Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên

(tiếp theo trang 1)

1.5 - NHỮNG CỐ GẮNG HIỆN ĐẠI TRONG VIỆC GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

Những đợt khai phóng

Qua mấy chương trên chúng ta đã nhận ra rằng lễ gia tiên bên Viễn Đông mang theo ấn tích một cuộc biến cải nhân văn vĩ đại: đem nền móng văn hóa đặt vào nhân tính con người, vì đó mà lễ gia tiên không còn là một nghi lễ thuộc thời kỳ bái vật nữa, nhưng đã trở thành trung tâm cho một nền triết lý nhân sinh linh động, làm ximăng xây đắp các xã hội Viễn Đông. Chúng ta cũng đã thấy các xã hội Tây Âu vì thiếu một cuộc cách mạng nhân bản đó mà đã đưa ra những ý hệ thiếu tình người như trong các chủ nghĩa cá nhân bên thế giới tự do hoặc chuyên chế kiểu cộng sản. Nền giáo dục duy lý đó đã là căn nguyên gây nên những đau thương cho dân nước chúng ta như đã bàn ở chương ba và bốn. Điều đó giới trí thức Âu Tây đã lác đác có người nhận ra, và đang gắng công tìm cách thải bỏ triết học cũ, để đi tìm một nền triết học mới nhân đạo hơn. Vì thế mà chúng ta đánh một vòng chân trời văn hóa xuyên qua các nước có liên hệ với ta, để tìm hiểu xem họ đang đi tới đâu, cũng như xét kỹ lại xem triết lý gia tiên chúng ta có còn hợp với giai đoạn khai phóng mới này tới đâu? Để có một ý niệm rõ rệt về những lãnh vực khai phóng, chúng ta nên chia ra ba đợt là:

Kinh tế tài chính

Thể chế về chính trị và các tổ chức khác

Văn hóa

Trước hết ở hạ tầng kinh tế và tài chính, kỹ nghệ hóa, thì có lẽ mọi người đều đồng ý ở đợt này: không ai là không mong muốn một cuộc kỹ nghệ hóa mau lẹ để nâng cao mức sống. Chúng ta không cần thắc mắc, chỉ việc mua máy về trang bị các cơ xưởng, đồng thời sai người đi học, thuê kỹ sư ngoại quốc trong lúc chưa đào luyện chuyên viên kịp. Khai phóng ở đợt này rất quan trọng, nhưng tương đối dễ dàng khi xét về phương diện hướng tiến. Cái khó thuộc về nhân sự vàkinh tài chứ không về chiều hướng.

Lên đến trung tầng thuộc định chế, chính trị ngoại giao, các quy chế… thì phần lớn nên theo Au Mỹ, vì thực ra Au Mỹ có những mẫu mực, những định chế mà hầu hết các quốc gia công nhận. Ngoại trừ một vài thể chế đặc trưng như xã thôn thì cần khảo cứu nhiều hơn. Ngày nay không còn thể giữ y nguyên xã thôn như trước, nhưng cần đặt mạnh mối giao liên với thị thành để đi theo nhịp quốc tế là nhịp đi lên mạnh của thị dân: nước Pháp 63.9% là thị dân, nước Anh 75%, nước Đức 80%. Rồi nước ta cũng phải vượt qua giai đoạn quãng 15% hiện tại… Đó là đà bắt buộc do sự phát triển kỹ nghệ. May là chúng ta giữ được ít nhiều tinh thần xưa theo kiểu xã thôn Nhật Bản, còn giữ được nhiều tinh thần cũ song song với đà đi lên của kỹ nghệ hóa là nhờ chính sách giải tỏa kỹ nghệ ra khắp nước, nên thợ thuyền không bị bứng ra khỏi gia đình ra khỏi xã thôn. Đó cũng là một kinh nghiệm đáng lưu tâm. Tuy nhiên, nói chung thì ngày nay phần nhiều đồng ý về việc thâu nhận văn minh khi hiểu văn minh là cơ khí và thể chế được lựa chọn.

Còn đợt thứ ba là Văn hóa thuần tuý thì hầu chắc phải đi tới tổng hợp Đông Tây. Ý kiến bảo cổ không còn thế lực nữa, khỏi cần bàn tới. Đến như ý kiến cấp tiến duy tân cho rằng muốn tiến bộ cần phải thâu nhận văn hóa Âu Mỹ như một toàn khối bất khả phân ly: nhận cả hay bỏ cả chứ không thể nói chuyện hồn Đông xác Tây được. Ý kiến này cũng không còn đứng vững vì một đàng chúng ta thấy sự phát triển kinh tế xuất hiện trong nhiều chế độ khác nhau: quân chủ Nhật Bản, quân chủ lập hiến Anh, Cộng sản Nga… nghĩa là kỹ nghệ hóa không thiết yếu gắn liền với một chính thể duy nhất. Đàng khác những người chủ trương duy tân đã chứng tỏ sự bất lực kiến tạo ra một nền chủ đạo. Đã thế cũng không thể mượn của Au Mỹ vì chính Au Mỹ không có. Khi nói đến văn hóa thì Tây Âu có rất nhiều giá trị tản mát với một ý hướng chung nhau: ai cũng nói phải thiết lập một tình huynh đệ phổ biến trên tinh thần kính ái, tôn trọng lẫn nhau, Đông Tây bổ túc, tổng hợp khoa học với đạo đức… Nhưng đó mới chỉ là ý hướng, rất ít giá trị trong triết lý vì đó chỉ là nguyện vọng ai cũng suýt soát mong mỏi và nói lên được. Nhưng làm cách nào để tới mục đích kia mới là vấn đề quan trọng, triết lý chân thực không nằm trong ý hướng, mà trong nguyên lý, trong các giải pháp. Hiện nay mọi người đều nhận định rằng các ý hệ đã thất bại hết. Và sự thất bại đó hiện đang xảy ra trên nước Việt Nam vẫn được gọi là “ngã ba gặp gỡ của nền văn hóa”. Ngày nay sự gặp gỡ đó hiện hình lên như một thực thể có xương máu: máu thật của hàng trăm chiến sĩ ngã gục mỗi ngày, không phải để giành đất mà thôi, nhưng trước hết và trên hết là vì sự đụng độ của các ý hệ, các nền văn hóa. Cũng là một dịp cứ gọi là may đi để chúng ta chứng kiến một sự thật hiển nhiên rằng văn hóa không phải là chuyện mây gió, nhưng là chuyện có thực, và khi nó trở mình, nó đụng chạm thì máu chảy thịt rơi. Vậy tại sao giới trí thức trong nước không tìm lấy một đường lối thống nhất để tránh khỏi can qua? Thưa rằng cho tới nay chưa thể có đủ thời giờ và an tĩnh mà làm vì đó là chuyện dài hơi, đòi trên cả hàng chục năm suy nghĩ lao lung. Nhưng nếu không kiến tạo được một chủ đạo thì khó thoát ra khỏi cảnh đau thương. Vì thế mà chúng ta phải cố gắng làm lấy, nhưng cần vay mượn các dữ kiện của Tây Âu. Trong ý hướng đó bây giờ chúng ta đi thăm các nước liên hệ với ta hơn hết để thâu thập nguyên liệu.

 

Vòng chân trời khai phóng hiện đại

Pháp:

Trước hết là Tây Âu với đại diện quen thuộc là nước Pháp. Triết ở đây là cảnh thập nhị sứ quân, lục đục cá đối bằng đầu, không một tay nào đáng gọi là triết gia, mà toàn là triết học gia với rất nhiều khám phá nho nhỏ cùng một hai cái tài ngoại: viết văn hay, sản xuất tuồng kịch tiểu thuyết có hạng… nghĩa là những phương tiện truyền bá, nhưng nội dung để truyền bá là cái gì, vấn đề đó thiết yếu nhất thì lại bê bối hơn nên chẳng môn học nào chịu nghe theo triết lý cả. Mà không có triết lý để theo thì cuối cùng khoa nào cũng lạc lõng. Chỉ xin kể một thí dụ về khoa xã hội học, được coi như một khám phá lớn của thời đại, thì theo ông Gurvitch, cuối cùng là “giúp tay cho tư bản hoặc các tổ chức quản trị bóc lột tiểu công chức, lao động, người dân tiêu thụ bằng những thể chế nguỵ trang nhưng tàn ác biết mấy”(*). Ngoài công tác đó ra, thì khoa xã hội học vẫn bị khủng hoảng triền miên từ một trăm năm nay, nghĩa là từ ngày có khoa xã hội học.

(*) Vocation actuelle de la Sociologie của Gurvitch, t.II, p.467

Đó là trưng ra một khoa được lưu ý nhiều nhất hiện nay để thấy hậu quả là chưa đưa tới kính ái con người mà còn nối tay cho giặc để bóc lột đại chúng. Chưa đủ Trung làm sao Thứ?

 

Mỹ

Mỹ với Âu Châu không khác nhau lắm, cùng nằm trong thế giới tư bản. Khác chút đỉnh ở óc sùng thượng sự hữu hiệu như triết thuyết Pragmatisme chẳng hạn. Lấy một thí dụ đặc trưng là khoa tâm lý Điệu Bộ của Watson (Behaviorisme): khoa này phát hiện do một phản động chống đối khoa tâm lý nội tâm bên Âu Châu mà Watson cho là chưa dứt khoát với triết học, nên còn nhận có lương tâm có linh hồn. Vì thế Watson đưa ra một nền tâm lý không cần có linh hồn hay lương tâm chi hết. (Psychologie sans âme, sans conscience), mà chỉ y cứ trọn vẹn trên thái độ, trên cử động và điệu bộ (comportement) trên những phản đáp của giác quan, của những yếu tố có thể đo lường, có thể kiểm chứng bằng trắc nghiệm, bằng thống kê…

Nhờ trắc nghiệm người ta có thể khám phá ra tài năng của mỗi người để hướng dẫn vào bộ môn chuyên biệt đúng chỗ. Đấy là một sự thành công đáng kể. Vì thế người ta thấy xuất hiện rất nhiều loại trắc nghiệm nó giúp cho việc tuyển thợ chuyên môn, phân chia các hạng binh lính. Tuy việc đó một người tinh mắt cũng nhìn ra được nhưng khi đặt thành những loại trắc nghiệm thì nó trở thành phương pháp cho rất nhiều người, tuy con mắt không tinh đời cũng nhận ra được, lại còn có phần khách quan hơn là khác. Và đó là cái lợi của trắc nghiệm cũng như của các loại tâm lý đặt nền trên điệu bộ.

Chúng ta cần ghi công cũng như cần mong chờ thấy thực hiện ở nước ta. Tuy nhiên những phương pháp đó không vượt lên cao lắm như khi phải tuyển lựa những cán bộ cao cấp, các triết học gia thí dụ, hoặc những môn đòi một khả năng tế vi mà không một thứ trắc nghiệm nào có thể dò la ra được. Trắc nghiệm thường không vượt quá được tầm mức gân mạch và cảm súc (activités sensorielles et motrices) như tài mau lẹ, chắc chắn, tài mắt tình, nhậy cảm sức mạnh gân thịt, sức chịu đựng (lâu mệt) và sự bén nhạy của phản đáp tính (réflexe). Nhưng nếu muốn vượt lên xa hơn để đo lường cả đến cái tế vi linh thiêng của con người thì không những dễ thất bại mà còn lâm vào những bệnh sinh trắc nghiệm (testomaine et quantophrénie) như ông Sorokin tố cáo, và sẽ đưa đến những thái độ bất tương dung trong giới tâm lý học như nhận xét của nhà tâm lý học Charles Baudouin “incroyable intolérance chez” “les psychologue” (de l’Instinct à l’esprit 280). Đó là trưng ra một hai khía cạnh nổi nhất bên Mỹ về tâm lý, để thấy rằng chưa “chí trung thì cũng thiếu chí hòa”. Cho nên Hiệp Chúng Quốc có đủ phương tiện tối tân để lãnh đạo thế giới tự do về kinh tế và chính trị, nhưng chưa thành công kiến thiết được một nền đạo thuật để hướng dẫn văn hóa cho thế giới tự do.

 

Nga

Nói đến Nga người ta nghĩ ngay đến nhà sinh lý học Pavlov được giải thưởng Nobel 1904 nhân một công trình nghiên cứu về tiêu hóa. Năm 1921 mới thật là danh vang khắp thế giới với thuyết lý về những “phản đáp có điều kiện” (réflexes conditionnés) trên các con vật mà đại để như sau:

Nếu ta đặt trước con chó một miếng thịt thì chó sẽ nhỏ dãi, đó là phản đáp vô điều kiện. Bây giờ ta lại thêm một dấu kích động mới đi kèm miếng thịt thí dụ rung chuông (hoặc đốt đèn), thì lúc đó tiếng chuông sẽ gọi là dấu hiệu (signal). Ta cứ thử đi thử lại nhiều lần hễ có thịt thì lại có chuông rung cho tới một số lần nào đó 30, 40, 50, tuỳ con thì đến lúc nào đó khỏi cần thịt, chỉ rung chuông chó cũng chảy dãi: sự chạy dãi này gọi là phản đáp có điều kiện.

Đó là khám phá của Pavlov. Thật ra không có chi mới lắm vì người ta đã dùng lâu rồi trong việc áp tập (dressage) các giống vật. Nhưng cái công của Pavlov là hệ thống hóa. Nhờ sự hệ thống hóa đó mà người ta có thể đẩy thí nghiêm xa hơn. Thí dụ khi nhận ra phản đáp điều kiện không những có thể gây ra được thú vị, biểu lộ bằng chảy nước dãi, mà cũng có công hiệu là kìm giữ lại, nén xuống sự đau đớn. Thí dụ cho luồng điện chạy qua chó thì đáng ra nó đau, kêu rống lên, nhưng liền sau cú đánh thì đặt ngay trước mắt nó một miếng thịt rất ngon với tiếng chuông. Khi nào phản đáp điều kiện đã sở đắc thì lúc đó đánh chó, mà chó vẫn sung sướng vì có thịt và tiếng chuông đi liền sau. Đến một lúc nào khi sự luyện tập đã thuần thục thì khỏi cần thịt mà chỉ cần chuông. Đánh xong là rung chuông và chó sẽ sướng ngay: nước dãi lại chảy ra, mặc dầu vừa bị đánh rất đau. Ta gọi đó là “phản đáp kìm” (reflexe d’inhibition): phản đáp kìm khó luyện lắm, vừa lâu vừa ít thành công, vì có con khi vừa thấy nhà thí nghiệm đến đã nôn mửa, có con lại còn sủa, hoặc dữ hơn nưã sáp lại cắn. Tuy nhiên với những con hiền thì cũng có thành công tuy số bị bệnh kinh giật khá nhiều.

Đó là lược thuật lại rất đơn giản thuyết “phản đáp theo điều kiện” mà người ta đang áp dụng vào những việc đẻ không đau, cai thuốc phiện hay rượu… Và nhất là người ta áp dụng vào chính trị: đem những danh từ rất đẹp vẫn đi kèm theo một thú vị nào đó thí dụ chữ “được” thường đi với được một cái gì như thi được, được lên chức, được thưởng… Như thế chữ “được” trở thành dấu hiệu của cái gì thú vị. Nay nếu bắt làm một việc gì khó chịu như đóng thuế, đi dân công… thì đó là cú đau nên người ta dùng phản đáp kìm đau bằng gọi là được: được di dân công, được đóng thuế… Người ta cũng có thể tạo cho chữ được một nội dung thiết thực, thí dụ trước khi tố khổ một phú nông thì tuyên bố là hắn không “được” đóng thuế, nên bị khai trừ…

Hoặc khi hành quyết một người nào xong thì “sắc lệnh” ân xá mới tới. Khi tuyên đọc bản ân xá, nhà chính trị nhằm gây phản đáp kìm đau đối với những người thân còn sống của nạn nhân.

Sau khi bắt làm những công việc cực nhọc, đua sản xuất cùng cực, thì chính quyền gây “phản đáp kìm đau” bằng nói về tương lai huy hoàng, mọi người sẽ được sống hạnh phúc đầy đủ… Tuy nhiên nói chung ra thì công hiệu cũng rất hãn hữu, không phải vì khám phá của Pavlov vô giá trị, nhưng chỉ vì người không phải là chó.

Do đó bên các nước cộng sản số người bị não thần kinh (névrosé) gia tăng rất nhiều, kể cả các cấp trên, vì bầu khí đầy mánh lới, lo sợ bị khai trừ, bị bắt cẳng, nghi kỵ, thành ra phản đáp kìm không kìm nổi và mầm mống tan rã mỗi ngày chồng chất thêm lên nên công an phải giăng bủa lưới vòng trong vòng ngoài, chìm nổi đủ cỡ. Tuy thế ta vẫn thấy là thuyết “phản đáp điều kiện” không giúp vào sự giải phóng con người khi áp dụng vào chính trị. Sự chuyên chú quá đáng vào sự đào luyện phản đáp đã hy sinh những chức năng vi tế hơn của con người, còn kém cả phản ứng (réaction) vì phản ứng bao hàm nhiều yếu tố tâm lý vượt xa phản đáp.

 

Những hình thái của khai phóng

Hiện nay có ba xu yếu trong thế giới là Cá nhân hóa (individuation), Đoàn lũ hóa (massification) và Nhân cách hóa (Personification). Trong ba xu hướng đó ta thấy Tây Âu chú trọng mạnh đến cá nhân hóa: đề cao nhân phẩm nhân cách và tự do con người. Trắc nghiệm cũng như sự hướng nghiệp được đẩy mạnh là cố giúp cho mỗi cá nhân phát huy những khả năng riêng biệt… Đó là điều rất quý nhưng về phía công thể vì thiếu một chủ hướng mạnh nên tự do dễ đốc ra vô kỷ luật. Những cường quốc đã được tổ chức lâu đời thì ít cảm thấy tai hại, chứ những tiểu nhược quốc như ta cũng đòi dân chủ kiểu đó, cũng đòi cá nhân dật lạc như các nước sang giàu thì đấy là con đường tốt nhất dẫn đến gông cùm của chuyên chế như ngày nay.

Vì lý do đó nên các nước cộng sản đi hẳn sang đoàn lũ hóa. Nước Nga lúc trước có thử một năm trắc nghiệm nhưng sau cấm hẳn, vì bị coi là chỉ giúp cho sự nảy nở óc cá nhân, không lợi cho việc đoàn lũ hóa. Khi đã đoàn lũ hóa thì cá nhân sống như đàn cừu theo kiểu thượng đồng của Mặc Địch, chỉ cần một người chăn là dẫn đi tăm tắp. Thế là đường lối khai phóng bị bưng bít cản ngăn, không cho vươn tới đợt nhân cách hóa. Vì nhân cách hóa đòi hai điều kiện: một là được tự do độc lập (liberté et autonomie), hai là tinh thần trách nhiệm được vun trồng vì nó giúp đẩy mạnh đến đợt trưởng thành (maturité de la personnalité). Cộng sản vì đề cao cộng đồng nên lấp mất lối đi của hai đặc tính đó.

Thế giới tự do thì cho tự do phát triển không chỉ ra được hướng nào, nên tự do cá nhân sẽ dễ biến thành cá nhân chủ nghĩa, không đặt nổi nền tảng cho mối liên đới của nhân loại, những tương giao của con người.

Đấy là chỗ bế tắc của cả hai đường hướng cá nhân hóa cũng như đoàn lũ hóa. Xin trưng lại đây ít lời của bác sĩ Jung trong quyển sách cuối cùng của ông nhan đề là “Hiện tại và tương lai” (Présent et Avenir) gọi được là di chúc tinh thần của nhà tâm lý đại danh. Đại để ông xin cả hai khối đừng theo lối đà điểu vùi đầu vào cát để tránh xem thực tế, nhưng hãy nhìn vào thực tại, vì cả hai đều đi lối đàn áp con người bằng khoa học thực nghiệm như thế giới tự do hoặc bằng những sự tin tưởng của đại chúng kiểu cộng sản, nhưng cả hai đều không nhìn ra cái tế vi của con người. (tr 80)

“Nếu bên này có cho tự do và bảo đảm vừa sức, nhưng tự do đó lại bị đe dọa vì một sự lạc hướng cách hỗn mang; còn phía bên kia thì tự do bị tiêu diệt và không còn nói tới nữa”: la liberté spiritualle et morale est dans une partie du monde, garantie au tant que faire se peut; mais paralèllement ele y est menacée d’une désorientation chaotique, tandis que dans l’autre partie du monde, elle est détruite et il n’en est même plus question. (p.70). “Cả hai bên hoặc có tính cách vật chất hoặc có tính các đoàn lũ nên đều thiếu cái biểu lộ con người viên mãn, mà cái đó mới nâng con người lên, đào tạo và làm cho nó rung động, cảm hứng, tóm lại là thiếu cái đặt con người cá thể ở trung tâm tất cả vạn vật như một sự đánh giá, một chân thực, một sự biện minh”. (Présent et Avenir, p.69). Les deux camps qui se partagent le monde ont en commun une finalité matérialiste et collectiviste et à tous deux il manque ce qui exprime l’homme en totalité ce qui le promeut, le construit, le fait vibrer, le rend sensible en bref ce qui met l’être individuel au centre de toute chose comme mesure, réalité et justification.

