www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com NÉT
NHẤT QUÁN TRONG NỀN
VĂN HÓA VIỆT Hay Nghịch
lý hài hòa trong nền Văn
hoá Việt
Hay Triết lý Nhân sinh của Việt Nho Việt Nhân A.-
Nghịch lý căn bản trong vũ trụ Nét
Nhất quán hay Nghịch lý hài
hòa
trong nền Văn hoá Việt, cũng là
triết lý Nhân sinh của Việt Nho ( Việt Nho :
Confucéisme: Nho có nền
tảng từ nếp sống Việt Nam ). Nghịch
lý là chân lý ngược
chiều theo Dịch: “
Dịch,
nghịch số chi lý: Dịch là
Lý
của hai loại số đối nhau hay ngược chiều, tổng
quát hơn là cặp đối cực (
opposite term ) “.
Các
cặp đối cực như
Gái / Trai thuộc loài
Người, Cái / Đực của
muôn vật, Mái / Trống của
loài chim, Nhị Cái / nhị Đức của
thảo mộc. Các
cặp đối cực này cứ không ngừng
tương sinh
tương khắc với nhau nhau mà biến
hoá không ngừng. Ta thấy giữa
các vật thể luôn
luôn tồn tại các trường, ( field )
biểu hiện bằng lực Hút, lực Đẩy hay gọi
chung là lực tương tác. Vật chất
luôn vận hành, luôn biến đổi
không ngưng nghỉ,
theo qui luật Âm- Dương, Ngũ hành.
Theo Kinh Dịch, trong vũ trụ có một điều
không
thay đổi đó là sự vận hành
không ngưng nghỉ. Cha
ông chúng ta gọi đó
là cuộc sinh
sinh hoá của Vũ trụ.
Nếu
không có các cặp đối cực
níu kéo xô đẩy
nhau mà biến hoá trong trạng
thái quân bình động
thì Quả Đất này chỉ là một
bãi
sa mạc mênh mông, khi đó chỉ
còn lại thế giới vô sinh. Cuộc
sinh sinh hoá hoá tạo ra thế giới
hiện tượng, Nho gọi là “ Tại Địa
thành hình “(
manifested world ) là thế giới Động,
trong thế giới này mọi sự đều biến
hoá, luôn
ở trạng thái tương đối, vì hết
tương đối là khi không còn
các cặp đối cực xô đẩy
níu kéo nhau. Nếu
là tuyệt đối thì chỉ
còn là trạng thái Yên
Tĩnh và Bất Động hoàn toàn,
Nho gọi là “ Tại Thiên thành
tượng : Thế giới
Tâm linh (
un-manifested world ). Từ những
cặp Nhỏ tới To, từ Gần tới Xa, từ Cụ thể tới
Trừu tượng, các cặp đối cực được tổng
quát hoá lần thành
Thiên / Địa, Trời / Đất, Vô thể /
Hữu Thể, Tâm linh / Thế sự
, Tĩnh / Động, Đạo
/ Đời, Âm / Dương, .
. . Âm
Dương được biểu thị bằng Thái cực
viên đồ . Đó
là Lý Thái cực: Lý
của “ Nhất lý thông vạn
lý minh “, Khi Âm Dương hoà
thì được tôn lên là
“
Đại Đạo Âm Dương hòa “.. Khi
Vô
thể và Hữu Thể giao hoà thì
là Vô cực ( Thái cực nhi
Vô cực ). Thái cực
viên đồ: Đen là Âm ( - ) ,
trắng là Dương ( + ) Trong đen (-
) có vệt trắng (+ ), trong Trắng ( + )
có vệt đen ( - ) Cha ông
chúng ta đã đem Đại Đạo vào
Đời bằng
cách lập ra Huyền thoại cặp Tiên /
Rồng của Âu Cơ và Lạc Long, Khi
Lạc Long và Âu Cơ gặp nhau
trên cánh Đồng
Tương để giao hoà thì đạt trạng
thái “ Thuận hòa “ được ca dao
tán tụng là ” thuận
Vợ thuận Chồng tát bể Đông cũng cạn
“ .
Nhờ đó
mà khi sống trong thế giới hiện tượng
này, con Người mới nhận thức rõ
được môi trường sống biến hoá một
cách tương
đối để nương theo cánh thời gian
mà vươn lên, cũng như dàn
xếp mọi vấn đề trong
cuộc sống hàng ngày cho ổn thoả,
nếu không, thì khó
tránh được những trạng thái
mất quân bình, làm rối loạn
cuộc sống gia đình và xã
hội. B.-
Nghịch lý nơi
con Người I.- Trong
Cấu tạo cơ
thể Trong
Cơ thể con người ta
thấy các bộ phận
con người được cấu tạo đối xứng theo trục ngang,
bộ máy Hô hấp có hơi thở
Vào,
thở Ra nhịp nhàng, bộ máy Tuần
hoàn thì có sự Dãn nở
và Co bóp của quả Tim
giúp máu lưu thông Vào
Ra tuần hoàn, bộ
máy tiêu hoá giúp cho
việc ăn Vào và thải Ra trôi
chảy, trong hệ Thần kinh thì
sợi dây Thần kinh Vận động ( Động )
và sợi dây thần kinh Cảm giác
( Tĩnh ) cũng
vận hành êm thắm. . . Khi những
tác động
sinh lý ngược chiều như thế được cân
bằng, nghĩa là điều hòa thì
con người mới được
sinh tồn và phát triển, khi mỗi thứ
mất quân bình thì con người
đều ở trong trạng
thái bất ổn. Cũng thế,
những sinh hoạt hàng ngày như Đi /
Đứng, Làm / Nghỉ, Ăn / Nói,. . .
đều nhất luật phải giữ được quân
bình thì mọi
sự mới êm xuôi. Khi
chân bước tới thì Động,
còn chân kia phải- Tĩnh - ở
yên một chỗ,
có kết hợp được Động Tĩnh đều đặn
thì bước đi mới vững vàng.
Viêc Ăn Nói cũng
vậy, Ăn Vào, Nói Ra cũng đều phải
điều hòa thì sinh hoạt mới ” thuận
chèo mát mái”
. Khi
các đối cực trên tương tác
với
nhau lập
được thế quân bình động thì
con
người không những duy trì được sự
sống mà còn đạt tiến bộ mà
phát triển. Suy
rộng ra ta có luật Cho và Nhận:
Cho Ra ( giving ) là Phá ( tiếng
nhà Phật ) mà Nhận
Vào ( receiving ) là Chấp, luật
sống Chấp / Phá cũng phải điều
hòa. Tất
cả các đối cực đều phải được cân
bằng thì mới
hoà nhịp được với Thiên lý. Đó
là Dịch lý, là Thiên
lý ( 1 )
hay luật Trời được in sâu vào trong
con
người và vạn vật để giúp sự vận
hành của vũ trụ được duy trì
và phát triển. Con
người không thể chống lại hay sửa
đổi
được, chỉ nương theo, khai thác
những định luật trong vũ trụ mà sống
còn. Những cặp đối cực biến
hoá này, đã có sẵn ngay trong mỗi
người và khắp vũ trụ, không ai
không có và không
thấy, chỉ vì thường quá, nên
con người mất ý thức. Vì mất
ý thức nên trong đời sống
hàng ngày, con người đã
đánh mất nét gấp đôi ( dual
unit ) làm lỗi nhịp tiến hoá, khi
chỉ còn
một cực thành Duy Lý một chiều,
gây nên rối loạn. Đó
là nguồn đại loạn của nhân loại.. II.-
Trong Sinh hoạt Trong đời
sống hàng ngày, con
người cũng phải sinh hoạt làm sao để
có đủ Vật chất, giúp cho Thể
xác khỏe mạnh
và đồng thời cũng phải hoạt động
Trí óc để nâng cao Tinh thần
cho tráng kiện, càng
hoạt
động thì khả năng con người càng
phát
triển, nhưng phải làm sao cho hai yếu tố
vật
chất và tình thần ngược nhau
được đồng bộ cân xứng nghĩa
là hoà hợp, có như
thế thì con Người mới có “ một
Tâm hồn
tráng kiện trong
một Thân thể khỏe
mạnh “. Ban
ngày thì Làm việc ( Động ),
ban Đêm thì
phải Nghỉ ( Tĩnh ), Làm và Nghỉ
có được điều hòa thì con
người mới khỏe mạnh. Làm
việc ban Ngày thì tiêu hao
năng lượng, nên
phải nghỉ ngủ ban Đêm để bổ sung tức
là thu nhận thêm nguồn Chi ( energy
) trong
không khí . Những nhà tập
luyện “ Tai Chi “ ( Chi là năng lượng )
cho rằng nếu
có được một giấc ngủ say không mộng
mị qua đêm thì năng lượng thu được
trong không
khí còn nhiều hơn năng lượng từ
nguồn thực phẩm ta ăn vào.Những người
làm đêm
ngủ ngày vì không được thuận
thời, tức là nghịch thiên
lý, nên gây rắc rối, nếu
bị mất ngủ một đêm là đã không
tránh khỏi
cảnh ủ dột vật vờ. Khi lập
thành xã hội, Tổ tiên
chúng ta đã dựng
nên Huyền
thoại Tiên Rồng để cụ thể,
đơn giản hoá vần đề đối cực cho dễ hiểu,
hầu lưu lại ý nghĩa cho cháu con.
Đó
là Minh triết
Tiên Rồng của dân tộc.
Triết là triệt Thượng và triệt Hạ.
Minh
triết là làm sao cho triệt Thượng
và triệt Hạ giao thoa ( interference ),
hay
giao chỉ ( nước
ta có tên Giao cũng theo
ý này ) cho
hài hòa. Triệt Thượng còn
gọi là “
Đội Trời “ hay “ Cao minh phối thiên: Kết
hợp với Trời cao sáng “ như Mẹ
Âu cơ lên núi cao tu
Tiên để un
đúc lòng Nhân ái.
Triệt
Hạ như Cha Lạc Long lặn xuống dưới
đáy biển sâu của thủy phủ,
còn gọi
“đạp Đất “ hay “ Bác hậu phối địa: Kết
hợp với Đất sâu dày “ để rèn
luyện Trí Công
chính cho được chu tri ( holistic
Knowledge ) hầu tránh cảnh phiến diện (
triết
lý sờ voi ) . Mục đích triệt
Thượng triệt hạ là để nhận ra ngọn nguồn
lạch sông
của cuộc sống con Người, Tổ tiên
chúng ta đã căn dặn chúng
ta về ba
chặng đường: “Đội Trời; đạp Đất;
ở Đời”. Khi sống Ở Đời phải làm sao cho
Triệt Thượng và triệt Hạ giao thoa
thì đạt
Minh triết, như Tổ tiên chúng
ta đã căn dặn là Mẹ Âu Cơ
và Cha Lạc Long gặp
nhau trên cánh đồng Tương để tương
giao, tương hòa. Nói
cách bình dân là sống
làm sao
cho “ trọn Tình vẹn Lý” hay “
Tình Lý tương tham “, Cụ nguyễn Du
còn
ví von: “ Bên ngoài
là Lý, bên trong là
Tình “ nghĩa là mỗi cá
nhân phải trau dồi
nguồn Tình để khi ra sống ngoài
xã hội hầu có khả năng thực hiện
lẽ Công chính
ngoài xã hội. Cái khó thứ nhất ở đời
là ý thức rõ được
chân lý ngược chiều trong mọi
lãnh vực để “ sống đủ Hai Chiều “. Cái khó hơn thứ hai
là làm sao cho cặp đối cực hay
nghịch số được giao
hoà. Thực hiện hài hòa được
hai điều đó thì đạt Minh triết.
Các
nhà Nho đã tìm ra tỷ lệ
giao hòa giữa cặp
đối cực là “ Tham( 3 ) Thiên
Lưỡng ( 2 ) Địa nhi
ỷ số
“ nghĩa là tỷ lệ giữa hai
đối cực tổng quát Thiên ( Tinh thần
) /
Địa ( Vật chất ) là 3 /2, theo Việt tộc
là Vài Ba ( 2 /
3 ) . Liều lượng trên được suy ra từ
số độ Ngũ hành ( 3 : Đông; 2: Nam )
hay là Cơ cấu nền “ Văn hoá
Đông Nam” của
Việt tộc . Ví dụ tỷ lệ Tình
Lý: Tình
3, Lý 2 giúp các đối cưc
đạt trạng thái
thái hòa. Vì con người bất
toàn, nên Tình phải nhiều
hơn để bao dung, còn Lý là
lẽ Công chính là nền tảng
của đời sống Hòa.
Trạng thái Hoà là
trạng thái hoàn toàn mới,
nó không còn là Tình
Lý nữa, mà là trạng
thái mới: thơ thới,
hoà vui, an bình. Ta có thể
lấy ví dụ sự giao thoa của hai nốt nhạc
thành cái bụng
và cái nút tạo thành
tiếng bổng và tiếng trầm trong âm
nhạc. Cái
bụng
và cái nút là do sự
đóng góp chung của hai nốt nhạc để
tạo nên một âm thành
hoàn
toàn mới du dương hơn nhiều. Hai
nhà Bác học Trung Hoa được giải
thưởng
Nobel là Lý Chánh Đạo
và Dương Chấn Ninh, khi bắn hạt
nhân nguyên tử, chắn lại và
đo tốc
độ hai vi tử Dương và Âm
thì đạt
kết quả 3 / 2,
kết quả thí nghiệm
này
có thể giúp ta có được được
sự tin cậy vào cơ cấu Ngũ
hành. Nghịch
lý hài hòa này
đã thâm nhập vào trong
hơi thở, lời ăn tiếng nói, cách ăn
mặc, lối hành xử của người Việt, chứ
không
chỉ trên lý thuyết như triết
Tây Âu, nên ta chỉ
có thể nhận ra được triết
lý nhân sinh khi đi sâu
vào đời sống Việt, dẫu người Tàu
có tịch thu sách, bắt
cống nạp nhân tài cũng
không sao tiêu diệt nền văn
hoá được . Để
không đánh mất nét gấp
đôi (
như Tình / Lý ) trong đời sống,
thì khi ra
sống ngoài Thế sự, ta phải “
suy tư “
bằng Lý trí, giúp
khám phá vũ trụ để nâng cao
tinh thần và vật chất. Những
hoạt động này
làm tiêu hao năng lượng. Vì
thế cho nên ta
phải bỏ lý
trí
mà
“
Quy Tư : No
mind “ bằng cảm quan để trở về nguồn sống
Tâm linh, hầu bổ sung nguồn
Sống ( Lòng Nhân ái )
và nguồn Sáng ( Lý
công chính). Để làm
sáng tỏ Minh triết Cha
ông đã thẩm nhập Nghịch lý
hài hoà vào
đời sống hàng ngày. ta hãy
trưng ra vài câu tục ngữ, ca dao về
Đạo lý làm Người
để thấy rõ: Về lòng
Nhân ái thì bảo: Lá
Lành đùm là Rách: Lá
lành / lá
Rách là cặp đối cực. Đùm
là bao bọc che chở, là tác
động giao hoà. Chị
Ngả Em Nâng: Chị / Em
là cặp đối
cực . Ngả xuống /
Nâng lên ngược chiều để
được giao thoa. Tay
Đứt Ruột Xót: Tay / Ruột
là cặp
đối cực. Đứt / Xót là đối cực giao
cảm. Máu
Chảy Ruột Mềm: Máu
/ Ruột là cặp
đối cực. Chảy / Mềm là liên hệ cơ
thể.
