Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net





Lục Vân Tiên
Nguyễn Đ́nh Chiểu


Nguyễn Đ́nh Chiểu (1822-1888)


 Lục Vân Tiên Vào Truyện

1.  Trước đèn xem truyện Tây Minh,
Gẫm cười hai chữ nhân t́nh éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
5.  Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trao ḿnh.
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức, sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
10.  Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành.
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Tŕnh lao đao.
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Vơ thêm ba lược, sáu thao ai b́.

Vân Tiên Tạ Thầy Về Đi Thi

15.  Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
"Đă tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
"Nay đà gặp hội phong vân.
20.  Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây, (*)
"Danh tôi, đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
"Làm trai trong cơi người ta,
"Trước lo báo bổ sau là hiển vang." (*)
25.  Tôn sư bàn luận tai nàn,
Gẫm trong số hệ khoa tràng c̣n xa.
Máy trời, chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót xa trong ḷng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
30.  Phải toan một phép để pḥng hộ thân.
"Rày con xuống chốn phong trần,
"Thầy cho hai đạo phù thần, đem theo.
"Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
"Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an."

Vân Tiên Lo Sợ Cho Tương Lai

35.  Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn ḷng càng sanh nghi: "Chẳng hay ḿnh mắc việc chi?"
"Tôn sư người dạy khoa kỳ c̣n xa?"
"Hay là bối rối việc nhà?"
40.  "Hay là đức bạc hay là tài sơ?"
"Bấy lâu ḷng những ước mơ,"
"Hội này chẳng gặp c̣n chờ hội nao?"
" Nên hư chẳng biết làm sao,"
"Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh".
45.  Đặng cho rơ nỗi sự t́nh,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng tŕnh mới an.
Tôn sư ngồi hăy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "Vạn lư trường đồ,"
50.  "Sao chưa cất gánh trở vô việc ǵ?"
"Hay là con hăy hồ nghi,"
"Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?"
55.  "Song đường,tuổi hạc,đă cao",
"Xin thầy nói lại âm hao, con tường."
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự, dặn rằng:(*)
60.  Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
Sao con chẳng rơ lẽ nầy,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
65.  "Số con hai chữ khoa kỳ,"
"Khôi tinh đă rạng, Tử vi thêm ḷa."
"Hiềm v́ ngựa chạy đường xa,"
"Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan." (*)
"Bao giờ cho tới bắc phang,"
70.  "Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh."
"Sau dầu đặng chữ hiển vinh",
"Mấy lời thầy nói tiền tŕnh chẳng sai."
"Trong cơn bỹ cực thái lai,"
"Giữ ǵn cho vẹn việc ai chớ sờn."
75.  Vân Tiên vội vă tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên cát nhứt phương",
80.  "Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
"Quản bao thân trẻ dăi dầu,
"Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên". (*)
"Bao giờ cá nước gặp duyên,"
"Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay."


Vân Tiên Lên Đường Gặp Lũ Sơn Đài

85.  Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đă mấy ngày xông sương.
Đoái nh́n phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường c̣n xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
90.  Trước là t́m bạn sau là nghỉ chân.
Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non.
Tiên rằng: "Bớ chú cơng con!",
"Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
95.  Dân rằng: "Tiểu tử là ai?
"Hay là một đảng sơn đài theo tao?"
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
"Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời."
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
100.  Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua:
"Nhân rày có đảng lâu la,
"Tên rằng Đỗ Dự, hiệu là Phong Lai".
"Nhóm nhau ở chốn sơn đài,
"Người đều sợ nó có tài khôn đương.
105.  "Bây giờ xuống cướp thôn hương,
"Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
"Xóm làng chảng dám nói chi,
"Cảm thương hai gă nữ nhi mắc nàn!
"Con ai vóc ngọc ḿnh vàng,
110.  "Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng"(*)
"E khi mắc đảng hành hung",
"Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu".
"Thôi thôi chẳng dám nói lâu",
"Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới ḿnh"
115.  Vân Tiên nổi giận lôi đ́nh,
Hỏi thăm: "Lũ nó c̣n đ́nh nơi nao?
"Tôi xin ra sức anh hào",
"Cứu người cho khỏi lao đao buổi này."
Dân rằng: " Lũ nó c̣n đây",
120.  "Qua xem tướng bậu thơ ngây đă đành.(*)
"E khi họa hổ bất thành,(*)
"Khi không ḿnh lại xô ḿnh vào hang."
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, t́m đàng chạy vô.
125.  Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!"
"Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân."
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây."
"Trước gây việc dữ tại mầy",
130.  "Truyền quân bốn phiùa phủ vây bịt bùng."
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá ṿng Đương Dương.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo t́m đàng chạy ngay.
135.  Phong Lai trở chẳng kịp trở tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Vân Tiên Cứu Kiều Nguyệt Nga


Dẹp rồi lũ kiến cḥm ong,
Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe này?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,"
140.  "Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
"Trong xe chật hẹp khôn phô,
"Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng."
Vân Tiên nghe nói động ḷng,
Đáp rằng:"Ta đă trừ ḍng lâu la".
145.  "Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
"Nàng là phận gái, ta là phận trai.
"Tiểu thư con gái nhà ai,
"Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ.
"Chẳng hay tên họ là chi?"
150.  "Khuê môn phận gái việc ǵ đến đây?
"Trước sau chưa hăn dạ nầy,
"Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?"
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
"Con này tỳ tất tên là Kim Liên.
155.  "Quê nhà ở quận Tây Xuyên",
"Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê."
"Sai quân đem bức thư về,"
"Rước tôi qua đó định bề nghi gia".
"Làm con đâu dám căi cha",
160.  Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
Chẳng qua là sự bất b́nh,
Hay vầy cũng chẳng đăng tŕnh làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
165.  "Trước xe quân tử tạm ngồi,
"Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
"Chút tôi liễu yếu đào thơ,
"Giữa đường lâm phải bụi dơ đă phần.
"Hà khê qua đó cũng gần
170.  "Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng".
"Gặp đây đương lúc giữa đàng,
"Của tiền không có, bạc vàng cũng không".
"Gẫm câu báo đức thù công",
"Lấy chi cho phỉ tấm ḷng cùng ngươi."
175.  Vân Tiên nghe nói liền cười:"
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn".
"Này đà rơ đặng nguồn cơn",
"Nào ai tính thiệt so hơn làm ǵ?"
"Nhớ câu kiến ngăi bất vi",
180.  Làm người thế ấy cũng phi anh hùng".
"Đó mà biết chữ thủy chung,"
"Lựa là đây phải theo cùng làm chi."
Nguyệt Nga biết ư chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường".
185.  Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường",
"Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ ḷng nào phôi pha:
"Đông thành vốn thiệt quê ta,"
190.  "Họ là Lục thị, tên là Vân Tiên".

Vân Tiên, Nguyệt Nga Trao Đổi Tín Vật

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,"
"Xin đưa một vật để cầm làm tin".


195.  Vân Tiên ngơ mặt chẳng nh́n,
Nguyệt Nga liếc thấy càng th́n nết na:
"Vật chi một chút gọi là,"
"Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ."
"Của này là của vất vơ,"
200.  "Ḷng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!"
Vân Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ t́nh lây dây.
Than rằng: Đó khéo trêu đây",
"Ơn kia đă mấy, của nầy rất sang".
205.  "Đương khi gặp gỡ giữa đàng,"
"Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai".
"Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài",
"Nào ai chịu lấy của ai làm ǵ,"
Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi",
210.  "Vốn chưa biết lẽ có khi mất ḷng."
"Ai dè những đấng anh hùng,"
"Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm."
Riêng than:" Trâm hỡi là trâm!"
"Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
215.  "Đưa trâm chàng đă làm ngơ,"
"Thiếp xin đưa một bài thơ giă từ."
Vân Tiên ngó lại rằng: "Ừ,"
"Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu."
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
220.  Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
"Thơ rồi này thiếp xin dâng, "
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào?"
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
"Ai dè sức gái tài cao bực nầy."
225.  "Đă mau mà lại thêm hay,"
"Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi."
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,(*)
Cho hay tài gái kém ǵ tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
230.  Vân Tiên họa lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ư gần xa,
Mai ḥa vận điểu, điểu ḥa vận mai.(*)
Có câu xúc cảnh hứng hoài, (*)
Đ ường xa ṿi vọi, dặm dài vơi vơi.
235.  Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đă cạn lời thời thôi.

Nguyệt Nga Về Hà Khê

Vân Tiên từ giă phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: "T́nh ôi là t́nh!"
"Nghĩ ḿnh mà ngán cho ḿnh,"


240.  Nỗi ơn chưa trả, nỗi t́nh lại vương.
Hữu t́nh hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào ḷng.
Nguyện cùng nguyệt lăo hỡi ông!
Trăm năm cho vẹn chữ ṭng mới an.
245.  Hữu t́nh chi mấy Ngưu Lang,
Tấm ḷng Chức nữ, v́ chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê."
Trải qua dấu thỏ đàng dê,(*)
250.  Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tṛn,
"Trăm năm cho trọn ḷng son với chàng."
Phút đâu đă tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy ḷng càng sanh nghi.
255.  Hỏi rằng: "Nào trẻ tùy nhi,"
"Cớ sao nên nỗi con đi một ḿnh?"
Nguyệt Nga thưa việc tiền tŕnh,
Kiều công tương nỗi sự t́nh chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hăy ngùi ngùi,
260.  Nghĩ ḿnh thôi lại sụt sùi đ̣i cơn.
Lao đao phận trẻ chi sờn,
"No nao trả đặng công ơn cho chàng."
Kiều công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hăy nghỉ an ḿnh vàng".
265.  "Khi nào cha rảnh việc quan,"
"Cho quân qua đó mời chàng đến đây."
"Sao sao chẳng kịp thời chầy,
"Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi."
"Hậu đường con hăy tạm lui,"
270.  "Làm khuây dạ trẻ cho vui ḷng già"
Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga c̣n hăy xót xa phận ḿnh.
Dời chân ra chốn hoa đ́nh
Xem trăng rồi lại chạnh t́nh cố nhân.
275.  Than rằng: "Lưu thủy cao sơn,"
"Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm.
"Chữ t́nh càng tưởng càng thâm,"
Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài,
280.  Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền."
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm ḷng thành,
Họa ra một bức tượng h́nh Vân Tiên.
285.  Than rằng: "Ngàn dặm xuyên sơn,"
"Chữ ơn để dạ, chữ duyên nhuốm sầu."