Tôi biên lại cả bản văn để độc giả suy gẫm cho rất chín về mẫu người Tây Âu là mẫu người “hình học mặt phẳng” thiếu chiều sâu là tiềm thức mà mãi cho tới đầu thế kỷ này mới khám phá ra. Nhưng tiềm thức đó mới được khai triển nhiều về phía bệnh lý, vì sự khám phá ra do công của tâm bệnh lý. Triết học chỉ nói đến lơ mơ trong tác phẩm của Hartman, Carus, Schopenhauer. Tuy nay với Jung đã mở vào đến đợt tiềm thức cộng thông (inconscient collectif) nhưng vẫn chưa có được phương thức bình hành (normal) cho mọi người lành mạnh để đạt tầm kích sâu xa của con người toàn diện đặt ở trung tâm vạn vật (l’homme en totalité… au centre de toute chose) mà ta quen gọi là tâm linh.

Như thế là chúng ta đã đánh một vòng chân trời tuy mau lẹ nhưng toàn gõ vào những nơi dẫn đầu cả, trừ có triết đã nói nơi khác và sẽ còn nói nhiều nữa, nên ở đây ít bàn, còn thì xã hội, tâm lý, phân tâm, đường lối tổ hợp đã nhìn bao quát và nhận thấy rằng xét về chi tiết thì với vòng chân trời đó chúng ta có học hỏi thêm được chi tiết phong phú cũng như cần thiết giúp ta nhìn tỏ hơn vấn đề, nhưng còn về toàn diện thì vẫn thiếu nền, thiếu một mối nhất quán sâu xa để đủ làm một chủ đạo, mà thiếu chủ đạo là thiếu nóc nên cũng là sự thiếu sót trầm trọng. Vì thế mà bó buộc chúng ta phải trở về với Văn Tổ, với lễ gia tiên một cách nghiêm túc hơn.


1.6 - LỄ GIA TIÊN TRÊN ĐƯỜNG KHAI PHÓNG HIỆN ĐẠI

Câu hỏi đầu tiên được đặt ra trong vấn đề này là đến giai đoạn mới này triết lý gia tiên có trở thành sự cản bước khai phóng chăng. Bởi lễ gia tiên là tinh hoa của chữ Hiếu, mà Hiếu là một cái đà chắn bước tiến mà khoa tâm lý hiện đại kêu là paternalisme. Với chữ này chúng ta đụng chạm đến một vấn đề nhiêu khê nhất. Ngoài nghĩa thông thường là kiểu cách cha chú, coi rẻ người đời thì chữ đó có hai nghĩa nữa: một là quyền lực thái quá của mẹ cha như một sự cản ngăn cho việc triển nở con cái cả về mọi phương diện, ta gọi ngắn là phụ chuyên. Thứ đến phụ chuyên chỉ là biểu lộ nhỏ của một vấn đề to lớn hơn nhiều, đó là tìm cho quyền bính một nền móng mới. Vì một trong những đặc trưng của con người hiện đại là chối bỏ mọi quyền bính và tất cả những gì có dáng dấp tới quyền bính như óc cha chú. Người ta hay nói đến sự bỡ ngỡ của giới chủ nhân bị thợ thuyền ác cảm, chính vì những việc họ làm ơn cho giới thợ thuyền như liệu biện chỗ cư trú với các tiện nghi… Lẽ ra giới thợ thuyền phải nhận với sự biết ơn, thế mà tại sao lại ác cảm? Các nhà tâm lý xã hội học nhận ra sự săn sóc của chủ nhân không những bị coi như một phương thế cai trị bắt thợ thuyền phải lệ thuộc vào chủ nhân. Ngoài ra còn một lý do sâu xa hơn đó là sự săn sóc bao hàm ý coi thợ như không đủ óc trách nhiệm về đời sống của mình, để phải có người khác đứng ra chịu trách nhiệm thay cho… Đó là lý do sâu xa gây ra lòng ác cảm kia. Sự săn sóc đó có lẽ trong quá khứ thì được hoan nghênh vì lúc đó tâm thức con người chưa đạt giai đoạn khát mong độc lập. Nhưng nay nhân loại đang đi vào một khúc quanh lịch sử, để tiến tới giai đoạn trưởng thành, mở rộng ra nhiều người hơn, vì thế ác cảm với những lối đối xử coi người khác như vị thành nhân. Ở giai đoạn hiện đại mỗi người đều muốn được đối xử ngang hàng. Vì thế mà có sự khủng hoảng về quyền bính xảy ra khắp nơi, kể cả trong các tôn giáo, trong các tu hội là nơi quyền bính tương đối được đặt vững nhất. Nó chứng tỏ một sự biến thiên rất quan trọng mà người ta có thể gọi là giai đoạn trưởng thành của nhân loại, giai đoạn mỗi cá nhân đã đều trải qua nay đến lượt nhân loại.

Mỗi con người thoạt sinh ra như con đỏ cần sự săn sóc của mẹ cha. Mẹ cha lo liệu cho hết: con khỏi phải lo chi, vì cũng không thể lo được nên không phải chịu trách nhiệm gì hết. Nhưng đến một tuổi nào thì con cái dần dần phải nhận lấy trách nhiệm và từ đấy mới được xử thành nhân. Cho nên một nền giáo dục gia đình nếu đúng cách thì không những tránh cản ngăn, mà còn phải tài bồi cho óc tự lập của con cái được nảy nở dần dần, để đến tuổi thành nhân khi đứa trẻ đi ra đời không đến nỗi bị ngỡ ngàng.

Ngược lại nếu có sự cản trở thì bấy giờ thường xảy ra óc ghét bỏ gia đình, coi gia đình như tù ngục nên muốn thoát ly như đứa con phung phá bỏ nhà cha để phiêu lưu vào cuộc đời gió bụi, để đáp ứng cho lòng ham độc lập kia. Phong trào du đãng đang bùng nổ khắp nơi có thể giải nghĩa một phần do đó. Còn người nếu được cha mẹ nuông chiều, không phải mang mảy may trách nhiệm, tha hồ kéo dài tâm trạng hài nhi (mentalité pouponnière) thì có thể hư, hoặc cùng lắm chỉ nên những đứa con ngoan ngoãn, nhu mì, yếu ớt, mụ mẫm… dễ thất bại trong trường đời. Không bằng những người ngay từ nhỏ phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn mà sau nên những tay kinh doanh, thao lược là vì phải tự lực cánh sinh nên sớm có dịp bắt buộc phải thao luyện óc trách nhiệm, như Freud chẳng hạn vì nhà nghèo mà nhân đó óc trách nhiệm được vun tưới rất mạnh.

Đó là bàn trong tỉ xích cá nhân gia đình cho dễ nhìn bao quát, còn chính vấn đề nó rộng hơn, mở ra tận khắp xã hội, đặt lại vấn đề quyền bính nói chung, chứ không riêng gì quyền bính cha mẹ thôi.

Sở dĩ có tình trạng như trước đây vì sự tổ chức đời sống công cộng đòi mỗi cá nhân phải hy sinh một số quyền lợi thì quyền bính mới có đủ khả năng thiết lập đời sống tập thể vững mạnh là điều thiết yếu để bảo đảm yên vui hạnh phúc cho các thành viên. Đó là điều tất nhiên, nên người xưa sẵn sàng hy sinh quyền lợi cho chính quyền. Sự hy sinh đó còn dễ dàng hơn khi tâm thức con người chưa tiến triển đủ để cân nhắc, so sánh.

Ngày nay con người đã đạt khả năng mới cũng như đã nhận ra sự phản bội của hầu hết quyền bính xưa: thay vì phục vụ thành phần xã hội thì lại dựa trên quyền bính để bóc lột, nhiều khi tước đoạt cả đến những quyền lợi bất khả nhượng của người dân mà không có gì bù đắp lại. Thế là dân chúng dần dần nghi kỵ, rồi phản đối, rồi chán chường mất hết tin tưởng, cho nên những kiến tạo đặt nền trên quyền bính thay phiên nhau rạn nứt rồi sụp đổ. Giúp tay vào việc xô đổ quyền bính là khoa phân tâm. Khoa này khi đi sâu vào tâm khảm con người đã khám phá ra “quyền bính thái quá” làm tổn thương đến “nhân cách toàn vẹn” của con người. Chính nó là một trong những duyên cớ gây nên bệnh thần kinh hệ (névrose) (Psychologie de l’Inconscient de Jung, p.79, 116,117…)

Đó là đại lược vài ba lý do giải thích tại sao đang có các cuộc phá mọi quyền bính từ trong gia đình lan ra tới xã hội, khắp đó đây chúng ta đều thấy vấn đề khủng hoảng quyền bính cũng như sự tuyên dương óc tự do cho đến nền móng căn để. Họ đả phá gia đình, lệ tục, tôn giáo nhưng cho đến nay họ chưa tìm ra được giải pháp tích cực. Vì không phải bỏ gia đình đi là khai phóng, trái lại các nhà tâm lý nhận thấy rằng đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ cũng bị những bệnh thiếu sót sinh lý y như đứa trẻ bị một quyền bính quá đáng của người cha “l’Orphelin tel que le comprend la psychologie moderne souffre de carences vitales aussi graves que celui qui a eu un père excessif” (Pourquoi des Professeurs, Gusdorf, Payot 1963, p.164).

Vì thế tuy cần phải “giết cha” nói theo Freud (le meurtre du père), nhưng phải “giết” thế nào để rồi có thể trở nên “bạn” của cha, tức là làm thế nào để vun trồng óc trách nhiệm mà nền móng gia đình vẫn còn, làm thế nào để có thể tiếp tục yêu kính cha mẹ, mà con cái khi đến tuổi vẫn được tự lập, tự mình mang lấy trách nhiệm của mình, của vận mạng mình, nghĩa là để đến lượt mình có thể làm mẹ, làm cha, tức là dám lãnh trách nhiệm. Và đó là vấn đề. Đấy là thử phác họa ra một hai khía cạnh của một vấn đề sôi bỏng đang đặt ra cho nhân loại, cho những người nắm quyền bính ở mọi cấp từ chính phủ đến gia đình, trong tôn giáo cũng như ngoài xã hội: thời đại lấy quyền bính làm nền tảng rung chuyển. Tâm thức con người khởi đầu đòi phải để cá nhân chịu lấy trách nhiệm, phải giải phóng. Đó là một điểm hợp thời. Vấn đề chỉ còn là việc làm sớm muộn mà thôi. Tuy nhiên cái khó khăn then chốt nằm trong chỗ phải giải phóng cách nào cho xã hội không tan rã, gia đình khỏi đổ vỡ. Thuyết Cộng sản khởi hứng tự nhận định tình trạng vong thân của con người, nên nhắm hướng giải phóng con người khỏi hết mọi ràng buộc, để được tự do như con cá tung tăng trong biển cả không bị hạn cục vào một giới mốc của gia đình, của tục lệ, của xã hội, quốc gia, nên hứa hẹn một xã hội vô chính quyền, vô tổ quốc, vô tôn giáo… để sự giải phóng được trọn vẹn, để cho tự do được hoàn toàn. Tuy nhiên đó chỉ là dự phóng suông, trong thực tế thì là thay đổi quyền bình, tệ hơn nữa thay vào những quyền bính nhân đạo bằng quyền bính độc tôn. Quyền bính của mẹ cha lót bằng tình thương, quyền bính của chính quyền xưa còn chú trọng đến nhân phẩm tự do con người. Chí như quyền bính của chế độ Cộng sản là quyền bính tuyệt đối, cá nhân còn đáng kể chi với nó nữa, cho nên kể là giật lùi, khi so với các loại quyền bính đang lay chuyển.

Ngược lại bên thế giới tự do thì cũng chỉ mới có phần phá đổ là đáng kể, còn như phần tích cực vẫn chưa đưa ra được một chủ đạo đủ giá trị để hướng dẫn thay thế vào quyền bính xưa. Vì thế chúng ta lại phải trở về với lễ gia tiên, và vấn đề đầu tiên là hỏi rằng lễ gia tiên có phải là một cái gì khóa đường tiến bộ của chúng ta chăng?

Về vấn đề này nên phân biệt hai khía cạnh song song với hai đợt lễ gia tiên. Nếu lễ gia tiên có đợt bái vật và đợt Văn tổ thì xã hội cũng xây trên phụ quyền đi với bái vật, và cũng có giải phóng khỏi phụ quyền đi với Văn tổ. Trong thực tế hai đợt lễ gia tiên ít phân biệt, thì trong nền móng xã hội cũng phân ranh rõ ràng giữa phụ quyền hay vương quyền và sự tự chủ của mỗi con người. Nói chung ra thì yếu tố quyền bính đã lấn át trong xã hội cổ truyền Đông phương cũng y như trong các xã hội cổ truyền khác vậy…… Tuy nhiên có một phần tuy rất nhỏ nhưng đáng kể vì đã được thiết lập thành nguyên lý trong triết học hay Đạo học, lại được kiện chứng bằng thể chế như lễ gia quan để nhìn nhận nền độc lập của mỗi con người, thì đó là điểm đặc trưng của đợt Văn Tổ. Nếu như lúc trước ít được áp dụng là vì bấy giờ nhân loại nói chung còn đang trong giai đoạn lệ thuộc quyền bính. Đến nay giai đoạn quyền bính đang chấm dứt, thì chính là lúc thuận lợi để chúng ta phát triển đợt Văn Tổ: nghĩa là tuyên dương sự tự chủ độc lập của con người. Cho nên xét ra trong nguyên lý không có chi ngăn trở, còn nếu trong xã hội chưa áp dụng hết, chí như trong triết lý đã thiết lập xong, lại có thể chế để cụ thể hóa hướng dẫn như chúng ta nhận ra trong lễ gia quan là lễ tuyên dương óc độc lập và tự chủ của người con, không những trong xã hội mà còn trên cả tỉ xích vũ trụ, nghĩa là giúp cho con người đạt độ tự chủ tự lập cao nhất.

Trong Xuân Thu tả truyện có kể tích Nguỵ Khỏa đã không vâng lời cha di chúc bảo phải chôn theo nữ tì yêu quý nhất (Xuân Thu tả truyện. Tuyên công 15). Thế mà không bị phạt lại được hồn thiêng của cha người nữ tì linh ứng bang trợ… Đó là đề cao óc độc lập của con, cũng như đặt nổi giá trị nhân bản: một lối kín đáo của văn Xuân Thu. Chúng ta phải công nhận rằng lễ gia quan còn hạn hẹp trong giới thượng lưu, nhưng đó chỉ là tâm thức con người của các xã hội xưa, cũng như do những điều kiện kinh tế cổ thời bất kỳ ở đâu cũng rất eo hẹp. Ngày nay cơ khí tiến bộ, toàn dân có thể hưởng nhờ những điều thuận lợi tiện nghi cũng như học thức mở mang thì chính là cơ hội thuận tiện để mở rộng pham vi lễ gia quan. Vì trong nguyên lý tuyệt không có điều chi cản trở: lễ gia tiên tuyên dương lòng tri ân hiếu thảo mẹ cha, lễ gia quan đề cao óc tự lập tự chủ của con cái để vun tưới cho đức “cung kỷ”: tự trọng mình, làm cho mình trở thành độc lập, tự chủ, xứng đáng là đại trượng phu. Mà đại hơn hết là không dựa vào đâu, nhưng tìm thấy nơi mình đủ lý do tồn tại. Lễ gia tiên chủ kính sự tế tự chính là để tỏ lòng tôn kính: “Tế tư kính” L.N XIX.1. Kính là đức đầu tiên đối với tha nhân tỏ lòng tôn trọng nhân phẩm nơi tha nhân, tức là nền móng gây an bình trong xã hội. Vì bất cứ ai thấy được tôn kính cũng thấy thoả mãn được nguyện vọng sâu thẳm nơi lòng. Nên kính là đầu mối hòa lạc an vui. Luận ngữ nói: “Tu kỳ dĩ kính. Tu kỷ dĩ an nhơn. Tu kỷ dĩ an bá tánh” (XIV.45). Tu thân mình bằng lòng kính tôn người. Có như thế thì tu thân cũng là con đường an hòa với tha nhân với bá tánh. Do đó người quân tử phải “hành đốc kính”: hết lòng mở mang đức kính trong mình. (L.N.XV.5) và trong Kinh Lễ nói về lễ gia tiên “kính chi chí hĩ”, tức là khen lễ gia tiên là một trường dạy đức kính tôn đến thế là cùng cực. Xét về phương diện này thì lễ gia tiên quả không có chi phản tinh thần thời đại. Vì ngày nay khi con người ý thức được nhân phẩm của mình, muốn được xử như người trưởng thành tức là được kính tôn thì lễ gia tiên đã dạy kính tôn rồi, nên đã không là cái đà ngăn cản tiến bước của nhân cách. Nền nhân bản Viễn Đông vẫn sản xuất ra rất nhiều quân tử, tức là những người có nhân cách cao độ. Người Việt đã vun tưới lễ gia tiên ngay từ ngày khai quốc mà lý tưởng con dân trong mọi giai đoạn vẫn là “trai hùng gái đảm”, nghĩa là những người không sợ trách nhiệm, từ việc nhà đến việc nước, từ gái Trưng Triệu về sau đến Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Thái Học không lúc nào nước Việt thiếu những bậc can trường dám sống dám chết. Người Pháp đã không nhìn ra chỗ đó (như ông P.Mus nhận xét) cho rằng dân Việt Nam chỉ biết tuân theo quyền bính, nên đã đưa ra một hiến pháp nặng óc cha chú và đó là lý do thảm bại trong việc tái chiếm Việt Nam.

Tóm lại cả trong lý thuyết cũng như trong thực hành, lễ gia tiên cũng như chữ hiếu đã không bao giờ là trở lực chắn bước tiến của con người.

 

Lễ gia tiên trên đường tìm nền tảng mới

Nền tảng cũ là quyền bính đang sụp đổ, không còn hợp thời đại ít ra ở những đợt tiến mạnh. Nhưng mỗi tập thể, nhỏ như gia đình cho tới lớn như xã hội nhất định phải tìm ra nền tảng mới thay vào, vì thiếu nền móng không có gì đứng vững. Đó là bài toán đố đang đặt ra cho các triết gia hiện đại, và chúng ta phải nói ngay rằng triết học chưa thành công trong việc tìm ra nền móng mới này như đã nói trên kia. Do đó chúng ta trở lại với Văn tổ xem có còn rút tỉa được gì cho vấn đề căn bổn này chăng.

Ở chương II đã nói rằng với phát minh bài vị Văn Tổ triết lý đi kèm đã né tránh được vấn đề ý hệ gắn liền với hai chủ trương Hữu với Vô. Nói như thế mới là bước đầu có tính cách tiêu cực. Thực ra nó còn bao hàm cái gì sâu hơn sự né tránh: đó là nó đi đến một đợt có thể làm nền móng mới cho các tập thể thay vào quyền bính cũ. Và điểm tích cực đó chúng ta bàn đến ở đây vì đó là bình diện tâm lý mới được bàn lướt qua ở chương II.