Về Lẽ Công bằng xã hội hay
lý Công chính thì: Phải
Người Phải Ta: Người / Ta
là cặp
đối cực. Phải
là theo nguyên lý “ Chiết
trung “để Hòa. Có
Đi
có Lại cho Toại lòng nhau: Đi /
Lại là cặp đối cực. Toại Lòng
là Đi Lại giao hòa Bánh
Ú Đi Bánh Dì Lại: Bánh
Ú/ bánh Dì là cặp
đối cực. Đi Lại để
giao hòa. Cục
Đất ném Đi, hòn Chì
ném Lại: Cục
Đất / Hòn Chì là Cặp đối
cực. Ném Đi / Ném Lại để giao
thoa.
Về sinh hoạt hàng ngày Suy
Đi Nghĩ Lại: Suy / Nghĩ,
Đi / Lại
đều là đối cực. Suy Đi là
ra đời để phát triển lý trí
mà sống.
Nghĩ Lại là trở về Nội
tâm, đi về nguồn
Tâm linh để tiếp cận với nguồn Sống
và nguổn Sáng để cho đối cực
Tâm linh và Thế
sư giao hòa. Ăn
có
Nhai, Nói có Nghĩ: Ăn Vào
/ Nói
Ra là cặp đối cực. Có Nhai để cho
việc tiêu hóa được tốt hơn
giúp cơ thể khỏe mạnh,
Có Nghĩ để phát triển Lý
trí hầu có Tinh thần minh mẫn. Mục
đích là “ Có một
tinh thần minh mẫn trong một thân thể
tráng kiện” để cho đối cực Thân thể
và
Tinh thần hài hòa. ( 2 ) Ở Đời
Khôn Dại chia Đôi: Khôn
/ Dại là
cặp đối cực. Chia Đôi là lẽ
công bằng ( tương đối ) để sống hoà
với nhau Học
Ăn học Nói, học Gói học Mở: Ăn
vào / Nói ra là cặp đối cực
. Gói Mở là hành động ngược
chiều, tất cả đều phải
học: “ Ăn Vóc Học Hay “ ,
“ Lời nói chẳng mất tiền mua liệu lời
mà nói cho Vừa Lòng nhau”,
tất cả đều hướng tới nguồn sống Hòa. Ở sao cho
Vừa Lòng người. Ở Rộng người Cười,
ở Hẹp người Chê: Ở Rộng / ở
Hẹp,
Cười / Chê là cặp đối cực. Ở cho “
Vừa
lòng người “là chấp kỳ lưỡng đoan
của nền Văn hoá “ Dĩ hoà vi
qúy” Suy rộng ra
những người trí thức không thể
vì khả năng và tư cách trội
vượt hơn mà khinh rẻ người dân, cho
là quê mùa lạc
hậu. Trong tôn giáo cũng vậy những
vị trọng hàng Giáo phẩm
không thể có liên hệ
cách biệt với giáo dân, đừng
cho giáo dân là thành
phần thấp kém bên dưới, vì
họ
là thành phần nền tảng căn bản
trong giáo hội, không có nền
dưới
thì làm gì có tầng
trên. Tất cả đều
phải hướng tới nét Lượng hợp hay
Lưỡng nhất để cho sinh hoạt chung được
hài hòa, mà Hoà
là cùng đích của vũ trụ,
vì không Hoà thì vũ
trụ rối loạn, con người khổ đau. Đó
là một vài câu dạy chúng ta sống theo Dịch
lý của nền Văn hoá “ Dĩ Hòa
vi quý “ trong
kho tàng Minh triết Ca dao tục ngữ. Nét
Lưỡng nhất hay Lưỡng hợp là nền tảng
của Dịch Việt, cũng là chìa
khóa mở tung
kho tàng văn hoá nươc
nhà: nguồn mạch bao la và linh
động hơn Tứ thư Ngũ Kinh
của Đức Khổng nhiều, đáng mặt là
kinh điển của Việt Nam, nhất là cơ cấu
“ Vài
Ba: 2-3 “ đã giữ cho Việt Nho
không thể bị xuyên tạc như Khổng
giáo. ( 2 : Dịch
lý tiến bộ và thái
hoà, 3: Nhân
chủ, 2 + 3 =5: là Tâm linh ).
Hán Nho là Khổng giáo bị
xuyên tạc thành bá đạo,
vì toàn là những câu
ngắn gọn rất cô đọng, nên mới bị cạo
sửa, giải thích xuyên
tạc. Dịch của
người Tàu chỉ chú trọng tới 64 quẻ
để
bốc phệ, mà không thể động đến vấn
đề nền tảng căn bản như Dịch Việt. Có
ý kiến
cho rằng vì là của chiếm đoạt,
người Tàu mới hớt được cái ngọn,
do Cha ông Việt
đã khôn ngoan cất dấu nền tảng
nét Lưỡng nhất trong các Huyền
thoại như Tiên Rồng
hay Ngọc Long Toại. . .,nên người
Tàu không nhận ra. Đời
Hiên Viên Hoàng đế thì
vật biểu của Tàu
là chim Cú, rồi tới Bạch
Mã, mãi đến đời nhà
Hán
mới nhận Rồng, Huyền
thoại của họ chỉ có độc cực Rồng,
mà “
độc Dương bất sinh “, hết biến
hoá, nên
bị ngưng trễ , chỉ biết “ Tầm chương
trích cú “ mà ngâm
thi vịnh nguyệt, không
thể đem vào đời sống hoạt động
hàng ngày. Nếu mỗi
chúng ta biết Học và Hành
cho đến nơi
đến chốn thì ngày nay đã
không xé tung cái bọc Đồng
bào Nhân ái của Âu Cơ
Tổ mẫu
mà chia mỗi người ra từng xứ cô
đơn, làm cho con người phân
hoá, xã hội suy đồi,
đặc biệt có một số trong chúng ta,
vì muốn là đỉnh cao trí
tuệ,là lương tâm
trong sáng của nhân loại đã
“ Thề phanh thây uống máu Đồng
bào “, nhận kẻ thù
truyền kiếp làm Thầy để hô
hoán cứu nước bằng cách âm
thầm bán nước!!! Cha ông
chúng ta quê mùa và
lạc hậu như thế
đấy, còn chúng ta văn minh ra sao
thì tự mỗi người phải hồi Tâm
mà nhận biết
lấy! Nói
gọn lại, xã hội chúng ta bị
phân hoá như
ngày nay, chỉ vì đa số mất
ý thức, coi thường việc dễ, việc phải
làm thường xuyên
mà không làm, và
tình trạng nhiều sãi không
ai đóng cửa chùa, khi đã
sai trái, không
ai nhận trách nhiệm chấn chỉnh lại, để
lê lết trong cảnh “ Khôn độc dại đàn”. Trước
thảm trạng hiện nay nếu không mau lo chấn
chỉnh thì không thoát khỏi
nạn suy
vong! Muốn chấn hưng lại chúng ta chỉ cần
phát động một phong trào cổ vũ mấy
điều:
Giúp nhau cư xử Tôn
trọng nhau, Yêu
thương để Tương dung và ăn ở tương
đối
Công
bằng với nhau là đủ. Khi được đa
số người tham gia thì sẽ gây ra
một phong trào lối cuốn nhau đi.
Đáng lẽ các tôn giáo
phải khởi xướng và ra sức
hướng dẫn, nhưng xem ra các tôn
giáo cũng đang ngủ say! Tóm
lại, đây là vấn đề Nhân,
Trí ( Trí : lẽ Công
chính ) tức là lòng
Yêu
thương và cách ăn ở công
bằng với nhau. Có trau dồi Nhân
Trí hàng ngày và
suốt
đời thì mới có đủ đức Dũng để
thiết lập mối liên hệ Hòa
với mọi người.
Nói thì dễ mà làm
hàng ngày là việc
vô cùng khó, mà
cái khó lại nằm sâu trong
lòng mỗi người “ ngại Trí e
Nhân “! Chúng ta đang mắc kẹt ở
đây! C.-
Trong Tiết nhịp hài hòa của Vũ
trụ Trong một
đêm trời trong sáng, ngước mắt
nhìn
lên trời cao, ta thấy hàng
hà ngôi sao lấp lánh. Với
viễn vọng kính cực mạnh, các
khoa học gia đã khám phá ra
100 tỉ thiên hà, mỗi thiên
hà lại có hàng tỉ
ngôi
sao. Không có gì làm
cho ta choáng ngợp hơn là
cái bao la và tĩnh mịch
không thể
tưởng tượng được của không gian, tuy
nhiên không gian chỉ là
khoảng trống mênh
mông. Vì
Không gian trống không, nếu
không có tinh
tú hiện hữu thì không gian
không thể hiển lộ: vật thể như tinh
tú nhờ không
gian mà hiện diện, Không gian (
Ngoai – không gian: Outer- Space ) cũng
nhờ vật
thể mà được nhận biết. Nhờ
hàng số sa số tinh cầu mà ta cảm
nhận được
cái bao la của không gian. Cũng vậy, khi
một Âm thanh phát ra và tắt
đi
vào Không gian ta mới nhận ra sự Im
lặng.
Âm thanh cũng nương vào sự
Im lặng mới được nghe, sự Im lặng ( Ngoại-
Vô
thanh: Outer Silence
) cũng
nhờ Âm thanh mới được phát hiện. Không
gian và Im lặng đều là Không
( no -
thing ), Vật thể, Âm thanh là
Có ( something ). Có / Không
chỉ nương vào nhau mới
tồn tại. Ít
nhất phải có hai điểm để quy chiếu
giúp
cho Khoảng cách và Không
gian hiện hữu.Nhờ có khoảng cách
nên khi vật thể chuyển
động ta mới nhận ra Tốc độ và Thời gian,
mà Thời gian và Tốc độ có
liên hệ nghịch với nhau. Thời gian
là thông số thứ tư với Không
gian
ba chiều là hai mô căn bản tạo
nên Thời
– Không - Liên ( Time – Space
– continuum ) mà tạo nên vạn vật (
Einstein
) cũng
là hiện tượng mà
Lão Tử diễn tả : “ Một biến thành
Hai, và
Hai biến thành Vạn vật “. Thời gian
và không gian chứa hai nền tảng của
sự thật,
đó là phẩm tánh ( attribute
) Vô Cùng và Vô
Biên của Thượng Đế. Thái
Dịch Lý Đông A đã có
ý kiến về sự Tương đối của Không
và Thời
gian : “ Tất cả lý thuyết Duy Tâm,
Duy Vật, Du Lý, Duy Sinh đều được thiết
lập
cách nay cả trăm năm, nếu không
muốn nói cả ngàn năm. Làm
sao mà tác giả các
triết thuyết ấy biết được là Thời gian
và Không gian khăng khít với
nhau như Hình
với Bóng?
Rằng :” một phút có thể
kéo dài thiên thu “
và “ trăm dặm có thể thu lại trong
gang tấc”, cũng như : “ một
lông hồng có thể nặng như
Thái sơn
“ ? ( Triết lý Lý Đông A.
Phạm Khắc Hàm tr. 167 ). Không hiểu
được cái Tương đối
vi diệu của các cặp đối cực thì
làm sao hiểu được cái tương quan
giữa Một phút
với Thiên Thu, Trăm Dặm với Gang Tấc,
Lông Hồng với Thái sơn của
Thái Dịch đã nói
ở trên.
Thái
Dượng hệ gồm Mặt trời với chín
hành
tinh cùng hộ tinh xoay xung quanh, được
treo lơ lững trong không trung nhờ sức
Quy tâm và Ly tâm ở thế
quân bình động mà chuyển vần
theo hướng vô cùng vô tận. Nhiều
Hệ tinh tú trong không gian như
Thái Dương
hệ cũng nương vào nhau mà vận
chuyển điều hoà trong Thiên
hà, và các Thiên
hà
cũng nương nhau mà tồn tại theo nhịp điệu
hòa của vũ trụ. Mọi
vật trong vũ trụ phải thuận theo Thiên
lý mà tồn tại hài
hoà với nhau.Nho gia bảo: “ Thuận thiên giả tồn, nghịch
thiên giả vong “ Theo
nhà huyền niệm Eckhart Tolle thì
Khoảng
không ( Không Gian ) Và
Vô thanh ( Im lặng
) là hai mặt của cùng Cái
Có và Cái Không.
Ngoại - Không và Ngoại – Vô
thanh chỉ
là sự hiển lộ của Nội -Không (
Inner space ) và Nội -Vô thanh (
Inner Silence )
vào Thế giới hiện tượng ( Hữu ư
trung
tất hình
ư ngoại ). Ngoại
thì Động và Nội thì Tĩnh . Khi (
Nội ) Âm ( Ngoại ) Dương
hoà thì trở nên VÔ CỰC
- BẤT ĐỘNG- (
Thái cực nhi Vô cực ). VÔ CỰC
là Bầu sáng tạo
vô biên của vạn vật. Thế giới
Tâm linh hiện diện trong thế giới
hiện tượng này qua sự Im lặng, và
cũng thẩm nhập toàn thế giới vật chất
vào Không
gian- từ bên trong lẫn bên
ngoài-.
Thế mà
người ta chỉ chú ý tới vật thể
mà không còn để ý đến
chính không gian nữa. Sự Bất
động và sự Bao la giúp cho vũ
trụ hiện hữu không chỉ ở không
gian ngoài kia mà
cũng ở ngay trong mỗi chúng ta nữa qua
cửa Ngõ ( portal ) của Tâm (
Wholemind ). Ở trong
chúng ta, vũ trụ lại bao la về
chiều sâu mà không lan toả
rộng. Con
người
chúng ta từ Nhất mà ra, cũng nhờ
Nhất với Đa là một, tất cả được
các Trường liên
kết với nhau, nên có liên hệ
mật thiết với cội nguồn Vũ trụ. Vì thế
mà Tổ tiên
Việt bảo: “ Vũ trụ tiện
thị ngô Tâm,
ngô Tâm tiện thị Vũ trụ: Vũ trụ cũng
ở
tại Lòng ta và Lòng ta cũng
là Vũ trụ.”.