Vân Tiên Gặp Gỡ Hớn Minh


  Chuyện nàng sau hăy c̣n lâu,
Chuyện chàng xin nối thứ đầu nói ra.
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
290.  Giữa đường lại gặp người ra kinh kỳ.
Xa xem mặt mũi đen ś,
Ḿnh cao sồ sộ dị kỳ rất hung.
Nhớ câu b́nh thủy tương phùng,
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.
295.  Chẳng hay danh tánh là chi?
Một ḿnh mang gói ra đi việc ǵ?
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi",
"Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà".
Vân Tiên biết kẻ chính tà,
300.  Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng bằng hữu chi giao,
T́nh kia đă gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn dần.
305.  Kià nơi vơ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chân một hồi.
Cùng nhau bày tỏ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.

Vân Tiên Ghè Nhà Vơ Công Gặp Bạn


Hớn Minh đi trước tựu trường,
310.  Vân Tiên c̣n hăy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
"Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông."
Bấy lâu đèn sách gia công,
"Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
315.  Vân Tiên qú lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ, cũng bằng người kim".
"Dám xin cha mẹ an tâm",
"Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi." (*)
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
320.  Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang.
325.  Con người là Vơ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.
Chữ rằng Hồ Việt nhất gia,(*)
Con đi tới đó trao qua thư này.
Con dầu bước đăïng thang mây,
330.  Dưới chân đă sẵn một dây tơ hồng.
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gă tiểu đồng dời chân.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đă đưa xuân qua hè,
335.  Lại xem dăm liễu đường hoè,
Tiếng ong ngơ ngáo, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn, non dầy đá cao.

Màn trời gấm trải biết bao,
340.  Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm kiểng xem người,
Cảnh xinh như vẽ, người tươi như dồi.(*)
Hàn Giang phút đă tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi tŕnh thư.
345.  Vơ Công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
350.  Mười phân cốt cách, vuông tṛn mười phân.
Những e kẻ Tấn, người Tần, (*)
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.(*)
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Nầy dâu Nam Giản, nọ trai đông sàng.(*)
355.  Công rằng: "Ngăi tế mới sang",
"Muốn lo việc nước hăy toan việc nhà."
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,"
"Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo ǵ."(*)
Công rằng: "Con dốc xuống thi",
360.  "Sao không kết bạn mà đi tựu trường?"
"Gần đây có một họ Vương,"
"Tên là Tử Trực văn chương tót đời.
Cha đà sai trẻ qua mời,
Đặng con cùng gă thử chơi một bài.
365.  Thấp cao, cao thấp, biết tài,
"Vầy sau bạn trước cùng mai mới mầu" (*)
Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
Vơ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!,"
370.  "Thơ hay làm đặng, rượu ngon thưởng liền."
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu "b́nh thủy hữu duyên" làm đề.
Song song hai gă giao kề,
Lục, Vương, hai họ đua nghề một khi.
375.  Cho hay kỳ lại gặp ,
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.(*)
Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng, thẻ bạc đă đành làm nên.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
380.  Ngọn đèn tỏ rơ trước khêu bởi ḿnh.
Thiệt trang lương đống đă đành,
Khá khen hai họ tài lành ḥa hai."
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,"
"Có đâu én hộc sánh vai một bầy."(*)
385.  T́nh cờ mà gặp nhau đây,
"Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh."
"Nay đà nên nghĩa đệ huynh",
"Xin về mai sẽ thượng tŕnh cùng nhau."

Vơ Thể Loan Tiễn Vân Tiên

Phút xem trăng đă đứng đầu,
390 Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Vơ Công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chân trời,"
"Tiểu nhi trang điểm ra nơi đ́nh."
395.  "Gọi là chút nghĩa tống t́nh,"
"Pḥng sau cho khỏi bất b́nh cùng nhau."
Bóng trăng vừa lộ cành dâu,
Văn Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở b́nh minh,
400.  Thể Loan đứng trước lê đ́nh liễm dung.
Thưa rằng: "Quân tử phó công,"
"Xin thương bồ liễu chữ ṭng ngây thơ."
"Tấm ḷng thương gió nhớ mưa,"
"Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời."
405.  "Ngày nay thánh chúa trị đời,"
"Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng." (*)
Quản bao chút phận má hồng,
Pḥng khuya ṿ vơ, đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương, (*)
410.  "Thiếp xin hai chữ tao khương cho bằng."
"Xin đừng tham đó bỏ đăng",(*)
"Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn."
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,"
Dễ trong một bếp mà nhen mấy ḷ.
415.  May duyên rủi nợ dễ pḥ,
Chớ nghi Ngô Khởi, hăy lo Măi Thần."
Thể Loan vội vă lui chân,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường An.

Vân Tiên Gặp Vương Tử Trực,Trịnh Hâm,Bùi Kiệm

   Xa xa vừa mấy dặm đường
420.  Gặp Vương tử Trực vầy đoàn đều đi.
Trải qua thủy tú, sơn kỳ,
Phỉ ḷng cá nhảy, gặp th́ rồng bay.(*)
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
425.  Cùng nhau tả chút t́nh hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Vơơ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
430.  Chữ tài chữ mệnh xưa ḥa ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu",
"Mặc dầu dỡn sóng mặc dầu chơi mây."
Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay",
"E khi mỏi cánh lạc bầy về sau."(*)
435.  Mảng c̣n tṛ chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đă hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người t́m quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
Phút đâu gặp bạn đi thi,
440.  Đều bày tên họ môt khi mới tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở quận Dương Xuân,
Họ Bùi, tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
445.  Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,"
"Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao."
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,"
450.  "Làm thơ mới biết bậc nào tài năng."
Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề
Quán rằng: "Thịt cá ê hề",
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
455.  Kià là thuốc lá ướp ngâu,
Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
"Để khi đăi khách giầu sang,
"Đăi người văn vật, đăi trang anh hùng."
Bĩ bàng trà rượu đă xong,
460.  Bốn người ngồi lại một ṿng làm thơ,
Kiệm, Hâm c̣n hăy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.(*)

Tâm Sự Người Chủ Quán


465.  Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ".(*)
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
470.  Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.
Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?"
Quán rằng: "Kinh sử đă từng,"
Coi rồi lại khiến ḷng hằng xót xa.
475.  Hỏi thời ta phải nói ra,
V́ chưng hay ghét cũng là hay thương."
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
"Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
480.  Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụï mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
485.  Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc quí phân băng,,
Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
490.  Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn (*).
"Thương thầy Nhan Tử dở dang,"
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đă đành phôi pha.
495.  Thương thầy đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề Giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
500.  Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đă ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương."

Chủ Quán Tranh Luận Cùng Tử Trực

505.  Trực rằng: "Chùa rách phật vàng," (*)
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
Thương dân sao chẳng lập thân,
để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu, Thuấn thuở xưa,"
510.  Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.
"Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,"
Một ḿnh một núi, ai hầu chi ai.
Ông Y, ông Phó ôm tài,
Kẻ cày, người cuốc đoái hoài chi đâu?
515.  Thái công xưa một cần câu,
Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đă mấy đua bơi,
Cày mây, cần nguyệt tả tơi áo cầu.(*)
Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
520.  Gió trăng một túi công hầu chiêm bao.(*)
"Người nay có khác xưa nào?
"Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn."

Chủ Quán Chê Cười Kiệm , Hâm

Hâm rằng: "Lăo quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.

525.  "Gối rơm theo phận gối rơm,"
"Có đâu ở thấp mà chồm lên cao."
Quán rằng:"Sấm chớp mưa rào,"
Ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
530.  Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đàn gảy tai trâu,
"Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cựi."
Tiên rằng:"Ông quán chớ cười,"
"Đây đà nhớ đặng bảy người Trước Lâm."
535.  "Cùng nhau kết bạn đồng tâm,"
Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Cho bằng thong thả mặc khi vui ḷng.
Rừng nho biển thánh mênh mông,(*)
540.  Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay."
Quán rằng: "Đó biết ḷng đây,"
"Lời kia đă cạn, rượu nầy thưởng cho."
Kiệm, Hâm, là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong ḷng.
545..  Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.


Đến Lúc Thi, Mẹ Mất Vân Tiên Phải Trở Về

Mảng c̣n nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đă giục thôi vào trường.
Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
550.  Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.
Vân Tiên vừa bưóc chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ,
Ḿnh gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
555.  Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
Trời Nam, đất Bắc xót xa đoạn tràng.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công danh.
Những lăm công toại danh thành,
560.  Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở, liệu thời quy lai.
Tiểu đồng thở vắn than dài,
"Trời ơi! trời nỡ phụ tài người ngay.".
565.  Trực rằng: "Đă đến nỗi nầy,"
"Tiểu đồng, bậu hăy làm khuây giải phiền."
"Sớm mai thang thuốc giữ ǵn,"
"Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay."
"Bây giờ kíp rước thợ may,
570.  "Sắm đồ tang phục, nội ngày cho xong.
"Dây rơm, mũ bạc, áo thùng,"
"Cứ theo trong sách Văn Công mà làm."
Tiên rằng: "Mẹ Bắc con Nam,"
"Nước non ṿi vọi đă cam lỗi ngh́."
575.  "Trong ḿnh không cánh không vi,"
"Lấy chi bớt dặm, lấy chi bớt đàng."
Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng kẻ đi.