Sách Trung Dung nói: Tận tâm cúng vái mà không nói năng nên không có tranh luận “tấu cách vô ngôn thì mỵ hữu tranh”. Đây là câu sách rất quan trọng nói gọn việc di chuyển từ đối tượng của tế tự để đi sang tác động. Đối tượng nằm trong ý hệ, trong hữu với vô dễ gây ra tranh luận. Ngược lại thành tâm tế tự là một tác động, mà tác động nào cũng vậy, hễ làmmột việc thành kính thì giúp vào việc thành nhân. Vì thế mà nói không tranh luận là cốt để có thể tập trung tình ý cùng cực, mà Kinh Lễ đã nói bóng bằng chữ hưởng là hướng rằng chỉ có thánh nhân tế mới được Thượng Đế hưởng, y như con có hiếu thì tế mới được cha mẹ về hưởng: Duy thánh nhân vi năng hưởng Đế. Hiếu tử vi năng hưởng Thân. Hưởng giả hướng dã. Hướng chi nhi nhiên hậu năng hưởng yên (Lễ Ký LXXI.6).

Đối với Đông Phương triết lý cao hay thấp là tuỳ ở mức độ chuyên nhất. Càng chuyên nhất thì tầm bao quát càng tỏa ra rộng. Vào tới cái nhất vô nhị thì sức bao quát vô cùng và triết lý trở thành trung thực tối đại tối cao. Muốn cho tâm thức đạt được độ nhất vô nhị như thế cần phải tinh lọc khỏi các ý nghĩ bác tạp: có “duy tinh” mới chuyên nhất. Có chuyên nhất mới hiểu được ý nghĩa căn cơ của lễ gia tiên, mới có thể tế đúng, xứng đáng cho quỷ thần về hưởng. Mà hưởng chính là sự chuyên nhất cao độ. Nếu tế mà không được quỉ thần hưởng thì có tế cũng vô ích. Bởi quỷ thần hưởng không có nghĩa chi khác hơn là tâm hồn quy hướng vào một mối. Đó lại là trở về việc chú trọng vào động tác của người tế. Kinh Lễ nói: “chỉ có bậc thánh nhân mới biết tế xứng cho Thượng Đế hưởng, con hiếu thảo mới tế được cho cha mẹ hưởng. Vì hưởng chẳng qua là quy hướng vào nội tâm, mà có quy hướng mới có hưởng, tức mới có hiệu nghiệm của việc tế (Lễ Ký XXI,6).

Chữ hưởng có nghĩa như chịu lễ tức là manger au festin communiel qui suivit le sacrifice (Danses 128). Sau khi rót rượu xuống đất mời thần đất, xông hương lên mời thần trời thì cho người đại diện thần hưởng trước (thi hưởng), rồi đến các người tế mới hưởng sau (thừa hưởng). Nghi lễ đó nói lên một cách cụ thể ý nghĩa thuật ngữ “hội thông” không những bằng tai, mắt, mà cả bằng khứu giác, vị giác nữa. Như thế tế không vì người chết cho bằng vì những người sống và tế vì người sống khởi đầu ngay từ chỗ đó hay là cho đến chỗ đó: cho chính người sống ăn.

Đây là một thí dụ lễ gia tiên đã dùng ngay danh từ cũ (hưởng) để gửi vào một ý hướng mới (hưởng) đưa quan trọng từ sự hưởng của hồn người chết sang tác động của người sống, người tế tự, đó là hưởng.Vì sự quy hướng tâm hồn là cốt tuý tất cả cuộc tế, nên ta thấy sự sửa soạn cẩn thận đến như thế nào.

Trước hết là một tác động rất tâm lý căn cứ trên sức con người có hạn, làm nhiều thì sẽ trở thành quen nhàm (solita vilescunt) nên cái gì trọng thể phải mỗi năm hai lần (solennel: solus annus: mỗi năm một lần). Vì thế một năm chỉ tế hai lần: tế Đế mùa xuân, tế Thường mùa thu. Nhờ sự cách quãng như vậy nên việc sửa soạn dọn dẹp được hết sức chu đáo, có thể chia ba giai đoạn: giai đoạn sửa soạn xa bằng sự cấy lúa nuôi tằm dệt áo. Đó là những việc thiêng liêng, nên ruộng hương hỏa của nhà vua thì chính vua phải săn sóc để có thóc gạo riêng cất rượu nấu cơm cúng. Cung phi hoàng hậu phải trông coi việc cấy dâu nuôi tằm để có vải may mặc ngày tế… Như thế là cả năm có việc để tâm hồn quy hướng tới.

Giai đoạn sau là trai giới. Trong thuật ngữ trai giới thì giới có nghĩa là tẩy rửa cho tâm hồn không vương cái gì bác tạp, còn trai là cốt để tập trung tâm trí lại như Kinh Lễ viết: “Trai là có ý nói về sự quy nhất. Quy tụ những cái không qui tụ là cốt để đi đến cực kỳ chuyên nhất: “trai chi vi ngôn trai dã. Trai bất trai dĩ chí trai giả dã”(Kinh lễ XXII, 6.9). Cho nên trai không là chi khác hơn là một phương thức tập trung tư tưởng nghị lực, tình cảm đặng “cách cảm” thẩm thấu. Để cho việc trai giới đạt mục tiêu như trên, thì chia trai ra hai giai đoạn là tán trai và chí trai. Mười ngày trước khi tế thì bắt đầu tán trai gồm bảy ngày. Trong thời tán trai còn được đi lại bên ngoài (tán trai ư ngoại) sau bảy ngày tán trai thì tiếp đến ba ngày chí trai: ở cấm cung trong phòng (chí trai ư nội, Lễ Kí XXI,2,10). Có khi thay cả các món ăn để thêm phần hiệu nghiệm. Trai tất biến thực, L.N. X,7,11). Đến ngày thứ ba sẽ hiểu chí trai là gì: sách nói “như tương kiến chi, Lễ Kí XXI. 1,12” như sắp thấy được cái ấy. Hai chữ “như” và “cái ấy” làm cho câu nói trở nên âm u, muốn chỉ linh hồn người chết cũng được, muốn chỉ Văn tổ cũng được, muốn chỉ đại ngã tâm linh cũng được, muốn chỉ thượng đế cũng được, vì giữa bấy nhiêu có một sự liên hệ thần linh vô giới hạn nên không thể nói dứt khoát rõ ràng ra được như đối với vật thể. Chỉ biết cuộc tế với các nghi tiết kèm theo như trai ngoại, trai nội là những phương pháp rất hợp tình người, giúp con người có thể cảm thông được với những luồng linh lực của vũ trụ, của đại ngã tâm linh, nên quả thật cuộc tế đã trở nên ơn ích cho chính người tế. Nên ghi nhận rằng cũng như chữ cả mả có thể đi đôi với hữu thần hay vô thần. Nhưng nên nhớ đây đang ở trong phạm vi tâm lý thì hữu hay vô không thiết yếu liên quan đến đối vật ngoại tại, nhưng hiểu là sự linh cảm là mức độ sâu nông của sự thể nghiệm: cảm sâu là hữu thần, cảm nông hay không cảm là vô thần. Cảm là cái gì âm u có đấy mà không hiện lên hình, tuy vẫn đầy hiệu năng thúc đẩy chứng tác. Hữu hay vô như vậy không liên hệ tới vấn đề siêu hình có với không, nhưng là vấn đề có lòng thành hay không. Tiên nho quen nói: “hữu thành tắc hữu kỳ thần, vô thành tắc vô kỳ thần”. Chữ “kỳ” nói lên cái tư riêng gắn liền với kinh nghiệm. Vì không có kinh nghiệm trừu tượng: chỉ có kinh nghiệm của ai, cụ thể trong một người nào. Xem thế thì lễ gia tiên tiếng là phụng sự người chết mà hóa ra phụng sự người sống, giúp cho người sống “lập thân hành đạo” lưu truyền đạo trời mãi mãi bằng cách trở lại cội nguồn như ông Mus bình luận: tourner vers le passé non comme tradition inerte, mais comme vers la source toujours actuelle et sans date des règles et des pensées mêmes… aux sources de tout bien comme de toute la réalité. Mus 132. Quay về dĩ vãng không như một tập truyền bất động nhưng như là nguồn suối luôn luôn hiện đại của mọi luật tắc và cả đến mọi tư tưởng nữa… nguồn của mọi sự thiện cũng như của mọi thực tại.

Nhận xét như thế về lễ gia tiên ở Việt Nam là nhận xét ra được tinh thần đã dự trù trong kinh điển. Kinh lễ nói: Thiên hạ chi lễ dã chi phản thuỷ dã. Chi phản thuỷ dã dĩ hậu kỳ bổn dã. Lễ kí XXIb. 20.13. Cái lễ của thiên hạ đi đến cùng cực là trở lại với thuỷ tổ cội gốc. Trở lại thuỷ tổ đến cùng cực là cốt làm cho đôn hậu cái bản gốc của mình (không để cho mình bị vong bổn), cũng là chính cái bổn gốc mà hiện thời nhân loại chưa thành công tìm ra để thay thế quyền bính đang sụp đổ. Xã hội cũng như văn hóa mai này sẽ xây trên nền tảng mới là chính con người Đại ngã tâm linh. Đó mới là lý do tại sao Khổng Tử nói “ai thấu hiểu được lễ Giao (tế trời), lễ Xã (tế đất) và ý nghĩa việc tế Đế tế Thường (xuân tế Đế thu tế Thường) thì trị nước dễ như xem trong bàn tay”: Minh hồ giao xã chi lễ. Đế Thường chi nghĩa. Trị quốc kì như thị chư chưởng hồ. T.D 19,14. Dễ như xem vào bàn tay là vì những lễ đó vừa đúc kết tinh hoa đạo trời, đạo đất, đạo người, vừa giúp cho con người đạt đến cái suối nguồn của trí sáng suốt, của tình nhân hậu, của chí dũng mãnh. Đó là đạt đến chỗ căn bổn của nơi giao hội đất trời người: “thiên địa nhân giao hỗ kỳ căn”, và như thế là tóm thâu đầu mối, tóm thâu nền tảng cho mọi quyền bính mọi lối cai trị vậy, vì đã đạt được Nội ngã tâm linh mãi trong nơi chí cực của tâm hồn. Có khai sâu tới đó mới làm cho nguồn sinh lực tràn lên đem giải quyết đến cho các vấn đề hiện đang bế tắc của nhân loại. Đó cũng chính là những lời phán quyết cuối cùng mà tâm lý các miền sâu vừa tìm ra. Jung viết trong quyển Psychologie de l’Inconscient rằng: “Những vấn đề lớn lao của nhân loại chẳng bao giờ được giải quyết bằng những đạo luật ban bố ra; ngược lại chỉ được giải quyết bằng sự canh tân những lập trường nội tại của mỗi cá nhân”. Và một trong những phương thế hiệu nghiệm để khơi nguồn canh tân thân tâm của tiềm thức đó cũng chính là nghi lễ vậy: “Le rituel est un moyen sur de traiter avec les forces imprévisibles de l’inconscient”. Psychologie et Religion, Jung p.95, 96.

Thế là lễ gia tiên bắt gặp tâm lý các miền sâu và có thể chung sức tìm ra giải pháp cho vấn đề căn bổn đang đặt ra cách khẩn thiết. Tâm lý có những nhận xét tỉ mỉ căn cứ trên các hiện tượng bệnh lý được quan sác cách khoa học. Lễ gia tiên có một phương thức tập trung tư tưởng rất tinh thuần với một số châm ngôn triết lý thâm sâu.


1.7 - TỪ VĂN TỔ TỚI VĂN MIẾU

Văn tổ cũng như văn miếu là kết tinh của đạo thờ nhân tính, nhưng Văn tổ thuộc cỡ gia đình, còn văn miếu thuộc tầm mức làng nước. Nếu gia tiên vẫn có thể đứng vững trong thời mới, thì cũng có thể nói như thế về văn miếu. Hơn nữa văn miếu lại tỏ ra cần hơn cả gia tiên vì một tình trạng mới xảy đến cho hầu hết các nước trên thế giới đó là tình trạng đa giáo. Đối với quốc gia thì tôn giáo là một yếu tố tinh thần, nhiều khi là yếu tố thống nhất quốc gia rất linh nghiệm. Tuy nhiên chỉ được như thế bao lâu nước đó chỉ có một tôn giáo, hay nếu có vài ba dị giáo thì chỉ là một thiểu số bé nhỏ. Nhưng từ lúc một nước có nhiều tôn giáo mạnh gần ngang nhau thì từ đấy tôn giáo lại trở nên yếu tố gây chia rẽ. Lúc ấy nước nào có văn miếu, nghĩa là một nền văn hóa ây trên nhân bản thì thuốc chữa sẽ là “trùng tu văn miếu” tức đem văn hóa dân tộc lên làm yếu tố thống nhất dân tộc, còn tôn giáo thì chuyên về việc thiêng liêng tâm hồn, rút khỏi các hoạt động chung của nước, càng nhiều càng hay. Còn nước nào không may mắn thiếu nền văn hóa nhân bản nên thiếu văn miếu thì chỉ còn cách sa dần xuống dốc duy vật. Sau đây là kinh nghiệm của một nước siêu cường có liên hệ rất nhiều với ta từ lối 1954 tới đây, đó là Mỹ quốc. Nước Mỹ có tới 265 thứ tôn giáo khác nhau nên gặp rất nhiều khó khăn.

Trong bài tựa quyển đạo đức của nhà triết lý chính trị hữu danh của nước Mỹ là ông Walter có viết vào năm 1929 như sau:

“Hậu quả của thuyết lý mới về tự do tôn giáo là đặt các giáo phái vào một tình trạng ngoại lệ (anomalous position). Ở trong công hội với nhau thì họ vẫn khẳng định duy họ mới nắm được chân lý trọn vẹn; nhưng khi đối ngoại với các giáo phái khác hay với chính quyền không phải chỉ gặp có một sự khó khăn về lý luận như thế thôi đâu, nó còn bao hàm một sự khó khăn về tâm lý còn sâu xa hơn cho phần tử các giáo phái, vì đứng về phương diện tìm hiểu thì họ không chút chi ngần ngại tin rằng tôn giáo họ theo là con đường cứu rỗi chân thực, vì không thế thì hóa ra những biệt phái kia cũng có lý mất rồi. Nhưng xét là công dân thì họ lại phải giữ trung lập đối với lời tuyên bố của mọi giáo phái, và chống cự lại mọi sự lấn chân của giáo phái này lên giáo phái nọ. Và đó là giải pháp tốt nhất mà sự khôn ngoan loài người đã tìm ra được, nhưng hậu quả không thể tránh được là người ta chỉ bênh vực lòng khoan dung cách hời hợt, để rồi bỏ qua coi thường, vì thực là môt sự khó khăn khi trong tế hằng ngày phải xử với mọi giáo phái như nhau, mà còn có thể tin tưởng bền bỉ vào một giáo phái nào.

“Tâm hồn con người không thể chia nhiều ngăn, để rồi ngăn này thì tín ngưỡng sâu xa, còn ngăn kia thì giữ trung lập. Sự có nhiều giáo phái, và không có phái nào nắm được độc quyền, cũng như thói quen trung lập sẽ dẫn tới chỗ giảm bớt lòng tin… Vì thế bất kỳ tôn giáo nào lúc được thịnh đạt cũng cho mình là có tính cách tuyệt đối phổ biến, và trở nên bất tương dung. Và sự phạt vạ rút phép thông công là cả một bản án nặng nề, nhưng khi một nước có nhiều tôn giáo, và vì hoàn cảnh bó buộc phải chịu đựng nhau thì lúc đó rút phép thông công trở thành vô hiệu.

“Nhưng các giáo phái không bó buộc phải chịu nhịn nhau, thì họ từ chối chấp nhận nền giáo dục công cộng vì các trường nhà nước không được đề cập tới vấn đề tôn giáo trong lịch sử hay những khoa học có liên hệ đến tôn giáo. Người Tin lành không chịu cho nhà trường dạy tín điều nào của Công giáo. Người theo phái nền tảng (Fundamentalistes) không chịu được những tín điều của Tân phái (Modernistes). Vì thế mà bất đắc dĩ phải cho trung lập là giải pháp đừng chẳng được, chứ trong thâm tâm chẳng ai muốn rằng vấn đề tôn giáo không có trong việc giáo huấn con em. Vì thế giáo phái nào mạnh đủ thì kiểm soát trường công, hoặc lập tư thục như Công giáo và Tin Lành đã làm, hoặc bắt trường công phải theo ý mình như Nền tảng phái ở những nơi họ thắng phiếu như tại Tennessee. Lúc đó các giáo phái khác khiếu nạo là họ phải đóng tiền vào những trường mà lương tâm họ không cho phép gửi con vào đấy.

“Còn nếu có trung lập thì cũng chỉ là ngoài mặt. Những khoa nhân văn lịch sử thì thường được dạy theo quan điểm của Tin lành che đậy một cách khéo léo. Đến những khoa học thực nghiệm thì dễ, nhưng cũng có những giáo sư lái vào thần học của mình… cũng có giáo sư Công giáo giảng sử theo cái nhìn của Công giáo. Kết quả vẫn là làm yếu thêm lòng tin tưởng con em đối với nền tín ngưỡng của cha ông. Vì chúng cảm thấy lòng ái quốc đòi không được chú trọng đến niềm tin cho bằng lương tri và tình huynh đệ, tức là không nên tuyệt đối hóa gì cả. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ý thức nguy cơ đó, nên đã làm rất nhiều kiến nghị… Chính quyền cũng đồng ý khi nói đến mối nguy cơ của những người vô tín ngưỡng nên yêu cầu các tôn giáo hội lại và đưa ra một Thượng Đế không thuộc riêng giáo phái nào để thờ chung, và một số đoạn thánh kinh không bị tranh luận để làm sách giáo khoa. Nhưng mỗi khi đề cập đến bản tính một Thiên Chúa trung lập, và một ấn bản thập giới không bị tranh luận… thì lôi đình sấm sét liền nổi lên như dưới chân núi Sinai xưa, lúc tuyên dương 10 giới răn vậy… và chẳng bao giờ các nhà lãnh đạo tôn giáo đi tới sự đồng ý.” (The Essential, Lippman 434).

Thế là ngoài mặt thì trung lập, mà bên trong là một sự đấu tranh ngấm ngầm với hai hậu quả tai hại cho cả đạo lẫn đời.

Về phía đạo thì lòng tin tưởng càng ngày càng yếu dần, một học sinh làm bài triết thí dụ phải tập nói sao cho ông chấm bài là Công giáo hay Tin lành cũng không đến nỗi đánh rớt vì vô ý ghé bên này hay bên nọ, tức là phải lo cho cái phụ nhiều hơn cái chính.

Còn phía dân thì thiếu một niềm tin chung, mỗi người đi mỗi ngã nên cũng giống như Âu Châu bị lâm vào bệnh mất trí nhớ công cộng.(*)  Mất trí nhớ vì khi nhớ tới dĩ vãng thì lại gặp những yếu tố gây chia rẽ nên cố tránh, nhưng tránh thì y cứ vào đâu để tìm ra nguyên lý nền móng. Từ ít thế hệ cuối cùng, tất cả những nhà tư tưởng chính trị đều hướng mũi dùi vào việc đòi quyền lợi cho nhóm này nhóm nọ (Lipp.8) với đầy những mâu thuẫn lộn xộn, đầy tính chất phá hoại sâu xa.(**)

(*) When they com apart, as they have in the Western domocracies, the result is tanamount to a kind of collective amnesia. Ess. Lippman 183.

(**) The dogma of majority rule contains within it some sort of deep and destructive confusion. Lipp.8.

Không còn một ai vươn lên khỏi cảnh hỗn mang chi sơ để đưa ra nổi một cái nhìn cai quát hướng dẫn, và vì thế có gọi là dân tộc là quê hương thì cũng chỉ còn lại có cái xác, chứ hồn chết rồi. Nếu không có vũ trụ nhân sinh quan thì hồn làm sao sống mà chả chết, như sử gia Adams nói: “Chúng ta đã nhận ra là càng ngày chúng ta càng ly cách các thế hệ đang lên xa khỏi khối di sản của Mỹ châu… Nguy ngập biết bao khi chúng ta đang trở nên những dân chỉ còn ở lại trong đất có cái xác, còn hồn đã bay đi đâu mất rồi…!”(*)

(*)“Without a vision men shall die. We have begun to realize in these days how close we have come to separating the coming generation from its heritage in the American past… how dangerously close we have come to being a people who inhabit the land with their bodies without possessing it in their souls. (Lipp. 266)

Có thể hỏi rằng tại sao không đưa ra một đạo lý công dân. Thưa đó chính là sự cố gắng của mọi triết gia kể từ phục hưng tới nay: tất cả nhiều hay ít đều muốn kiến tạo một nền nhân bản để làm cơ sở cho một nền luân lý độc lập. Nhưng tất cả đã thất bại như chúng tôi đã chứng mình trong quyển Nhân Bản. Lý do là vì không ai có thể thoát khỏi gọng kềm nhị nguyên, nên hoặc đưa ra một đạo lý phục tùng Thượng Đế thì lập tức bị phía vô thần tấn công. Rồi phía vô thần lại đem ra một nền nhân bản chống Thượng Đế thì liền bị bên kia đả lại. Và như vậy lại là đưa đấu tranh tôn giáo vào trong triết lý, mà ta gọi là chiến tranh ý hệ.