Tâm
không phải là con Tim, mà
là
cửa Ngõ giúp chúng ta đi
vào cõi Tâm linh. Có
đi qua cửa Tâm mới gặp Linh, mà
Tâm có
thể là điểm giao thoa của huyệt Đan
Điền
( Trọng tâm ở dưới rốn của cơ thể con
người )
và Huệ nhãn trên trán
( Ở giữa cầu nối hai bán
cầu não Trái và Phải gọi
là corpus
calossum
). Loài
người đã được Thượng đế sáng tạo
ra trong
cái Nôi không và Thời
gian bao la vô
cùng huyền diệu
trong đó đã có sẵn không
biết cơ man nào là vật thể hiện
hữu, mọi
thứ đều được an bài trong trật tự
hài hoà, cứ khai thác
mà sống, chẳng thiếu
thứ gì. Con
Người lại được phú bẩm trong mình
nguồn Tình Cảm bao la để tìm đến
mà nương
nhau, và nguồn Lý trí
Công chính để biết sống Hoà
với nhau, con người chỉ việc “
rung Lòng và động Não” khai
thác thiên nhiên
là có thể sống hoà với nhau
trong hạnh phúc. Nhịp theo
Thiên lý, con người phải biết “ suy đi
“ theo Lý trí (
lãnh vực Thế sự ) thì cũng phải
biết “nghĩ
lại “ theo cảm xúc, cảm quan (
lãnh vực Tâm linh ) thì
mới cân bằng, Suy đi là hướng
Ngoại, ly Tâm,
để “ chấp”, hầu
thủ đắc mọi nhu cầu sống
cho con người. Nghĩ lại là hướng Nội hay
quy Tâm, để bổ sung năng lực sống tức
là nguồn Sống và nguồn Sáng
đã bị tiêu hao hàng
ngày.
Ly Tâm và Quy tâm cũng
cần được hòa nhịp như
các thiên thể lơ lửng triền
miên trong không gian vô tận. Ly
tâm nghĩa là ra sống ngoài
đời gọi là Thế
sự để khám phá vũ trụ hầu
nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần thuộc lãnh vực
lý trí. Còn
Quy Tâm là hướng vào
lòng Mình,
yên lặng và bất động, bỏ hết
lý trí, vén màn
vô minh do lý trí dựng
nên để tiếp
cận với nguồn Tâm linh tức là nguồn
Sống và nguồn Sáng: Nguồn Sống
là lòng Nhân
ái của Nho giáo, Lòng
Bác ái của Kitô giáo,
lòng Từ bi của Phật giáo.
Còn nguồn
Sáng là lý Công
chính của Nho, Lẽ Công bằng của
Kitô giáo, Trí của Phật
giáo. Nói
cách tóm tắt theo bình
dân là Lòng “
Thương
nhau “ và và lẽ sống “ Phải Người
phải Ta “ . Trong
cách đối xử với nhau thì phải
làm sao
cho hai đối cực Tình,
Lý hoà hợp theo tỷ
lệ 3/2. 3/2 là liều lượng
Hòa rất uyển chuyển, không
là con số toán học, tuỳ
theo từng người, từng hoàn cảnh, từng sự
việc mà ứng xử, miễn là đạt
cùng đích
Hoà.. Tình thì u linh man
mác, không rõ ràng, có
thể “ cảm nhận được mà
không nghĩ ra được” , do đó
ta bảo Tình có tính chất Vô biên, vì
rộng lớn nên có khả năng kết hợp (
vào nhau làm 1 ),
còn Lý thì phải rõ
ràng khúc chiết, chi ly, chẻ nhỏ
cho rõ ràng , ( chia ly ra
2, 3. . . )
nên có tính chất Hữu hạn,
Lý có thể suy ra (think )
mà
không cảm nhận ( feel ) để liệu hiểu (
comprehend ) được. Khi
Tình Lý kết hợp hài
hoà ( 1 + 2 = I ) cũng
là khi Vô biên được kết với
Hữu hạn, hay Tâm linh và Thế sự
hài hoà. Đây là
hình
ảnh của Thái cực gồm Âm (
Tình ) Dương (
Lý ) hòa . Khi xử
Tình xử Lý đều phải theo hai
chiều
ngược nhau, hay “
có Đi có Lại “ mới gây
được hoà khí. Người
này yêu người kia bằng Tình,
thì người
Kia cũng phải đáp trả bằng Tình
thì mới kết hợp được, người này
người kia đều
cùng xử Lý công bằng với
nhau, thì
mối
tình liên đới giữa hai người mới
được duy trì. Khi hành xử với
nhau, thì phải
để ý làm sao điều hoà được
Tình Lý hay “ Tình
Lý tương tham : Xử Tình phải
có Lý,
xử Lý không được quên
Tình “ thì mối
liên
hệ giữa hai bên mới được duy trì
và bền chặt, đó là đầu mối
là nền tảng của Thân
an Tâm lạc, cũng là nền tảng cho
mỗi cá nhân trở thành một
viên gạch
xây dựng Hoà bình. Việc sống
theo cung cách “ Bên Ngoài
là Lý (
xã hội ) , nhưng Trong ( Lòng
mình ) là Tình “
luôn luôn ở trạng thái
quân bình động, chứ không chỉ
có một lúc là được,
phút
này còn hoà,
nhưng giây sau mà mất quân
bình thì lại bất
hoà, nên xử hoà phải thường
xuyên và rất linh động mới được. Xử
Tình Lý hài hòa
là mấu chốt đầu tiên đem Đạo (
HÒA ) vào
Đời sống mọi ngưòi trong xã
hội. Một
điều nên lưu ý là
Tình và Lý như hai mặt
của một đồng tiền không thể tách
rời, nó
cũng giống như ánh sáng được
truyền đi
với “ làn sóng hình sin bao
quanh các photon truyền theo đường
thẳng “ . Hạt
photon (
Lý ) và làn Sóng (
Tình ) không thể tách rời (
Louis De Broglie
) . Tình Lý cũng vậy, nếu
có Tình thì cách
hành xử với tha nhân mới có
thể công
bằng ( Lý công chính ),
ngược lại có thực
hiện lẽ sống công bằng mới chứng tỏ được
Tình yêu, người này
hành xử như thế thì
người kia có đáp lại thì
mới gây được hòa khí. Hay
là có sống theo Tình
Lý tương
tham thì mới làm Hoà được
với tha nhân, mà Hòa
là cùng đích của vũ trụ. Tương
tự,
Bác ái, Công bằng hay Bi,
Trí cũng đều là Một. Ngày
nay là lúc lý trí
con người phát triển
cao độ, nhưng cũng là lúc con
người bỏ lơi con đường Tình, khiến nhiều
người đã
nhìn con Người không như là
“ Nhân linh “,
mà là một đồ vật, nghĩa là
coi
“ Của nặng
hơn Người “ nhất là nhìn Đồng
bào bằng cặp mắt lạ lẫm không quen
thân, có khi
còn đối xử với nhau như kẻ thù
không đội trời chung, nên gây
ra tao loạn, phá
nát mọi sự. Vì mất
ý thức về nghịch lý nên
loài người
đang bị ngủ mê trong rừng thành
kiến Duy Lý một chiều, tôn khoa học
là vạn năng,
tin rằng chỉ có khoa học là đủ,
không cần thứ gì khác hơn,
phủ nhận những gì không
rõ ràng khúc chiết, khốn
nỗi khoa học vốn rõ ràng
khúc chiết làm sao mà nhận
ra
được thế giới man mác u linh của
Tâm linh. Tuy
khoa học rất “cần”,
con người tiến bộ
căn bản là nhờ khoa học, không
có khoa học thì con người
không thoát cảnh chậm
tiến lạc hậu được, nhưng khoa học còn
là phần nhỏ trong vũ trụ, nên vẫn
là chưa
“ thiết”
bằng Tâm linh. Tuy khoa học
đã đi vào hai lãnh vực
Vô cùng
Nhỏ và Vô cùng Lớn: Vô
cùng nhỏ là lãnh vực
nguyên tử vi tử, Vô cùng lớn
là lãnh
vự Không gian bao la, nhưng với sự hữu hạn
của lý trí con
người, mặc dầu đã có khí cụ
khoa học khoách
đại, nhưng cũng chỉ là dùng
cái hữu hạn để nới rộng cái hữu
hạn mà thôi. Con người
vẫn còn choáng ngợp trước sự bao
la của cả hai lãnh vực của khoa học, chứ
chưa nói
đến lãnh vực Tâm linh còn
bao la hơn nhiều. Quên
Tâm linh là quên về nguồn của
sự sống,
khốn nỗi nhiều người đi về Tâm linh lạc
nẻo vì đã dùng lầm phương
tiện Lý trí. Sống
trong thế giới động với cao tốc, con người
quá bận rộn, không quen ngồi
yên quy tư, cái gì cũng chỉ
lý với lẽ, càng lý
thì
càng chia ly phân hoá. Càng
Duy lý một
chiều
thì càng trở nên cực đoan,
khi cực
đoan thì Tham tàn và Cường
bạo lên ngôi như trong các
chế độ độc tài nhất là Cộng
sản.
Đời
sống Duy Lý là thảm nạn của
nhân loại hiện nay! (
3 ) Vì thế
cho nên cả hai lãnh vực Tâm
linh và Thế
sự (
Khoa học ) có được hài
hòa mới là
cần và đủ. Nói
tóm lại khi mọi biến hoá của
các cặp đối
cực trong vũ trụ được hài hòa
thì ta gọi là tiết nhịp hòa
của vũ trụ (Cosmic
rhythm ), tức là nhịp cộng hưởng của
các thành phần có tần số
khác nhau trong vũ
trụ. Ta đã biết các vật trong vũ
trụ đều phát ra tần số khác nhau,
khi các tần
số giao thoa thì ta có cộng hưởng.
Cứ xem vũ điệu nhịp nhàng hướng Tâm ( Tả
nhậm; ngược chiểu kim đồng hồ ) của 3
cõi Thiên, Địa, Nhân trên
Trống Đồng Đông Sơn thì rõ: Thiên
( ngôi sao ở giữa tượng trưng cho mặt Trời
/ mặt Trăng ở vòng trong ) , Địa (
Chim muông và nai chà ở
vòng ngoài
) Nhân
( Người múa mang lông chim ở
vòng giữa ), cả Ba
cõi cùng ca múa nhịp
nhàng tưng bừng trên mặt Trống Đồng
Đông Sơn tạo ra tiết nhịp Hòa Vũ
trụ, xưa
nay trên thế giới chưa có bức tranh
nào thanh
bình an hòa đến thế!. Ngày
này không những nhịp sống
Hòa trong nhân
loại đã bị nhiễu loạn, mà
các môi trường chung như
Không khí, Đất, Nước nhất là
Tư tưởng cũng đã bị loài người
làm ô nhiễm nặng nề. Sự ô
nhiễm các môi trường đã
gây ra nhiễu loạn lan ra cấp hoàn
vũ! D.- Đời
sống Gia đình Thái
cực viên đồ gồm đối cực Âm Dương,
nhưng
trong Âm lại có Dương và
trong Dương cũng có Âm ( Xem
hình ở trên ) . Ta có thể
dùng đồ hình này để giải
thích sự kết
hợp của cặp Gái Trai thành
đôi Vợ Chồng. Gái Trai là
cặp đối cực, người
con Gái có bản chất ( cái
Thể ) là – (âm), mà
cái Diện ở ngoài lại là + (
Dương
), người con Gái trở thành một ion
+. Còn
người
con Trai có Thể là +, mà
Diện lại là -, nên con Trai
thành một ion -
. Khi
Trai gái gặp nhau thì hai ion +
và
- tiếp xúc với nhau, nên có
hấp lực kết hợp với nhau thành cặp Vợ
Chồng, cũng
giống như hai luồng ion – và ion + trong
dây điện chuyển động ngược chiều, giao
thoa nhau mà sinh ra dòng điện,
dòng điện gợi ý cho ta về dòng
Tình Lý giao thoa .( Máy
phát điện giúp
hai dòng ion di chuyển ngược chiều
là hình ảnh của nguồn Tâm
linh ) Vì vậy
Khi sống với nhau hai người phải “ chấp kỳ
lưỡng đoan: Giữ hai đầu mối hay Có
Người có Ta “: Vợ
đầu mối (đoan ) này,
Chồng đầu mối kia, mỗi người cứ nương theo hai
đầu mối ngược nhau để dung hóa mà
sống Thuận Vợ thuận Chồng. Lễ Thành
hôn là lễ kết hợp vì
Tình, lễ Giao bái tỏ lòng
kính trọng nhau là về Lý.
Hàng ngày xử sao cho Tình
Lý hòa hai thì thuận
hòa. Vì vậy
cho nên trong Đạo Vợ Chồng việc duy
trì sự sống hàng ngày đến
suốt đời cho luôn được Thuận Hoà
là điều rất khó. Vì
sống gần nhau hàng ngày, nhiều khi
người ta khinh lờn nhau, chỉ thấy cái xấu
mà
quên cái tốt của nhau mới sinh ra
cơ sự bất hoà. Cha
ông chúng ta lại tôn Đạo Vợ
Chồng lên hàng
Đại Đạo, vì nó quan trong,
khó bậc nhất và căn bản hơn hết. Một điều
chúng ta nên nhớ hai vợ
chồng phải có khác nhau tương đối,
thì
mới có đầu mối để bám vào
đó mà cố gắng tìm ra sự
hoà hợp, vươn lên để biến
hoá,
đổi mới, để tiến bộ đầy sinh khí,
vì không ý thức được điều
đó, nên bên
này cứ đòi hỏi bên kia phải
giống mình,
khi không được đáp ứng thì
cho là không đúng,
không yêu thương nhau, sinh ra
bầt hoà vì chúng ta
không hiểu được đòi hỏi sự đồng
nhất là chống biên dịch, chống
tiến bộ hài hòa. Có
tương dung và hỉ
xã thì mới giữ được hòa
khí. Mặt
khác nếu sự cách biệt hai
bên quá lớn
thì khó mà hoà hợp
cho thuận Vợ thuận chồng.