Mọi Người An Ủi Vân Tiên

                                           Việc trong trời đất biết chi,
580.  Sao dời vật đổi c̣n ǵ mà trông.
Hai hàng lụy ngọc ṛng ṛng,
Tưởng bao nhiêu lại đau ḷng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau.
585.  Thương thay chín chữ cù lao,(*)
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu t́nh.
Quán rằng: "Trời đất th́nh ĺnh,
"Gió mưa đâu phút găy cành thiên hương ."
Ai ai trông thấy cũng thương,
590.  Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân.
Dầu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
595.  Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại, mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạn tác vừa ra,
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,"
600.  "Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau."
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương.
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
605.  Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.

Chủ Quán Tặng Thuốc Thần

Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,"
Đưa ba huờn thuốc để pḥng hộ thân.
"Chẳng may gặp lúc gian truân,"

610.  "Đương khi quá đói, thuốc thần cũng no."
Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,"
Tấm ḷng ngài ngại hăy lo xa gần."
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
"Thấy vầy nên mới tị trần đến đây."
615.  "Non xanh nước biếc vui vầy,"
Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát ṿng danh lợi, lánh đàng thị phi."
Nói rồi quày quă ra đi,
620.  Vân Tiên xem thấy càng nghi trong ḷng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đ̣i cơn lại năo nồng đ̣i cơn.
Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành.
625.  Mang câu bất hiếu đă đành,
Nghĩ ḿnh mà thẹn cho ḿnh làm con.
Trọn dồi một tấm ḷng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
630.  Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một ḿnh ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dậy khoa trường c̣n xa.
635.  Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà c̣n lâu."

V́ Khóc Quá Nhiều Vân Tiên Bị Mù

Thế sao chẳng bớt cơn sầu,
"Ḿnh đi đă mỏi, gịng châu thêm nhuần."
"E khi mang bệnh nửa chừng.
640.  "Trông nom khó liệu, giữa rừng khôn toan."
Tiên rằng: "Khô héo lá gan!"
Ôi thôi! Con mắt đă mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu, (*)
Chân đi đă mỏi, ḿnh đau như dần.
645.  Có thân phải khổ v́ thân,
Thân ôi! Thân biết mấy lần chẳng may!
Đồng rằng: "Trời đất có hay?,"
"Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
"Một ḿnh nhắm trước xem sau,
650.  "Xanh xanh bờ cơi, dàu dàu cỏ cây.
"Vốn không làng xóm chi đây,"
"Xin lần tới đó t́m thầy thuốc thang."
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn.

Thầy Tṛ Vân Tiên Bị Lang Băm Lừa

655.  Dắt nhau khi ấy hỏi phăng,
Gặp thầy làm thuốc, hiệu là Triệu Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.
"Gặp ta bệnh ấy ắt lành,"
660.  "Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
"Xin thầy nghĩ lượng được điều thuốc thang.
"May mà bệnh ấy đặng an,
"Bạc c̣n hai lượng trao sang cho thầy."
665.  Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy!
"Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba."
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đă sẵn, ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem y học làm đầu,
670.  Sau coi Thọ Thế, thứ cầu đông Y.(*)
Gẫm trong Ngân Hải tinh vi,(*)
Cùng là Cang mục thua ǵ Thanh nang.
Gẫm trong Tập nghiêm lương phang,(*)
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi Xuân.(*)
675.  Vị chi sẵn đặt quân thần, (*)
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan.
Mạch thời đọc mạch Lư san,
Đặt vào tay bệnh biết đàng tử sinh.
Lục quân, Tứ vật thang danh, (*)
680.  Thập toàn, Bát vị, sẵn dành nội thương.(*)
Lại thông bát trận tân phương,(*)
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài..
Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài!"
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi."
685.  Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,"
Bộ quan bên tả, mạch đi phù hồng.
"Cứ trong kinh lạc mà thông,"
Mạng môn tước quả đă xông lên đầu.
Tam tiêu tích nhiệt đă lâu,
690.  Muốn cho giáng hỏa, phải đầu Tư âm.
Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm,(*)
"Gia vào cho bội nhiệt tâm mới b́nh."
"Ngoài thời cho điểm vạn linh," (*)
"Trong thời cho uống hoàn t́nh mới xong."
695.  "Khá trao hai lượng bạc ṛng,"
"Bổ thêm vị thuốc để pḥng đầu thang."
"Chẳng qua làm phúc cho chàng,
"Nào ai đ̣i chuộc đ̣i đàn chi ai." (*)
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
700.  Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ, như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,"
Bệnh thời không giảm, thầy đ̣i tiền thêm."

Lang Băm Đẩy Vân Tiên Cho Tên Thầy Bói

705.  Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,"
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?
Tiểu đồng ngươi khá qua cầu,
710.  Cùng ông thầy bói ở đầu Tây viên.
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,"
"Bói hay đă dậy, người coi đă đầy."
715.  "Ta đây nào phải các thầy"
Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.
Huỳnh kim, Dă hạc sách cao,(*)
720.  Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay."(*)
Can, chi đều ở trong tay,
Đă thông trời đất, lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành.
725.  Thầy bèn gieo đặng quẻ lành,
Chiêm tên tuổi ấy lộ tŕnh mắc chi?
Ứng vào rùa với cỏ thi, (*)
Rồi thầy coi quẻ, một khi mới tường."
Đồng rằng: "Người ở đông phương,"
730.  "Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an."
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám, c̣n đàng thơ ngây."
Bói rằng: "Đinh măo năm nay,
Hèn chi giáp tí ngày rày chẳng an.
735.  Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giầu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen ngươi khéo nói những lời trêu ta."
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
740.  Một Giao, hai Sách, lại ba hào trùng. (*)
Trang thành là quẻ lục xung,
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hóa ra làm quẻ du hồn,
Lại thêm thế động khắc dồn hào quang.(*)
745.  Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi nầy mới chịu mẫu tang trong ḿnh."
"Xui nên phát bệnh th́nh ĺnh,"
"V́ chưng ma quỉ lộ tŕnh rất thiêng."

Gă Thầy Bói Lại Đẩy Sang Cho Thầy Pháp

"Muốn cho bệnh ấy đặng yên,"

750.  "Phải t́m thầy pháp chữa chuyên ít ngày."
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây."
Bói rằng: "Cũng ở chốn nầy bước ra."
"Pháp hay tiếng dậy dồn xa,"
"Tên là đạo sĩ, ở Trà hương thôn"
755.  Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm đạo sĩ hương thôn chốn nào?
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi nào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
760.  Đạo sĩ xem thấy ḷng mà mừng thay!
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,"
"Trừ ma yếm quỉ, phép thầy rất hay."
Pháp rằng: "ấn đă cao tay,"
"Lại thêm phù, chú xưa nay ai b́."
765.  "Qua sông cá thấy xếp vi',"
"Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa."
"Pháp hay hú gió kêu mưa,"
"Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu."
Pháp hay miệng niệm một câu,
770.  Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.
"Phép hay sái đậu thành binh," (*)
Bện h́nh làm tướng phá thành Diêm Vương .
Phép hay dạo hỏa phó thang,
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.
775.  Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho,"
Đồng rằng : "Tôi chẳng so đo,"
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
780.  Bạc dành hai lượng pḥng sau đi đàng.
"Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,"
"Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy ."
Pháp rằng : "Về lấy sang đây,"
"Cho thầy toan liệu lập rày đàn ra."
785.  Đồng rằng: "Tôi đă lo xa,"
"Cực v́ người bệnh ở nhà chẳng yên."
"Xin thầy gắng sức chịu phiền,"
"Ra công bùa chú chữa chuyên dường nào."
Pháp rằng: "Có khó chi sao,"
790.  "Người nằm ta chữa rồi trao phù về."
Đồng rằng:"Tôi vốn thằng hề,
"Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên ? "

Bày Tṛ Bịp Gă Thầy Pháp Đuổi Hai Thầy Tṛ

  Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,"
"Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài."
795.  Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Ḷng mừng vội vă nằm dài chữa chuyên .
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ tọa thiền chứng miêng."
"Thỉnh ông Đại Thánh Tề Thiên,"
800.  "Thỉnh bà Vơ hậu đều liền đến đây."
"Thỉnh ông Nguyên soái chinh Tây,"
"Cùng bà Vương Mẫu sum vầy một khi."
"Thỉnh ông Phật tổ A Di,"
"Thập phương chư Phật phù tŕ giúp công."
805.  "Lại mời công chúa Ngũ Long,"
"B́nh Nam ngũ hổ hội đồng an dinh."
"Thỉnh trong thiên tướng, thiên binh,"
"Cùng là tam phủ Động Đ́nh Xích Lân."
"Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,"
810.  "Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi ."
Cho ngươi ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai.
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
815.  Vào nhà thưa với thầy Ngang.
"Pháp phù đă đủ thầy toan phương nào ?"
Ngang rằng: "C̣n bạc trong bao,"
"Thời ngươi khá lấy mà trao cho thầy "
Đồng rằng: "Tôi hăy ở đây,"
820.  "Bệnh kia dầu khá ḿnh nầy bán đi."
Triệu Ngang biết chẳng c̣n chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi ṿng:
"Ở đây làng xóm khó ḷng,"
"E khi mưa nắng ai cùng đỡ che."