Tóm lại, nếu đưa tôn giáo làm kim chỉ nam thì không sao giàn hòa nổi, được lòng giáo phái này thì mất lòng giáo phái kia. Còn nếu không dạy tôn giáo thì xã hội trở nên chiếc thuyền không lái, con người sẽ trở thành không phẩm tính, lang thang giữa lòng đất tổ như những cô hồn không nơi cư ngụ. Thấy mối nguy ngập đó chính quyền xin các tôn giáo thuận với nhau đề ra một số tín điều chung thì các tôn giáo không sao đi đến thỏa thuận để hiện thực nổi… Cuối cùng thì phải chịu sự “dữ nhỏ hơn” (le moindre mal), là trở lại với trung lập tiêu cực tức là dửng dưng (neutralité par indifférence). Vì không ai đưa ra nổi một thuyết trung lập tích cực xây trên một nền nhân bản trung hòa.

Đó là cái vòng lẩn quẩn của Âu Mỹ. Các nước Á Phi vì đang mải miết tranh thủ độc lập và lo đuổi kịp đà tiến kỹ thuật, chưa nhận ra trạng huống bi thảm kia, nên nhào vô theo sát Âu Mỹ trên con đường dẫn tới những người không phẩm tính, không niềm tin, không một lý tưởng để hăng say… Có cần chúng ta phải theo Âu Mỹ trong vấn đề này chăng? Hầu chắc trong lý thuyết không một ai bảo phải theo. Nhưng trong thực tế thì chúng ta để mình trôi theo trào lưu Âu Mỹ. Âu Mỹ đã có nền kinh tế mạnh, tập quán chính trị vững và một kinh nghiệm lâu dài về các xung đột chiến tranh tôn giáo, nên đủ ý thức để tránh né, để khỏi rơi lại vào thảm kịch chiến tranh ý hệ. Ba điều kiện trên nước ta chưa đạt nên dễ đi vào thảm khốc như kinh nghiệm hãi hùng của 3 năm tiếp sau cuộc đảo chính 1/11/1963. Trong quãng đó ta thấy ý thức dân tộc trụt xuống thấp như thung lũng cho các núi tôn giáo vươn lên, nhưng vươn lên bằng gậy, bằng búa, bằng vỏ chai la ve, bốc cao lên bầu khí hận thù, chia rẽ, lọc lừa phe cánh, đánh đổ hết chính phủ này đến chính phủ khác, gây nên biết bao lo âu xáo trộn làm tan biến mất những ngày sống tương đối an vui.

Từ cơn ác mộng ba năm đó ước ao đồng bào ta rút ra được kinh nghiệm để thiết lập nên một nền văn hóa dân tộc nối liền với nhân tộc, một nền triết an vi đặt ngoài mọi tranh luận ý hệ ngoại lai cũng như các tranh thủ và vận động của các tôn giáo, một nền văn hóa dân tộc mà bất cứ người nào, hễ đã là con dân nước Việt cũng phải học, phải đọc, phải coi trọng như một di sản của tổ tiên trối lại, như một bửu bối giữ nước, càng ngày càng trở nên cần thiết trong một nước đa giáo.

Còn nếu đòi một “tôn giáo” cho quốc gia thì đó sẽ là “gia tiên” và “quốc tố” tức linh khí của nước non cũng gọi là Rồng Việt.

 

KHI RỒNG VIỆT NAM UỐN KHÚC

Nó uốn khúc vào một buổi trưa năm 1947 ở Văn Miếu Hà Nội, khiến cho Albert Sarraut xuất thần nói lên những lời của dân tộc Việt rằng người Pháp đang tính đưa Việt Nam đến một nền độc lập kỹ nghệ hóa tối tân. Đó là nguyện ước sâu xa của người Việt cũng như một đôi người Pháp hiếm hoi.

Nhưng hầu hết người Pháp ở Hà Nội lúc đó đã phản ứng lại tức khắc và dẻo dai. Các báo tiếng Pháp đều bày tỏ lòng sợ hãi bàng hoàng coi như tất cả sẽ tan tác. Vì họ cho rằng bên Đông Phương người ta chỉ nói tới cái gì không thể tránh được, đã gần tới, vì ngay việc nói tới đã làm cho điều đó trở thành gần xảy ra rồi. Phủ Toàn quyền phải ra từng loạt thông tư để trấn tĩnh người Pháp, đại để rằng những điều quan Toàn quyền nói còn rất xa xôi, có lẽ một ngày kia trong một thế kỷ nữa, ai mà biết được, thì nước An Nam có thể tự sống như một quốc gia tân thời. Nhưng tới lúc đó thì nó đã kết thân chặt chẽ với nước Pháp, nên nước Pháp vẫn không phải ra đi. “Peut-être un jour, dans un siècle qui sait, l’Annam serait-il en mesure de vivre comme une nation moderne; mais à ce moment là ses liens avec la France seraient pas à s’en aller. On entendit couramment exprimer l’avis que les Annamites n’en demandaient pas tant”; “on leur mettait ainsi des idées en tête, ce don’t on aurait pu se dispenser”; “ils se trouvaient bien, eux-mêmes comme ils étaient” (Mus 192).

Người Pháp trách A.Sarraut là gieo ý tưởng độc lập vào óc người Việt Nam chứ thực sự người Việt Nam có đòi đến đâu, họ đang sung sướng với hiện trạng rồi mà. Những lời của A.Sarraut bị coi như vụng về đã đưa người Pháp đến cảnh bi đát hiện nay (1952). Theo người Pháp thì lỗi lầm lớn nhất của A.Sarraut là đã từ bỏ nguyên lý quyền bính “là điều duy nhất đáng kể đối với người Á Đông”: par notre démission du principle d’autorité le seul qui compte pour les Asiatiques”. Người ta gọi A. Sarraut là Naufrageur, kẻ đánh đắm tàu. Điều đó theo hoàn cảnh lúc ấy là rất nặng, vì quốc hội Pháp mới quyết định: một là phải gửi sang Đông Dương 2 sư đoàn, hai là sai A. Sarraut sang làm toàn quyền. Vì không có 2 sư đoàn nên nước Pháp sai A. Sarraut sang như cứu tinh. Thế mà A. Sarraut lại nói lên những lời tai hại trên, thì đó là chỗ làm cho người Pháp Đông Dương sửng sốt hốt hoảng. Sự thật thì A. Sarraut “lỡ miệng”, “tình cờ” nói lên mấy lời kia, ấy là khi theo óc duy lý mà bàn, nghĩa là khi không tìm ra lý do thì cho là tình cờ, là lỡ miệng. Nhưng đối với Đông Phương không thể nói vậy được. A.Sarraut hiểu được sự đợi trông của dân Pháp muốn uỷ thác cho mình đưa Việt Nam vào liên hiệp Pháp, sứ mạng là ở đó; vậy mà tại sao lại nói tới độc lập chống lại ý muốn cả một nước Đại Pháp và nhất là những người bao quanh A. Sarraut. Theo quan niệm cổ xưa của ta thì đó là hồn tiên tổ của giống Lạc Việt nhập vào A. Sarraut, và dùng miệng y để nói lên đường hướng phải theo trong một khúc quanh mới của lịch sử. Cũng như theo lễ gia tiên thì hồn tiên tổ nhiều lần nhập vào đại diện (Nho gọi là Thi) hoặc là vào cỏ Thi và mu rùa bao giờ cũng được chiêm bói trong nhà Thái Miêu. Thi Qui là phát ngôn nhân của tiên tổ. Chính tiên tổ mới là người trị nước, còn nhà vua đương trào chỉ là người thừa hành mà thôi.

Vậy cũng chính cái hồn tiên tổ, hồn nước, hay nói theo huyền sử là Rồng nước Nam uốn khúc đã không cho A. Sarraut nói theo ý hắn cũng là ý của nước Pháp, nhưng phải nói theo ý của “giống thiêng Tiên Rồng”. Ai bảo Sarraut dám đến Văn Miếu mà đọc diễn văn! Vì đó là nơi linh thiêng. Nên biết rằng đó không phải là chuyện huyền hoặc khi gọi nước Việt là giống Tiên Rồng. Xét về địa dư, nước có hình chữ S như rồng uốn khúc, có dãy núi từ Bắc chí Nam như chòm lông mao. Về mặt địa lý có rất nhiều nơi linh thiêng được gọi là những long mạch mà Văn Miếu là một. A. Sarraut cũng như bao người Pháp cho đó là chuyện tin nhảm không thèm kể đến, nên đòi vào Văn Miếu để nói chính trị, nghĩa là nói những chuyện huyền hoặc tục hóa. Ừ được, các anh không tin thì cho các anh biết tay: bắt các anh nói lên điều các anh đang sợ hơn hết là nền độc lập của “Nước thiêng Tiên Rồng”. Đấy là bài học các anh nên trở về nhà suy nghĩ cho thấm thía. Người Việt Nam vẫn còn nuôi sống những ý tưởng đó vì nó rất dễ hợp điệu với những sự tin tưởng và lề lối cổ truyền trong dân gian. Không còn tìm đâu được môi trường thích hợp hơn cho bài diễn văn chương trình trong khoảng những bức tường thiêng liêng, trước sự chứng kiến im lặng nhưng hiệu nghiệm của những bia đá mang tên các bậc khoa bảng. Đó chính là nơi mà toàn dân tin tưởng là long mạch, có một làn sóng linh thiêng toàn quốc mà người quốc trưởng phải thâu lấy để phát thanh lại cho toàn dân. Quan Toàn quyền lúc đó là quốc trưởng, nên long mạch truyền điện vào bắt y nói tiên tri về sự giải phóng người Việt Nam, trước sự sửng sốt của đồng bào hắn. Phải chăng vì ông dẵm lên long mạch nên bị giật do làn sóng điện u linh bắt phải nói lên những điều không dự tính nói.

Ông P.Mus viết: “Đó phải chăng là một dị đoan mà nó đưa ta vào một thế giới kỳ dị mà ta không biết mình ở đâu, bàn chân của lý trí không tìm được đất đứng. Phải, có lẽ đó là một thế giới làm bằng biểu tượng, bằng những ý tưởng khiến chúng ta ngỡ ngàng, khiến cho đường lối chính trị của ta trở thành bất nhất. Có thật chăng là một thế giới khác biểu lộ qua thế giới đang nói năng. Xem ra hai giống người Pháp và Việt đã đi tới điểm mà họ phải chia lìa nhau trong một sự không thể hiểu nhau, hoặc nữa là họ phải vượt qua những sự kiện bên ngoài?” (Mus 202) Đến đây chúng ta phải thưa rằng trên phương diện chính trị người Pháp đã phải lìa khỏi chúng ta, vì họ không hiểu nổi ta nữa.

Nhưng chúng ta cũng cần nói thêm ngay rằng, hầu hết giới trí thức trên phương diện văn hóa cũng theo người Pháp cho rằng những chuyện vừa nói trên kia là dị đoan đã lỗi thời rồi. Nhưng chúng ta hỏi có thật là dị đoan cần phải vất tất đi chăng? Hay là chúng ta cần phải theo lời mời của P.Mus đi xuyên qua những hiện tượng bên ngoài, để tìm vào sâu hơn. Nếu đừng ở bên ngoài thì quả thật đó là một sự thực thuộc lịch sử không ai chối cãi, nhưng tin tưởng rằng đó là hồn tiên tổ, đó là Rồng uốn khúc thì là dị đoan, hay đó chỉ là một sự tình cờ. Đấy là giải đáp của người Pháp.

Tuy nhiên những người chủ trương hồn nước cho đó là lối giải nghĩa lưng chừng, hễ cái gì không tìm ra manh mối thì bảo là tình cờ- tình cờ là viện ẩn náu của cái dốt: asilium ignorantiae- nên phải tìm một giải đáp mới xa hơn giải đáp của giới trí thức duy lý cũng như có nền móng hơn giải đáp của cổ truyền gọi là “Rồng uốn khúc!” Chúng ta nay sẽ không cho là tình cờ mà cũng không cho là rồng uốn khúc, nhưng sẽ giải đáp theo tâm lý các miền sâu và sẽ gọi sự kiện trên là hậu quả của “cơn lốc tâm linh”: tourbilon psychique hoặc là làn sóng đáy của đại dương vô thức cộng thông (l’inconscient collectif) hay là của muôn thế hệ tinh anh mà một số tên tuổi còn ghi trên những bia đá xếp hàng trang nghiêm trước Văn Miếu, cũng là nơi quy hướng của hơn hai chục triệu người dân Việt đang tranh thủ cho nền độc lập nước nhà, cho nên là một thực tại lớn lao tuy không nói lên, nhưng có sức mạnh như làn sóng đáy quật ngã những cái chi trên mặt như những lời chính trị ngoại xâm, và rồi đây cả đến dư âm của nền văn hóa phàm tục ròng kiểu cộng sản, thiếu chất u linh của Tây âu cũng sẽ bị xô đổ.

Chất u linh đó là gì chúng ta chưa nói rõ lên được, tuy nhiều người đã thử gọi tên như Schopenhauer gọi là hồn khóm (l’âme-groupe), những người chủ trương trực thị (gnostiques) gọi là du hồn đoàn (eggregore), còn Ferrero gọi là thần thị xã (les génies de la Cité) hơi giống cái mà Freud gọi là siêu ngã (surmoi)… hay theo khoa xã hội học là “ý thức cộng thông thường đàn áp ý thức cá nhân”… Tất cả bấy nhiêu danh từ khác nhau đều nhằm nói lên một thực thể u linh cao hơn các cá nhân trong một nước cộng lại, và có một đời sống riêng biệt vừa cao xa mà lại rất thâm sâu nơi lòng mỗi người. Chính cái thực thể u linh đó mà dân Việt quen gọi đơn sơ là hồn sống núi, là long mạch nó đã làm cho A. Sarraut xuất thần nói lên những lời không muốn nói.

Chính chất u linh đó đã luôn luôn phảng phất như hồn nước đôn đốc cho đoàn người Việt trong cuộc sống hết sức cam go mà không bị tiêu diệt hay bị đồng hóa. Chính những yếu tố tâm linh đó làm nên cái gì thiêng liêng nhất được tiền nhân ta sùng bái trong các Văn miếu từ cấp nước tới cấp làng. Và ngày nay nói đến trùng tu Văn Miếu là nói đến trùng tu việc thờ Văn Tổ, trùng tu lòng sùng mộ chân thực của văn hóa dân tộc. Quốc miếu một khi đã trùng tu, nghĩa là không những có điện đài mà còn làm phục hoạt lại được các yếu tố linh thiêng của Việt lý thì từ đó Quốc Miếu sẽ là đài phát thanh truyền tinh thần đi khắp nơi trong nước, trên cả thế giới, bất cứ nơi nào người Việt di tản. Mỗi gia đình đã có sẵn bàn thờ tổ tiên, một thứ văn miếu thu nhỏ (hoặc một lá cở) sẽ là bấy nhiêu máy thâu thanh để thâu tiếng gọi của nước non, của tiền nhân từ muôn thế hệ truyền ra, bơm hăng say thành khần vào cho mỗi người con dân để mỗi người coi việc nước như việc nhà, cố sức chu toàn cái nhiệm vụ được uỷ thác cho với một tấm lòng chí thành tận tuỵ. Tiếng hịch cứu quốc kiến quốc phải tự đó phát ra từ đó.


2.1 - TỪ LAO ĐỘNG TỚI AN VI

1. Nguồn gốc triết lý lao động

Tháng giêng ăn tế ở nhà.

Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè…

Đó là câu đã làm cho biết bao người Việt trước đây bực dọc thấy quá nhiều thì giờ bị tiêu phí vào việc ăn chơi hội hè, đang khi các nước văn minh giàu hơn mình gấp cả trăm lần còn làm việc trối chết, tết cũng chỉ có một hai ngày, thế mà dân mình túng rớt cục mồng tơi đòi ăn tết đứt đuôi đi một tháng. Vậy còn chưa cho là đủ lại thêm hai tháng nữa mới kinh khủng. Mất nước cũng đáng kiếp.

Thế là từ đấy nổi lên một cuộc giương cờ gióng trống đi rước văn minh Tây phương cùng với triết lý lao động của họ đưa về cho ngự trong nước; hậu quả là ba tháng tết rút lại còn có một ngày, mà nhiều khi còn bị xén bớt. Liệu rồi với đà làm việc đó chúng ta có đuổi kịp Tây Tâu chăng? Để tìm câu đáp hôm nay chúng ta đem vấn đề ra xét lại em tại sao lại có cái vụ trái khoáy như trên: nước túng mà tết lại dài với một chuỗi hội hè đình đám.

Trước hết nên nhớ lại Tây Au mới làm việc quần quật từ lúc có khoa học kỹ thuật. Còn triết lý lao động thì lại đến muộn nữa, mới chừng một thế kỷ nay. Và từ đấy mới có đảng lao động, rồi lễ lao động và lao động được đề cao cùng cực, đến độ giai cấp lao động được trao phó cho sứ mạng cứu thế, nên đảng lao động đã tận tình thực thi sứ mạng đến độ chỉ còn việc chân tay, sản xuất đồ vật mới đáng kể là lao động. Văn học nghệ thuật… có muốn tồn tại thì phải hô hào cổ võ cho việc thi đua sản xuất và ca ngợi lao động của Đảng. Ngoài ra ai còn dám nói tới tình người thì bị lên án là phản cách mạng, phản sản xuất.

Đó là sự quá trớn ai cũng thấy, nhưng có một điều không mấy ai thấy là cái lý do gây nên phong trào làm việc quần quật nọ. Vậy nguyên uỷ sâu xa ở tại triết lý cổ điển đã xao lãng việc đề cao lao động thì chớ, lại còn coi việc làm là hình phạt hay là cái chi hèn hạ, chỉ đáng dành cho nô lệ (gọi là servile). Aristote cho việc lao tác là bất xứng với người tự do. Cũng vì đó mà triết lý đã không tìm cách phá chế độ nô lệ, lại còn bào chữa cho là cần thiết để xã hội tồn tại. Vì xã hội mà thiếu lao động thì sản xuất sao nổi, mà ai lao động cho đây nếu không có nô lệ. Đây quả là một tang chứng về vụ triết học đã phản bội con người vốn mang trong xương tuỷ tính chất tác hành. Vậy mà mãi đến đời nay các triết gia chưa hẳn rút chân ra khỏi câu tuyên bố đầy ô nhục nọ của Platon, Aristote. Đó là dấu chứng tỏ triết học đã đặt hướng lầm, nên không thấy rất nhiều điều thiết yếu cho con người trong đó có sự coi thường lao động, vì thế mà trải qua bao đời, lao động vẫn bị khinh rẻ, đó là lý do sâu xa nhất đã gây nên cuộc phản động đề cao lao động như vừa nói tới trên kia.

Nhưng rồi mạnh chống mạnh chất; hễ cái gì do phản động thì thế nào cũng gây nên sự mất quân bình là cái sẽ dẫn đến chỗ cắt hoạn con người, bắt con người làm quá nhiều về chân tay lao lực, mà lại không để thì giờ phát triển những khả năng của con người trung thực. Bởi nhà nước chiếm đoạt hết quyền điều lý thì đã là tước đoạt quyền định đoạn phác họa chương trình của tư nhân, cả đến những chi tiết lặt vặt cũng xen vào với chính sách “làm hết” (tout faire) biến cá nhân thành cái đinh ốc, hay một bánh xe chỉ biết mảy độngg do sức đẩy bên ngoài. Đã vậy mục tiêu còn bị đặt bên ngoài con người như làm để có thêm tiền, làm để cho nước giàu mạnh, hay đi giải phóng, chứ không cho chú ý đến nhu yếu con người thực đang sống ở đây và bây giờ. Đó là những cái bên ngoài con người nhằm thành công như cứu cánh, thì không còn tiêu điểm đề biết đến đâu là đủ, là “tri túc”. Thế là biến con người thành con kiến, suốt đời phải tha mồi, để chất đống, tha hoài tha huỷ, không bao giờ được ngửa mặt lên ngắm trời đất với muôn hoa đua nở chứ đừng nói đến việc siêu lên cõi tâm linh là chiều kích đích thực của con người. Muốn thế ta cần phải đi tìm một nền triết lý khác thay vào cả hai nền triết Tây Au; cổ điển điển thì khinh việc, còn nay thì chỉ biết có việc sản xuất. Cần một nền triết lý cân đối đầy đủ cho con người lưỡng thê.

