham nhũng và thiếu dân chủ th́ quốc hội Hoa Kỳ có thể vin vào đó mà cho rằng Việt Nam không phải là một quốc gia xứng đáng để được Hoa Kỳ ủng hộ. Thứ hai, nếu chánh phủ Việt Nam quả là một chánh phủ tham nhũng th́ đại đa số dân chúng Việt Nam sẽ thất vọng và thờ ơ với thời cuộc. Và rồi thay v́ chú tâm vào việc xây dựng đất nước th́ dân chúng lại chỉ đợi dịp để hưởng ứng các phong trào chống tham nhũng. Trong một buổi nói chuyện tại viện American Enterprise Institute, ông Charlaes Mohr, một phóng viên kỳ cựu của tờ New York Times tóm tắt gọn ghẽ rằng: "Chúng ta thất bại tại Việt Nam không phải v́ chúng ta chưa tận lực làm áp lực với đối phương mà là v́ chúng ta chưa tận lực làm áp lực với đồng minh." Dĩ nhiên, dùng áp lực để đ̣i hỏi cải cách và dân chủ là một vấn đề cực kỳ khó khăn, nhưng trong trường hợp Hoa Kỳ nắm phần chủ chốt th́ các chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ vẫn có thể thành công .

Để có thể thành công trong vai tṛ này, có hai điều kiện tiên quyết cần phải có trước. Một là cương quyết đưa ra những chủ trương mạnh mẽ đồng nhất. Hai là chấp nhận hậu quả nếu những áp lực của Hoa Kỳ quả thật không có hiệu lực. Hoa Kỳ phải t́m cách nói với ông Ngô Đ́nh Diệm hoặc ông Nguyễn Văn Thiệu, (hoặc ông Ferdinand Marcos hoặc ông Augusto Pinochet), "Chúng tôi không c̣n cách nào khác ngoài cách phải giữ vững những điều chúng tôi tin tưởng. Nếu v́ lư do ǵ đó, ông không thể đồng ư với những nguyên tắc của chúng tôi th́ quả thật chúng tôi chẳng thể làm ǵ khác hơn là bỏ mặc ông. Với những quyền lực và uy tín lớn lao, Hoa Kỳ không thể cho phép ḿnh khoanh tay trước một nhân vật độc tài yếu hơn. Hoa Kỳ không thể để cho những nhân vật độc tài tin tưởng rằng vai tṛ của họ quan trọng đến nỗi Hoa Kỳ không thể làm ǵ khác hơn là phải ủng hộ họ. Nếu Việt Nam có một bài học để dạy th́ bài học đó là không ai có thể cứu vớt được những người chẳng đếm xiả ǵ đến hành vi của họ. Thà là rút lui và chịu tổn thất c̣n hơn nhắm mắt đầu tư tài nguyên, xương máu và uy tín vào những nhân vật độc tài cầm quyền bất kể dư luận và ư kiến của dân chúng trong quốc gia của họ.

Tại Việt Nam tôi luôn tin tưởng rằng giữa những đoàn thể người Việt đứng đắn khó thể có việc bất đồng ư kiến về những vấn đề như bài trừ tham nhũng, cải cách kinh tế, thay đổi xă hội. Tôi cũng tin là các phương pháp dân chủ có thể được áp dụng tại Miền Nam chẳng khác ǵ tại những nơi khác. Khi bàn luận về những biến chuyển ngoại giao trong các thập niên ông đă tường tŕnh, kư giả Rosenthal của tờ New York Times đă phát biểu: "Chính sách của chúng ta phải thế nào? Phải phản ảnh những điều chúng ta tin tưởng và tôn trọng. Niềm tin của chúng ta chính là Tự Do Chính Trị. Điều chúng ta tôn trọng cũng chính là Tự Do Chính Trị. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể đem lại những điều này cho các quốc gia khác. Tuy thế, điều lúc nào chúng ta cũng có thể làm là bảo vệ những điều chúng ta tin tưởng... Việc này đ̣i hỏi hai yếu tố: Chúng ta phải sáng suốt, nhận định rơ tương lai và tư tưởng của chúng ta phải đồng nhất, trước sau như một. Những người Haiti, Phi Luật Tân, Đại Hàn, A Phú Hăn dường như đă nhận định rơ ràng những ǵ họ có thể yêu cầu từ chúng ta. Cả những người Tiệp Khắc và Ba Lan cũng vậy." Ông Rosenthal c̣n có thể nói thêm: Cả những người Miền Nam Việt Nam cũng thế.

Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy những chính sách như ông Rosenthal đề xướng không phải chỉ là những vấn đề lư tưởng suông. Sau khi Hoa Kỳ đă thất bại ở Việt Nam th́ đương nhiên giới lănh đạo phải đặt câu hỏi: "Đối với những quốc gia bị dư luận Hoa Kỳ chỉ trích th́ chánh phủ Hoa Kỳ phải giữ lời cam kết của họ với quốc gia đó tới mức nào?" Câu trả lời của ông Rosenthal c̣n nêu rơ rằng nếu Hoa Kỳ chỉ lập chánh sách dựa vào sách lược toàn cầu không thôi th́ những chính sách đó không thể lâu bền. V́ vậy, trên phương diện ngoại giao, Hoa Kỳ cần phải đ̣i hỏi những điều kiện dân chủ tiên quyết trước khi cam kết giúp đỡ một quốc gia khác. Những đ̣i hỏi tiên quyết này không phải chỉ là những đ̣i hỏi lư tưởng thuần túy mà c̣n là những yếu tố quan trọng trong thực tế.

Trong những năm 1965-1967, chánh phủ Johnson đă hành động theo đặt căn cơ trên những quan niệm thực tế này. Những chánh quyền khác của Hoa Kỳ thỉnh thoảng cũng có những chính sách tương tự nhưng chưa bao giờ thực sự mạnh mẽ. Nếu nh́n lại lịch sử của Hoa Kỳ ở Việt Nam để tổng kết vấn đề th́ sự cam kết của Hoa Kỳ ở Việt Nam chẳng qua vẫn chỉ là một sự cam kết dè dặt, bất nhất và thiếu liên tục. Hoặc nói một cách rơ hơn th́ những chánh sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam đă bỏ qua yếu tố nhân sự. Hoa Kỳ chưa hề coi đồng minh là những người thực sự b́nh đẳng với họ (tôi không hề có ư muốn nói đến hàng ngàn người Hoa Kỳ đă làm việc vô cùng tận tụy bên cạnh những người Việt Nam). Khi giới lănh đạo Hoa Kỳ lập chính sách, họ chỉ nghĩ về Việt Nam như một ư niệm trừu tượng của địa lư và chính trị, một yếu tố nằm trong sách lược toàn cầu của Hoa Kỳ. Điều này hoàn toàn đúng khi Hoa Kỳ tự can thiệp bằng cách đổ bộ vào Miền Nam. Điều này cũng hoàn toàn đúng khi Hoa Kỳ đứng ra lănh đạo cuộc chiến. Và điều này đúng hơn cả khi Hoa Kỳ từ bỏ chiến cuộc.

Trong tất cả các giai đoạn can thiệp của Hoa Kỳ -Đổ bộ vào Việt Nam, Mỹ Hóa Chiến Tranh, Việt Nam Hóa Chiến Tranh, và sau cùng là rút lui- có lẽ giai đoạn rút lui sẽ ám ảnh người dân Miền Nam lâu nhất. Tuy ai cũng có thể thấy rằng đă có những lỗi lầm lớn lao trong cuộc chiến, nhưng cách Hoa Kỳ rút lui là một lỗi lầm lớn hơn tất cả mọi lỗi lầm khác; đây là một hành động không xứng đáng với một cường quốc lớn như Hoa Kỳ. Đây là một trong những lỗi lầm lớn lao mà sử sách sẽ c̣n măi măi khắc ghi trong khi những lỗi lầm khác chẳng hạn như những lỗi lầm trong chiến thuật Search and Destroy (Truy Lùng và Tiêu Diệt) nếu có c̣n được ghi chép th́ chẳng qua củng chỉ là những chú thích nhỏ nhoi của lịch sử.

Không phải chính vấn đề rút lui là điều đáng hổ thẹn. Hoa Kỳ đă chiến đấu kham khổ và trường kỳ tại Việt Nam, và nếu cuối cùng t́nh thế bắt buộc Hoa Kỳ phải rút lui th́ đây có thể là một tấn thảm kịch nhưng không phải là một điều đáng hổ thẹn. Tuy thế, những vận động chính trị cùng những cung cách tận tuyệt của chánh phủ Hoa Kỳ đối với Miền Nam vào năm cuối cùng trước lúc chiến tranh kết thúc quả là những điều đáng hổ thẹn. Phút giây xoay mặt không phải là những giây phút đẹp đẽ nhất của Hoa Kỳ và có vô số bài học cho cả Hoa Kỳ lẫn các đồng minh khác, nhất là những đồng minh nhỏ nhoi phải lệ thuộc vào Hoa Kỳ để tự vệ như Miền Nam Việt Nam.