Vân Tiên Lâm Cảnh Màn Trời Chiếu Đất


825.  Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,"
Bởi tin nên mắc, bởi nghe nên lầm.
Mới lo chạy hết một trăm,
Ḿnh ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật c̣n,
830.  "Bơ vơ đất khách thon von thế này."
"Thôi thôi gắng gượng khỏi đây" ,
"Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau"
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng d́u dắt gần cầu Lá Buôn.
835.  Đương khi mưa gió luông tuồng,
Người buồn lại gặp kiểng buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao,
Dầu cho tài trí bực nào,
840.  Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đă ngất ngơ,"
"T́m nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưng."
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,"
"T́m nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi."
845.  Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy d́u dắt tới nơi Đại Đề.

Kiệm,Hâm Lừa Vân Tiên,Trói Tiểu Đồng

Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đă hai rằm,"
850.  "Cớ sao mang bệnh c̣n nằm nơi đây?"
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,"
"Chẳng hay chư hữu khoa nầy thế nào "
Hâm rằng :"Tử Trực đậu cao,"
"Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân,"
855.  "Một ḿnh về trước viếng thân,"
"Hai người trở việc c̣n lần đi sau."
"Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,"
"Người lành nỡ bỏ người đau sao đành."
"Từ đây tới quận Đông Thành,"
860.  "Trong ḿnh có bệnh, bộ hành sao xong?"
Lần hồi đến chốn Giang Trung,
"T́m thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau."
Tiên rằng:"T́nh trước ngăi sau,"
"Có thương xin khá giúp nhau phen này."
865.  Hâm rằng:"Anh tạm ngồi đây,"
"Tiểu đồng người tới trước nầy cùng ta."
"Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,"
"Pḥng khi sông biển phong ba bất kỳ ."
Tiểu đồng vội vă ra đi,
870.  Muốn cho đặng việc quản ǵ lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm đao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,"
"Hại Tiên phải dụng mưu nầy mới xong."
870.  Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.


Thầy Tṛ Vân Tiên Khóc Thương Nhau


Vân Tiên than khóc nằm lăn
"Có đâu địa hăm thiên băng th́nh ĺnh." (*)
"Bấy lâu đất khách lưu linh,"
880.  Một thầy một tớ lộ tŕnh nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau,
"C̣n ai nâng đỡ trước sau cho ḿnh"!."
Hâm rằng: "Anh chớ ngại t́nh,"
"Tôi xin đưa tới ĐôngThành thời thôi."
885.  Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang.
"Phận ḿnh đă mắc tai nàn,"
890.  "Cảm thương họ Lục suối vàng bơ vơ."
"Xiết bao những nỗi dật dờ,"
Đ̣ giang nào biết, bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chưng cùng !"
895 Vái rồi lụy nhỏ ṛng ṛng,
Đêm khuya ngồi dựa cội ṭng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cơng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
900.  Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.

Tưởng Vân Tiên Chết, Tiểu Đồng Thủ Nghĩa


  Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn, kẻ bán, chợ phiên nhộn nhàng.
905.  Hỏi thăm bà quán giữa đàng,
Bữa qua có thấy người tang chăng là?
Quán rằng thôi đă ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn.
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
910.  Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng?"
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vă bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
915.  Đồng rằng : "Tớ tới kiếm thầy,"
"Chẳng hay người thác mả nầy là ai ?"
Người nầy : "Một gă con trai,"
"Ở đâu không biết lạc loài đến đây."
"Chưng, tay, mặt, mũi tốt thay,"
920.  "Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương."
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi !
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
925.  Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che cḥi giữ mả ḷng toan trọn bề.
Một ḿnh ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyên giáo, tối về quảy đơm.
Dốc ḷng trả nợ áo cơm,
930.  Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.

Vân Tiên Bị Trịnh Hâm Xô Xuống Sông



  Thứ nầy đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cảm thương phận tớ mắc nàn khi không.
935.  Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
940.  Vân Tiên bị gă xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục, xót xa tấm ḷng.

Vân Tiên Được Ngư Ông Cứu



945.  Vân Tiên ḿnh lụy giữa ḍng,
Giao long d́u dắt vào trong bực rày.
May vừa trời đă sang ngày,
Thuyền chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,
950.  Ông hơ bụng dạ, bà hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ than ḿnh phải nước trôi,
Hay đâu ḿnh hăy đặng ngồi dương gian.
955.  Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng:"Người ở cùng ta".
"Sớm mai hẩm hút một nhà cho vui"
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,"
960.  "Thân tôi như thể trái mùi trên cây.
" May đà trôi nổi đến đây,"
"Không chi báo đáp ḿnh nầy trơ trơ."
Ngư rằng:"Ḷng lăo chẳng mơ, "
Dốc ḷng nhân nghĩa há chờ trả ơn ?"
965.  Nước trong rửa ruột sạch trơn,"
Một câu danh lợi chi sờn ḷng đây."
Rày doi, mai vịnh vui vầy, "
Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng. "
Một ḿnh thong thả làm ăn, "
970.  Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.
"Nghêu ngao nay chích mai đầm." (*)
Một bầu trời đất vui thầm ai hay. "
Kinh luân đă sẵn trong tay, "
Thung dung dưới thế vui say trong trời.

Vân Tiên Nhờ Ngư Ông Dẫn Về Nhà Vơ Công



975.  "Thuyền nan một chiếc ở đời,
"Tắm mưa trải gíó trong vời Hàn giang."
Tiên rằng : " Vậy cũng một làng,
"Vơ công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà đó cũng gần,
980.  "Khỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơi."
Tiên rằng: " Xưa đă gá lời,
"Sui gia bao nỡ đổi lời chẳng thương.
"Vợ chồng là đạo tao khương,
" Chi bằng tới đó t́m phương gởi ḿnh."
985.  Trăm năm muốn trọn ân t́nh
"Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
"Chút nhờ cứu tư ûơn sâu,
"Xin đem tới đó trước sau cho tṛn."
Ngư rằng : " Làm đạo rể con,"
990.  "Cũng như sợi chỉ mà ḷn trôn kim.
"Sợ bay mà mỏi sức chim,
"Bơ vơ cảnh lạ khôn t́m cây xưa.
"E khi chậm bước tới trưa,
"Chớ đi sông cũ bến xưa mà lầm.
995.  "Mấy ai ở đặng hảo tâm,
"Nắng đun chót nón, mưa dầm tả tơi.
"Mấy ai hay nghĩ việc đời,
"Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu.
"Đă ba thứ tóc trên đầu,
1000.  "Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời."
Vân Tiên thưa đă hết lời,
Ngư ông chẳng đă tách vời đưa sang.

Thấy Vân Tiên Mù , Nhà Họ Vơ Thất Ước



  Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
Vơ công xem thấy ḷng càng hổ ngươi.
1005.  Chẳng qua sợ thế gian cười,
Một lời gượng gạo chào người ngày xưa:
"Ngư ông đă có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn."
Ngư rằng : " Tôi chẳng ḷng sờn."
1010.  "Xin tṛn nhân ngăi c̣n hơn bạc vàng."
"Nhớ xưa trong núi Lư san,"
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.
Tới sau đ́nh trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạng Vơ qua miền Ô giang.
1015.  Xưa c̣n thương kẻ mắc nàn,
Huống nay ai nỡ quên đàng ngăi nhân.
Một lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giă lui chưng xuống thuyền.
Vơ công không ngớt ḷng phiền,
1020.  Ân t́nh thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Ngươi hăy ngồi đây,"
"Cho ta trở lại sau này liệu toan."
Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
"Ḍ ḷng ái nữ Thể Loan thế nào ?
1025.  "Mặc con toan liệu làm sao,
"Vốn không ép vợ, nỡ nào ép con."
Loan rằng: "Gót đỏ như son,"
"Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn ?
"Ai cho sen muống một bồ,"
1030.  "Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê."
"Thà không trót chịu một bề,"
Nỡ đem ḿnh ngọc dựa kề thất phu.
Đă công chờ đợi danh nhu,
Rể đâu có rể đui mù thế ni,
1135.  "Đă nghe người nói hội này,"
Rằng: "Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa."
"Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương họ Vơ một nhà mới xinh."

Vơ Công Bỏ Vân Tiên Vào Hang Thương Ṭng



  Công rằng: "Muốn trọn việc ḿnh,"
1040.  Phải toan một chước dứt t́nh mới xong.
Nghe rằng: "Trong núi Thương Ṭng."
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
"Đông Thành ngàn dặm c̣n xa,"
"Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu ?"
1045.  Phút vừa trăng đă đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than.
Vơ Công ra trước dỗ chàng:
"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành."
Ra đi đương lúc tam canh,
1050.  Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa.
Tiên rằng: " Các chú đưa ta,"
"Xin đưa tôi tới quê nhà sẽ hay."
1055.  "Ghi ḷng dốc trọn thảo ngay,"
"Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên."
Lặng nghe vắng tiếng hai bên,
Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hăi hùng,
1060.  Nghĩ ra mới biết Vơ Công hại ḿnh.
Nực cười con tạo trớ trinh,
Chữ duyên tráo chác, chữ t́nh lăng xao.
Nghĩ ḿnh tai hại biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
1065.  Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ, gặp đàng bẫy cheo.
Trong hang sau trước quạnh hiu,
Muốn ra cho khỏi ai d́u dắt đi ?
Oan gia nợ đă khéo gây,
1070.  Ôi thôi thân thể c̣n ǵ mà toan.
Đă đành xa cơi nhân gian,
Dựa ḿnh vào chốn thạch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi ḷ.
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng.
1075.  Năm ngày chịu đói khát ṛng.
Nhờ ba hườn thuốc đỡ ḷng hôm mai.