 

2. Ham chơi vì có triết lý tác hành

Điều đó chỉ có thể tìm ra được trong những miền có triết lý hành động từ đầu, tự cơ cấu. Và đó là trường hợp Việt nho khi định nghĩa người như những tác nhân, xuất hiện theo cung cách của Bàn Cổ, cái gì cũng tự làm lấy hết; từ việc xếp đặt trời đất, âm dương, cho đến núi sông, cả con người nữa. Nên sau này con cái đều bắt chước. Ngay đàn bà mà có thèm kể đên phận liễu yếu đào tơ đâu. Cũng ra tay dọc ngang trời đất, cũng dám đội đá vá trời! Dễ có mấy tay!

Nữ nhi mà làm những việc có tầm vóc vũ trụ! Chả trách sau này sinh ra toàn những tay thánh tổ của tác hành như ba vị thánh quan thầy lao động của Việt nho cổ đại kêu là Uyên Công, Mẫn Công, Đạt Công (được thờ ở đền Đào Xá, Phú Thọ). Rồi đến trai thì hùng đã đành, mà cả gái cũng đảm nữa, nên khi lấy chồng thì kêu là đi “gánh vác”, hiểu là “đi gánh giang sơn nhà chồng”. Lại nổi máu con cháu Nữ Oa lên nữa rồi.

Người ta gánh rau thôi chứ, đây đòi gánh sông gánh núi, tức những công việc có tầm vóc vũ trụ vậy. Nói theo công thức của nho thì ba vị công trên là Tam tài.

Chữ Tài viết bằng bộ thủ hàm ý động tự. Thế có nghĩa là con người được quan niệm như một tác nhân, mình đầy nhóc những động tự là động tự. Trên đời này không thể tìm đâu ra được một triết lý hành động uyên nguyên đồ sộ như thế. Theo triết lý ấy thì chỉ có việc làm mới có giá trị, nên các vua huyền sử của Việt nho không xuất hiện từ dòng máu như sinh ra bởi thần thánh nào, mà chỉ lấy toàn tên từ một thành tựu, một cuộc phát minh nào đó như:

Toại nhân phát minh ra lửa.

Phục Hy thuần phục súc vật.

Thần Nông thuần phục lúa.

Hùng Vương thuần phục tinh thần.

Bà Nành, Bà Giàu là những người đã thuần phục cây đỗ nành cây dâu…

Kể ra chẳng xiết. Rõ rệt là không hề có một dấu hiệu nào coi khinh việc làm, trái lại việc làm được đề cao từ trong xương tuỷ, đến nỗi kẻ sĩ thường mang tiếng là dài lưng tốn vải, vậy mà khi chết cũng phải chôn theo một biểu hiệu việc làm đó là lưỡi cày. Ong vua cũng phải đi cày, ít ra một cách tượng trưng, ba luống trên ruộng tịch điền. Vua Lê Hoàn tự cày cấy trọn ruộng tịch điền…

Tóm lại không những có câu Việt nho là tác hành, đến nỗi đạo được gọi là Ngũ Hành, mà cả đến sơ nguyên tượng, và điển hình cũng là những tác nhân, những ông chống trời, ném cát, tát biển! Cho nên nếu hiểu thấu được triết lý tác hành chân thực thì phải nhằm phát triển con người đến trọn vẹn, chứ không chỉ có đợt sản xuất. Đó là san phẳng theo nguyên lý đồng nhất (A = A) giản lược con người vào nhu yếu duy nhất là ăn. Không còn biết chi tới “ở đời” có chiều kích vô biên rộng như vũ trụ, khiến con người có thể tham dự cùng trời đất. Đó là chỗ giải nghĩa những cuộc hội hè đình đám mà ta cần tìm hiểu thêm.

 

3. Tết là gì?

Muốn hiểu được tầm quan trọng của tết cần nhớ lại với Việt nho thì siêu hình là thời gian và tình cảm. Cả hai đều vô hình nhưng lại có thực, một đàng là chất liệu làm nên con người, một đàng thì tràn ngập toàn thể con người dưới tên bao quát là tình, tâm tình. Đó là hai then chốt của con người, con người cần phải “tuỳ thời”. “Tuỳ thời chi nghĩa đại hĩ tai”, vì tuỳ thời cũng chính là sống theo tình, tức là đạo. Đó là những việc không thể bỏ dũ một giây. Nhưng có những lúc cần trọng thể hóa: đó là những thời điểm khởi đầu mùa, đầu năm, nho gọi là tiết, ta đọc là tết. Đó là ngành chữ thời.

Còn ngành tình thì ta thấy Nữ thần mộc săn sóc cho mối tình nảy nở qua thể chế gia đình: rồi nhiều gia đình làm nên làng xã. Hàng ngày sống tình gia đình, nhưng lâu vào những khởi điểm cũng cần sống theo chiều kích của mình. Sống đầy đủ nhất từ ăn uống, chơi đùa, ca hát, tế tự. Đấy là lý do thâm sâu của các cuộc hội hè đình đám kéo dài: đó là sự tác động của một nền siêu hình trung thực hơn hết, đáng được coi là khôn sáng thông giỏi hơn cả. Vua Hùng Vương chỉ truyền ngôi cho công tử Lang Liêu vì đã biết trình bày việc ăn uống hàng ngày tết như hình trời đất, và dân chúng đã thấu hiểu triết lý đó nên kêu vua là Tiết Liệu: tiếng này vừa có nghĩa món ăn ngày tết, mà cũng hàm ý biết lo liệu đúng tiết điệu của đất, trời, người.

Như thế thì tết hay hội hè đình đám chính là những phút linh thiêng mà con người dùng để sống hòa điệu với nhịp vũ trụ của hóa công được quan niệm như trẻ thơ ca múa “hóa nhi đa hí lộng”, để cho đúng câu “thiên nhân tương dữ” trời người cùng tham dự. Vì thế tết cũng kêu là tiết. Và mỗi tết trở nên cơ hội cho con người sống đời sống của Đại Ngã Tâm Linh, sống hòa mình vào nhịp vũ trụ, để con người sống những giây phút an hành vượt hẳn ra ngoài vòng danh lợi của hai đợt cưỡng hành và lợi hành. Vì chỉ ở đợt an hành con người mới dễ sống thanh thản trong bầu không khí bao la của trời cùng đất.

Đấy là lý do sâu thẳm tại sao tết với những hội hè kèmtheo được coi là thiết yếu cho con người để phát triển những khả thể vô biên của mình, là cái giúp con người khỏi thiên lệch sang trời hay đất, tức làm nô lệ cho những cái ngoài mình như tiền tài, quyền quý. Đất biểu thị những gì bé nhỏ chỉ bằng bốn phương, như những nhu cầu ăn uống, đó là lợi hành, hiện ra hình thể và có tính cách như thúc bách, nó trói buộc con người vào vật thể, nên nếu không có những lúc dành riêng để tâm hồn thoát lên thì rồi sẽ bị trói chặt mãi vào đất để cho hạ tầng kinh tế chỉ huy trọn vẹn; kết cục là con ngừơi bị biến thành những dụng cụ sản xuất, những máy tự động vô hồn, không còn nghĩ được tới thượng tầng, đành trở nên những con người què quặt- vì đành mất toàn vẹn tính của mình gồm không những hạ tầng như phải ăn, uống mà còn cả thượng tầng tâm linh, thượng tầng văn hóa.

Vì thế thượng tầng cũng phải tác hành, nhưng đi lối khác hạ tầng kinh tế vì nó là trời tròn đầy viên mãn có thiếu chi đâu mà phải lợi hành, nên có thể an hành tức là hành bằng tiết nhịp: làm không phải để được cái chi mà để phát triển chiều kích vô biên của con người. Triết lý chơi nằm ở chỗ đó, ở chỗ hành không phải để được cái chi cả. Đúng hơn là không nhằm những cái nhỏ bé có thể trở thành mục tiêu, nhưng nhằm thoả mãn chiều kích vô biên của con người, như để con người được tập dượt, vượt lên cõi bao la bên ngoài lơi lốc để phát triển sự toàn vẹn của mình.

Sự toàn vẹn bao gồm cả đức trời cả đức đất. Về phương diện đức đất con người phải lao động sản xuất, phải làm mà ăn. Tục ngữ quen nói “tay có làm thì hàm mới nhai”. Nhưng con người không chỉ có hàm mà còn nhiều cái khác, mà bao la hơn cả là Tâm, là Tình. Tình, tâm phải lớn bằng vũ trụ để trở nên vũ trụ chi tâm. Nói kiểu khác là đức của trời, và tới đây thì phải biết ăn chơi.

Chơi cũng gọi là ăn sao? Thưa rằng tại sao không. Nếu ăn là để nuôi dưỡng xác thân, thì chơi là để nuôi dưỡng cái chiều kích vô biên của con người nghĩa là đức tính không thể đo lường bằng ích dụng, thí dụ những mối tình cao thượng về yêu thương hòa bình quảng đại, những khát mong hướng về chân, thiện, mỹ toàn những đức tính vô hình, nên thường bị coi như vô ích nhưng khi nhìn con người toàn diện thì lại thấy cần biết mấy. Vì thế mà trên đời chưa có cái hữu ích nào đắt bằng những cái “vô ích”: một bức họa thời danh nhỏ có thể trả cả triệu dollars vẫn chưa mua được là vì thế, đúng ra vì nó vô giá. Vô giá vừa có nghĩa là “vô ích” vừa có nghĩa là có giá vô ngần. Đó là bằng chứng bất ngờ nói lên sự cao trọng của những cái vô ích. Vì hữu ích là hạn cục vào một mục tiêu; cây viết có ích để viết thì không có ích vào việc chỉ giờ. Đồng hồ có ích cho việc chỉ giờ thì vô ích cho việc xê dịch… nên mọi sự hữu ích là một hạn cục, không còn mở lối vào cõi vô biên cho nên chơi cần thiết để khỏi biến con người thành một dụng cụ có ích. Cần làm sao cho con người mãi mãi là một thực thể “vô ích” để có khả năng thông đạt với cõi vô biên đã vượt xa khỏi bình diện có ích với không có ích. Triết lý chơi nằm trong đó, nên chơi tuy vô ích mà lại rất phổ biến, ai cũng ham chơi, mà lý tưởng là phải chơi.

Tuy nhiên đặt ra được một triết lý chơi thì thật họa hiếm, no đòi phải có hai điều: một là phải có triết lý chữ thời biết coi trọng tiết nhịp. Hai là cảnh phong nhiêu phồn thịnh. Trước hết hãy nói về chữ thời mà cụ thể là tiết nhịp. Chơi mà thực đúng tiết thì phải được tổ chức vào những ngày đầu tiết nhịp y như hát múa đều cần có nhịp nên ít ra phải theo được cung đầu và cuối của câu nhạc. Ở những cung giữa có sao nhãng hoặc bớt hay thêm một vài nốt nhạc cũng được, nhưng khi đến đầu nhịp thì mọi tay chơi phải hòa vào để đạt hòa âm. Vì thế mà thời xưa có niềm tin rằng ca vũ là phương tiện để thông giao với quỷ thần.

Đó chẳng qua là niềm tin của thời ma thuật, còn chính ra là để thông giao cùng tiết nhịp trời đất. Đó là ý nghĩa tết. Vì thế Việt nho là miền có lệ ăn tất dài nhất, thì cũng có thể coi là đạo đức nhất, tiến xa nhất trên thang tiến hóa. Đó là điểm một. Điểm hai cũng cần lưu ý đó là có nhiều tết nhất bởi chưng tết là lễ, tức là lúc để dành thời giờ cho việc thích nghi với tiết nhịp = hai chữ nghi lễ là do đấy. Do quan niệm lưỡng thê: một tác hành sản xuất cho thân xác, một an nghỉ cho tâm hồn. Lưỡng nghi là phải thích nghi cả với dưới lẫn với trên mới là triết theo nghĩa đầy đủ. Trong khi lao tác có thể lạc nhịp nên cần phải có tết để cho hợp tiết. Vì thế hai tết to nhất nhằm vào hai mùa Xuân Thu tức hai mùa của con người (trục phân hàng ngang). Còn hai tết thuộc trục chí là hàn thực và lễ lửa thì coi là tuỳ thuộc theo quan niệm nhân chủ đặt nặng trục ngang (xem triết lý cái đình). Thế là xong cái vụ tháng giêng ăn tết ở nhà. Còn tháng hai thì sao? Chữ hai chỉ đất chỉ tiền tài, nên đưa đạo chơi vào cho thấy đừng quá bám vào tiền tài là cái dễ chạy dễ thay chủ. Tuy nhiên vì cờ bạc dễ sa đọa nên xin đổi ra tập nhạc, hoặc học dịch chi đó!

 

4. Tháng ba hội hè

Tháng ba ai cũng hiểu là tháng thứ ba sau tháng một và hai mà kỳ thực còn hàm ý vài ba, tức là nền minh triết thâm sâu chỉ con người đại ngã tâm linh gồm ba trời hai đất. “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” mà ngọn của tâm là tình. Mà tình mẹ là mối tình bao la nhất trong cõi người ta nên chỉ bằng nguyên lý mẹ, biểu thị bằng các Nghi Mẫu, câu tháng tám giỗ cha tháng ba giỗ mẹ nên được chở theo ý phổ biến này. Như vậy nói tháng ba hội hè là một cách buộc chơi vào với minh triết. Triết lý của chơi nhằm đáp ứng vào hai nhu yếu thâm sâu của con người; một là tiết nhịp như đã bàn trên.

Hai là thỏa thích mọi nhu yếu toàn vẹn là điều cần thiết cho sự triển nở của con người mà sự phát triển các mối tình cao thượng là quan trọng nhất như đã nói trên. Đây là ý nghĩa cao cả, còn hiểu thấp xuống thì là nắp mở an toàn để con người có dịp xổ bớt ga ra do những điểu không thể thoả mãn, cũng như những điều uất ức, trái tai gai mắt, mà không một ai trong đời tránh hết được. Nếu không có dịp cho xổ ra thì những điều đó sẽ lắng xuống tiềm thức, rồi lên men gây nên những bệnh thần kinh đều phát xuất do những mảnh đời sống không được sống, như những uất ức không nói ra, những yêu thương không được giải bày, những khát vọng không được đáp ứng…

Không may đó là điều xảy ra thường xuyên từ hạ tầng đến thượng tầng. Ở hạ tầng cần phải ăn mới sống, thế mà biết bao nhiêu người không đựơc no thỏa là vì thực phẩm cho đến nay nói chung vẫn chưa bao giờ dư dật, nên xảy ra chuyện mạnh lấn yếu; do đó nhiều người bị tước đoạt đến cả miếng ăn. Nhất là khi kẻ mạnh nắm được quyền hành thì thường đặt ra những pháp luật khe khắt để bảo vệ tài sản cũng như quyền hành, do đó sinh ra rất nhiều hạn chế trói buộc không những bên ngoài mà còn nắm lấy bao tử để chen cả vào đời sống tư riêng, kiểm soát cả ý, cả tình, cả chí. Thế là càng nhiều người bị tước đoạt hơn, khi đó nó không những gây nên các loại bệnh thần kinh gieo xao xuyến vào đời tư nhân, mà còn biến thể thành những bệnh khổ dâm, khốn dâm, ưa thích phá hoại gây đau thương cho tha nhân càng khốc thảm càng sướng vì đấy là những tên khốn dâm do bao đời bị đàn áp kết tinh lại, mà không được những cuộc hội hè đình đám xả bớt chất độc đi. Đấy là lý do sâu xa tại sao minh triết lập ra những cuộc lễ lạy hội hè: một trong những mục tiêu thấp nhất là tháo khoán tức cho phép vượt thể lệ thường nhật cả trong việc ăn uống cũng như dục tính. Cho nên bản chất lễ là sự quá cỡ thường với mục tiêu mở nắp an toàn cho các uất ức buồn chán có dịp tiêu tán để bớt đi sức nén. Còn hiểu cao hơn thì hội hè chính là để con người được tham dự vào thời tính cũng gọi là đại thời đại không, tức như vượt mọi ranh giới của luật lệ, giai cấp để ai cũng được ăn uống, nói năng, múa nhảy thỏa thích hầu cho những mối tình khát mong sung túc, dư dật, san sẻ bầu bạn có thêm nội dung cụ thể trung thực. Vì thế hội hè vẫn kéo theo đình đám.

Đình đám nói lên cảnh phong nhiên dư dật. Đó lẽ ra phải là cảnh sống của con người. Không may con người chưa sao tạo được cảnh phong nhiêu thừa thãi đó, thì ít ra lâu lâu phải có những dịp khác thường nới rộng sự ràng buộc hàng ngày để mọi người cũng được tự do hơn. Đó là ý nghĩa của lễ lạy, hội hè, đình đám nó đã xuất hiện trên khắp hoàn cầu ở những thời xa xưa như thí dụ lễ Saturnales được mừng vào cuối năm trong xã hội cổ La Mã. Trong những ngày ấy chủ đi giúp bàn, còn ngồi ăn lại là nô lệ. Hơn nữa một nô còn được chọn làm “vua” trong tuần lễ có quyền sai khiến chủ. Bên Hy Lạp cũng có lễ Hellades, ở đảo Crete gọi là Kronos, Do Thái là Purim, Babylon là Sacees… Tất cả đều nhằm đáp ứng nhu yếu thâm sâu khia và thường được tổ chức vào cuối năm trong những ngày thừa không kể vào tháng nào, nên thuận lợi dùng làm những ngày “tháo khoán”. Đấy là ý nghĩa thâm sâu của lễ lạy, hội hè, đình đám. Tuy nhiên càng về sau thì các lễ càng bị rút nhỏ lại hoặc sa đọa như thí dụ trên: nô lệ được chọn làm vua xong hết tuần lễ thì bị giết.

 

5. Triết lý hội hè

Sở dĩ như vậy vì hội hè kéo theo một điều rất khó hiện thực đó là sự phong nhiêu hiểu cả về dưới lẫn trên.

Dưới là sự dư dật tràn trề của ăn cho mọi người. Trên là sự thỏa mãn cho mọi nhu yếu cả ý, tình, chí. Cả hai điều đó đều đòi phải có triết lý nhân sinh. Trước là để thiết lập và duy trì bình sản, để ai ai cũng có đủ tài sản.

Sau là nhìn nhận những thú vui, thỏa thích là điều tốt cho sự phát triển con người toàn diện, mà tình cảm cao thượng, vui sướng quảng đại, bao dung, hỉ xả… là những mạch sống lớn nhất.

Vậy hai điều đó đã không có trong những xã hội theo triết học cơ khí. Mặt ngoài là do sự tuyên dương quyền tư hữu đến độ tuyệt đối đã bóp chết cảnh phong nhiêu không bao giờ lan tỏa ra mọi người, cho nên xã hội dù giàu đến mấy thì tiền cũng chui vào một số rất nhỏ, hoặc vào tay chính quyền chuyên chế thì hầu hết dùng vào việc mở mang quyền lực võ trang chinh phục. Còn đâu nữa cho đại chúng có được cảnh sung túc để mà hội hè đình đám. Mặt trong là thái độ thanh giáo khắc nghị không chấp nhận những vui thỏa bị gọi là của “xác thân” nên cho là xấu xa. Với thứ triết lý đó làm sao mà hội hè còn lý do tồn tại cho được.

Đến đây ta mới hiểu tại sao miền đất Việt nho đã duy trì được nhiều lễ hội hơn hết cũng như lâu dài hơn hết, là bởi đó là quê hương của bình sản, cũng như triết lý tâm tình được đề cao hết cỡ. Tình trời, tình đất, tình người đều được vun tưới bằng đủ loại nghệ thuật.