Đối với ông Henry Kissinger, người đă tạo ra Hiệp Định Ba Lê, người ta có thể thông cảm về việc ông Kissinger đ̣i hỏi phải "uyển chuyển" hay nói rơ hơn là nắm thực quyền, khi ông phải đứng giữa điều khiển những đoàn thể khác biệt và ngoan cố (kể cả Bắc Việt, Miền Nam, Nga, Tàu và đôi khi ngay chính tổng thống Hoa Kỳ nữa) cùng hướng chung về một mục tiêu. Nhưng ông Kissinger đă tự khoác vào người một trách nhiệm kinh hoàng: Đàm phán chẳng những cho những sách lược toàn cầu của Hoa Kỳ mà c̣n cho chính vấn đề sinh tử của Miền Nam. Cả ông Kissinger lẫn tổng thống Nixon đều biết rơ rằng ông Thiệu chẳng thể làm ǵ nếu không có Hoa Kỳ viện trợ, nhưng họ đă chọn một cách giải quyết dễ dàng cho họ và chẳng kể ǵ đến đồng minh. Họ đă hoàn toàn giữ bí mật cho tới giây phút cuối và rồi dùng chiến thuật hứa hẹn và đe dọa đối với đồng minh. Thay v́ thành thật, họ đă lừa gạt và sau đó đối xử tàn nhẫn với một đồng minh đă đấu lưng cùng họ trong suốt hai mươi năm.

Khi chọn phương pháp "uyển chuyển" tuy có lẽ cả ông Kissinger lẫn tổng thống Nixon đều tin tưởng rằng họ đă đạt được một hiệp định khả quan nhất trong t́nh trạng ngặt nghèo của khung cảnh đàm phán, nhưng dù sao th́ sự lư luận của chính quyền Nixon vẫn chỉ là những cách biện luận cho một vấn đề đại đồng tiểu dị của những chánh sách ngoại giao ở Việt Nam kể từ lúc đầu. Những chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thường khởi xuất bằng những mục đích đẹp đẽ nhưng lại thiếu hẳn những yếu tố thực tế cần phải có trong khi áp dụng. Khi họ áp dụng những chính sách ngoại giao, Hoa Kỳ thường áp đặt những chính sách của họ bất kể lợi hại ra sao đối với đồng minh.

Quốc hội Hoa Kỳ của những năm 1973, 1974 và 1975 cùng chia xẻ những tội lỗi tương tự khi họ nhẫn tâm phủi tay đối với Việt Nam. Tuy các Thượng Nghị Sĩ cùng các Dân Biểu bàn căi rất nhiều về uy tín cùng những tiêu chuẩn đạo đức, nhưng thật sự th́ họ vẫn quyết định mọi việc dựa trên những sách lược địa lư, chính trị toàn cầu và quyền lợi của riêng Hoa Kỳ. Họ quyết định một cách lạnh lùng, tuyệt t́nh, bất kể hậu quả đối với một quốc gia với hai mươi triệu dân và họ quyết định như vậy không phải v́ xương máu của nhân dân Hoa Kỳ mà là v́ một triệu đô la.

"Tại sao một cường quốc lớn như Hoa Kỳ lại có thể làm như vậy?" Đây là một câu hỏi của một người bạn cũ hỏi tôi lúc ở Sài G̣n khi có tin Hoa Kỳ cắt bớt viện trợ vào tháng 8 năm 1974. Người đặt câu hỏi nguyên là bạn cùng lớp với tôi từ ngoài Bắc. Vào năm 1974 th́ ông ta đang là chủ một tiệm buôn. Ông ta hỏi tôi: "Ông là đại sứ, có lẽ ông biết rơ những điều này hơn tôi, nhưng ông có thể giải thích thái độ của Hoa Kỳ cho tôi được không? Khi họ muốn đến họ tự tiện đến. Khi họ muốn đi họ tự tiện đi. Chẳng khác nào một người hàng xóm vào nhà ḿnh vung văi tất cả mọi thứ rồi th́nh ĺnh bỏ về v́ thấy họ sai. Làm sao họ có thể làm những việc lạ đời như vậy?" Đây là một câu hỏi ngây thơ của một người không hiểu biết nhiều. Nhưng tôi thật không trả lời được. Theo tôi nghĩ th́ cả ông William Fulbright, lẫn ông McGovern hoặc bất kỳ các nghị viên phản chiến nào khác cũng không thể trả lời được.