Vân Tiên Lại Được Tiều Phu Cứu Giúp



  Du thần xem thấy ai hoài,
Xét trong ḿnh gă có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên,
1080.  Cùng nhau d́u dắt đều liền đem ra.
Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lại sơn trung,
Vân Tiên c̣n hăy giấc nồng mê man.
1085.  Lăo tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới đường đại lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
"Hay là yêu quái tà gian ?"
1090.  Rung cây nhát lăo làm đường hại nhân.
Lăo tiều liền bước lại gần,
Thiệt là một gă văn nhân mắc nàn,
Chi bằng lên tiếng hỏi han:
"Nhân sao mắc việc tai nàn thế nây ?"
1095.  Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội vàng gượng dậy tŕnh bày trước sau.
Lăo tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
"Ít người trong tuyết đưa than,"
1100.  Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương."
Vân Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay.
Ngửa trông lượng cả cao dày ,
"Cứu trong một buổi, ơn tày tái sinh."
1105.  "Mai sau về tới Đông Thành,"
"Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi."
Lăo tiều mới nói : " Thôi thôi,"
"Làm ơn mà lại trông người sao hay ?"
"Già hay thương kẻ thảo ngay,"
1110.  "Nầy thôi để lăo dắt ngay về nhà."
Tiên rằng: "Trong dạ xót xa,"
Nay đà sáu bữa không ḥa mùi chi. "(*)
"Lại thêm rũ liệt tứ chi, "
"Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi."
1115.  Lăo tiều nầy ngỡ nực cười,
Mở cơm trong gói, miệng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,"
"Lăo ra sức lăo cơng Tiên về nhà."

Vân Tiên Gặp Lại Hớn Minh



  Khỏi rừng ra tới ngă ba,
1120.  May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
Lăo tiều lật đật bôn tŕnh,
Hớn Minh theo hỏi sự t́nh một khi.
Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ c̣n nghi nỗi ḿnh.
1125.  Minh rằng: "Dám hỏi nhân huynh,
"Cớ sao nên nỗi thân h́nh thể ni ?"
Tiên rằøng: "Chẳng xiết nói chi,"
"Thân nầy nào có khác ǵ cây trôi."
"Lênh đênh gió dập sóng dồi,"
1130.  "Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,"
"Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu "
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
1135.  Hớn Minh quỳ gối lạy liền :
"Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành."
"Nầy hai lượng bạc trong ḿnh,"
"Tôi xin báo đáp chút t́nh cho ông."
Tiều rằng: "Vốn lăo t́nh không,
1140.  "Một ḿnh ngơ ngẩn non ṭng hôm mai."
"Tấm ḷng chẳng muốn của ai,"
"Lánh nơi danh lợi chông gai cực ḷng."
"Ḱa non, nọ nước thong dong,"
"Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai."
1145.  "Công hầu phú quí mặc ai,"
"Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày."
Vân Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ pḥng ngày đền ơn.
Lăo tiều trở lại lâm sơn,
1150.  Tiên, Minh hai gă đều hoàn am mây.
Tiên rằng: "Đă gặp khoa nầy,"
"Cớ sao ngọc hữu ở đây làm ǵ ?"
Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
"Gặp nơi miếu vơ đề đi một lần.
1155.  "Anh th́ về trước tỉnh thân,"
"Tôi th́ mang gói sau lần ra kinh."

Hớn Minh Đem Vân Tiên Về Chùa



  "Đi vừa tới huyện Loan Minh,"
"Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
"Giàu sang ỷ thế dọc ngang,"
1160.  "Gặp con gái tốt cưỡng gian không ngh́."
"Tôi bèn nổi giận một khi,"
"Vật chàng xuống đó bẻ đi một gị.
"Ḿnh làm nỡ để ai lo,"
"Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng."
1165.  "Án đày ra quận Sóc Phang,"
"Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây."
"Vừa may mà gặp chùa này,
"Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương."
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
1170.  Lại bày một khúc tai ương phận ḿnh.
Minh nghe Tiên nói động t́nh,
Hai hàng châu lụy như b́nh nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thương cội xuân huyên,
"Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
1175.  "Trông con như cá trông dào,
"Ḿnh nầy trôi nổi phương nào biết đâu ?
"Vầng mây giăng bạc trên đầu,
"Ba năm chưa trọn một câu sinh thành.
"Hữu tam bất hiếu đă đành, (*)
1180.  "Tiểu đồng trước đă v́ ḿnh thác oan.
"Tưởng thôi như cắt ruột gan,
"Quặn đau chín khúc, chứa chan mấy lần."
Minh rằng: " Người ở trong trần,
Có khi phú quư có lần gian nan.
1185.  Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
Gặp khi lửa đỏ máu càng thêm xuê.
Thôi thôi anh chớ vội về,
Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
Bao giờ hết lúc tai nàn,
1190.  "Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh."
"Cam La sớm gặp cũng xinh,"
"Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời."
"Nên hư có số ở trời,"
"Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong."
1195.  Vân Tiên khi ấy an ḷng,
Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.

Vơ Công Gá Duyên Thể Loan Cho Tử Trực


  Vơ công làm việc trớ trinh,
Dứt t́nh họ Lục, mến t́nh họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
1200.  Thể Loan hớn hở ḷng càng thêm vui.
Ngày này trang điểm phấn dồi,
Pḥng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Vơ thăm bề Vân Tiên.
1205.  Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,"
"Trước đà lâm bệnh huỳnh tuyền xa chơi."
"Thương chàng phận bạc trong đời,"
"Cũng v́ Nguyệt lăo xe lơi mố́ hồng."
Nghe qua Tử Trực chạnh ḷng,
1210.  Hai hàng nước mắt ṛng ṛng như mưa.
Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,"
"Nghĩa đà kết nghĩa, t́nh chưa phỉ t́nh."
"Trời sao nỡ phụ tài lành,"
"Bảng vàng chưa thấy, ngày xanh đă ṃn."
1215.  "Cùng nhau chưa đặng vuông tṛn,"
"Người đà sớm thác ta c̣n làm chi ?"
"Trong đời mấy bực cố tri,"
"Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm ?" Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
1220.  "Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang.
"Thôi thôi khuyên chớ thở than,
"Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
"Tới đây th́ ở lại đây,
"Cùng con gái lăo sum vầy thất gia.
1225.  "Pḥng khi hôm sớm vào ra,
"Thấy ngươi Tử Trực cũng là thấy Tiên."

Tử Trực Mắng Chửi Họ Vơ Thậm Tệ



  Trực rằng: "Ng̣i viết dĩa nghiên,
"Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
"Vợ Tiên là Trực chị dâu,
1230.  "Chị dâu em bạn dám đâu lỗi ngh́.
"Chẳng hay người học sách chi,
"Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe?
"Hay là học thói nước Tề,
"Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công.(*)
1235.  "Hay là học thói đường cung,
"Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân.
"Người nay sao phải nhà Tần,
"Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.
"Nói sao chẳng biết hổ thầm,
1240.  "Người ta há phải là cầm thú sao?"
Vơ công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trăn khôn căi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra,
Miệng chào: "Thầy Cử tân khoa mới về."
1245.  "Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
"Lỡ bề sửa trấp, lỡ bề nâng khăn.
"Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,
"Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
"Chẳng ưng th́ cũng làm khuây,
1250.  "Nỡ buông lời nói chẳng v́, chẳng kiêng?"
Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên,
"Pḥng loan đem thói điêu Thuyền trêu ngươi?
"Mồ chồng ngọn cỏ c̣n tươi,
"Ḷng sao mà nỡ buông lời nguyệt hoa?
1255.  "Hổ hang vậy cũng người ta,
"So loài cầm thú vậy mà khác chi?

Vơ Công V́ Nhục Mà Chết



  "Vân Tiên anh hỡi cố tri,"
"Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
1260.  Về nhà sắm sửa t́m qua Đông Thành.
Vơ Công hổ thẹn trong ḷng,
Năm ngày nhuốm bệnh thất t́nh chết oan.
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.

Kiều Công Cho Mời Lục Ông Đến



1265.  Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga,
Hà khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều công lên chức Thái khanh,
Chỉ sai ra quận Đông Thành chăn dân.
Ra tờ khắp hết xa gần,
1270.  Hỏi thăm họ Lục t́m lần đến nơi.
Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông Vâng lệnh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi Lục Vân Tiên,
Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
1275.  Thưa rằng: " Nghe tiếng đồn vang,
"Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.
"Biệt tin từ ấy nhẫn nay,
"Phút nghe người nói châu mày lại thương!" Kiều công trong dạ bàng hoàng,
1280.  Trở vào nói lại cùng nàng Nguyệt Nga:
"Lục ông nói lại cùng cha,
"Duyên con rày đă trôi hoa dạt bèo."
Riêng than chút phận tơ điều ,
Hàn Giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi!(*)
1285.  Nàng rằng: " Phải thiệt như lời,"
"Xin cha sai kẻ mời người vào trong."