Nếu có bao giờ thế giới để ý đến rằng sau phần tư thế kỷ chiến tranh rắc đầy đau thương thế mà cái tết dài nhất thế giới vào năm 1975 vẫn xuất hiện ở miền Nam Việt Nam! Chứ không có ở đâu hết.

Thế giới càng lạ hơn nữa sau khi biết Tàu, Nhật cũng đã chính thức bãi bỏ tết từ lâu, thế mà tới tận năm 1975 nghĩa là vài tháng trước khi sụp đổ Nam Việt Nam vẫn còn ăn tết to nếu không cả tháng giêng thì cũng phải đến vài ba tuần sửa soạn và một tuần ăn tết. Có điều lần này phải đổi cung cách:

Tháng giêng ăn tết ở nhà,

Tháng năm sang Mỹ,

Tháng ba luận bàn (bài này được kết vào tháng ba).

Nhiều người nói dân Việt Nam nặng tinh thần nhẹ vật chất. Đó là câu nói trúng, và nếu cần đưa chứng tích thì tết chính là một bằng chứng cụ thể nhất. Mỹ cũng phải chào thua cái tết của Việt Nam; nó uy linh đồ sộ lắm lắm. Vì thế tết còn là lý chứng hùng hồn cho tâm linh sử quan tức không phải chỉ có hạ tầng mới chỉ huy nổi thượng tầng. Vì nếu chỉ có thế thì Việt Nam đã phải bãi bỏ tết từ lâu lắm rồi. Bởi chưng là miền nghèo hay bị loạn lạc.

Thế tại sao ở đây lại còn giữ được tết lâu nhất, thì đó là dấu thượng tầng văn hóa chỉ huy hạ tầng. Và đã như vậy từ lâu lắm như thấy diễn tả trên mặt trống đồng. Trong ấy con người múa nhảy thanh thoát như chim. Muôn vật cũng hòa hợp trong bài ca vũ trụ. Nói vũ trụ vì gồm trời đại diện cho mặt trời, và đất biểu thị bằng những vòng vũ tả nhậm. Tất cả xuất hiện thanh thản an nhiên y như chim. Chim đủ loại: Lạc, Hạc, Vũ, Hồng, Địch. Cái chi cũng chim cả đến thuyền cũng cong lên như chim. Chày giã gạo cũng được trang bị lông chim để nói lên một cảnh tiêu dao siêu thoát khiến người xem vào cũng muốn bay bổng lên cùng. Sao mà an nhiên tự tại như cảnh địa đường vậy chứ! Có phải tại Việt Nam giàu nhất chăng? Đâu có, nghèo hơn Mỹ ít nhất 50 lần. Vậy mà tại sao Mỹ không có nổi được một cái tết dài. Tại sao bên các xã hội giàu mạnh hơn, tết lại teo đi theo độ giàu thịnh.

Đây là câu hỏi rất đáng cho chúng ta suy nghĩ bởi vì hậu quả sẽ là tìm ra bí quyết sống thanh thoát như chim; làm ít ca hát nhiều, bay nhảy suốt đời. Còn ngược lại sẽ sống như đoàn kiến lật quật cả ngày, khuân vác liên tục không có lấy một chút thì giờ ngửa mặt lên kiểu nông nghiệp của tổ tiên ta:

Người ta đi cấy lấy công,

Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.

Trông trời trông nước trông mây.

Không chỉ biết có lợi bằng lấy công mà còn an hành biểu thị bằng trông trời trông nước! Có vậy lòng mới mở ra man mác như vũ trụ. Có vậy mới đủ sức kiến tạo được một triết lý an hành với một nhịp làm rồi một nhịp chơi xen kẽ, và duy trì được như thế trải qua muôn thế hệ. Đâu là bí quyết của sự vụ? Đã biết điều kiện vật chất của tết nhất hội hè là sự dư dật thừa thãi. Tại sao Việt Nam không có thừa của mà còn giữ được tết nhất lâu dài như vậy? Câu thưa tiên thiên nằm trong thành ngữ “vài ba” mà ý nghĩa là đặt tinh thần trên vật chất. Nếu ta mở sách năm châu kim cổ thì chẳng thiếu những câu nói như thế (tinh thần hơn vật chất) chứ chẳng riêng gì Việt Nam, nhưng có một điều lạ là tuy lời nói đặt tinh thần trên vật chất, mà trong cơ chế thì rõ rệt là để hạ tầng cơ sở chỉ huy thượng tầng. Cho nên lại phải tìm tòi hơn nữa.

Lúc ấy chúng ta sẽ thấy một sự khác biệt biểu lộ bằng chữ trống: tâm hồn có trống rỗng thì chiều kích vô biên mới được nuôi dưỡng, và đó là phương thức đáp ứng một nhu yếu thâm sâu của con người đó là sự đói khát vô biên. Phải nói ngay đây chính là nền tảng làm cho con người cao cả hơn con vật. Con vật chỉ ăn những vật hữu hạn. Con người không thế, ngoài của ăn hữu hạn còn cần của ăn vô hạn, chứng tỏ nó có một chiều kích vô biên cần được nuôi dưỡng. Chính chiều kích đó làm cho con người khác thú vật, ở chỗ muốn vựơt xa khỏi hữu hình mà bao lâu chưa vượt đựơc thì con người vẫn chưa mãn nguyện, vì thế cứ phải tìm thêm hoài, tích luỹ thêm mãi và đó là lý do của sự đói vô biên nhưng đã đọa ra lòng tham vô đáy. Làm thế nào để thỏa mãn lòng tham vô đáy nọ. Thưa như đã nói chỉ có con đường duy nhất là trống rỗng, là vô thanh vô xú… Nhưng cho tới nay con người đều đi lối bít kín, đi lối chắc nịch, đi lối có, mà đã có thì đối tượng phải ở bên ngoài con người mất rồi và vì vậy không còn là vô biên, không thể làm no lòng khát vô biên của con người. Thế là đói bên trong, đói vô biên, mà lại tìm chất nuôi bên ngoài, chất nuôi hữu hạn, khác nhau chỗ đó. Chính vì vậy mà không bao giờ đạt được đức quả dục mà khẩu hiệu của nó là câu nói trong Đạo Đức kinh:

Tri túc tiện thị túc,

Tri nhàn tiện thị nhàn. 

Biết đủ tức thì có đủ,

Biến nhàn tức thì có nhàn.

Có biết đủ thì mới bỏ thời giờ ra mà ăn tết, mà hội hè, mà hưởng nhàn. Có biết đủ thì những người giàu mới sẵn sàng bỏ tiền ra tổ chức đình đám cho mọi người cùng hưởng. Đó là về tư nhân.

Về phía chính quyền có tri túc thì mới có đủ can đảm hiện thực chế độ quân phân tài sản, để đáp ứng nhu yếu đầu tiên của mọi người là ăn. Tết nhất hội hè chỉ có chỗ đứng nơi nào con nguời có đủ ăn, dư ăn. Bí quyết của Việt Nam nằm chỗ đó. Tuy ít nhưng có theo chính sách chia đều. Tuy trong thực tế còn rất xa lý tưởng, nhưng dù vậy đã có được nền tảng cho sự dư dật đồng đều tức cũng là có nền cho hội hè đình đám. Vậy nên sự có hội hè đình đám chứng tỏ triết lý Việt nho đã đi đúng hướng tâm linh, nên làm no thỏa được “nhân đức vô nhai” rồi. Con đường ấy tóm vào “ba hồi trống” bao giờ cũng được đánh lên để khai mạc mỗi cuộc hội hè đình đám.

Tóm lại, muốn có hội hè đình đám thì phải có quân phân, muốn có quân phân thì phải có triết lý an vi. Con người không những có cưỡng hành, lợi hành, mà còn cần an hành. Mà muốn như vậy thì phải biết cách lấp được lòng tham vô đáy. Nhưng cho tới nay người ta không lấp được: tư bản hay cộng sản cũng thế. Cả hai đi theo nguyên lý đồng nhất nên dùng A lấp A. Tham của thì dùng của mà lấp. Nhưng của nó có hạn mà lòng tham vô đáy lấp sao nổi. Thế là từ đấy mọi người trong nước đều phải làm hùng hục để tích luỹ, không còn thì giờ để nghỉ ngơi, hay nếu có nghỉ thì chỉ là để lấy sức đặng lao động tốt nữa, chứ làm sao có được những chiều kích siêu việt của tết nhất hội hè. Làm sao có được như thế với cái triết lý lao động hiện đại nặc mùi xú khí của lao ngục, lao tù, lao đao, lao khổ, lao phổi, lao tim!

Với bi trạng lao tác kiểu đó thì đời con người với kiếp trâu ngựa có còn khác chi, thua hẳn loài chi, cả đời bay nhảy múa hát. Ngược lại, nhờ có triết lý an vi đã xuất hiện ra với muôn tiếng chim hát đón chào mà tiên tổ Việt tộc đã có thể sống an nhiên thanh thoát như được ghi lại trên mặt trống đồng Ngọc Lữ ca vũ ngút ngàn.


2.2 - LÀNG XÃ XÉT NHƯ HIỆN THÂN CỦA BỌC ÂU CƠ

1. Làng xã là hình ảnh thu gọn sống động hơn hết của nền văn hóa Việt Nam.

Sau nhiều năm lặn lội trong làng triết học và văn minh xã hội học, chúng tôi nhận ra câu tiêu đề trên là một chân lý rất quan trọng cho người Việt. Vì thế hôm nay xin mời quý vị cùng chúng tôi luận bàn về làng xã.

Nhiều học giả Tây Au nhận xét rằng đó là cái gì kỳ diệu: “Le village Vietnamien est une chose merveilleuse” (P.Mus) vì trong đó người ta sống hoàn toàn bình đẳng cũng như là một tổ chức cai trị kỳ diệu. Un organe qui est un merveilleux outil de gouvernement. Trên đây chỉ là một vài mẫu, còn có thể kể thêm nhiều chứng từ khác. Tôi nhớ lại cảm tưởng bỡ ngỡ xưa khi đọc những lời như vậy: tôi hỏi có nền tảng nào để Tây Au khen tặng như thế hoặc những lời khen nọ có ngụ ý đồ nào đó chứ thực sự có được như vậy chăng.

Có lẽ phần lớn người Việt cũng có cảm nghĩ như tôi ít ra trước đây vài chục năm khi còn đọc những sách của Tự Lực Văn Đoàn chế diễu những hủ tục trong làng xóm, hay cả những tác giả loại Phan Kế Bính hễ mở miệng nói đến phong tục Việt Nam thì phải chê cho bằng được mới nghe. Nguyễn Văn Vĩnh cho cái cười người Việt Nam là nham hiểu xâu xa, vì nhìn bằng cặp mắt của quan cai trị nhà nước bảo hộ đầy nghi kỵ và luôn luôn muốn hạ giá dân bị trị. Trong vấn đề này ai phại? Paul Mus, Tự Lực Văn Đoàn, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh?… Câu hỏi đó thúc đẩy chúng tôi cất bứơc đi tìm và sau ít lâu tôi nhận ra rằng sở dĩ có hai loại phán quyết khác nhau không phải vì ý đồ nào hết, ít ra là trong những người được trưng ở trên, nhưng họ nói quá khác nhau chỉ vì quan điểm đối tương khác nhau. Ngoại nhân thì đã trải qua thờisùng bái khoa học rồi, còn người mình thì chưa. Vì thế ngoại nhân nhìn phong tục mình dưới khía cạnh nhân bản với cặp mắt lạ lẫm, còn người mình thì nhìn với cặp mắt quen thuộc, chiếu trên những cái làm bực mình như những hủ tục, những đàn áp bất công đầy trong thôn xóm làm cho nước chậm tiến hơn Tây vô vàn. Đó là điều quá hiển nhiên nên cần nói lên, viết ra để tìm cách cải tổ. Vậy có chê cũng vì thiện chí, chứ không có ẩn ý nào cả.

Nhưng đến nay chúng ta đã thụt lùi xa hơn về thời gian và đã biết rõ hơn về Tây Au cũng như đã được xem hậu quả của hai nền văn hóa về nhiều mặt thì có thể cho quan điểm của các ông Bính, Vĩnh, Tự Lực Văn Đoàn là có hại. Đành rằng làng xã Viễt Nam có nhiều hủ tục, tham nhũng cần cải tổ, nhưng phải phân ra đâu là cơ cấu móng nền, đâu là những tệ lậu do sự điều hành kém. Nếu không thì giống như người ném ba con chuột chạy quanh những bình sứ quý; chuột có thể chết nhưng bình cũng vỡ luôn. Muốn xem cơ cấu có đáng bảo tồn chăng chúng ta cần dùng phuơng pháp tỉ giáo là so sánh làng Tàu, Tây với làng ta. So trong cơ cấu cũng như nguồn gốc và bầu khí. Lối nghiên cứu đó vừa hứng thú, đồng thời vừa giúp ta biết rõ đâu là giá trị để duy trì, đâu là hủ tục để trừ khử.

 

2. Nguồn gốc

Nhiều sách nghiên cứu về Việt Nam cho rằng làng Việt Nam cóp nhặt của Tàu, vì thoạt xem qua thì thấy rất nhiều điểm giống nhau, nhưng so sánh kỹ rồi mới thấy ý kiến đó cần thải bỏ, vì những điểm giống nhau kia cùng lắm chỉ nói lên họ hàng văn hóa giữ ta và Tàu, chứ không thể quyết định rằng làng Việt do làng Tàu. Trái lại khi xem đến một số nét dị biệt thì phải nhận rằng làng Việt đã có lâu trước khi tiếp xúc với Tàu và vẫn lẩn tránh văn minh Trung Quốc, mà nơi lẩn tránh đó chính là cái làng. Vậy làng Việt là một thực thể độc lập đã từ lâu đời mà nét đặc trưng của nó là tự trị. Ta có thể quả quyết như vậy theo hai nẻo quan sát. Nẻo trước liên hệ đến những nét dị biệt với làng Tàu. Nẻo thứ hai là quan sát tình trạng làng Việt từ thời độc lập, cũng như khi gặp nền văn hóa thực dân.

Vậy trước hết làng Tàu khác với làng ta trong những điểm sau đây:

- Thứ nhất là làng Tàu mới xuất hiện sau làng ta. Khi chính quyền trung ương không thể làm khác; ngược lại với làng Việt là hậu thân của Hồng Bàng Thị, nghĩa là có ngay từ trong nôi của nước Việt lúc đang hình thành (tr. 254), điểm này hiện đã được minh chứng do khảo cổ đã khai quật được hàng trăm làng cổ xưa có trước khi tiếp xúc với Tàu.

- Bên Tàu làng nào cũng thờ Hậu Tắc, còn làng Việt thì thờ Thổ thần hay Thần làng (tr.256).

- Hội tổ chức ở chủa chứ không ở đình như ở bên Việt (tr.260).

- Tư tế là ban bảo thành mà không là hội đồng kỳ mục như bên ta (tr.264).

- Thờ 6 thần. Con số này xuất hiện với du mục Tây Bắc (Danses 7, 10).

Trên đây là vài điểm trích từ một tài liệu đã cũ (theo quyển Peuple Chinois của Fayenel), được ghi ra đây để làm khởi điểm cho một cuộc nghiên cứu sâu rộng sau này, nó sẽ rất phiền tạp vì trải ra nhiều nơi và nhiều thời nên vừa rộng vừa lâu. Nhiều người từ Ba Thục đến cư ngụ nơi khác đã nhiều thế hệ mà vẫn coi mình như cư ngụ tạm, còn lòng vẫn hướng về Ba Thục…

Như thế ta biết rằng bên Tàu có nhiều địa phương với nhiều luật lệ khác nhau qua nhiều triều đại dị biệt không thể nói chung mà đúng cho tất cả. Chỉ biết rằng có một số điểm khác nhau như khi Mã Viện thắng Hai Bà Trưng rồi nhận thấy làng ta khác làng Tàu đến 10 điểm và sửa đổi bắt theo Tàu. Nhưng dân chúng vẫn chỉ tuân theo bề ngoài cho êm chuyện, còn bên trong thì vẫn “phép vua thua lệ làng”, dù cuộc đô hộ có kéo dài cả ngàn năm cũng thế.

Bây giờ quan sát sự trưởng thành của nền tự trị xã thôn trong thời độc lập Đinh, Lê, Lý, Trần. Quãng này sự tranh đấu di chuyển từ nhà nước Tàu sang nhà nước Việt. Vì tuy nước đã độc lập nhưng vương triều vẫn còn cố bám víu vào những lề lối chuyên chế do Tàu để lại nên chỉ chịu trả cho dân nền tự trị xã thôn theo đã thời gian. Ban đầu tức lối đời Tiền Lê, triều đình vẫn cử xã quan để cai trị, có lập sổ đinh để kiểm tra dân số và sổ điền để phân loại các hạng điền thổ. Điều này được tiếp tục dưới đời Trần, nhưng thay vì xã quan thì đặt đại tư xã cho làng lớn và tiểu tư xã cho làng nhỏ. Hội đồng kỳ mục chỉ giữ vai tư vấn. Như thế là nhà vua vẫn lấn thêm vào nền tự trị xã thôn và tất nhiên bị chống đối nên đến đời Trần Thuận Tôn (1388-1397) đã phải bỏ xã quan.

Khi nhà Minh đô hộ nước ta thì tìm cách thay hẳn bằng cơ cấu làng xã bên Tàu: bắt mọi gia đình phải có một sổ gia đình gọi là hộ thiếp, chia dân chúng thành từng lý, mỗi lý là một trăm mười gia đình. Người đứng đầu gọi là lý trưởng được cử lại hàng năm.

Đời Lê lập lại chức xã quan, và chia dân chúng theo đinh mà không theo hộ, như thế là con chuyên chế tuy có nới tay hơn nhà Minh. Vì vậy dân vẫn chưa lấy lại được nền tự trị xã thôn. Mãi cho đến đời vua Lê Thần Tôn và Lê Ý Tôn (1732-1740) thì dân chúng mới được bầu lấy xã trưởng cho mình: và đấy là điều then chốt cho nền tự trị xã thôn. Từ đấy nền tự trị này đã được duy trì suốt qua triều Nguyễn “quan của triều đình bổ ra chỉ đến phủ huyện còn từ tổng trở xuống thuộc quyền tự trị của dân. Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi việc trong hạt”. (Sử Ký T.T.Kim 481)

Đó là quá trình tranh thủ để duy trì nền tự trị xã thôn, nó lớn lên theo sự loại bỏ dần ảnh hưởng Tàu và vươn lên cùng với nhịp độc lập quốc gia. Chính trong tình trạng đó mà xã thôn ta phải đương đầu với Tây phương. Không thể nào họ không sửa đổi theo mẫu làng Pháp. Muốn thấu đáo chúng ta nên xem qua nguồn gốc làng Tây. Có vậy mới thấy những điều lên án triết Tây có đủ nền tảng không những tiên thiên lý thuyết mà cả hậu thiên thực hiện.

 

3. Làng Tây

Làng Tây mới có vào lối thế kỷ 10 trở đi, còn trước đó xã hội Au Tây Trung cổ đặt nền tảng trên liên hệ chủ nô trước rồi lãnh chúa nông nô sau, nhưng tự trung vẫn là chủ nô, tức một bên làm chủ trọn vẹn và chủ gồm suýt soát ¼ dân số. Đó là những người thong dong gồm quý tộc, giáo sĩ, quân nhân, chuyên nghiệp, những người làm nghề tự do như thương gia, công nghệ và những chủ điền không vướng dịch vụ như lãnh chúa. Số điền chủ này không nhiều lắm, bên Anh thế kỷ XI là 4%, bên Đức, Pháp, Ý lối gần ¼ dân. Như thế có thể nói không xa sự thực mấy là bên chủ chỉ gồm ¼, còn lại bao nhiêu là nô. Đã biết rằng nô lệ không được kể là người mà chỉ là đồ vật vì người ta có thể mua đi bán lại, muốn giết cũng được. Đây là một định chế tuy cực kỳ bất công nhưng lại quá quen thuộc nên không mấy ai cho là chướng, đến nỗi nhiều dòng tu cũng có từng vạn nô lệ. Thành Venise buôn nô lệ để lấy tiền xây cất đền thờ (Civ XI 141). Vì thế không hề có nền triết học hay đức lý nào thực sự tìm các giải phóng nô lệ. Số phận nô có giảm bớt dần nhưng là do những tiến bộ về kinh tế và công nghệ mà thôi. Nhờ kinh tế mà nô lệ dần dần trở thành nông nô. So với nô lệ thì tình thế đã cải thiện nhiều. Tuy nông nô chưa được làm chủ đất, nhưng đã được lãnh chúa trao cho một lô đất nhất định để gia đình khai thác, chỉ cần nộp cho lãnh chúa tiền tô đất mà một số dịch vụ. Những dịch vụ này rất nặng thí dụ phải làm việc không công cho lãnh chúa một tuần 3 hoặc 5 ngày vào vụ mùa. Cũng có nơi khi nông nô cưới vợ thì phải để cho vợ nằm với chúa đêm đầu (jus primae noctis). Tục này còn giữ tới thể kỷ 18 như ở Bavière. Vì thế tuy tô chỉ là 1/10 nhưng cộng với dịch vụ liên miên thì tới 2/3 năng suất.