Mặt khác nêu hai Vợ Chồng
quá giống nhau thì đời sống gia
đình càng dễ bị
thiên lệch một chiều. Cha ông
chúng ta đã bảo “ Nồi nào úp vung nấy
“ thì gia đình sẽ thuận
hoà, còn “ nồi to úp
vung nhỏ hay nồi nhỏ úp vung to”, nghĩa
là sự cách biệt giữa hai đối cực
quá lớn
thì khó giao thoa, dễ gây ra
đổ vỡ. Một nồi úp nhiều vung hay ngược
lại là nghịch
thiên lý, tất phải chia ly. Trong gia
đình người Vợ là suối mạch của
nguồn
Tình, Tình người Mẹ thì
vằng vặc như ánh trăng rằm mùa
Thu, tràn trề như làn sóng
biển Thái bình dạt dào, khi
thì rạng rỡ như ánh trăng Thu, khi
thì dịu dàng huyền
ảo như ánh trăng mơ. Còn Người Cha
tượng trưng cho nguồn Lý, nguồn Lý
có khi rạng
rỡ như ánh mặt trời ban mai, có
khi lại oi bức làm nghẹt thở như mặt trời
xế
chiều Hè. Người Mẹ thì Nhu ( dễ
chuyển hóa, kết hợp ), người Cha
thì Cương ( dễ
bẻ gãy ,chia ly ), khi Nhu
Cương hoà
hợp thì con người trở nên dẻo dai
uyển chuyển, nên đạt đức Dũng, chẳng
khác nào
khi thanh Sắt
được luyện với Than thành Thép
vừa rắn chắc vừa dẻo dai. Gia đình
là môi trường un đúc
Tình và rèn luyện Lý
cho con cái sao cho Tình Lý
hoà hai hay lưỡng nhất, không thể
chia ly như Sóng
và Hạt
của ánh
sáng ( 2 ) . Mối
liên hệ giữa Vợ chồng Cha mẹ và
con cái cũng như anh em với nhau đều
là mối
liên hệ Tình Lý, nói
rõ hơn là ai
ai cũng phải yêu thương, tôn trọng
và ăn ở công bằng với nhau
thì nhà êm cửa ấm,
anh em hoà thuận, gia đình
yên vui. Đừng
khinh em bé cũng như trẻ con chưa biết
gì, cứ ra lệnh sai bảo mà
quên xử Tình Lý
hài hòa tất sẽ gây ra bất
hòa đổ vỡ. Tình
Lý là keo sơn gắn bó mọi
người trong gia đình và
xã hội với nhau, đừng có mong
tìm cây đũa thần đoàn kết
ở nơi nào khác. Những cách đối xử một chiều như
Duy Tình hay Duy Lý đều là
thiên lệch
gây ra rối loạn, nguồn gốc của bất
Công. E.-
Trong các cơ chế xã hội. Xã hội
của chúng ta không đặt trên
nền tảng
Cá nhân như Âu Châu,
mà là trên Gia đình.
Gia đình là công thể nền
tảng để trau
dồi tinh thần “ lưu tâm và chia sẻ:
caring, sharing “ giúp mọi người trong
gia đình
sống hoà với nhau cũng như ngoài
xã hội.
Mỗi gia đình là một
viên gạch thuận hoà để xây
dựng xã hội hoà bình.
Không
củng cố gia đình hay phá gia
đình như CS là phá nền tảng
xã hội. Ngoài
ra khi lập xã hội thì phải “
luật pháp
hoá “ các cơ chế xã hội
để thể hiện được lẽ công bằng tương đối. Chúng
ta
có thể thực hiện công bằng
xã hội tương đối bằng cách điều
hòa các đối cực
trong các cơ chế xã hội.
Ngày nay nền chính trị đã
bao trùm lên các cơ chế
khác,
đây là cơ chế để thực hiện lẽ
công bằng xã hội, còn
giáo dục là khâu vô
cùng
quan trọng để đào tạo con Người tốt
có Tư cách và Khả năng.
Không làm tốt được
hai khâu chính ấy thì
xã hội không bao giờ ổn định.
Có con người tốt biết đem lẽ
sống công bằng vào xã hội
thì xã hội mới mong an
bình. Tinh
thần Điều hòa đó lại nằm trong
nền “ Văn hoá thái hoà “
của Tổ tiên (đã
bàn một số ở trong bài này
và trong hai
cuốn: Văn hoá Đông Nam và
Văn hiến Việt Nam của Việt Nhân),
mà cốt tuỷ là nét
Lưỡng nhất của các đối cực. Cơ cấu
xã hội
ngày nay rất nhiêu khê, nhưng
bốn khâu quan trọng là Chính
trị, Giáo dục, Kinh
tế, Xã hội. Các cơ
chế Xã hội cần phải
được sắp xếp làm cho luôn được tiến
bộ và căn bằng,. I.-
Chính trị Trong
chính trị cần phải điều hoà được
cặp đối
cực Nhân
quyền và Dân quyền. Là
Nhân
trong Trời Đất thì con Người phải
có
Nhân quyền, là Dân
của một nước thì phải có Dân
quyền. Nhân quyền thì phải
có Tự
do, khi sống theo Chân Thiện Mỹ thì
mới có Tự do chân chính,
còn Dân quyền thì
phải có pháp luật ràng
buộc, ràng buộc vào Lý
công chính . Nhân quyền
và Dân
quyền giúp người Dân nắm quyền
làm Chủ Đất nước.Nhân quyền
là quyền giúp con Người
được Tư do sống theo Thiên lý để
phát triển Tình cảm và
Lý trí nghĩa là có
Tư cách
và Khả năng để phát triển
toàn diện con người. Con người chỉ
phát triển được trong môi trường
Tư do, chứ không thể trong chế độ nô
lệ vắng bóng tự do, vì vậy cho
nên con người
cần phải có Tự do Căn bản, như Tư do
tôn giáo, tự do Ngôn luận,
cùng những Tự
do căn bản khác để phát triển,
nhất là quyền được Ăn ( Tư hữu )
và quyền được Nói
. Khi
sống trong xã hội người Dân
có nhiệm
vụ và quyền lợi để cùng nhau
xây dựng đất nước, đó là
Dân quyền.
Khi mọi người dân có được
phát triển tư cách
và khả năng thì mới đóng
góp hữu hiệu cho quốc gia, nhờ đó
mà Dân giàu Nước mạnh
được. Mặt
khác xã hội phải tạo ra những cơ
hội và
phương tiện giúp con người phát
triển khả năng thiên bẩm ( như Thực, Sắc,
Diện
) để trau dồi Chân,Thiện Mỹ. Có
Nhân quyền
và Dân quyền hài hoà
thì mới giúp nâng cao
Dân trí, Dân trí
có cao mới cải tiến
được Dân sinh. Khi Dân trí
cao, nghĩa là phải mở Lòng mở
Trí người Dân để người
Dân có Tư cách và khả
năng thì người Dân mới có
khả năng đóng góp hữu hiệu cho
xã hội. Đó là phương
cách giải phóng con Người
giúp cho người Dân có thể
đóng
vai trò Chủ nhân. Đây
là nền tảng của
chế độ Dân chủ. Nói
tóm lại Nhân quyền và
Dân quyền giúp người
Dân nâng cao Tư cách
và Khả năng để vừa thành
Nhân và thành
Thân.Có thành Nhân
thì mới là người tốt, làm
được việc tốt. Có thành Thân
thì mới đủ khả năng để xây
dựng gia đình và xã hội. Một chế độ
chính trị Dân chủ phải biết
cách
thiết lập các Hạ tằng cơ sở quốc
gia cũng
như Thượng tằng kiến trúc hài
hoà thì mới tạo ra được mội trường
cung cấp nhiều
phương tiện và cơ hội đề làm
phát triển mọi tài năng của người
dân. Các chế độ độc
tài muốn trường trị để bóc lột,
nên cứ phải giam hãm người
dân trong ngu dốt và
nghèo nàn như trong chế độ
nô lệ. Đã thế kỷ 21 mà
còn có chế độ độc tài đảng
trị
đã là chuyện ngược đời bốn phương!
Các chế độ đó hủy hoại nhân
phẩm con Người và
làm ô uế sỉ diện Quốc gia và
chống lại Thượng Đế! Làm
chính trị là làm công
việc “ Giáo
chi phú chi : Dạy dân để
nâng dân
Trí và làm cho dân
Giàu để thăng tiến dân Sinh “,
các nhà làm chính
trị không
chỉ đi tranh dành ngôi vị và
danh lợi, mà là đóng
góp công sức nâng cao
Dân
sinh và Dân trí, để cho
dân giàu nước mạnh, điạ vị
và quyền lợi của mình và
mọi
người đã có trong đó,
không cần mưu mánh vặt tranh
dành nhau. Phải có những vị
Lòng rộng Trí sâu như
các bậc Tổ phụ Hoa kỳ mới làm
nên cơ nghiệp lớn. Khi sự
nghiệp lớn thành công thì
quyền lợi mỗi công dân cũng dư dật,
làm gì phải đâm
chém nhau mà đoạt!. II.-
Giáo dục Giáo
là dạy bảo cho có sự hiểu biết
tròn đầy,
tránh cảnh phiến diện thường gây ra
chia ly cách biệt, Dục là
đào luyện ( form,
shape ) lặp đi lặp lại, nuôi dưỡng qua
thời gian dài giúp sao cho những
hiểu biết
đó thể hiện vào
đời sống để cho con
người trưởng thành về hai phương diện Thành
Nhân
và thành Thân.
Thành Thân để có sự hiểu
biết việc làm ( quan
trọng là khoa học kỹ thuật ) mà ăn
nên
làm ra, thành Nhân là
biết cách sống công bằng
( hay minh triết ) để sống hoà với
mọi người.Ngày nay cả thế giới đang
ráo
riết chạy đua trên phương diện
thành Thân, mà còn
coi nhẹ phương diện thành Nhân.
Thế giới đang theo đà cao tốc, thượng hạ
giao tranh lợi trên phương diện khoa học
kỹ thuật. Đã có Thị trường
chung để
khuyến khích nhau ăn nên làm
ra, nhưng lại còn coi nhẹ Đạo trường chung để biết
cách sống “ phải Người phải Ta “
mà sống hòa
chung với nhau. Hai cuộc thế chiến và
cuộc chiến tranh lạnh là cao độ của cuộc
sống bất hoà trên thế giới,
ngày nay cục diện đã đổi
khác, các nước lớn nhiều
khi còn tạo ra cảnh “ đục nước bèo
cò “ dưới nhiều hình thức để thủ
lợi quá đáng.
Tuy đã có Liên hiệp quốc cầm
chịch, nhưng còn lẻo đẻo theo đuôi
sửa sai các tình
trạng hỗn loạn thế giới, mà chưa hướng
dẫn nổi hướng đi trên con đường hòa
bình.
Nên Công việc của Liên hiệp
quốc là tối cần thiết và cần được
đẩy mạnh. Các
cuộc chạy đua ráo riết trong thị trường
chung cũng như chạy đua vũ trang đều là
những dấu chỉ bất ổn. Trong mọi
việc xây dựng thì xây dựng
con Người
là khó khăn hơn hết. Có
đào tạo cho con người Thành
Thân thì con người mới có
khả năng ăn nên làm ra để
nâng cao đời sống Tinh thần và vật
chất. Có thành Nhân
thì con người mới đũ tư cách để
làm điều tốt và nhất là
sống hoà với mọi người,
có sống hòa với nhau thì
mới bảo đảm được thanh quả do việc thành
Thân làm ra. Nên
Hoà là cùng đích
của Hạnh phúc con Người,
của Hoà bình thế giới cũng như
Nhip điệu Hoà của vũ trụ. Nền
Giáo dục của một quốc gia phải đặt
trên
nền tảng “ Tiên
học Lễ, hậu học văn”
Học Lễ . Lễ là cung kỷ kính tha,
nghĩa là trọng Mình trọng Người để
thành Nhân,
học Văn là học Kiến thức toàn diện
để thành Thân. Một quốc gia
muốn đào tạo được con Người tốt,
Công dân tốt tất phải có bộ
sách Dân tộc. Bộ
sách Dân tộc chẳng khác
nào bộ Thánh kinh
của tôn giáo, có mục địch
neo người dân vào trong Đạo
lý Dân tộc, đó là
triết lý
Nhân sinh giúp con người
phát triển toàn diện mà
sống hòa, mà hạnh phúc với
nhau, để không những lo tốt việc đời nay
và cũng để chuẩn bị sẵn sàng cho
đời
sau. Không lo đời này sống cho được
an bình thì làm sao
mà lo được cho đời sau,
đời này còn bỏ bê cho hỗn
loạn thì đời sau làm sao mà
được cứu rỗi ? Đừng có ôm
khư khư lấy quá khứ mà quên
đời cũng như đừng mang ảo vọng cứu rỗi ở tương
lai mà
bất động trong Hiện tại. Không luôn
gắng công trong hiện tại thì cuối
đời vẫn còn
trắng tay. Muốn
đào tạo cho công dân
có khả năng làm Chủ
Đất nước, thì phải giúp mỗi người
có khả năng Tự chủ, muốn vậy thì
phải Tự Lực
tự Cường, nhất là phải có dũng lực
để biết cách sống Hoà với mọi
người. Chỉ có Tình
thương bao la và Lý công
chính mới có khả năng đó. Nền Văn
hoá thái hoà Việt Tộc
có đủ Ba tính chất: Nhân
chủ, Thái Hoà và
Tâm linh. Có
con người Nhân chủ thì mới
làm chủ được chính Mình,
Gia đình và Đất Nước
mình. Có làm chủ được
chính mình mới có dũng
lực để sống Hoà với mọi người. Để
đào tạo được con người Nhân chủ
thì phải giúp họ đi vào con đường Tâm linh
mà un đúc lòng Nhân
ái và
ra đời thực hiện đời sống tương đối Công
bằng
“ phải
Người phải Ta “. Đối
với chất gia ( người ít học ) thì
đã có cả một kho tàng ca
dao tục ngữ để dạy
nhau đường ăn lối ở như thế. Đối với văn gia
thì
theo lối Dịch: ” Dịch vô tư, vô vi
dã, tịch nhiên bất động nhi cảm
thông thiên hạ chi cố”
Dịch là vô tư, nghĩa là dẹp
bỏ lý trí ( phương tiện xây
đắp cái ngã ), sống thuận theo
Dịch lý mà không có
nhân vi, bằng cách im lặng
hoàn toàn và tuyệt đối bất
động, vén màn vô minh
mà
tiếp cận với nguồn sống Tâm linh tức
là lòng Nhân ái
và Lý công chính. Thế giới
ngày nay, về đàng Lý
trí thì phát
triển cao độ còn về phía Tâm
linh thì lại nhảng quên, coi nhẹ. Tai họa
của nhân loại là do đời sống Duy
lý
một chiều, lý quá sẽ sa
vào con đường gian ác tạo ra
xã hội bất công, do
con người bất nhân. Về
đường Tâm linh, ở
phương Đông Ấn độ có Yoga,
nhà Phật có Thiền, Khổng tử
có tuyệt Tứ: Vô Ý vô
cố
vô tất, vô ngã, Nho có
Đạo Trống ( Kim Định ), nhưng ngày nay
người ta không còn
quan tâm nhiều. Ở phương Tây về
Kitô giáo thì dùng
phương pháp Cầu nguyện, Nguyện
ngắm, để
tiếp cận với Chúa Thánh thần,
Thánh linh, nhưng nay đã có
một số nhà thần học đã quay về
Đông phương để tìm
hiểu con đường quy tư, chẳng hạn như Eckhart
Tolle, hay Anthony De Mello và nhiều
nhà khác. . . Các trung
tâm về yoga đã có nhiều nơi
ở Tây phương, nhưng vẫn chưa
nở rộ được để quân bình với thế
giới khoa học kỹ thuật. Theo triết
gia Kim Định, muốn có bộ sách
Dân
tộc thì chúng ta phải xây
dựng cho được bộ sách gồm bốn lãnh
vực: Kinh Triết, Sử,
Văn. 1.- Kinh chuyên chở Minh triết
của Tổ tiên. Triết là Triệt Thượng
và triệt
Hạ, Minh triết là làm sao triệt
Thượng và triệt Hạ ngược chiều giao thoa
để bắt
nhịp hòa với tiết điệu vũ trụ. Triệt Thượng
là: ”
Đội
Trời”
để tiếp cận với nguồn Tâm linh tức
là nguồn
Nhân ái và lý
công chính. Và
Triệt hạ là:
“Đạp Đất “để tìm cách đáp
ứng nhu cầu thiết yếu cho con người để
giúp
con người có sự hiểu biết tròn dầy
( Chu tri ) hầu phát triển toàn
diện, để khi
ra sống: “Ở Đời
“ là kết hợp Tâm linh và Thế
sự để biết cách sắp xếp chuyện nhà
chuyện nước sao
cho mọi người sống hòa với nhau mà
chung hưởng hạnh phúc. Như vậy là
đem Đạo vào
Đời . 2.- Triết đây là triết
lý nhân sinh giúp cho con
người phát triển toàn
diện để cho đời sống con người được sung
mãn, cũng như phải
trau dồi đời sống Tâm linh và nhất
là trước
khi lìa đời biết trút bớt
gánh nặng trên lưng lạc đà
qua cửa Hẹp mà về Quê miền
vĩnh cửu theo nghĩa “ Sinh
ký Tử quy “. 3.- Sử gồm Huyền sử và Lịch sử.