Thấy Tượng Lục Ông Nhớ Con



  Nguyệt Nga đứng dựa bên pḥng.
Tay ôm bức tượng khóc ṛng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa?"
1290.  "Nguyệt Nga con khá đem đưa người nh́n."
Lục ông một buổi ngồi nh́n,
Tay chưng vóc vạc đều in con ḿnh.
Chuyện tṛ sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự t́nh mới hay:
1295.  "Thương con phận bạc lắm thay,
"Nguyền xưa c̣n đó, con rày đi đâu?"
Kiều công chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:
1300.  "Giải cơn phiền năo kẻo mang lấy sầu."
"Người đời như bóng phù du,
"Sớm c̣n tối mất, công phu lỡ làng.
"Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,(*)
"Cũng chưa nên nghĩa tao khang đâu mà.
1305.  "Cũng như cửa sổ ngựa qua,
"Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền ?"
Nàng rằng: "Trước đă trọn nguyền,
"Dẫu thay mái tóc phải nh́n mối tơ."
Công rằng: "Chút nặng t́nh xưa,
1310.  Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi ?
"Ngỡ là con trẻ mất đi,
"Hay đâu cốt cách c̣n ghi tượng nầy.
1315.  "Bây giờ con lại thấy đây,
"Tấm ḷng thương nhớ dễ khuây đặng nào ?
"Ngửa than: "Đất rộng trời cao,
"Tre c̣n măng mất lẽ nào cho cân."
Lục ông từ tạ lui chân,
1320.  Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang.

V́ Đau Buồn Nguyệt Nga Nhuốm Bệnh



  Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang ḷng vàng.
Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu.
1325.  Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ c̣n người mất, trời ôi là trời !
Thuở xưa giữ dạ ghi lời,
1330.  Thương người quân tử biết đời nào phai ?
Tiếc thay một dự anh tài,
Việc văn, việc vơ nào ai dám b́ ?
Thương v́ đèn sách ḷng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng ǵ là đâu !
1335.  Thương v́ hai tám trên đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương v́ chẳng đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh.
Thương v́ đôi lứa chưa thành,
1340.  Vùa hương bát nước ai dành ngày sau ?
Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nh́n bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là ?

Kiều Công Khuyên Nhủ Con



1345.  Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa ḷng vàng.
Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
"Gẫm trong c̣n mất là đường xưa nay.
"Đàn cầm ai khéo dứt dây,
1350.  "Chẳng qua con tạo đổi xây không thường."
Nàng rằng: "
Khôn xiết nỗi thương,
"Khi không găy cánh giữa đường ai hay.
"Nay đà loan phụng rẽ bầy,
"Nệm nghiêng gối chích phận nầy đă cam.
1355.  "Trăm năm thề chẳng ḷng phàm, (*)
"Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người.
"Thân con c̣n đứng giữa trời,
"Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi."
Kiều công trong dạ chẳng vui:
1360.  "Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"

Thái Sư Hỏi Vợ Cho Con, Bị Nguyệt Nga Từ Chối



  Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
1365.  Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước kết đàng sui gia.
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy,
1370.  Đem ḷng oán hận sớm ghi vào ḷng.

Hận Kiều Gia Thái Sư Đem Nguyệt Nga Cống Giặc




Phút đâu giặc mọi làm hung,
Lung lăng nết dữ binh nhung dấy loàn.
Đánh vào tới ải đồng quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần.
1375.  Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra.
Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vội vàng qú xuống tâu qua ngai vàng:
"Thủa xưa giặc mọi dấy loàn,.
1380.  "V́ ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa.
"Muốn cho khỏi giặc Ô Qua,
"Đưa con gái tốt giao ḥa thời xong.
Nguyệt Nga là gái Kiều Công,
"Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh."
1385.  "Nàng đà có sắc khuynh thành,"
"Lại thêm rất bậc tài t́nh hào hoa."
"Đưa nàng về nước Ô Qua,"
Phiên Vương ưng dạ ắt là băi binh,
Sở Vương nghe tấu thuận t́nh,
1390.  Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành.
Sắc phong Kiều lăo Thái khanh:
"Việc trong nhà nước đă đành cậy ngươi.
"Nguyệt Nga nàng ấy nên người,"
Lựa ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ."

V́ Thủ Tiết Nguyệt Nga Định Quyên Sinh


1395.  Kiều công Vâng lệnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
Nguyệt Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất t́nh trâm nọ biếng cài,
1400.  Dựa mành bỏ xả tóc dài ngồi lo:
"Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
"Bởi ngươi Diên Thọ họa đồ gây nên.
"Hạnh Ngươn sau cũng khỏi miền,
"Bởi chưng Lư Kỷ cựu hiềm c̣n ghi.
1405.  "Hai nàng chẳng đă phải đi,
"Một là ngay chúa, một v́ thảo cha.
"Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
"Thương vua nhà Hớn, vốn đà quyên sinh.
"Hạnh Ngươn nhảy xuống Tŕ Linh,
1410.  Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha.
Tới nay phận bạc là ta,
"Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
"T́nhphu phụ, nghĩa quân thần,
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên.
1415.  Nghĩa t́nh nặng cả hai bên,
"Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
"Sao sao một thác thời xong,
"Lấy ḿnh báo chúa, lấy ḷng sự phu."

Nguyệt Nga Xin Cha Được Trả Nghĩa Đáp T́nh



  Kiều công nương gối đang lo,
1420.  Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
Kêu vào ngồi dựa trường tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh.
"Chẳng hay là việc triều đ́nh,
"Nào cha có muốn ép t́nh chi con?
1425.  Nàng rằng: " C̣n kể chi con,
"Bơ vơ chút phận mất c̣n quản bao.
"Thương cha tuổi tác đă cao,
"E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
"Tuổi già bóng xế nhành dâu,
1430.  "Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
Công rằng chẳng xá việc nhà,
"Hăy an dạ trẻ mà qua nước người.
"Hôm nay đă tới mồng mười,
"Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành.
1435.  Nàng rằng: " Việc ấy đă đành.
"C̣n lo hai chữ ân t́nh cho xong.

Nguyệt Nga Thăm Lục Ông, Cúng Vân Tiên



  "Con xin sang lạy Lục ông,"
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
"Ngỏ cho nhân nghĩa vẹn tuyền,
1440.  "Pḥng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau.
Kiều công biết nghĩ trước sau,
Dạy đem tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra trước một khi,
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
1445.  Ngày lành giờ ngọ đăng đàn,
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
1450.  "Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay ?".
Bảy ngày rồi việc làm chay,
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
"Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
"Đă đành một chữ má hồng vô duyên.
1455.  "Rày vua gả thiếp về Phiên,
"Quyết ḷng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
"Chẳng chi cũng gọi là dâu,
"Muốn lo việc nước, phải âu việc nhà.
"Một ngày một bước một xa,
1460.  "Của nầy để lại cho cha dưỡng già."
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.

Thấy Thảm Cảnh, Các Quan Nhỏ Lệ


  Các quan xe giá bộn bề,
Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay.
1465.  Hai mươi nay đă đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
Công rằng: "Thật dạ xót xa,
1470.  Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu."
Nàng rằng: "Non nước cao sâu,
"Từ đây cách khỏi, khôn hầu thấy cha.
"Thân con về nước Ô qua
"Đă đă đành một nỗi làm ma đất người.
1475.  "Hai phương nam bắc cách vời,
"Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
"Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
"Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha."
Kiều công hạt lụy nhỏ sa,
1480.  Các quan ai thấy cũng là t́nh thương.
Chẳng qua việc ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.
Buồm trương, thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón, ngùi ngùi đứng trông.

Kiều Nguyệt Nga Tự Vẫn


1485.  Mười ngày đă tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộng, đùng đùng sóng xao
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ,
1490.  Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tṛn.
Than rằng: "Nọ nước ḱa non,
"Cảnh thời thấy đó, người c̣n về đâu?"
Quân hầu đều ngủ đă lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một ḿnh:
1495.  "Vắng người có bóng trăng thanh,
"Trăm năm xin gởi chút t́nh lại đây.
"Vân Tiên anh hỡi có hay,
"Thiếp nguyền một tấm ḷng ngay với chàng." Than rồi lấy tượng vai mang,
1500.  Nhắm chừng nước chảy vội vàng nhảy ngay.

Kim Liên Thay Nguyệt Nga Cống Ô Qua


  Kim Liên thức dậy mới hay,
Cùng quân thể nữ một bài đều lo.
Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
Thầm toan mưu kế chẳng cho lậu t́nh.
1505.  Việc nầy là việc triều đ́nh,
Đốc quan hay đặng ắt ḿnh thác oan.
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.
Trá hôn về nước Ô Qua,
1510.  Ai mà vạch lá, ai mà t́m sâu?
Tính rồi xong xả chước mầu,
Phút nghe thuyền đă đến đầu Ải quan.
Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
1515.  Nào hay tỉ tất Kim Liên,
Đặng làm Hoàng hậu nước Phiên một đời.

Nguyệt Nga Được Phật Quan Âm Cứu


  Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời.
Sóng thần đưa đẩy vào nơi băi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
1520.  Nguyệt Nga hồn hăy chơi rày âm cung.
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Ḿnh nằm giữa băi lạnh lùng ai hay ?
Quan âm thương đấng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
1525.  Dặn rằng: " Nàng hỡi Nguyệt Nga!
"T́m đường nương náu cho qua tháng ngày.
"Đôi ba năm nữa gần đây,
"Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi."
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,
1530.  Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.
Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?
Một ḿnh luống những bâng khuâng,
Phút đâu trời đă rạng hừng vừng đông.

Bùi Ông Nhận Nguyệt Nga Làm Con Nuôi



1535.  Một ḿnh mang bức tượng chồng,
Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
Ông rằng: "Nàng ở hà phương?"
"Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?".
Nàng rằng trận gió thổi qua,
1540.  "Ch́m thuyền nên nỗi ḿnh ra thế nầy.
"Tối tăm sẩy bước tới đây,
"Xin soi xét tới thơ ngây lạc đường."
Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,
Chẳng phen đài các cũng phường trâm anh.
1545.  Đầu đuôi han hỏi sự t́nh,
Nàng bèn lời thiệt việc ḿnh bày qua.
Bùi ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con:
"Ta cũng xinh một chồi non,
1550.  "Tên là Bùi Kiệm hăy c̣n ở Kinh.
"Trong nhà không gái hậu sinh,
Ngày nay lại gặp minh linh phước trời.
Nguyệt Nga ở đă an nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa."