Con cái nông nô không được đi học vì phần lớn lãnh chúa mù chữ, nên cho con đi học là muốn tranh hơn với chúa. Hoặc lãnh chúa có biết chữ đi nữa nhưng cho con đi học là giảm mất một người phục dịch chúa, vì thế muốn cho con theo học thì phải nộp một thứ tô riêng (Civ XI 266-273). Nhất là không có quyền bỏ chúa lúc nào tuỳ ý như kiểu tá điền. Vì nông nô đã thuộc trọn về chúa. Xem thế nông nô cũng vẫn còn là nô, lãnh chúa vẫn có gần đủ quyền sinh tử trên nông nô như trước kia chủ với nô.

Để được binh lực chú bảo vệ thì các nông nô phải sống tụ tập chung quanh lâu đài chúa, làm thành một bourg đặt dưới quyền điều khiển của lý trưởng do chúa chỉ định. Dân cũng chọn ra một đại diện riêng là bailli hay prévot để giao thiệp với chúa. Số gia đình một bourg từ năm chục đến năm trăm. Nhưng đông mấy cũng chưa thành một công xã (commune). Đó sẽ là việc của nhóm buốc-gioa (*), một giai cấp mới mọc lên do sự bành trướng của công nghệ và thương mại. Chính giai cấp này mới là chủ của bourg được cải tên là commune tạm dịch là thị xã. Nói tạm vì thiếu yếu tố tinh thần thì không thể là xã cũng không được gọi là công vì bourg chỉ là của riêng một giai cấp chống lại với hai giai cấp trên là quý tộc và giáo sĩ, cũng như không thâu nhận các nông nô làm thành viên. Buốc-gioa tự xưng là công dân = citoyen và tranh đấu cho “thị xã” được thoát quyền của lãnh chúa. Nhờ họ có nhiều tiền nên khi thì mua chuộc, khi thí xui nguyên giục bị cho các chúa chống nhau. Khi khác họ bỏ tiền ra mua hiến chế tự do (charte de liberté). Lối này rất công hiệu vì các chúa nghèo dần theo đà đi lên của công nghệ và do đó các thị xã đông lên mau lẹ theo sự gia nhập của nhiều thôn dân. Số này còn đông thêm nữa nhờ những dịp nghĩa binh: nông nô nào gia nhập đạo quân đi cứu đất thánh thì đương nhiên thoát được kiếp nông nô vì thế số nghĩa binh rất đông đảo làm cho thị xã lớn lên mãi đến độ lấn át được quý tộc, nhờ đấy buốc-gioa trở thành giai cấp nắm được nhiều quyền bính. Đó là phú quyền (ploutocratie) cai trị theo nền tảng đặt trên tài sản với những nét sau đây:

- Nắm độc quyền đánh giặc để chiếm thị trường và nguyên liệu.

- Cấm lao công lập các nghiệp đoàn.

- Cấm đình công.

- Quyết định sổ lương bổng v.v…

- Người nghèo không có quyền nào hết vì quyền đấu phiếu căn cứ trên tài sản kiểu Roma xưa: mỗi người có một hay nhiều phiếu tuỳ có một hay nhiều trăm tiền (nên gọi là scrutin centurique do tiếng cent = trim). Tóm lại thị xã đặt nền trên tài sản hay phú quyền kiểu công thương du mục tức thiểu số làm ăn thịnh đạt bên cạnh, hoặc trên lưng một đại chúng bần hàn.

(*) Chữ này phiên âm vì ta không có thực thể nào như vậy, nên cũng không có tên gọi tương đương.

Nhờ lối phân chia không đồng đều đó mà lần lần buốc-gioa rút tỉa quyền hành từ hai giới quý tộc và giáo sĩ để lập ra đệ tam cấp (tiers état). Đừng tưởng đệ tam cấp bao gồm toàn dân mà lầm bởi người nghèo cũng như nông nô không có quyền bỏ phiếu. Vì thế đó chỉ là một trong ba giai cấp chứ nông nô và dân quê không có tiếng nói, nên không được kể tới. Vì thế cuộc cách mạng Pháp chỉ lợi cho buốc-gioa.

Trên đây là một số nét đại cương (có thể xem thêm Civ XII từ trang 13-85) về nguồn gốc và cơ cấu của thị xã Tây Au, mà chúng ta cần biết sơ qua đại cương như thế để khỏi đem thực thể Tây phương trùm lên thực thể Việt Nam, vì hai bên khác nhau cả một trời một vực. Thị xã Tây đặt rên phú quyền được coi trọng hơn nhân quyền. Nó là của thiểu số công thương với tinh thần “ối ai ơi của nặng hơn người”. Vậy đem tiếng buốc-gioa sang gọi thực thể của ta là bóp méo lịch sử đến triệt cùng. Điều này còn rõ hơn nữa khi ta nghiên cứu lại…

 

4. Giai đoạn khi hai thứ làng gặp gỡ.

Đó là làng Tây và làng ta, một bên xây trên chủ nô còn bên này là nhân chủ. Câu trên nói lên một cách chính xác tinh thần của hai nền văn hóa hiện thực vào hai thứ làng. Làng ta là một thực thể tự trị. Nhiều người Pháp gọi là một thứ tiểu bang và họ đã muốn khai thác khía cạnh đó để giúp vào việc chia để trị, nên ban đầu họ đã để thôn xã ta như cũ, hy vọng rằng vì óc xã thôn quá mạnh nên người Việt thiếu tinh thần quốc gia. Họ không ngờ rằng tuy tự trị nhưng làng lại gắn liền với nước, nên óc quốc gia rất vững mạnh đủ để đánh đuổi những đoàn quân xâm lăng hùng hổ như Mông Cổ, hơn thế nữa còn là những ổ ương mầm cách mạng chống Pháp. Cuối cùng họ nhận ra điều đó nên đã tìm đủ cách để phá vỡ nền tự trị xã thôn. Họ hiểu được tầm quan trọng cũng như sức chống đối sẽ quyết liệt lắm nhất là ngoài Bắc nơi làng xã đã có lâu đời, dân khí cao nên chưa vội động tới. Vì thế họ bắt đầu thử cải tổ trong Nam trước.

Năm 1904 Pháp đưa ra hội đồng tề tuyển lựa trong số điền chủ. Thế là yếu tố tài sản đã xuất hiện như điều kiện thị xã Tây. Thêm vào đó là sự chọn lựa phải có chính quyền (tỉnh) chuẩn y.

Ngoài Bắc thì họ phải chờ mãi tới năm 1921 mới dám thi hành bằng cách thay hội đồng kỳ mục cũ bằng hội đồng tộc biểu mới. Điều kiện tuyển lựa phải hoặc là giàu có và không bị can án hoặc là công chức, và tất nhiên phải đựơc duyệt y do quan chánh sứ người Pháp. Tuy đã khéo che đậy bằng những mục tiêu chính trị là loại trừ quyền lực của những phần tử yêu nước, những nhân sĩ có uy tín… Vì thế đã gặp sức chống đối của dân ta hoặc bằng sự tẩy chay, hoặc bằng sự lan rộng cách mạng. Chính quyền bảo hộ thấy không xong nên năm 1927 cho khôi phục hội đồng kỳ mục bên cạnh hội đồng tộc biểu nhưng điều kiện tuyển lựa là giàu có thì vẫn giữ. Vì thế số người chống đối vẫn gia tăng, mặc dầu đó là lúc người Pháp đã ngầm phát động chiến dịch bôi nhọ làng xã (*); một trong những quyển thành công nhất có lẽ là quyển De la Rizière à la Montagne của Jean Marquet. Trong đó tác giả đả kích những vụ bất công như kỳ hào bắt dân làng giam giữ đánh đập… với biết bao cái hủ lậu khác mà không một người Việt Nam nào không muốn phá bỏ. Chính vì thế có những người, những văn đoàn chạy cờ hiệu cho họ: quay ra chế diễu mọi phong tục cho là hủ tục. Tuy nhiên chiến dịch chỉ gầy ảnh hưởng phần nào trên thị dân còn đại đa số thôn dân vẫn chống đối những cải tổ của thực dân. Vì thế năm 1941 thực dân phải mượn tay nhà vua để cải tổ lại bằng cách bãi bỏ cả hai hội đồng kỳ mục lẫn tộc biểu để sự thâu nhận được rộng rãi hơn. Nhưng đó cũng chỉ là bên ngoài, còn bên trong vẫn là lý trưởng được người Pháp chỉ định nắm then chốt. Vì thế sức chống đối vẫn gia tăng. Không may sự chống đối đó đã được Việt Cộng bao thầu không phải để dành lại độc lập cho xã thôn nhưng để tiếp nối con đường của Pháp mà còn đẩy cho đến cùng cực: nhân viên uỷ  ban hành chánh cấp xã đều do tỉnh lựa chọn trong những người địa phương trung thành với đảng như kiểu thực dân, nhưng còn quyết liệt tới mức phá vỡ không những tự trị xã thôn mà luôn cả gia đình để con cái chuyển tình yêu cha mẹ sang nhà nước: báo cáo mọi cử chỉ ngôn từ mẹ cha cho chính quyền. Thế là xong việc tinh thần văn hóa Tây Au chôn táng văn hóa Việt Nam dưới hình thái hai thứ làng. Ta có thể tóm lại tiến trình đó như sau:

- Ở giai đoạn Bắc thuộc, dân làng Việt vừa phải chống ngoại xâm vừa phải chống chính quyền ngoại xâm.

- Thời độc lập thì phải chống chính quyền bản quốc.

- Thời thực dân vừa phải chống chính quyền ngoại xâm vừa phải chống văn hóa ngoại lai.

- Tới Việt Minh là sự toàn thắng của văn hóa ngoại lai.

(*) Nên nhớ có cả một chủ trương tâm lý bôi đen các dân bị trị chẳng hạn học phái chức năng dựa vào những lý luận của Malinowski coi ngành dân tộc như phương pháp tốt nhất để cai trị các dân thuộc địa.

 

5. Phép vua thua lệ làng

Phép đi với vua, với nước, cũng gọi là pháp, là luật.

Lệ đi với dân với làng cũng gọi là lệ, là phong, là tục.

Nếu vậy phép vua thua lệ làng, cũng chính là toàn quốc thua địa phương. Có thể nào lại như thế được sao? Và nếu có thì phải do một triết lý nào đó? Ta có thể thưa rằng quả có thua. Đó là việc lịch sử, nó diễn ra bằng nhiều cách. Không những trong thời Bắc thuộc mà luôn trong thời độc lập. Thời Bắc thuộc thì không có chi lạ lắm vì nó bao hàm việc chống xâm lăng. Nhưng cả trong thời độc lập với triều đại bản quốc cũng vẫn chống, ít nhất là vừa đủ để bảo toàn tự trị xã thôn. Mới nghe có vẻ lạ nhưng lúc xét lại thì dễ hiểu lý do. Vì vương triều dễ nghiêng theo chiều hướng chuyên chế. Đã thế vì nhà cầm quyền học nhiều nho mà lúc ấy chỉ có mạt nho nên dễ tiêm nhiễm những thói du mục hay ít nữa mặc tự ti mặc cảm nên bắt dân làng phải tuân theo những cái không đúng hồn nước. Thí dụ vua Lê Thánh Tôn lập ra 24 điều hương ước thì có khoản cấm nghề tập hát xướng, dân không chịu theo. Ta biết câu “xướng ca vô loại” do óc ích dụng của Mặc Địch cũng như pháp gia, nó đi ngược với tinh thần Lạc Việt coi việc hát như hơi thở. Vậy cấm hát xướng là phạm vào lệ tục của dân Lạc Việt. Có thể kể vào đây tục hát trống quân vẫn sống trong dân mặc dầu vương triều cấm đoán. Vụ cuối cùng thú vị nhất là cái váy bị vương triều cấm, bắt đàn bà mặc quần như dân nhà Thanh. Dân chúng đã phản lại bằng câu:

Sắc vua mồng tám tháng ba,

Cấm quân không đáy người ta hãi hùng,

Không đi thì chợ không đông,

Đi thì phải lột quần chồng sao đang.

Vậy cứ sự quả thực phép vua có thua lệ làng. Bây giờ chuyển sang bình diện cứ lý (de jure) để xét có nên chăng, và ta sẽ nhận ra rằng không những nên mà còn cần thiết vì lệ và luật tượng trưng cho hai chiều kích của con người. Nếu nói nhân dân thì nhân đại diện cho cái chi linh thiêng, có muốn điều ly phải dùng lễ là cái có chiều kích linh thiêng; còn dân cho xã hội thì phải cai trị bằng luật (hay pháp luật cũng thế). Như thế pháp đi với dân còn lệ đi với nhân. Dân là con người sống trong hàng ngang xã hội có liên hệ với chính quyền mà xưa kia là quân vương nên được quytụ vào việc trung quân đến độ thành câu trung quân ái quốc. Đó là liên hệ vòng ngoài nên đã trở thành phổ quát, trừu tượng, vì phép là phép nước lớn hơn gấp bội, nên không thể kể tới cái tiết riêng biệt, cụ thể. Còn lệ đi với nhân, nên cũng gọi là nhân trị, hay lễ trị. Lễ với lệ cùng một tinh thần đều công nhận chiều kích linh thiêng nơi con người nên chữ lễ trong chữ nho được viết với bộ kỳ chỉ chiều kích linh thiêng đó; còn lệ thì bao gồm những lễ lạy, hội hè, tục lệ bao giờ cũng đề cao phần vô biên nhân chủ của con người. Cái đó nói theo triết là hàng dọc giữa trời với đất, còn thực chất là tự do biểu lộ bằng sự đơn độc, không phải lệ thuộc khiến cho lệ chú ý đến những cái tư riêng, những hoàn cảnh đặc biệt của mỗi cá nhân, vì thế sự cai trị theo lệ tục giàu tính chất nhân bản hơn pháp lý.

Đó là đại để hai nét riêng biệt, cả hai đều cần thiết cho con người nên hễ nó nghiêng về một bên thì có hai. Nếu chỉ biết có lệ tục thì mỗi làng là mỗi nước, quốc gia không thể mạnh được, nên cần đến luật pháp để đem lại cho quốc gia sự đoàn kết cần thiết. Tuy nhiên nếu độc chú có pháp luật thì là không nhìn nhận những gì riêng tư đặc sắc của từng cá nhân, từng nhóm cá nhân, mà chính nó mới là cái làm nên con người gồm cả những gì riêng tư bé nhỏ mà nếu không kể tới thì là vật hóa con người, tức xử với ngươi như những con thú, như sự vật phải trị như trị nước, vì thế trong chữ nho pháp được viết với bộ thuỷ. Nếu cai trị người như trị thuỷ thì là biến đoàn người thành đoàn súc vật. Tần Thuỷ Hoàng đi theo lối đó, nên nhiều học giả cho rằng chữ Thuỷ trong tên ông cũng có nghĩa ngầm là nước. Đời nhà Chu gọi các quan cai trị là mục: “thập nhị mục” thì cũng là đúng với tinh thần du mục: cai trị người theo lối chăn vật không kể đến những riêng tư u uẩn… nên pháp luật là cái gì rõ ràng dứt khoát, không cần tài ba cũng có thể làm được, nó cũng ví như có thước trong tay thì con nít cũng có thể vạch được đường thẳng tắp. Vì thế đó là lối cai trị đầy sức quyến rũ đối với nhà cầm quyền. Vậy sự chống lại được tham vọng của vương quyền trong việc áp đặt pháp luật là cả một nét đặc trưng của Việt nho và nó chỉ thành công nhờ vào những hoàn cảnh đặc biệt, mà sâu xa hơn hết phải kể tới triết lý tả nhậm bênh vực kẻ yếu chống lại kẻ mạnh, bênh dân trước sức mạnh của quân, bênh lệ tục trước pháp luật để cho lệ đi với luật. Điều vinh hiển của Việt nho chính là đã không để cho luật diệt lệ, nhưng lệ với luật song hành, đến nỗi thành tiếng đôi lề luệt y như những cặp đôi khác: nhân dân, vũ trụ, làng nuớc, nhà nước vậy. Ta đọc quen đi nên không ngờ đó là bấy nhiêu chứng tích sự đắc thắng của nền triết lý tả nhậm. Chính nhờ đó mà nền văn hóa nông nghiệp được giữ nét cân đối có mẹ cùng cha, ngoài là lý nhưng trong là tình. Ngoài là phép nước nhưng trong là lệ làng. Và nhờ đó mới hiểu được câu phép vua thua lệ làng không chỉ là một tục ngữ lờ mờ nhắc lại một dĩ vãng đã qua rồi, nhưng chính là bản tóm của một khúc khải hoàn ca của một trận tuyến lâu đời giữa tả nhậm và hữu nhậm, giữa bên tình bên lý, giữa bên dân bên quân.

Và ta sẽ hiểu được tại sao Nho giáo chân chính vốn chống lại pháp gia hay nói đúng hơn chống lại sự lấn áp của pháp gia nhưng vẫn tôn trọng pháp luật, mà cụ thể là vừa tôn vua vừa chống vua. Tôn vua tức là thuợng tôn phép nước, nhưng chống vua là chống lại sự vô đạo của vua, mà vô đạo là lấy quyền lực để diệt lệ làng. Như vậy thì Việt nho là một mặt trận bảo vệ con người, vốn ở trong tình trạng nhỏ bé yếu nhược trước sức mạnh bạo tàn lăm le nô lệ hóa nó. Và chính nhờ lập trường kiên trì đó mà nó vun tưới đuợc óc mẫn tiệp tỉnh thức nên phe hữu nhậm pháp hình luôn luôn gặp sức chống đối của nho sĩ. Hãy ghi lại đây một số ấn tích:

Lần đầu là khi nhà Chu thịnh đạt hơn cả thì đưa ra hình luật như được ghi lại ở thiên Lã Hình trong Kinh Thư. Nhiều nho gia nghi ngờ rằang đây lại là một tráo trở kinh sách, vì Khổng Tử chủ trương lễ trị, tại sao lại đưa thiên Lã Hình Pháp trị vào Kinh Thư (xem thêm Kinh Thư Legge tr.588).

Lần thứ hai là khi Tử Sản cho khắc hình luật vào đỉnh, thì bị Thúc Hướng phản đối đại để rằng: các đạo hình luật của ba nhà Hạ, Thương, Chu đều ra đời vào cuối mỗi triều đại lúc đã có loạn. Tôi nghe nói một nước mà sắp chết thì sinh ra nhiều luật lắm: ý ấy nghiệm sẽ đúng chăng?

Lần thứ ba là lúc sách của Lý Khôi (người nước Nguỵ, năm 400 tr.c.n) được đề cao cùng cực đến độ được gọi là pháp kinh. Điều đó xảy ra đời Tần, một nhà đại diện chính tông du mục, chà đạp lên mọi giá trị tinh thần đạo nghĩa, chỉ biết tôn thờ có pháp luật. Chính vì thế mà bị chống đối dữ dội nhất và để tiếng lại là nhà tàn bạo hơn hết.

Lần thứ tư là nhà Hán kế tiếp óc thượng luật của nhà Tần nên đặt ra nào thư viện Thạch cừ, nào 50 quan bác sĩ… nhằm xen giặm vào kinh điển những yếu tố thườn luật để che lấp ý hướng nền tảng của nho là bênh vực con người trước các sức mạnh tàn bạo. Từ đấy trận tuyến kéo dài dưới danh nghĩa vương dao chống bá đạo, tức cũng là một hình thức lệ làng chống phép vua đó.