Huyền sử là Minh triết của Tổ tiên.
Còn
Lịch sử là những sự
kiện xác định về thăng
trầm của Dân tộc cũng là cái
gương phản chiếu đời sống Tâm linh của
Dân tộc
trong xã hội. Nhìn vào sử
chúng ta nhận ra cuộc sống của Dân
tộc qua các thời đại,
mà cũng nhờ qua đó mà điều
chỉnh cuộc sống Tâm linh cho ngày
một hài hòa hơn. 4.-Văn không những để truyền
đạt những tác phẩm văn học nghệ thuật
mà
cốt là để tải Đạo làm Người tức
là triết lý Nhân sinh
giúp nhau sống hòa với
nhau, chứ văn không có mục
đích để tranh luận hơn thua nhất
là mạt
sát nhau làm thương tổn đến
tình
người!
( 1 ) Giáo
dục đóng vai trò quan trong
trong việc nâng cao đời sống con người
về hai phương
diện Tâm linh và Thế sự.
Giáo dục là sự đào luyện
lâu dài và liên tục,
chứ không
chỉ là trao truyền kiến thức mà
đủ. Việc học của Tổ tiên phải qua 5
bước: Bác học,
Quảng vấn, Thận tư, Minh biện và Đốc
hành: Học cho rộng để tránh
phiến diện gây
chia rẽ, hỏi cho cặn kẽ để hiểu cho rõ
ràng, Suy nghĩ cho cẩn trọng và
biện luận
cho rõ ràng, nghĩa
là phải phân tích
và tổng
hợp vấn đề cho rốt ráo, cuối
cùng đem kiến thức học được áp
dụng vào cuộc sống để nâng
cao vật chất và tinh thần. Ngoài
việc giáo
dục ở học đường, cần phải có sự giáo
dục đại chúng ( qua Ca dao tục ngữ … )
để
giúp người dân nào cũng
có kiến thức và khả năng
ngày một nâng cao. Thái
Dịch Lý Đông A cũng có Triết
lý Tổng Thể
Nhân chủ gồm : “ Khoa,
Triết, Sử,
Văn học “ như là một Tổng hợp
Đông tây Kim Cổ .” Khoa, Triết, Sử
là những môn
học có vẻ hoàn toàn
khác biệt nhau trên bình
diện thời gian ( sợi dọc: tung hợp
) [
Sử học là công cụ học Quá
khứ, Khoa
học là công cụ học Hiện tại,
Triết học là công cụ học Tương
lai ]. Theo sợi dọc
Thời gian tất cả chỉ là
một.
(
Triết học Lý Đông A . Phạm Khắc
Hàm tr.156 ) “.
Còn Văn học là phương
tiện chuyên chở và quảng
diễn các khoa trên. III.-
Kinh tế Ta
nên nhớ Văn hoá Tổ tiên
chúng ta coi con Người là một
trong Tam tài: Trời là
Thiên hoàng, Đất là Địa
hoàng, con Người là Nhân
hoàng. Mà
Tài là tác, là
hành, nhờ tác hành
mà con người
tạo ra của cải vật chất và tinh thần,
những cái mình dùng mồ
hội nước mắt làm ra
thuộc quyền sở hữu của mình gọi
là quyền Tư hữu. Đây là
quyền không ai có thể tước
đoạt. Công hữu hóa Tư hữu
và đoạt quyền Tự do của toàn
dân là tước đoạt
sự sống con Người, cũng là chống lại Thiên
tính
của Thượng Đế nơi con Người ( Thực, Sắc, Diện ). Một điều
chúng ta nên biết là khi
được sinh ra trên đời mỗi người được bẩm
thụ những Thiên
tính khác nhau, người thì
thông minh, kẻ thì ngu dốt, kẻ
thì có thân hình
vạm vỡ,
người thì gầy còm yếu đuối, do
đó là mà tư hữu của mỗi
người làm ra khác nhau,
kẻ ít người nhiều. Khi sống ở đời,
có những người thông minh khỏe
mạnh lại dùng
cái thế “ mạnh được yếu thua “ để
bóc lột
người khác làm cho xã hội
hỗn loạn, xã hội hỗn loạn vì “
Kẻ ăn không hết người
lần không ra “ làm cho nhiều
người đau khổ. Nhưng
khốn nỗi Trời sinh ra con người xem ra bất
công qua tính phú bẩm, nếu
chúng ta
không hiểu được “ Vạn vật nhất thể: vạn
vật trong vũ trụ đều có cùng bản
thể
“ cũng
như “ Nhất bản tán vạn thù
và vạn
thù quy nhất bản : Nhất phân ra
Đa và Đa cũng quy về Nhất, nghĩa
là
Thượng Đế là Nhất mà Vạn
vật là Đa, Nhất và Đa
là Một
” . Mặt khác sở dĩ có thế
giới hiện
tượng là chính nhờ sự sai biệt (
tức là không cân đối giữa
cặp đối cực ) giữa
các cặp đối cực - nguồn của sự sinh
sinh
hóa hoá -, đó là
nhịp sống của muôn loài. Nước
thì chảy xuôi, gió
thì vận chuyển từ áp suất cao
tới thấp, con người cũng có kẻ
hơn người kém, đó là
thiên lý, thiên lý
là dịch lý để cho các cặp
đối cuộc biến
hoá trong thế quân bình
động theo tiết nhịp vũ trụ. Muốn sống theo
thiên lý thì
phải chiều theo, lấy cao bù thấp, lấy
nhiều bù ít, lấy dư bù
thiếu, lấy mạnh phò
yểu ( theo Tả nhậm ), lấy Chí
nhân thay cho Tham tàn, lấy Đại
nghĩa khử trừ Cường
bạo. Đấy là sứ mạng “ vi
nhân” để
nâng cao phẩm giá con người,
không làm những
việc ấy thì chẳng những con người
không còn cơ hội để vươn cao
lên những giá trị
cao cả, mà còn gây ra hỗn
loạn làm cho nhân loại khổ đau
và cho cả chính mình. Con
người không vươn lên những
giá trị cao cả
mà sống bao dung làm
Hòa với nhau thì bị vây khổn trong
hỗn loạn do mình gây ra bất
công xã hội!
Tổ
tiên chúng ta dùng
tên Việt để
khuyên chúng ta phải biết vươn
lên, vượt qua
mọi trở ngại trên đời để xứng với
tên Việt là siêu việt. Khốn
thay nhân dân chúng ta qua
trường kỳ lịch sử,
liêp tiếp bị Tàu và
Pháp đô hộ, giam hãm
Dân tộc chúng ta trong cái
cảnh
“ Cái
khó bó cái khôn”
Kéo theo tình
trạng ‘ Bần
cùng sinh đạo tặc’
, do đó mà
bỏ quên cái tinh hoa văn hoa của
cha ông, nên bị
sa đọa lần lần như ngày nay. Khốn
nỗi khi được độc lập, thay vì phục hoạt
lại tinh hoa văn hoá mà vươn
lên, lại khinh chê Tổ tiên,
đôn đáo đi rước nếp sống
Duy Lý một chiều của Tây phương,
như nếp sống cá nhân chủ nghĩa
vô trách nhiệm,
nhất độc dược CS mà phá tan đất
nước. Nay chúng ta đang ở trong
vòng lẩn
quẩn cứ viết lách sát phạt nhau,
mà không lo tìm đường giải
thoát, việc trước
tiên là giải phóng con Người
ra khỏi sự đói khát và ngu
dốt! Chúng ta đã bỏ cái
tinh hoa của Cha ông, học cái dở
mà không học được tinh hoa của
người ngoài, nên
chúng ta bị đại nạn bất hòa
vây khổn! Thế
giới Tây phương trước đây
đã
sống nghịch
với thiên lý, nên đã
sản sinh ra Chế độ Nô lệ, Đế quốc thực
dân và chế độ Cộng
sản - 3 tai hoạ lớn lao cho nhân loại -.
Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật
mà ngày nay Dân sinh
và Dân trí của Tây
phương đã được nâng cao, đời sống
Tâm
linh đã được quan tâm phần
nào, nhưng Tâm linh và Thế
sự vẫn chưa được
quân bình. Trong
xã hội, vì lòng
Nhân ái và lẽ Công
bằng mà con người không thể sống
như lang sói
dùng nanh vuốt để dành miếng ăn,
mà yên tâm để cho
cái tình trạng “ Dĩ cường
lăng nhược, mạnh
được yếu thua, cá lớn nuốt cá
bé “
tràn lan, khiến cho một thiểu số
đàn áp bóc lột và
giết hại kẻ yếu hèn thất thế.
Cuộc
đấu tranh của chúng ta dựa trên
chiến lược:”
Lấy “ Chí Nhân và
Đại Nghĩa “để thắng “: Tham tàn
và cường bạo” . và chiến
thuật đấu tranh bất bạo động “ là Dĩ
Nhu thắng Cương , dĩ Nhược thắng Cường
“. Không
có những con người Nhân chủ
thì
không thể vận dụng hữu hiệu được chiến
lược và chiến thuật trên. Đây
mới là cuộc đấu tranh Chính
nghĩa. Sở dĩ
có Tôn giáo là để
un đúc con người nhân ái,
giúp mọi người thực hiện lẽ công
bằng xã hội một cách tương đối
để mọi người sống
hòa với nhau. Nhưng các
tôn giáo cũng không cải
thiện được hữu hiệu tình trạng
con Người bất Nhân tiếp tục gây ra
bất Công, làm khổ đau nhân
loại. Cần có một
phong trào chấn hưng Dân
Tâm và dân Trí mới
mong kết quả. Ta nên
nhớ vì Thiên bẩm nơi mỗi người
khác nhau, do đó mà Tư
hữu của mỗi ngưới cũng khác
nhau. Trong chế độ
Tư bản thì quyền Tư
hữu là tuyệt đối, không ai
có
quyền xâm phạm, không ai viện
lý do gì mà tước đoạt
được vì đã có luật
pháp bảo
đảm. Khốn nỗi thiểu số những người thông
minh và khỏe mạnh nhiều khi lại
dùng ưu
thế của mình để áp bức
bóc lột người yếu thế.
Do đó mà Tây phương
đã sản sinh ra ba cái tại họa
lớn cho nhân loại: Chế độ
Nô lệ, Đế quốc Thực dân và
Cộng sản. Cộng
sản là con đẻ của hai chế độ
trên, cho rằng sở dĩ có
sự bất công xã hội do chế độ
Nô lệ và Đế
quốc Thực dân gây ra, CS cho
tình trạng trên là do sự
chiếm hữu bất công, do đó
CS chủ trương tước bỏ
quyền Tư hữu đem
vào công hữu để phân
phối cho được
công bằng, nhưng khi tước quyền tư hữu
của người dân, tức là đã
tước mất sức lực
và sáng kiến của người
dân, tức là khoá
trí óc và bàn tay
của người Dân lại, thì
làm sao mà thực hiện công
bằng xã hội. Phá
tan
tành thì dễ mà xây
dựng lại thì khó, khi CSVN
xúi bần cố nông phá tan
tành
hết rồi, thì ngơ ngác chẳng biết
đi đường nào và làm
gì, chẳng khác “
thằng mù dắt thằng chột “ CS
không biết cách
nào giúp dân ăn nên
làm ra, phải rước kẻ thù truyền
kiếp làm thầy để giữ ngôi, tự
đem vòng Kim cô của Tàu
xiết cổ mình. Măt khác đã
thủ sẵn mưu đồ ăn cướp quốc tế,
CSVN cố công cướp dật mọi thứ để
thành Tư bản đỏ.Cảnh cướp của, giam cầm
và giết
đồng
bào đã kéo dài hơn
60 năm nay chưa dứt! Trước tiên
là tầng lớp Đầu Sõ, nay Đầu
Sõ đã giàu sụ, lại đến
phiên Tay Chân, nạn cướp
bóc lan cùng khắp nước. Khi
tay của tất cả đảng đã nhúng
chàm thì cùng
nhau lo mà giữ mạng sống và của
cải! Đó là Chủ trương lớn của
Đỉnh cao trí tuệ.
Thế
mà cách nay gần 5000 năm cha
ông chúng ta đã nhận thấy
vấn đề nền tảng bất công
xã hội tương đối, nên đã
lập ra chế độ công điền công thổ,
gọi là chế độ Bình sản.
Trong mỗi làng ( nhất là Miền
Bắc và miền Trung, miền Nam là
thuộc địa của Pháp,
- gốc của nền tư hữu tuyệt đối- nên
có điạ chủ có ruộng cò
bay thẳng cánh ) hơn
phần nửa là công điền công
thổ tức là công hữu, Tổ
tiên dùng công hữu
này để điều hoà với quyền Tư
hữu bằng cách cứ 5 năm
luân phiên cấp phát lại cho
những người yếu
hèn thất thế mỗi người 5 sào để
tự canh tác mà sống để
không ai dùng miếng ăn để
làm mất nhân phẩm của họ,
còn những người
khuyết tật thì đem số ruộng ấy
cho “ rong canh” nghĩa
là cho người khác cày cấy
để thu một số
hoa màu mà sống. Tuy trong
xã hội vẫn có người giàu
người nghèo, nhưng không ai
quá giàu và cũng
không ai quá nghèo
thành người vô gia cư ( homeless
). Tuy là
trong chế độ nông nghiệp thô sơ,
nhưng tư tưởng ấy rất tiến bộ. Còn
các nước Tư bản nhất là Hoa kỳ
đã đánh thuế
lũy tiến để thiết lập hạ tằng cơ sở như hệ
thống đường sá, hệ thống cung cấp nước,
điện, điện thoại cho toàn dân
cùng những phương tiện nâng cao
dân sinh dân trí như
xây dựng các cộng đồng để cung
cấp phương tiện và những cơ hội thuận
lợi giúp mọi
người dân phát triển.