Thấy Nguyệt Nga Bùi Kiệm Sinh Tà Ư


1555.  Một lo về nước Ô qua,
E vua bắt tội cha già rất oan.
Hai lo phận gái hồng nhan,
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ ǵ.
Nguyệt Nga luống những sầu bi,
1560.  Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,
Đêm đêm trằn trọc pḥng hoa mấy lần.
Thấy nàng thờ bức tượng nhân,
Nghiệm trong tinh ư dần lân hỏi liền:
1565.  "Tượng nầy sao giống Vân Tiên?
"Bấy lâu thờ có linh thiêng điều ǵ?"
Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
"Một câu chánh tiết phải ghi vào ḷng.
"Trăm năm cho trọn đạo ṭng,
1570.  "Sống sao thác vậy một chồng mà thôi."
Kiệm rằng: " Nàng nói sai rồi,
"Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa?

Bùi Kiệm Xúi Nguyệt Nga Tái Giá


  "Làm người trong cơi gió mưa,
"Bảy mươi mấy mặt người xưa thế nào ?
1575.  "Chúa xuân c̣n ở vườn đào,
"Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
"Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
"Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
"Ở đời ai cậy giàu sang,"
1580.  Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua.
"Hay chi như văi ở chùa,
"Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh.
"Lênh đênh một chiếc thuyền t́nh,
"Mười hai bến nước biết ḿnh vào đâu?"
1585.  "Ai từng mặc áo không bâu,
"Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau?
"Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
"Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt ḿnh."
Nàng rằng: " Xưa học sử kinh,
1590.  "Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
"Chẳng phen thói nước Trịnh đâu,
"Hẹn người tới cửa vườn dâu tư t́nh."
Kiệm rằng đă biết sử kinh,
"Sao không soi xét để ḿnh ngồi không.
1595.  Hồ Dương xưa mới góa chồng,
"C̣n mơ nhan sắc Tống công cũng vừa. (*)
"Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,
"Sớm đưa Doăn Phủ tối ngừa Trần quân.
"Hán xưa Lũ hậu thanh xuân,
1600.  "C̣n vừa Cao tổ mấy đành Dị Ky.(*)
Đường xưa Vơ hậu thiệt ǵ,
"Di Tôn khi trẻ,Tam Tư lúc già. (*)
"Cứ trong sách vở nói ra,
"Một đời sung sướng cũng qua một đời.
1605.  "Chính chuyên làm sự đổi dời,
"Lăng Vân trắc nết hết đời cũng ma.
"Người ta chẳng lấy người ta,
"Người ta đâu lấy những là tượng nhân?
"Cho nên tiếc phận hồng nhan,
1610.  "Học đ̣i Như Ư vẽ chàng Văn Quân."(*)

Bùi Ông Dụ Nguyệt Nga Ưng Bùi Kiệm


  Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân,
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con ḿnh.
1615  "Làm người chấp nhứt sao đành,
"Hễ là lịch sự có kinh có quyền.(*)
"Tới đây duyên đă bén duyên,
"Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai ?
"Nhớ câu xuân bất tái lai,
1620.  "Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn.
"Làm chi thiệt mạng hồng nhan,
"Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
"Vọng Phu xưa cũng trông chồng,
"Ngày xanh ṃn mỏi má hồng phôi pha.
1625.  "Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
"Vầy cùng con lăo một nhà cho vui."

Dùng Kế Hoăn Binh, Nguyệt Nga Trốn Thoát



  Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,
Thưa rằng: " Người có công nuôi bấy chầy.
"Tôi xin dám hỏi lời nầy,
1630.  "Hăy tua chậm chậm sẽ vầy nhân duyên.
"Tôi vào lạy tạ Vân Tiên,
"Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung."
Cha con thấy nói mừng ḷng,
Dọn nhà sửa chỗ động pḥng cho xuê.
1635.  Chiếu hoa gối sách bộn bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra.
Xảy vừa tới lúc canh ba,
Nguyệt Nga lấy bút đề vài câu thơ.
Dán trong vách phấn một tờ,
1640.  Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi.
Hai bên bờ bụi rậm ŕ,
Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo.
1645.  Qua truông rồi lại lên đèo,
Dế kêu dắng dỏi, sương gieo lạnh lùng.
Giày sành, đạp sỏi thẳng xông, (*)
Vừa may trời đă vừng đông lố đầu.
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,
1650.  T́m nơi bàn thạch ngơ hầu nghỉ chưng.
Người ngay trời phật cũng vưng,
Lăo bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,
"Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta.
1655.  "Khi khuya nằm thấy Phật Bà,
Người đà mách bảo nên già phải đi."
Nguyệt Nga bán tín bán nghi,
Đánh liều nhắm mắt theo đi về nhà.
Bước vào thấy những đàn bà,
1660.  Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới hết nổi trôi chốn nào.
Hỏi thăm qua chốn Ô Sào,
Quan san mấy dặm đi nào tới nơi.(*)

Được Thuốc Thần Vân Tiên Sáng Mắt



1665.  Đoạn này tới thứ ra đời,
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bệnh đường xa,
1670.  Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đă năm lăm,
Chạnh ḷng nhớ tới đầm đầm nhỏ sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
1675.  Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
"Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay."
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
"Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
"Dám đâu bày mặt ra thi,
1680.  "Đă đành hai chữ qui y chùa này."
Tiên rằng: "Phước gặp khoa này."
"Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
"Mấy năm hẩm hút tương rau, (*)
"Khó nghèo nỡ phụ, sang giầu đâu quên.
1685.  "Lúc hư c̣n có lúc nên,
"Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay."
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.

Vân Tiên Về Nhà Tế Mẹ,Thăm Cha


  Lục ông nước mắt tuôn rơi,
1690.  Ai dè c̣n sống trên đời thấy cha.
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Kể đă mấy năm,
"Con mang tật bệnh ăn nằm nơi nao?"
1695.  Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
"Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an?"
Đặt bày lễ vật nghiêm trang.
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh.
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
1700.  "Chứng cho con trẻ ḷng thành ngày nay.
"Tưởng bể nguồn nước cội cây,(*)
"Công sâu ngàn trượng, ngăi dày chín trăng.
"Suy trang nằm giá khóc măng,
"Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa."

Vân Tiên Thưa Chuyện Cùng Kiều Công



1705.  Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
"Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
"Nhờ nàng nên mới ra bề,
1710.  "Chẳng th́ khó đói bỏ quê hư rồi."
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh ḷng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
"Đặng con đến đó đáp câu ân t́nh."
1715.  Lục ông thuật việc triều đ́nh,
Đầu đuôi chuyện văn tỏ t́nh cùng Tiên:
"Kiều công rày ở Tây Xuyên,
"Cũng v́ mắc nịnh biếm quyền đuổi ra."
Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt Nga,
1720.  "Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng."
Tây Xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều Công khóc liền:
"Nguyệt Nga rày ở Tây Phiên,
"Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.
1725.  "Mấy thu Hồ Việt đôi phang,
"Chẳng qua máy tạo én nhàn rẽ nhau.
"Thấy chàng dạ lại thêm đau,
"Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành?
"Hẹp ḥi đặng chút nữ sinh,
1730.  "Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn." (*)
Nói rồi lụy nhỏ đ̣i cơn,
"Cùng nhau một sự oán hờn nên gây.
"Thôi con ở lại bên này,
"Hôm mai thấy mặt cho khuây ḷng già."

Vân Tiên Đỗ Trạng Nguyên


1735.  Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kỳ.
Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
1740.  Kinh sư ngàn đặm một đường thẳng ra.
Vân Tiên dự trúng khôi khoa,
Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay,
Nhớ lời thầy nói thật hay :
"Bắc phương gặp chuột con rày nên danh."
1745.  Vân Tiên vào tạ triều đ́nh,
Lệnh ban y măo cho vinh về nhà.

Vân Tiên Xin Hớn Minh Làm Phó Tướng


  Xảy nghe tin giặc Ô Qua,
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
Sở vương phán trước ngai vàng,
1750.  Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong.
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng :
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh.
"Có người họ Hớn tên Minh,
"Sức đương Hạng Vơ mạnh ḱnh Trương Phi.
1755.  "Ngày xưa mắc án đày di,
"Phải về nương náu từ bi ẩn ḿnh."
Sở vương phán trước triều d́nh,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đ̣i về.
Sắc phong phó tướng b́nh di.
1760.  Tiên, Minh, tương hội xiết ǵ mừng vui.
Nhất thinh phấn phát oai lôi, (*)
Tiên phuông hậu tập trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng tŕnh,
Lănh cờ b́nh tặc phá thành Ô qua,
1765.  Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.

Vân Tiên,Hớn Minh Phá Giặc



  Phút đâu binh đáo quan thành, (*)
Ô qua xem thấy thối binh di đồn.
Tướng phiên hai gă đường đường,
1770.  Một chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ, tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh chàng Hỏa Hổ, Thần Long một hồi.
1775.  Hớn Minh chùy giáng dường lôi ,
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám ḱnh,
1780.  Thấy chàng hóa phép thoát ḿnh trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc ḿnh ngồi ngựa ô.
Một ḿnh lướt trận xông vô.
Thấy ngươi Cốt Đột biến hô yêu tà.
1785.  Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan,
Phép tà Cốt Đột hết phương,
1790.  Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
Trung, tiền, tả, hữu lưỡng biên,
Trạng nguyên, Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo.
1795.  Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao.(*)
Chạy ngang qua núi Ô sào,
Phút đâu con ngựa sa hào, thương ôi!
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
1800.  Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.