Nhưng lỗi lầm không phải hoàn toàn chỉ do những nghị viên phản chiến. Rất nhiều người cho là họ biết sự thật. Những phóng viên -tự cao như bất kỳ nhân vật nào khác- Ông Kissinger, ông Thiệu, Tổng Thống Nixon, và ngay cả tôi nữa. Thật ra, tất cả chúng tôi đều không hề biết rơ sự thật hoặc có biết rơ đi chăng nữa th́ cũng không thật sự chú tâm đúng mức. Chúng tôi đă không nh́n thấy sự thực, dĩ nhiên kẻ thù của chúng tôi là những người đă mang lư tưởng sắt máu lại càng không thấy rơ sự thật. Sự thật ở cùng hàng triệu gia đ́nh Việt Nam đang chịu đựng những thống khổ của tấn thảm kịch hăi hùng. Sự thật ở cùng với những người đang chịu đựng tuy họ là những người hiểu biết ít nhất. Sự thật của cuộc chiến Việt Nam đă bị chôn vùi cùng những nạn nhân, cùng những người đă nằm xuống, cùng những người bị xử phải quằn quại trong những bức màn im lặng áp bức từ lúc này và măi măi ở những thế hệ sau - một bức màn yên lặng mà thế giới gọi là ḥa b́nh.


Bú Diễm

Nguồn: http://vantuyen.net



Giới Thiệu Tác Giả Bùi Diễm



Bùi Diễm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bùi Diễm (1923- ) là cựu đại sứ Việt Nam Cộng ḥaMỹ.

Mục lục


 Thân thế

Ông quê ở Hà Nam, Việt Nam; cha ông là nhà nho Ưu Thiên Bùi Kỷ, ḍng dơi phó bảng Bùi Văn Quế và Bùi Ân Niên. Bùi Diễm gọi Trần Trọng Kim là cậu.

 Hoạt động chính trị

Ông hoạt động chính trị trường từ thời học trường Bưởi, vận động cho chính phủ Trần Trọng Kim và đảng Đại Việt nhưng rồi rời chính trường cho tới khi nền Đệ nhất Cộng ḥa Việt Nam chấm dứt. Trong thời gian đó ông làm chủ nhiệm tờ Vietnam Post xuất bản ở Sài G̣n bằng Anh ngữ (1954-1963). Đây là tờ báo tiếng Anh đầu tiên ở Việt Nam. Ông cũng là người sản xuất cuốn phim Chúng tôi muốn sống, một tác phẩm lớn trong ngành Điện ảnh Việt Nam.

Khi Thủ tướng Phan Huy Quát ra chấp chính, ông giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Ông cũng là đảng viên Đảng Đại Việt.

Thời Đệ nhị Cộng ḥa Việt Nam ông được bổ làm đại sứ Việt Nam Cộng ḥa ở Washington, D.C., thay thế đại sứ Vũ Văn Thái. Chức vụ này ông đảm nhiệm từ năm 1967 đến năm 1972 th́ chuyển làm đại sứ lưu động cho đến năm 1975.

Sau năm 1975, ông tỵ nạn tại Hoa Kỳ.

Tại Hải ngoại

Ông là tác giả cuốn hồi kư chính trị Gọng ḱm lịch sử. Cuốn này ấn bản đầu tiên viết bằng tiếng Anh với tựa The Jaws of History rồi sau đó được dịch ra tiếng Việt. Cuốn sách thứ hai là cuốn Vietnamese Economy and Its Transformation to an Open Market System xuất bản năm 2004.


Ông là một thành viên trong Ban Cố vấn của National Congress of Vietnamese Americans (NCVA, Nghị hội Toàn quốc người Việt tại Hoa Kỳ). Ông vẫn hoạt động trong Đảng Đại Việt và nắm chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương của Đại Việt Cách Mạng Đảng.


 Chú thích

Tham khảo

  • Bùi Diễm. Gọng ḱm lịch sử. Paris: Phạm Quang Khai, 2000.


  Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Gọng Kềm Lịch Sử
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.org

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt

Trang  [ 1 ]  [ 2 ]