Ngoài ra lại lập quỹ An sinh xã
hội để giúp những người yếu
hèn thất thế sống với phẩm giá
con người. Tuy vậy mà vẫn chưa được
hoàn hảo, vì
ngày nay khoảng cách giàu
nghèo ngày càng
thêm rộng. Nhưng vẫn có nhiều tỷ
phú
lại đem tiền ra làm việc bác
ái để giúp người nghèo
khó, bệnh tật và thất
học. Tóm
lại cả Tư bản lẫn CS cũng đã
không đạt được thế quân
bình, Tư bản thì Lạm dụng
“ Thừa “: ăn quá nhiều, mặc
quá sang, tiêu xa xài
phí, chơi vui lắm
cách, gây ra nan đề cho
chính mình và
xã
hội, còn
CS thì Lạm dụng “ Thiếu :
Tước đi của ăn, quyền sống, giam con người
trong đói rách và ngu
dốt.“. CS
thì Duy Lý chỉ đi một chân
nên
đã đổ nhào cả mảng ,
Còn Tư bản tuy có đi trên
hai chân, nhưng
nhiều người lại sống xa phí trên
nợ vay, cứ ăn xài đi cho kinh tế
phát triển, xã
hội thì
cứ theo chu trình: Sản xuất nhiều,
tiêu tụ nhiều và cứ thế mà
tăng tiến.! Nay nhiều nước ở Âu
châu và ngay nước
Hoa kỳ tuy không bị sụp đổ nhưng
đang
gặp khủng hoảng vì nợ vay cao hơn nhiều
đối với Tổng sãn lượng quốc gia, đại
khái
là do cơ chế xã hội chưa
điều hoà được giữa Công và
Tư hữu,
còn toàn
dân không thể sống theo
nếp sống Đa dục ( Lạm dụng Thừa ) hay Diệt dục (
Lạm dụng Thiếu ), mà phải sống
theo lối Quả dục ( Chiết trung giữa Đa và
Diệt dục )
mới mong được cân bằng. Tóm
lại, Dân chúng là
thành phần đại đa số của
quốc gia, nếu sự sống của toàn dân
được điều hoà cân xứng thì
nền tảng quốc gia
sẽ vững vàng không gì lay
chuyển nổi. Tiếp theo các Cơ chế
xã hội được cân bằng
thì khó mà bị rơi
vào cảnh khủng hoảng trầm trọng. Chỉ
có điều khó khăn là
dân
chúng đã ăn xài quen, nay
khó mà dừng họ lại, vì họ
là chủ nhà nước mà, trừ phi
thuyết phục cho họ chấp nhận lối sống an
bình Quả dục thì mới mong. Nhưng
ngày
nay, sự liên hệ toàn cầu đã
liên kết nhiều lãnh vực của
các nước vào nhau, khi
một nước có vấn đề tất ít nhiều
cũng ảnh hưởng đến nước khác. IV.-
Xã hội Trong
xã hội cần phải điều hoà hai đối
cực Dân
sinh và Dân trí. Dân
sinh có được cải thiện thì
Dân trí mới được nâng cao.
Dân trí mà được nậng cao
lên một bậc thì Dân sinh
lại được nâng cao lên hơn nhiều.
Sự cải thiện cặp đối
cực phải được đồng bộ và làm sao
cho mức Giàu
Nghèo trong xã hội bớt
cách biệt. Xã
hội
có được yên hàn là
nhờ biết cách cân bằng cặp đối
cực này sao cho điều hoà một
cách khéo léo. Sở dĩ
có đại nạn CS là do sự
cách biệt Giàu nghèo
quá lớn “ Kẻ ăn
không hết người lần không ra “.
Khốn thay! CSVN chẳng những đã
không làm giảm bớt
khoảng cách mà trái lại
còn làm tăng thêm, cuộc
cách mạng vô sản chỉ viện
lý bất
công xã hội để âm mưu thực
hiện cuộc ăn cướp mẻ lớn, từ ăn cướp
chính quyền đến
ăn cướp tài sản nhân dân
và bán nước là một chuỗi
hành động cường bạo để thoả mãn
lòng tham lam! Việc
ăn cướp ngoài việc gây đau khổ
cho người dân mà còn
làm sa đoạ con người và
làm
băng hoại xã hội nhất là
luân thường đạo lý làm
người! Tóm
lại khi con ngưòi có cuộc sống
sung mãn thì mới đủ khả năng
và nghệ thuật để điều
hoà các đối cực trong các
cơ chế xã hội. Vì tất cả các cơ chế có
liên hệ cơ thể với nhau, nếu sự
căn bằng không
hợp lý sẽ gây ra sự rối loạn
xã hội. G.- Vần
đề đem Đạo lý vào Đời Cái tệ nạn con Người bất
Nhân gây ra tình trạng
xã hội bất Công là do
con người không sống thuận
theo Nghịch lý hài hòa,
nặng về
Thế sự mà nhẹ về Tâm linh,
nên gây ra xã hội rối loạn
như hiện nay. Khi coi
nhẹ hay bỏ quên, không trau dồi đời
sống
Tâm linh, con người trở nên bất
Nhân, ta thường gọi là Vô
Thần, vì có Thần mới
Linh, vô Thần thì không Linh,
có Linh từ nguồn Tâm linh mới
có lòng Nhân vì
là “Nhân
linh ư vạn vật “ .
Thường chúng ta hay dùng
chữ Hữu Thần Vô thần để xếp hạng người
có tín ngưỡng hay không,
thực ra chữ Hữu
thần hay Vô thần rất mơ hồ có khi
nhiều người tự xưng là Hữu thần mà
vẫn không
linh tức vẫn là Bất Nhân. Tệ nạn
bất Công xuất phát với con người
bất Nhân. Xã
hội chỉ Hoà bình khi hết tai nạn
bất Công. Bất
Nhân và bất
Công là hai nguyên
nhân của rối loạn gia đình
và xã hội. Muốn sửa bất công
xã hội thì phải tìm
cách
sửa đổi con Người bất Nhân trước, khi con
người không hành xử Bất công
thì xã hội
hoà bình ngay. Triết
lý nhân sinh của Cha Ông ta
là phương cách giúp mọi
người từ Thiên tử đến thứ dân ai ai
cũng biết cách tu dưỡng
lòng Nhân và hành xử
tương đối công bằng mà hòa
với nhau được.
Đó là cách đem Đạo
lý vào Đời bằng cách
trau dồi những điều đơn giản mà ai ai
cũng làm được với điều kiện làm
những điều
đơn giản khả thi nhưng thiết thân với mọi
người. Đây là công việc Tu
thân với ý
thức trong thế giới này, ai ai cũng bất
toàn cả, nên cần phải hoàn
hảo bản thân
hàng ngày trong hai lãnh
vực: Hoàn
thiện
mọi việc Làm và hoàn
thiện các mối Giao liên. Lối tu của văn gia và chất
gia đều hướng vào một mục tiêu
chung là :“
Hòa “ .
Hoà là thứ quý
nhất trên đời, là
cội nguồn của Hoà bình, Hạnh
phúc, mà muốn xây dựng
Hoà bình phải đi từ Gốc tới
Ngọn chứ không thể làm
tắt được. Tóm lại ta thấy nét
Lưỡng nhất hay Nhất quán - nền tảng
của Tiến bộ
và Quân bình - xuyên
suốt từ Vũ trụ quan
đến Nhân sinh quan qua lộ đồ Tu, Tề,
Trị, Bình, là sợi chỉ hồng
xuyên suốt nền
Văn hoá Việt. Tóm lại: Từ đầu chí
cuối, tuy dạng thức khác nhau, nhưng
các cặp đối cực
luôn hiện diện trong đời sống Việt trong
mọi lãnh vực từ khi chào đời cho
đến lúc
từ giả cuộc đời, để cho các cặp đối cực
giao thoa hay hài hòa thì
chúng ta cần
phải thực hiện công trình Vi
Nhân liên tục suốt đời với nghệ
thuật tinh vi và uyển
chuyển: I.- Trên phương diện xây
dựng con Người, Gia đình và Đất
Nước. 1.- Đối
cá nhân thì khi
Tình / Lý tương tham thì
Thân
mới an, Tâm mới lạc. 2.-
Trong lãnh vực gia đình
và xã hội thì cuộc sống
Tình / Lý không thể rời
nhau để
cho vợ chồng hoà thuận, gia đình
ấm êm, xã hội an vui. 3.-
Trong các cơ chế xã hội như:
a.- Về Chính trị thì cặp
đối cực
Nhân quyền / Dân quyền phải được
hài hòa.
b.- Về Giáo dục thì
cặp đối cực Thành Nhân /
thành Thân phải đưọc
điểu hòa
c.- Về Kinh tế
thì cặp đối cực Công hữu / Tư hữu
phải được cân xứng
d.- Về xã hội
thì khoảng cách Giàu /
Nghèo không quá
cách xa.
4.-Trên bình diện thế giới
thì cặp Đạo trường chung ( Nhân
ái,Từ bi,Bác ái ) / Thị
trường chung (
công bình tương đối ) cần
được điểu hòa .
5.- Trên cấp siêu
hình thì Hữu
vi / Vô vi cần được hài
hòa mà đạt An vi ( Kim Định ) Để cho cặp đối cực giao thoa
thì Tỷ lệ Tình / Lý
là 3 / 2. ( tỷ lệ công
bằng tương đối để giao hòa) II.- Trên phương diện Giữ Nước:
1.- Về Chiến lược thì lấy cặp
Chí Nhân / Đại Nghĩa để thay thế
Tham tàn / Cường bạo
2.- Về Chiến thuật thì lấy cặp
đối cực Nhu / Cương để lật thế cờ Cường /
Nhược ( Dĩ Nhu thắng cương, dĩ Nhược
thắng Cường để đối đầu với lối Dĩ Cường lăng
Nhược của kẻ thù ) Khi mọi người lấy lòng
Nhân ái mà ăn ở với nhau thì
đạt “ Chí Nhân”, khi
mọi người Dân đều thể hiện Công
bằng xã
hội thì đạt “ Đại Nghĩa “, có
Chí Nhân và Đại Nghĩa
thì mới đủ Dũng lực để
thắng Tham tàn và Cường
bạo để giữ Nước
và dựng Nước. Việc này Cha ông
quê mùa chúng ta có
thời kỳ đã làm được, còn
chúng ta ngày
nay tự vỗ ngực là văn minh thì xin
cứ nhìn vào Mình, Gia
đình mình và xã
hội thì
rõ ! Đó là lộ đồ “ Vi
Nhân “ siêu việt của Tổ
tiên, bắt đầu từ thâm Tâm
con
Người, luôn cố gắng Vi Nhân bằng
những việc từ Gần tới Xa, từ Nhỏ tới To, từ
Tục
tới Thanh, từ Đơn giản tới Phức tạp, tử
Thưòng thường tới Phi thường, từ Lượng
tới Phẩm, từ Tinh vi tới Vĩ đại. . . Với ý thức mình
là con Người ở Nơi đây và
Bây giờ,
từ căn bản đó cố mà vươn
lên trong hiện tại
miên trường ( ever present ) về hai
lãnh vực: Hoàn thiện mọi việc
Làm và hoàn
thiện các mối Giao liên. Tất cả được gói ghém
trong danh từ Việt là siêu việt. Nhìn lại tình trạng
xã hội suy đồi hiện nay trong nước cũng
như tình trạng
phân hoá nơi hải ngoại,
chúng ta phải thắc mắc : Tổ tiên
chúng ta có nền Văn hoá
siêu việt như vậy, tại sao ngày
nay chúng ta sa vào tình
trạng Nước sắp mất, Nhà
không yên, mà nhiều người
kể cã những
người
thuộc tầng lớp trên cao cứ xem như
không có chuyện gì quan
trọng xẩy ra
? Thưa tại Người mà cũng tại Ta. Những người Tham tàn và
Cường bạo Bắc phương và Pháp ở
Tây phương đã
giam hãm dân tộc chúng ta
trong “ Cái khó bó
cái khôn” , gây ra
tình trạng “ Bần
cùng sinh đạo tặc: Đói ăn vụng,
túng làm càn ”. Về
phía chúng ta khi đã
dành độc
lập không lo sửa chữa những nết xấu do
sự đô hộ do bần cùng nhiễm
vào, mà cứ “ thói
nào theo tật nấy” nên
bị sa đoạ trầm
luân!
Lý do duy nhất là
vì bị
đô
hộ
mà
Cha
ông chúng ta và
chúng ta đã bỏ quên nền
Văn hoá “Dĩ Hoà vi quý “
của Tổ tiên xưa! Sửa được nạn Bất
Hoà hiện nay trong
gia đình và xã hội
thì chúng ta mới có dư
nội lực để vùng lên vực
dây. Đây
không
phải là lý thuyết cao xa, viễn
vông mà là những việc
làm nhỏ nhặt liên tục, ai ai
cũng có thể làm được miễn
là kiên tâm trì
chí mới được. Đừng
tìm cây đũa Thần ngoài
chính Mình và
Dân tộc mình. Từ chối công
việc “ Vi Nhân nan hĩ “ này
thì dầu có chạy cùng thế
giới mà tìm
kiếm cũng vô ích, vì khi
mình mất niềm tin nơi chính
Mình và Dân tộc
mình thành ra ỷ lại và
khiếp nhược
thì phỏng cây đũa Thần nơi
khác có rơi vào Tay cũng
trở nên vô dụng.! Chúng
ta đã có dư kinh nghiệm về vấn
đề nầy
rồi! H.- Trên
Đường
về Quê
(
7 ) Thế giới của
chúng ta ở trên quả đất này
là
thế giới hiện tượng, do sự sinh sinh hoá
hoá của các cặp đối cực trong vũ
trụ.