Tóm lại nho sĩ luôn luôn tìm các ép buộc nhà cầm quyền phải thích nghi guồng máy cai trị theo phong tục từng miền như khẩu lệnh: “tu kì giáo bất dịch kì tục” = chú ý vun tưới nền giáo hóa của dân mà không nên thay đổi phong tục của họ. Và nhờ đó mà Kinh Thi Quốc phong là tiếng nói của dân được hân hạnh mở đầu Kinh Điển. Ít người nhận ra rằng đó là một thành tích duy nhất trên đời (xem quyển Tinh Hoa Ngũ Điển chương Kinh Thi) mà âm vang bên Việt là câu “phép vua thua lệ làng” tức là một lối diễn tả cực kỳ bình dân tinh thần lễ trị. Lễ trị cũng gọi là nhân trị, bởi vì trong lối cai trị đó chiều kích dân không lấn át nổi nhân, nên con người không bị vong thân và nhờ vậy mà cảm thấy thích thú, an vui. Đó là điều đã không có được ở các xã hội Tây phương xưa cũng vì ở đó đâu có lệ làng làm bầu khí nuôi dưỡng nhân, mà chỉ có dân hàng ngang thẳng tắp, vì

 

6. Phép vua không thua lệ làng

 Hay đúng hơn là lệ làng chưa có để mà thua với được.

Trứơc hết bầu khí văn hóa Tây Au là “hữu nhậm”: óc phò mạnh được triết học vun tưới. Nói triết học, chứ còn óc phù nhu (bên vực người yếu) thì đâu đâu cũng có, như đã nói về các hiệp sĩ thời trung cổ. Nói chung bất kỳ người nào thời nào cũng không thiếu óc phò nhu. Nhưng đó mới là vòng ngoài lương tri mà chưa là triết, nên còn thiếu khả năng buộc định chế phải có hai chiều:

Có tả có hữu,

Có làng có nước,

Có lề có luật.  

Tây Au chỉ có pháp luật, mà đó là nét đặc trưng của xã hội phân chia giai cấp. Đã phân chia giai cấp thì giai cấp trên sẽ nắm hết quyền hành tài sản nên trở nên chủ, nô không còn được gì nên cũng không được kể tới mà trước hết là không ai chú trọng đến tiếng nói hay tục lệ của nô, vì đã coi nô như sự vật thì chỉ còn gia tăng luật pháp để thêm quyền uy cho tù trưởng, cho giai cấp thống trị. Vì thế pháp bao giờ cũng đi với xã hội du mục mà dấu hiệu là phụ hệ cực đoan, cũng như triết học mang tính chất cơ khí vì đặt nền trên sự vật nên chỉ có một chiều từ trên xuống dưới: từ chủ tới nô. Như vậy là ta thấy rõ giữa triết học cơ khí và liên hệ chủ nô có tương quan nhân quả, chính liên hệ đó đã đổ khuôn luôn các mối liên hệ khác bắt chúng trở nên một chiều, thí dụ liên hệ giữa công dân và nhà nước thì ngôn ngữ Tây phương không có danh từ nhân dân với hai chiều ngang dọc, mà chỉ có hàng ngang là công dân: citoyen. Chữ này mãi về sau mới có để thay cho chữ thần dân: sujet. Đó là một bước tiến lớn bởi xưng mình là sujet thì nói lên sự phục tùng cùng cực. Còn khi nói citoyen thì đã độc lập khác vì citoyen do cité là thị xã. Tuy nhiên đó mới chỉ có tính chất công thương hàng ngang, còn thiếu chiều dọc tâm linh hàng dọc. Ngược lại khi ta nói nhân dân thì dân là chiều ngang vâng phục phép nước, còn nhân là chiều dọc tâm linh không vâng phục ai hết vì nhân là vua, là chủ, là nhân chủ tức người tự làm chủ lấy mình.

Đó là sự phân biệt nền tảng, nhưng lại quá tế vi nên không mấy ai nhận thấy ít ra trong các thế hệ trước, bởi vậy các nền triết học cũng như đức lý đã vô tình đi một đường hữu nhậm đậm đà là hùa theo kẻ mạnh: tôn pháp diệt tục, như thấy rõ trong bộ luật của Platon biện minh cho chế độ nô lệ tức là uy hiếp kẻ yếu vậy. Xưa nay kẻ yếu mà được bên đỡ đến tột cùng thì chỉ trông vào triết lý, nay triết lại hữu nhậm: lại đi bênh che kẻ mạnh để hiếp yếu thì không còn mộto lực lượng nào cản trở. (*)

(*) Có thể thâu thập trong sách Platon và các nền đức lý nhiều vô vàn những câu bênh vực con người, bênh vực công lý nhưng đó toàn là những câu nói của lương trin, có tính cách cầu âu, chẳng ăn nhằm chi hết với định đề và với nguyên lý của họ. Điều quan trọng là phải xét trong nguyên lý, trong những định đề chứ không trong những câu nói kiểu cầu âu nọ.

Khi văn hóa từ Hy Lạp chuyển sang Roma là một dân tộc thiếu óc triết thì chính cũng là thời ngự trị lớn lao của pháp gia, bởi vì người Roma tuy giỏi về binh bị và cai trị nhưng rất kém về tinh thần, kém đến độ không thiết lập nổi cho mình một tôn giáo hay một nền triết học. Tôn giáo thì thờ một mớ của Hy Lạp: Jupiter, Mars, Minerva (chính là Athena), một mớ của cận đông: Demeter, Liber, Libera… Còn triết học thì hạ thấp xuống trình độ văn chương, thành thử tinh anh phát tiết hết ra ngoài, kết tinh vào luật được tôn lên bậc tối cao. Khi luật không được triết hướng dẫn nữa thì sẽ đi đến chỗ quá đáng, làm cho người học bị tước đoạt mất quyền sáng kiến những giải pháp hợp nơi hợp thời. Lâu rồi họ tin luật là cái gì tuyệt đối bất di bất dịch nằm bên ngoài con người, có uy quyền trùm lấy vạn vật. Ong Needham đã kể lại vụ xử gã đực đẻ trứng phải thiêu sống ở Bazel năm 1474 lấy lý lẽ là đực mà dám đẻ là lấn sang bên nữ, lỗi luật quả tang (Need II 574). Chính cái khuynh hướng thượng tôn luật pháp đó đã đẻ ra những lối xử kiện rất rắc rối thí dụ đi kiện người phá hoại vườn nho thì hỏng, bởi vì trong bản luật (douze tables) không nói đến nho mà chỉ nói đến cây. Vì những cái câu nệ nhỏ bé đó nên mới cần biết bao nhiêu người chuyên môn về luật. Ngay một việc định quyền lợi của công dân đã khó vô cùng: có thứ gồm 4 quyền, có thứ chỉ một cùng hai”

- Quyền đầu phiếu (jus suffragii),

- Quyền hành nghề (jus honorum),

- Quyền kết hôn với người tự do (jus conubii),

- Quyền buôn bán (jus commercii)…

Giới quý tốc có cả bốn quyền, nhiều người tự do chỉ được hưởng một hoặc hai, ba… đều phải biết để cãi kiện… Bởi vậy phải mất nhiều công học tập. Người muốn vào nghề trước hết phải đến với một giáo sư để tự học cho biết đại cương. Đợt sau là theo dõi các cuộc tranh luận của các luật sư danh tiếng. Đợt ba đi tập sự… thế là có những chuyên viên: pragmatici, jurisconsulti, jurisprudentes, avocatus… Học xong còn phải biết mánh lới vì số người theo đuổi nghề luật quá đông, nên phải dùng thủ đoạn, thí dụ khi đi đến tòa cãi kiện phải mang theo chồng tài liệu do tổ bố, có khi phải thuê người mang theo, hoặc thuê người vỗ tay lúc biện hộ; làm thế nào để tội nặng ra nhẹ. Tội giết mẹ mà tuyên bố là nhẹ thì phải đặt bao nhiêu tiền cọc. Vì thế óc tôn thờ luật gây nhiều vụ kiện tụng vô vàn. Người ta cho là trong tất cả các dân thời cổ thì người Roma ưa kiện tụng nhất. Và cũng là nước duy trì và mở rộng nhất sự bất công nền tảng là chế độ nô lệ. Đúng là summun jus, summa injura (sự đòi hỏi quyền lợi cùng cực dẫn tới bất công cùng cực). Trung bình chỉ từ 10- 20% người là dân có tài sản còn bao nhiêu đều vô sản, tạo nên một xã hội đầy chênh lệch. Khốn khổ hơn nữa là không có triết nhân sinh, nên là một xã hội thiếu hạnh phúc. Nguời quý tộc Roma xưa không thiếu chi cả: ăn thì thừa mứa, trò chơi thì lớn lao như chưa có đâu bằng, hát xướng thì kéo dài từng tháng… Vậy mà vẫn không lấp được lỗ trống trong tâm hồn, vẫn cảm thấy buồn tẻ xao xuyến (Civ VII 215).

Các nước Tây Au nay vì nối tiếp óc Roma nên cũng vậy: về khoái lạc tưởng không còn thiếu chi hết, khoa học lại tiến tới cung trăng, vậy mà tâm hồn vẫn khắc khoải, bất an không tìm đâu ra lối thoát: tôn giáo thì họ cho là quá dị đoan, còn triết học thì quá nhạt nhẽo vô vị, nên lòng trí hoang vắng trong bầu khí hư vô = Nihilisme, nền văn hóa chỉ sản xuất thêm những con người “xa lạ với cuộc đời” như A.Camus đã tả rất tài tình trong quyển “Kẻ Xa Lạ”. Xa lạ với đời, với tha nhân, với thượng đế, với vũ trụ. Đó cũng là hậu quả của độc tôn pháp luật. Bây giờ cần trở lại với cái bọc mẹ Au Cơ để xem hậu quả lệ làng khi nó được sống ngang hàng với phép nước.

 

7. Cái bọc trăm trứng

Trước các đợt xâm lăng của pháp gia thì bên Tàu các nho gia chống đối bằng sách vở, còn bên Việt thì chống bằng cái làng mà ta có thể móc nối với huyền sử của mẹ Au Cơ đẻ bọc trăm trứng. Hãy tìm hiểu ý nghĩa của cái bọc đó ra sao.

Truyện kể rằng mẹ Au đẻ ra cái bọc một trăm trứng nên sợ hãi đem vất ra đồng thế mà về sau con nào cũng phương trưởng cả. Đọc xong ta nhận ra ngay là câu truyện muốn đề cao tinh thần công thể xây trên minh triết có nguyên lý mẹ (Au Cơ). Cái bọc chỉ tinh thần bao bọc tương thân tương trợ, nên ai ai cũng có tài sản: trăm người đều thế chứ không phải kiểu chủ nô một người có chín người không. Cụ thể hơn hết cho điều đó là cái làng Việt, nơi mà dân làng cảm thấy dễ chịu như được cái chi linh thiêng ấp ủ, nhào nặn hoặc như bức tường ấm cúng bao bọc bênh che. Nhất là những khi đi xa lâu ngày càng cảmthấy sức trìu mến huyền vi đó. Vì sao? Câu thưa nằm đâu đó trong những nét đặc trưng sau:

Thứ nhất là nó xây trên tình nghĩa, tức trên tình người chứ không trên dòng máu hay tín ngưỡng như Tây Au lúc xưa, cũng không trên phú quyền như đã nói về thị xã, vì nó không bao giờ đẩy người nghèo ra ngoài. Làng Việt Nam không hề có những ỳ thị kiểu đó vì nó được xây trên mối tình nhân bảo bao trùm khắp hết nên giàu hay nghèo ai cũng có tiếng nói. Vì nhân bản đó có tính chất tâm linh nên dẫn đến nét thứ hai là:

Lễ gia tiên và tế thần làng. Đây là hai lễ quan trọng của dân làng và cả hai nơi đều nhận thấy nét công thể. Ở đợt gia tiên thì tư tế là hai bố mẹ, đàn bà vẫn là chủ phụ. Thiếu chủ phụ lễ không thành, nên nhiều trường hợp người chồng đã già nếu chưa quá 70 tuổi cũng phải cưới vợ mới, không phải chỉ để có con nữa nhưng là để có chủ phụ đặng đồng tế. Đến đợt tế thần làng thì các bà nhường hẳn cho các ông theo luật nam ngoại nữ nội, nên ở đây nét công thể biểu lộ bằng lối khác: cả hội đồng kỳ mục thay phiên nhau mà tế. Đó là nét công thể đầu tiên. Nét sau là đồ lễ chia hai một nửa làm nhắm cho quan viên tại lễ, một nửa chia cho bô lão chức sắc: một cái oản, một miếng trầu, có khi nửa quả chuối, vì đó là đồ thừa huệ của thánh.

Ngoài ra cho toàn dân thì có các cuộc hội hè đình đám. Tinh thần công thể được biểu lộ hai đợt một là toàn dân đều tham dự, hai là cả ngũ quan: thính, thị, vị, khứu, xúc như xem trò, nghe hát, ăn uống linh đình rồi những trò chơi như đánh đu, bắt chạch… Khi con người ra khỏi cuộc lễ, mọi giác quan đều được thỏa mãn cũng như mọi người đều được tham dự nên sự vui tràn ngập.

Nét thứ ba thuộc kinh tế là bình sản quen gọi là công điền, công thổ. Thể chế này có ngay từ đầu chứ không phải cóp của phép tỉnh điền hay xảy ra sau vụ Mã Viện giết hại các tù trưởng Lạc Việt. Chính vì nó là nền tảng nên về sau này Việt Nam vẫn giữ đựơc tỉ lệ công điền cao hơn bên Tàu: cho đến đầu thế kỷ ruộng công vẫn còn nhiều hơn ruộng tư. Thứ đến không có phong kiến theo Tàu hay Tây cắt đất phong, khiến kẻ được có mọi quyền trên nông nô, kể cả quyền sinh tử. Bên Việt Nam có được phong cũng ít người, lại chỉ được hưởng có một đời. Đã vậy không hề có quyền ra luật riêng về điền trạch (*). Mà cái nghèo bên xã hội Việt nho không biết kỳ thị kiêng nể ai hết, nên ai ai cũng có thể nghèo hay giàu.

Ai giàu ba họ ai khó ba đời.

(*) Xem chẳng hạn Tài sản xã thôn Bắc Việt của Vũ Văn Hiền hoặc Xã Thôn Việt Nam của Nguyễn Hồng Phong, Văn Sử Địa, Hà Nội.

Vì thế có những điều kiện nền móng cho sự an vui thoải mái. Tuy trong làng có dư luận kiểm soát rất ngặt, nhưng nhờ hai yếu tố tự do và bình sản, nên sự kiểm soát bằng dư luận không làm cho con người vong thân (vì vong thân thực sự chỉ xảy ra do hai yếu tố trên là nô lệ và vô sản).

Tự do chính trị được biểu thị bằng sự bầu bán không có kỳ thị nào về dòng máu hay tiền của mà chỉ căn cứ trên tuổi tác (trọng xỉ) vì tuổi biểu thị kinh nghiệm sống.

Tự do văn hóa: tuyệt nhiên không có bó buộc ai theo thuyết nào, đạo nào. Tuy có tam giáo nhưng để tuỳ ý mọi người. Học hành cũng vậy, không có hạn chế nào ngoại trừ những hạn chế do cái nghèo là nạn không riêng của ai, hay nơi nào.

Trên đây là năm ba nét đặc trưng của cái làng Việt. Ta có thể nói được như sau: đó là một chính thể toàn diện bao gồm cả tôn giáo, chính trị, văn hóa, đáp ứng cho mọi nhu yếu con người, ông Paul Mus cho là cái gì kỳ diệu thì quả là có đầy lý do.

Ngoài ra tất cả bấy nhiêu khía cạnh đã đi đến trình độ cao nhất ở chỗ vượt mọi phân chia gây ra do sự đặt nền bên ngoài con người như dòng máu, tăng lữ. Dân làng được miễn hai điều đó. Lễ thì chính mình tế lấy, triết thì cũng chính mình tự sống, nên xét về giá trị tâm linh thì không bị sự thiếu đói. Chính điều đó giải nghĩa tại sao người Việt Nam lại ôm lòng quyền luyến làng nước. Những người đi phương xa lâu ngày ngóng mong được trở về trầm mình vào bầu khí của làng dưới gốc cây đa rủ bóng che giếng nước, hoặc con sông uốn khúc bao quanh. Ong Legusteguy nhận xét bên Việt Nam xưa người ta không có ý niệm giải phóng là cái gì cả. Câu nói thật là trúng: giải phóng ai? Toàn dân đã là người tự do cả. Giải phóng phụ nữ ư? Thì các bà đã là chủ phụ rồi. Không ai chối cãi những bê bối hà lạm, nhưng đấy là những thiếu sót thuộc thừa hành, chứ về cơ cấu thì đã có đủ.

Và như vậy dẫn đến sự thực này: làng xã Việt Nam là chế độ tạo được nhiều hạnh phúc cho con người hơn cả. Sự thực này khó chấp nhận cho người Việt đời nay vì bị đặt bên cạnh đời sống huy hoàng của Tây Au. Tuy nhiên nếu so sánh qua các đời và nhất là xét về phương diện tự do và bình sản thì câu trên vẫn là sự thực hiển nhiên. Còn nếu xét đến tận nguồn gốc thì làng xã bên ta bao hàm một chiều kích mà Tây Au đã không có ở bất cứ cấp thị xã hay quốc gia: đó là chiều kích tâm linh.

Bên An Độ hay Tây Au có linh thiêng trong tôn giáo nhưng do hàng giáo sĩ, tăng lữ nắm độc quyền, nên khi dân chúng ác cảm với giáo sĩ (anti-clerical) thì hết đạo. Đúng hơn đó là bước đầu sẽ dẫn đến bước sâu: cho đạo là vô lý.

Còn triết là môn chuyên nghiệp của các triết học gia chứ dân không hề tham dự vào đó, vì coi đó là cái gì nhạt nhẽo xa lạ.

Đây là điều giải nghĩa sự trống rỗng trong tâm hồn người Tây Au thường được các sách ngày nay đề cập tới bằng danh từ “nihilisme occidental”, nhưng chưa mấy ai nhìn ra nguyên uỷ sâu xa là nó phát xuất do nền văn hóa nghiêng hẳn về pháp hình, với những tổ chức gồm toàn những lý với sực, đẳng với phái, đầy tình chất du mục. Vì thế khi người Việt chúng ta nay bị hút vào quỹ đạo của nó thì cảm thấy như bị cắt lìa khỏi những rễ sâu đâm xuống đất để hút nhựa sống, cảm thấy lòng trống trải như mất mối liên hệ với cái nền âm u của quê mẹ đã nuôi dưỡng ấp ủ thực thể mình tự ngàn xưa, nên tinh thần sa sút, vì tinh thần là cái chi nếu không là cơ cấu lớn lao hơn mình làm bằng muôn thế hệ kinh nghiệm tình thâm tích luỹ nên trở thành man mác như bào thai bao bọc lấy cá nhân mình.

Chính vì thế mà chúng ta mới hiểu ra được tại sao dân làng tận tình giữ tục lệ mà hững hờ với phép nước. Thì ra phép nước là thứ luật chung thường do tự quyền trên áp đặt xuống. Hoạc luật thì lấy gốc mãi từ bên Tàu, bên Roma xa xôi… vì thế nó trừu tượng ít hợp với hoàn cảnh. Ngược lại lệ làng là kết tinh của nhiều đời kinh nghiệm được tuyển chọn trong những đường lối hoạt động đã thích nghi với những hoàn cảnh đặc thù cũng như với tục lệ đã có từ thời sơ khai dựng nước. Vì thế nó xuất hiện như một thứ luật tinh thần với hiệu lực mạnh mẽ như của tôn giáo có cái chi đó đáp ứng được với khát vọng thâm sâu nhất, tư riêng nhất của con người.

Vì thế mà ta có lý do nhìn sự suy sụp của lệ làng trước các làn sóng pháp hình của Tây Au cũng chính là sự suy sụp của nhân linh, mà chỉ còn lại dân sinh trơ trọi: một thứ hàng ngang được kể như dụng cụ sản xuất hay tiêu thụ tức chỉ còn là một thứ thú vật, tất nhiên cũng sẽ bị đoàn ngũ hóa, đúng hơn là đoàn lũ hóa, xuất nhập đều qua cửa chuồng.

(xem tiếp trang 3)

Trở Lại Trang Mặt
Trang [ 1 ] [ 2 ]  [ 3 ]