Bị Lạc,Vân Tiên Hỏi Thăm Bà Lăo



  Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một ḿnh lạc nẻo vào ra,
Lần theo đàng núi phút đà tam canh.
1805.  Một ḿnh trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ tŕnh trở ra.
Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đă hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi.
1810.  "Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi,
"Quan Âm thuở trước nói chi,
"Éo le phỉnh thiếp ḷng ghi nhớ hoài.
"Đă đành đá nát vàng phai,
"Đă đành xuống chốn dạ đài gặp nhau?"
1815.  Khôn trông mồng bảy đêm thu,
Khôn trông bầy quạ đội đầu đưa sao.(*)
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
1820.  Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
"Đường về quan ải chỉ ra cho cùng."
Nguyệt Nga ngồi sợ hăi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
1825.  Lăo bà lật đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một ḿnh?"
Vân Tiên mới nói sự t́nh:
"Tôi là quốc trạng trào đ́nh sai ra.
"Đem binh giẹp giặc Ô qua,
1830.  "Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây."

Vân Tiên Trùng Phùng Cùng Nguyệt Nga



  Lăo bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già."
Vân Tiên ngồi nhắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng ḷng đà sinh nghi.
1835.  Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
"Khen ai khéo vẽ dung nghi giống ḿnh.
"Đầu đuôi chưa rơ sự t́nh,
"Lăo bà khá nói tính danh cho tường.
Lăo bà chẳng dám lời gian:
1840.  "Tượng nầy vốn thiệt chồng nàng ngồi đây."
Tiên rằng nàng xích lại đây,
"Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe."
Nguyệt Nga ḷng rất kiên dè,
Mặt thời giống mặt c̣n e lạ người.
1845.  Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng sao nàng chẳng nói đi,
"Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
1850.  "Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
"Chàng đà về chốn cửu tuyền.
"Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng."
Vân Tiên nghe nói hỏi phăng:
"Chồng là tên ấy vợ là tên chi?"
1855.  Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vă xuống qú ṿng tay,
Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
"Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
"Để lời thệ hải minh sơn,(*)
1860.  "Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
"Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
"Gặp nhau nay đă phỉ rồi ước mơ."
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ, (*)
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
1865.  Thưa rằng: "Đă thiệt tên ngài,
"Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua."
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân t́nh càng kể càng ưa,
1870.  Mảng c̣n bịn rịn trời vừa sáng ngay.

Hớn Minh Đem Quân Đón Vân Tiên



  Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh
1875.  Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ t́nh cùng nhau.
Minh rằng: "Tẩu tẩu ở đâu,
"Cho em ra mắt chị dâu thế nào?
Vân Tiên đem Hớn Minh vào?,
1880.  Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
"Quyết đem binh mă qua miền Ô Qua.
"May đâu sum hiệp một nhà."
"Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào."
1885.  Tiên rằng: "Nàng tính thế nào?"
Nàng rằng: "Anh hăy về trào tâu lên.
"Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
"Lệnh tha tội trước mới nên về nhà.
" Trạng nguyên từ giă lăo bà,
1890.  Dặn ḍ gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
"Ta về đem bức tượng nầy,
"Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà."
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều ca đề huề. (*)

Cửu Trùng Hiểu Thấu Mọi Lẽ



1895.  Sở vương nghe Trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng ngài Trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
1900.  "Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
"Nay đà trừ Cốt Đột xong,
"Thiệt trời sinh Trạng giúp trong nước nhà.
"Phải chi trước có Trạng ra,
"Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ."
1905.  Lệnh truyên mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô qua rồi.
Trạng nguyên qú tấu một hồi.
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rơ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,
1910.  Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
"Chẳng ngờ nàng với Trạng nguyên,
"Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu."

Minh Quân Phán Xét Mọi Điều



  Thái sư trước bệ qú tâu:
"Ô Qua dấy động qua mâu cũng v́.
1915.  "Trá hôn oán ấy nên gây,
"Nguyệt Nga nàng thiệt tội th́ khi quân."
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng;
1920.  "Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
"Thái sư trước chẳng lo lừa,
"Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
"Dầu cho nhật nguyệt rơ ràng,
"Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
1925.  "Ngay gian sao cũng có trời,
"Việc nầy v́ trẫm nghe lời nên oan,
Trạng nguyên tâu trước trào đàng.
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
"Trịnh Hâm là đứa gian tà,
1930.  "Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen."
Sở vương phán trươc bệ tiền:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi. (*)
"Vậy cũng đạo chúa ngăi tôi,
"Thái sư ư muốn cướp ngôi chín trùng.
1935.  "Hán xưa có gă Đổng Công,
"Nuôi thằng Lữ Bố cướp ḍng nhà Lưu.
"Đời xưa tôi nịnh biết bao,
"Thái sư nay cũng khác nào thời xưa.
"Thấy người trung chính chẳng ưa,
1940.  "Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
"Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
"Ấy là mới hết người sau gian tà."
Sở vương phán trước trào ca,
Thái sư cách chức về nhà làm dân,
1945.  Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp h́nh.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
1950.  Trẫm cho phục chức làm quan đông thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đă thành,
Kiệu trương tán phụng cho đành vinh hoa.

Vân Tiên Bỏ Qua Thù Xưa




Băi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
1955.  Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu, đều vui, đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ác các người tính sao?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
1960.  Mặt nh́n khắp hết miệng chào các anh,
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
"Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
"Kéo ra chém quách cho rồi,
"Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan."
1965.  Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
"Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi.
"Xưa nay mấy đứa vô ngh́,
"Dầu cho có sống làm ǵ nên thân?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,
1970.  "Vốn em mới dại một lần xin dung.
Trạng rằng: "Hễ đứng anh hùng,
"Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
"Thôi thôi ta cũng rộng suy,
"Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
1975.  Hâm rằng: "Khỏi giết rất vui,"
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
C̣n ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như về thịt trâu.
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu,
1980.  Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong ḷng hổ thẹn ḿnh v́ máu dê.

Trời Xanh Có Mắt


  Trạng mguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
1985.  Bạc vàng đem tạ lăo bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.
Vơng điều, gươm bạc, lọng xanh,
Trạng nguyên, Tử trực, Hớn Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn Giang,
1990.  Sóng thần nổi dậy thuyền chàng ch́m ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy th́ đừng bất nhân.
1995.  Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đă gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
2000.  C̣n đương thơ thẩn vào ra Đại Đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc, lo bề tế riêng:
"Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
"Thảo t́nh thầy tớ ḷng thiềng ngày nay."
2005.  Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ṛng ṛng.
Người ngay Trời Phật động ḷng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên c̣n hăy sụt sùi,
2010.  Ngó lên bài vị lại xui ḷng phiền.
Tiểu đồng nhắm ngửa nh́n nghiêng:
"Ông nầy sao giống Vân Tiên cũng kỳ ?
"Ông nào mất xuống âm ti,
"Ông nào c̣n sống nay th́ làm quan?"
2015.  Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải ngươi đồng tử mắc nàn chốn ni?"
Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn.
"Ai dè c̣n thấy bổn quan,
2020.  "Ba năm ǵn giữ mồ hoang đă rồi."
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Đoạn thôi xe giá ra về,
Tớ thầy sum hiệp tại nơi đại đề.
Tuần dư phút đă gần kề Hàn Giang.

Mẹ Con Thể Loan Đổ Thừa Cho Vơ Công



2025.  Vơ Công từ xuống xuối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu,
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân t́nh,
2030.  Phải ra đón rước lộ tŕnh họa may.
Loan rằng: "Ḿnh ở chẳng hay,
"E người c̣n nhớ những ngày trong hang." Trang rằng: "Con có hồng nhan,
"Cho chàng thấy mặt thời chàng cũng ưa. "
2035.  Ví dầu c̣n nhớ tích xưa,
"Mẹ con ta lại đổ thừa Vơ Công,"
Cùng nhau bàn luận đă xong.
Soi gương đánh phấn ra pḥng rước duyên.

Mẹ Con Thể Loan Trơ Trẽn Đón Vân Tiên



  Nay đà tới thứ Trạng nguyên,
2040.  Hàn giang đă tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng, châu báu, áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
Ngư, tiều nay đặng danh biêu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
2045.  Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đă đứng kề trong quân.
Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
"Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên.
"Vơ Công đă xuống huỳnh tuyền,
2050.  "Xin thương lấy chút thuyền quyên phận nầy." Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy,
"Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
"Oan gia nợ ấy trả xong.
"Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đ̣i."(*)
2055.  Hớn Minh, Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho ḷng chẳng thẹn ḷng,
"C̣n mang mặt đến đèo ḅng nỗi chi?
"Ca ca sao chẳng chịu đi.
2060.  "Về cho tẩu tẩu để khi xách giày."

Gieo Nhân Gặp Quả



  Mẹ con đứng thẹn thuồng thay,
2062.  Vội vàng cúi lạy chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương Ṭng.
2067.  Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngăi sâu,
2072.  Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tṛn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp, tiếng c̣n bia danh.

Ca Khúc Khải Hoàn



  Trạng nguyên về đến Đông Thành,
Lục ông trước đă xây dinh ở làng.
2077.  Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đă xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
2082.
Sinh con sau nối gót lân đời đời.




-----------------  Hết    ---------

Nguồn: http://www.vietshare.com



Trở Lại Trang Mặt