Các cặp đối cực biến hoá
không ngừng nên mọi vật đều biến đổi
luôn luôn. Đây là
thế giới hữu hạn của vật chất, nhưng vì
luôn biến đổi, nên có
đó và không đó,
Cha ông chúng ta bảo là “
có mà như không,
không
mà lại có” hay
là ‘ Thưc
nhược hư, hữu nhược vô: Thực cũng
như hư, có cũng như không “. Vì
quan niệm “ Hữu sinh ư Vô : mọi sự
Có là do từ Không “. Có
Không đối đáp là thế giới
hiện tượng, còn VÔ
(
cực ) là thế giới Tâm linh. Có
thì luôn biến đổi, nên ta
không thể bám trụ
vào cái biến đổi trong cuộc sống,
một thanh sắt ta tưởng là bền chắc
lâu đời
thế mà nó có thễ dãn
nở theo nhiệt độ và khi để ra
ngoài mưa gió thì chẳng bao
lâu đã bị rỉ sét. Thế
giới hiện tượng là
thế giới của “ Sinh, Thành, Suy, Hủy” theo
những chu trình khác nhau,
có cái biến đổi
từng sát na, ta chưa bám
vào kịp đã biến mất, có
cái thì lâu đến mấy chục
ngàn
năm ( ? ) như ngôi sao đỏ, nhà Phật
đã gọi đó là
“ Tuồng ảo hóa đã bày ra
đó”, còn Tổ tiên
nhà Nho của chúng ta thì
nương vào sự biến đổi trong vũ trụ theo
thời gian mà vươn lên sống cho sung
mãn,
mà không thể bám vào,
vật chất
- một
đời ta, ba bảy đời nó - chỉ
là phương tiện để giúp
chúng ta sống đàng hoàng
vươn lên mà thôi.Ngày
nay cả thế giới đang vùng lên đem
hết trí tuệ ra mà đua tranh
thủ đắc cho nhiều vật chất, càng nhiều
càng ham, càng ham càng
đói khát, càng
đói khát thì tâm hồn
càng trống rổng, vì con người đang
khao khát vô biên mà
lại
say mê làm đầy bằng của vật chất
hữu hạn, nên đâm ra thất vọng
não nề.
Thế giới
chúng ta đang sống là thế giới
Hữu,
mà gốc của vũ trụ là Vô, tức
là thế giới Tâm linh, Lão
giáo gọi là Lân hư,
nhà
Phật gọi là Chân không diệu
hữu, Tổ tiên Việt gọi là Đạo Trống,
đó là nguồn gốc
Tâm linh là nguồn mạch của
lòng Nhân ái và
lý Công chính. Thay
vì bỏ lý trí, bỏ
“ chấp” tức là ‘ phá “, quy tư
mà un đúc những giá trị cao
quý mà vươn lên, lại
chỉ đi vun quén của cải hữu hạn vật chất,
không những làm cho mình lao
đao trên
con đường “ Nhân
dục vô nhai: lòng người
tham vô đáy “, khiến ngày
càng thất vọng
mà còn gây ra sự bất
công làm rối loạn chung trong
xã hội. Khi về
già là lúc phải trút
bỏ tất cả công
trình của Ngã chấp, nghĩa
là những công trình của
Lý trí, ngay cả luân thường
đạo
lý, để cho nhẹ gánh như lạc
đà trút bỏ gánh nặng
trên lưng mà qua cửa hẹp.
Thánh
Gandhi đã bảo “ Je me reduis à
Zéro: tôi tự diệt cho đến số
không “.
Ngay cả Luân thường đạo lý
cũng chỉ cần cho
thế giới hiện tượng mà thôi,
vì thế giới Tâm linh là thế
giới VÔ, nên khi về quê
không cần bất cứ hành trang
nào cả, chỉ có tay không như
khi vừa mới ra đời. Khi
còn trẻ ra sống ở đời thì phải “
suy tư “
giúp phát triển Lý
trí để nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần mà sống đàng
hoàng. Đến khi về già thì
phải “ quy tư” bỏ
hết công trình của Lý
trí, bỏ hết tất cả mọi
thứ hành trang ở đời, giúp cho đời
sống được nhẹ nhàng, giúp cuộc
sống được như
làn Gió mát thoảng
trên không, như dòng Nước
lững lờ êm
trôi dưới suối vắng, đó là
đời
sống Phong Lưu, sẵn sàng
đợi
chờ phút từ giả cuộc đời nhẹ gánh
về quê.
( 3 )
I.- Kết
luận Nhờ
sống bằng nghề nông, cha ông
chúng ta đã sống gần thiên
nhiên, luôn bám sát
vào
sự biến đổi của thời tiết để gieo trồng, nhờ
đó mới nhận ra lẽ biến dich của
Trời Đất, nên đã ngộ được : 1.- Một Vũ trụ quan động với Ba
thiên tắc: Luật Biến Dịch, Giá
Sắc và
Loại tụ. 2.- Một Nhân sinh quan “
Nhân chủ, Thái hoà
và
Tâm linh “ 3.- Một Đạt quan: Phong, Lưu: Cặp
đối cực Siêu thoát. Đây
là những nét chính của nền
Văn hoá thái
hoà, mà Việt Nho đóng vai
trò quan trọng, trong đó
nét Lưỡng nhất hay Lưỡng hợp
là sợi chỉ xuyên suốt mọi
lãnh vực, nó đã thẩm nhập
vào trong đời sống hàng
ngày,
trong lời ăn tiếng nói, trong cách
hành xử hàng ngày, trong
phong tục tập quán
. . . Những quan
niệm này cũng rất gần với quan niệm
của Thái Dịch Lý Đông A.
Đó là lối biết: 1.- Sống thực:
Tức là nhân
sinh quan thực tế, không phải suy ra từ
lý luận suông. 2.- Sống
đúng: Hợp với Đạo lý
làm Người. 3.- Sống biết:
Có tri thức, biết
mình sống để làm gì, như thế
nào. ( Triết
lý Tổng thể Duy nhân của Lý
Đông A. Phạm khắc Hàm trang 156 ) Nền Văn
hoá Việt Nho này có (
Đã bàn trong
cuốn Văn hoá Đông Nam của
tác giả ) : 1.-Cơ cấu là: 2-3,
5.
2.-Nền tảng là : Thực:ăn
uống để vực cái Đạo làm Người
về Chân,
Thiện, Mỹ.
Sắc:
Đạo Vợ Chồng : Đại Đạo Âm Dương Hòa
Diện là
phẩm giá con Người ( Nhân,
Trí,
Dũng ): siêu
việt 3.-Cột trụ của Văn
hoá là
“ Nhân chủ ( số 3 ) , Thái
hòa ( số 2 ) và
Tâm linh ( số 5 ) “. 4.- Đỉnh cao của nền văn
hoá là cuộc sống Phong (
Gió trên Núi:Nhân )
Lưu ( Nước dưới suối: Trí ).Phong,
Lưu giao hòa thì
siêu thoát, hoà đồng
cùng vũ trụ. ( Những vấn
đề này đã bàn ở nơi
khác, vì bài
bị hạn chế
không thể bàn ở đây )
Nền Văn
hoá này được gọi là Việt
Nho, thứ
Nho này có nền tảng từ đời sống
Viêt, rất khác với Hán Nho
của Tàu, Đây là triết
lý nhân sinh của riêng Việt
Nam, có nền tảng từ Dịch. Dịch này
bắt nguồn từ cặp
đối cực Tiên Rồng. Dịch của Tàu coi
nhẹ nền tảng, mà chú trọng
cái ngọn 64
quẻ để bốc phệ cùng với Nho Y,
Lý, Số. Nho của
Tàu là Hán Nho bá
đạo, Nho này đã
đánh mất
“ vi ngôn đại nghĩa “, chỉ chú
trọng việc tầm chương trích cú
và ngâm thi vịnh
nguyệt, do đó ngày nay nghe
nói đến Nho thì bị cho là
lỗi thời quê mùa lạc hậu,
nên nhớ đó là Hán Nho
của Tàu.
Có một
điều đặc biệt là cả văn gia lẫn chất
gia đều có chung một nền văn hoá “
Dĩ
Hòa
vi qúy “ , tuy mức độ cao thấp
thì có khác nhau, nhưng
đường ăn nết ở lại không
có khác, nên nền Văn
hoá là thống nhất cho toàn
dân. Đây
là nền tảng của sự đoàn kết
Dân tộc, mà nay, chúng ta
đang khổ công tìm kiếm mà
nhiều người chưa nhận thấy. Lý do
đơn giản là tinh thần của Văn hoá
thái
hoà đã nằm sâu kín
trong lòng mỗi con người mà
ngưòi ta lại đi tìm ngoài
nơi xa
xôi, mãi tận bên Tây bên
Tàu! Chẳng khác
nào một người mất một vật quý,
nó ở trong túi mình,
mà lại đi tìm khắp nơi
ngoài
con người mình!. Lại thêm nền Văn
hoá của cha ông chúng ta
nó khởi đầu từ con
người và cho con người, bắt đầu từ những
cái đơn giản, nhỏ nhặt, tầm thường . .
. mà vươn lên, thế nhưng vì
bị đô hộ lâu ngày, sống trong
bóng tối, chợt thấy ánh
sáng văn minh Tây phương quá
rực rỡ, nhiều người đã đôn
đáo chạy ra tứ phương,
học hỏi một cách mù quang người
ngoài, khốn nỗi tinh hoa thì chưa
học được, mà chỉ
rước toàn độc dược là bệnh Duy
lý một chiều mà tôn thờ,
nên bị vong thân, khởi đầu
cho vong gia vong quốc và vong nô! Nền văn
hoá này lâu đời nhất
trên thế giới,
nó được hình thành từ nền
văn hoá Hoà bình
cách nay từ 12 ngàn năm đến 30
ngàn
năm,( 8
) tuy
thế mà nó vẫn phù hợp với
nền khoa học
hiện đại, nhất là với khoa vật lý
vi tử, nó phát sinh và tồn
tại với con người,
nên không
có gì cũ và mới cả, không
có gì
là quê mùa lạc hậu cả, nó
không ứ
đọng một chỗ, luôn theo Dịch lý mà
đổi
mới theo
Không Thời gian: “ Tuỳ Thời
mà ở ( theo Thời gian ), tuỳ Chợ
mà ăn ( theo Không gian) “,
hay
“Ăn theo
Chợ, Ở theo Thời
“, hay
“Tuỳ Thời chi nghĩa đại hỹ
tai: Khổng Tử “, thế
mới biết
chỉ tại Cháu Con không
lãnh hội được mà
đổi thay cho hợp tiết nhịp Hòa của Vũ trụ
mà thôi. Những đặc
tính này các nền văn
hoá khác
không có, họ chỉ có nền văn
hoá một riêng cho Quý tộc
và
Nền Văn
hoá này bị chôn vùi
lâu đời, vì bị
những chế độ tham lam, độc ác “ Dĩ Cường
lăng Nhược: Mạnh được Yếu thua, Cá
Lớn nuốt cá Bé” của
Tàu rồi của
Pháp, giam hạm dân tộc chúng
ta trong cảnh “ Nghèo đói
và ngu dốt “ mà quên đi. Do
đó con người bị phân hóa,
tinh thần dân
tộc bị tê liệt, vì đã mất
hết nội lực, mất hết chất keo Dân tộc,
đó là tình
Đồng bào. Cảnh phân hoá
đã tràn lan, không những
trong dân chúng, mà nhất
là
trong các giới trí thức, giữa
các tôn giáo, mà
ngay trong một tôn giáo, trong
hàng giáo phẩm và
giáo dân, tu sĩ và
giáo hữu. Vì không
tìm ra lối thoát, quá
bức xúc, hoảng quá mà
chạy quanh, người ta chỉ biết đả kích
nhau để mặc nhiên
cho mình là đúng, chỉ
có người khác sai, rồi cứ
dùng mọi cách dồn nhau
vào chân
tường, làm cho tình trạng
phân hoá lại càng
phân hoá thêm. Còn
những thành phần
khác khôn ngoan hơn, lại sống
theo lối “ lenteur romaine: ăn đi trước
lội nước theo
sau “, các vị ấy có nhiệm
vụ dóng lên tiếng chuông
cảnh tỉnh Dân tộc, nhưng
vẫn cứ
“ im lặng
là vàng “, nên
tình
trạng xã hội ngày một xấu
thêm. Không
có cái Dũng đi theo chánh
Đạo mà tương
dung, hỉ xả, tha thứ cho nhau, thì
làm sao mà hàn gắn đổ vỡ,
lối sống “ Khôn Độc dại Đàn “
này đang
ngự trị trong tâm trí nhiều người.
Xin
nhắc lại chỉ có Tình thương
chân chính mới nối kết mọi người
lại với nhau, và
chì có cách hành
xử tương đối công bằng thì mới
giúp sống Hoà với nhau, khi
đó
mới bàn tới việc nhà việc nước
được đến nơi đến chốn, kẻ yếu đuối không
thắng
được chình mình thì
không thể sống hoà với người
khác được . Cái khó khăn
bậc
nhất là ở chỗ đó, chúng
ta không thể phớt lờ đi được! Đây
là việc dài lâu, không
đi từ nền tảng,
thì không bao giờ đạt kết quả. Chỉ
còn lại lối
độc tài như CS là dễ nhất,
không đoàn kết
thì lấy bùa Lú mà
Lừa, rồi lấy luật pháp độc chuyên
mà xiết cỗ mọi người lại,
không hạnh phúc thì cứ
nhét của ăn “ Thiên đàng
mù “ vào họng mà loa
vang là vô cùng sung sướng!
Nhưng nay bùa Lú nay đã
hết linh! Thiết tưỡng
không xây dựng lại con người
thì
không bao giờ xong, có nước
nào trên thế giới được giàu
mạnh bởi một dân tộc đa số con người đều
yếu hèn và ích kỷ
không?
Không
có con Người Nhân chủ thì
mãi vẫn mang
tròng nô lệ vào cổ
cách này hay cách
khác . Cha ông ta cũng quê
mùa lạc hậu, nhưng
không yếu hèn, khôn vặt,
mà biết nương theo sự biến hoá
trong Trời Đất mà vươn
lên trong trường kỳ lịch sử. Từ sự biến
hoá của các cặp đối cực, cha
ông
chúng ta đã tìm ra cuộc
sống siêu việt, nhờ định vị được ví
trí cao cả của con
người trong
Trời Đất, đó là con người
Nhân
chủ, con Người biết nương theo Thiên
lý
( Dịch lý ) mà
sống Hòa cùng Trời
Đất, mà không nô lệ cho cả
Trời (
Thiên
chủ ) lẫn Đất ( Vật chủ ), con Người biết
bám vào các đối cực, nương
theo cánh
Thời gian mà biến hoá, mà
vươn lên theo cung cách “. Thiên sinh Địa dưỡng, Nhân
hòa ( Nho ) : Trời, Đất in Ta một chữ Đồng. ( Trần
Cao Vân ). Trong thế
giới hiện tượng
Không gian và Thời gian đan
kết với nhau thành Thời
– Không – Liên : Time
– Space – continuum, các số Lẻ và
số Chẵn
cũng
đan kết với nhau theo Hướng và Phương,
cá biệt hóa mà thành
vạn vật ( Theo Lạc Thư minh triết: Kim Định ). Do
đó mọi sự trong thế
giới hiện tượng đều có cái Nhỏ đan
kết với
cái To,
cái Đơn giản cài
với cái Phức tạp, Cái Thường
thường Kết với
cái Phi thường, cái tinh vi
nối liền với cái
vĩ đại, mà không là từng cực
đơn lẻ ( Đơn cực không thể biến hoá
). Vì vậy cho
nên ta có thể tìm cái
To từ trong cái Nhỏ, cái Phức tạp
từ trong cái Đơn giản, cái
Phi thường từ trong cái Thường thường,
cái
Vĩ đại từ trong cái Tinh vi. Do đó
mà Tổ tiên chúng ta
không đi trên đại lộ huy
hoàng mà chỉ lần theo nẻo đường
mòn trong trần thế, nương theo cánh Thời gian
mà tiến từ cái Nhỏ qua cái
To, cái Tục qua cái
Thanh, cái Xấu qua cái Tốt, từ cái
Lượng
lên cái Phẩm, từ Đời qua Đạo . . Nhờ
cách
“ Tích
tiểu thành đại “ un đúc nội
lực
mà vượt qua những khó khăn
hàng ngày, hầu đạt những
giá trị cao cả “ Nhân, Trí,
Dũng “. Chỉ
lưu tâm vào nội các việc nhỏ
trong nhà, ngoài cánh đồng,
nơi làng xóm, mà gắng
hoàn thiện mọi sự từ nhỏ tới
to cho mỗi ngày một tốt hơn, và
hoàn thiện mọi mối liên hệ để sống
hòa với nhau
mà thăng tiến cái “ Đạo Hòa
làm Người “, hầu thăng hoa đời sống.
Không có cái
trần thế thấp hèn thì làm
sao có được cái đối cực
lành thánh cao sang. Cứ xem
việc làm của Thành Gandhi,
để nên Thánh, ngài cố triệt
tiêu mình cho đến
số không, muốn cứu cả nước Ấn Độ to lớn
ra khỏi sự đô hộ của nước Anh, ngài
chỉ làm việc rất nhỏ là ra ngồi
đường, bất
bạo động, ( làm việc không
làm ) chính việc nhỏ này
đã làm tỏ rõ chính
nghĩa của
dân tộc ngài và sự phi nghĩa
của đế quốc Anh. Bà Mẹ
Têrêsa Calcutta đi nhặt lượm những
người
bệnh tật hấp hối ở đầu đường xó chợ về
chăm nuôi, việc làm nhỏ nhoi dơ
dáy này không
ai dám nhúng tay vào, nhưng
việc dấn thân của Bà đã
làm nổi bật cái lớn lao về
lòng Bác ái của Bà,
vì cái Lý của Bà
là xoa dịu nỗi khổ đau của con người do
cảnh
bất công xã
hội gây ra.
L.m. Nguyễn
Văn Lý căng khẩu hiệu” Tự do Tôn
giáo hay là chết” nơi Giáo
xứ Nguyệt Biều nhỏ bé hẻo lánh,
cũng như kiên trì “ đấu
tranh cho Tự do và Dân chủ “ ngay
cả trong nhà tù tối tăm nhất của
nhân loại, thế
mà vang danh cả thế giới. Chúng
ta nghiệm
ra rằng, làm
việc nhỏ mà trúng với “ Đạo
lý Công
chính” thì sẽ làm tỏ
rõ, khơi
dậy cái lòng Nhân
ái bao la! Chúng
ta
không thể nhìn bề ngoài
đơn sơ giản dị mà cảm nhận được
cái siêu việt của
nền Văn hoá của Cha ông, trừ khi
chúng ta cố gắng sống theo để thể
nghiệm những
điều tầm thường thẩm nhập vào trong đời
sống của chính mình. Những kẻ
sĩ, những
hiền nhân quân tử không phải
là những người oai phong lẫm liệt, mũ
cao áo rộng,
bề ngoài không có
gì hào nhoáng, mà
là
rất
bình dị, họ chỉ là những con
người có đời sống tươi vui, khiêm
cung, đơn sơ, chất
phác, hồn nhiên như trẻ thơ, như
Tạo hóa. Tạo hóa được mô
tả là “ Hoá nhi đa hý
lộng: Trẻ Tạo sống như dỡn chơi “! Từ
ngày tiếp xúc với nền văn minh
chói loà của
Tây phương, nhiều người trong chúng
ta lại đi ngược lại, mê mãi
tìm cái to lớn
hào nhoáng bên ngoài
theo nếp sống cá nhân chủ nghĩa
vô trách nhiệm, đa số quên
đi những trách nhiệm nền tảng, quên
Tu thân và Tề gia mà lao đầu
vào việc Trị
Quốc, khốn nỗi là việc Tu thân
và Tề gia là việc nhỏ còn
làm chưa xong, nói chi
đến việc to lớn Trị Quốc. Khi
Thân mình
không an, Tâm không lạc, Gia
đình lục đục, Xã hội đầy bất
công, mà mình lại chưa
đủ Tư cách và khả năng thì
phỏng có phép lạ nào
giúp mình xây dựng cho được
xã
hội Hòa bình? Mãi
tìm cái to lớn, cái
siêu
viêt, cái phi thường trong thế giới
hiện tượng, trần thế này làm sao
có những
thứ đó riêng lẻ mà
tìm với kiếm ? Việc tu
thân theo văn hoá Việt không
theo lối
“Độc thiện kỳ thân” mà là
việc thiện hóa toàn dân. “ Tự thiên tử chí ư thứ
dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi
bản: Từ thiên
tử tức là ông vua, cho đến mọi
người dân, ai ai cũng phải lấy việc sửa
mình làm
gốc. Thứ hai nhờ
quan niệm “Đạo bất viễn nhân : Đạo
không xa con người, cứ đi vào
Tâm mình cố
xoá bỏ Tham Sân Si, mà sống
với đời, chứ “
không phải tìm Đạo những nơi xa
xăm, vì Đạo với
Đời là một, Đạo xa con Người không
là chính Đạo mà là
tà Đạo. Lại nữa
cách tu thân cũng bình dị :
Dị tắc dị
tri, giản tắc dị tòng: Dễ cho
nên ai cũng
hiểu được, giản dị cho nên ai
cũng dễ theo. Việc Tu thân có nhiều lối,
của nhiều môn phái khác nhau
với những bản
sắc khác nhau, mục đích tối hậu
cũng là xây dựng sự sống chung
Hoà bình, xem ra
đa số đều nghiêng về lối Độc thiện kỳ
thân “. Duy lộ đồ Tu thân Tề
gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ của
Nho là chăm lo việc
làm hàng ngày
và suốt đời của toàn
dân, để ai ai cũng lo làm
cho gia
đình êm ấm, xã hội
yên vui. Văn
hoá cha ông không coi đời
là
ảo mộng, hay thế gian là kẻ thù,
mà nhìn đời với cặp mắt biến
dịch, biết nương
theo thiên lý biến dịch mà
“ vi nhân “, luôn luôn (
hiện tại miên trường hay An
trú trong hiện tại ) nhớ
mình là con
Người Nơi Đây và Bây Giờ,
chấp nhận mọi hoàn cảnh, tìm
cách vươn lên mà sống
cuộc đời có ý nghĩa, cái
ý nghĩa cao cả nhất là sống
Hòa với mọi người,
chứ không
mơ màng hy vọng ở đời sau mà
quên sống ở đời nầy, vì đời sau
là kết quả của công trình
xây dựng của những
hôm nay nối tiếp. Ngày
nay, người ta chê làm những việc
đó là
nhỏ mọn, tầm thường quá, dễ quá,
cho là ai chẳng biết, ai chẳng làm
được, thế mà
ít người chú tâm làm,
mà lý do sâu xa là
mình đâu có đủ đức Dũng
mà kiên trì tu
thân thường xuyên và suốt đời
được. Là con người thì ai ai cũng
bất toàn hết,
phút này còn lành,
mà giây sau có thể là
ác rồi. Đến nay nhiều người sống theo
đà
“ Yêu cuồng sống vội “, theo “ lối
thích và không thích
“ theo nhịp cao tốc đã
trở nên bất nhân, xã hội
đã đầy bất công, mà chẳng ai
chịu trách nhiệm, cộng đồng
thì phân hóa, chỉ theo
lối “ Khôn
độc dại đàn “ mà sống nhởn
nhở như
không có gì đáng quan
tâm. Nghe
nói
đến Nhân, Trí, Dũng, Tương dung hay
Bác ái, Công bằng, Tha thứ (
nhờ đức Dũng )
hay Bi, Trí, Dũng, Hỉ xả ( do đức Dũng
) thì dè bỉu phớt lờ,
tránh né. Gẫm lại,
chúng ta hư đi không phải bởi
cái to lớn, cái cao xa, cái
khó khăn,. . .mà chỉ vì
khinh thường mà hư đi vì bỏ quên
cái nhỏ nhặt, cái gần gủi,
cái dễ
dàng,. . . vì thế mà
chúng ta mắc nạn, cha ông
chúng ta đã mô tả là
“ Chết đuối
trong vũng chân trâu” ! Nay xin
nói một cách đơn giản mà ai
cũng nên
thừa nhận là: Xã hội hư đi là do
con người, vì trách nhiệm
chung nên dù
ít dù nhiều ai ai cũng
có trách nhiệm, trước
hết là sửa mình tiếp đến
là cùng nhau sửa đổi xã
hội, nên: Xin ai ai cũng hết
lòng “ Kính Trọng, Yêu
Thương, Chấp nhận nhau là đồng
bào mà Ăn ở công bằng
tương đối với nhau” thì mọi sự sẽ
êm xuôi, vì nó tạo
ra mối Hòa. Hòa là nền
tảng đoàn kết của toàn
dân. Khi toàn dân
đoàn Kết
thì không việc gì
mà làm
không xong với gần 90 triệu đồng
bào.( nay 90 triệu đồng bào
mà còn thua 3 triệu CSVN ! ) Mỗi
chúng ta nên vấn tâm xem
mình đã có ý
thức đủ để thực hành những điều đơn
giản này cho hạnh phúc
riêng và chung không
? Sao cứ một bề chịu bị áp bức
và sỉ nhục và đọa đày
mãi sao? Trong
giai đoạn khẩn cấp này, đạo lý
làm Người của Tổ tiên đã
bị suy đồi, thuần phong
mỹ tục đã bị tẩy xóa, con người
đã bị phân hoá trầm trọng,
gia đình đã bị lung
lay tận nền, Xã hội đã bị rối
loạn cực độ, đất nước đã bị âm
thầm đem bán cho kẻ
thù truyền kiếp, kiếp nô lệ sắp
choàng lên đầu lên cổ mọi
người dân Việt mà nhiều
người còn chưa hay, chúng ta chỉ
có hai cái lựa chọn:
Hoặc
là cứ ngủ mê, mọi sự còn
cho “ tốt Đạo đẹp
Đời “,
hãy để
yên cho tôi sống tự do theo
lối sống “ Khôn Độc
dại Đàn của tôi ”, cứ “ vô
cảm “ mà
sống,
tới đâu hay tới
đó , “ Sống Chết mặc bay
“, tôi và xã hội xem ra
chẳng mấy liên can, có bị
nô lệ cũng chẳng sao, khi đó
tôi tìm đi nơi
khác! Hay là chúng ta
hãy vì “ Tình Đồng
bào “, vì phẩm giá con
người,
giúp
nhau thực hiện những điều đơn giản trên
thì may ra chúng ta sẽ
giúp nhau vươn lên
vực dậy được, vì đó là
nguồn nội lực của chúng ta. Có
sửa được con Người thành
con người Nhân chủ, khi đó con
Người mới có tư cách và
khà năng sửa lại xã hội
cho được an hòa. Đây là sự
lựa chọn vô cùng quan trọng. Thấy
xã hội rối loạn, người ta chạy loanh
quanh các hiện tượng mà sửa,
càng sửa càng sai, vì
cái sai nó nằm trong Tâm “
Tham, Sâm, Si” và “ vô cảm” của
mình, cái
rối loạn ở ngay trong Lòng mình
chứ đâu có ở ngoài các
cơ chế xã hội mà
chạy lung tung mà sửa với sang! Loạn
ở Trong mỗi Người mà lại chỉ đi sửa ở
Ngoài xã hội có phải
là chuyện nghịch lý lắm
không? Nên
nhớ
rằng, các nan đề về con Người và Xã
hội
bắt nguồn từ nên Văn hoá hay Mạch
sống của Dân tộc, nền Văn hoá “ Dĩ
Hoà vi
qúy “ của Tổ tiên chúng ta
đã suy thoái qua hàng
ngàn năm, vì vậy cho nên
không
thể ngày một ngày hai mà
phục hoạt được, cần phải có những vị
quyền biến tìm ra
giai đoạn chuyển tiếp, biết làm từ gốc
tới ngọn, sửa đổi theo thứ tự việc trước
việc sau, từ dễ tới khó cho hợp
lý, mà khôi phục từ từ mới
được. Tóm
lại: Nét
Nhất quán hay Lưọng nhất hay Nghịch
lý hài
hoà là Chìa khoá
vàng giúp mở tung nền văn
hoá
Việt mênh mông, nét
đó là sợi chỉ hồng
hay móc xích nối kết tất cả mọi
thành phần lại thành một hệ
thống mạch lạc
thống nhất, đó là nển Văn
hoá Việt chung cho cả người có
học - văn gia - và ngưòi
không có học - chất gia -,
vì vậy cho nên nó vừa thấp
cũng vừa cao, tầm thường
mà phi thường, đơn giản mà phức
tạp, tinh vi mà vĩ đại, thấp như Rồng
nằm sâu dưới
đáy biển , mà cũng cao
vút như chim Tiên trên đỉnh
núi. Văn gia và Chất
gia tuy mức độ cao thấp khác nhau
nhưng cùng chung một cùng
đích
là nếp sống Hòa. Triết
lý nhân sinh này đã
thẩm nhập vào trong cốt tuỷ của người
Việt, do nạn “ Dĩ cường lăng nhược” của
kẻ thù truyền kiếp nên đã
bị lảng quên, nên
con cháu phải đôn đáo tứ
phương đem của độc
Bất hoà về làm tan hoang đất
nước. Tuy một
số còn nằm ẩn tang trong cuộc sống
Việt, vì mất ý thức, cứ đinh
ninh rằng Việt
Nam không có văn hoá,
nên kể cũng như đã mất. Triết gia
Kim Định đã để cả cuộc đời
đã lần mò qua nhiều lãnh
vực từ Đông Tây Kim
Cổ, khai quật lên, được viết
thành trong
46 cuốn, nay còn lại 32 tác phẩm
chính. Chúng tôi đã
phần nào hệ thống lại thành
hai cuốn” Văn hoá Đông Nam
“ và Văn hiến
Việt Nam “ Văn hiến Đông Nam bắt
nguồn từ
nền Văn hoá Hoà Bình
chung cho tất cả các
chủng ở Đông Nam Á, nhất
là Trung
hoa, Nhật, Hàn Và Việt.. .
Còn cuốn “
Văn hiến Việt Nam “ để chứng minh không
những có Văn hoá mà văn
hoá Việt còn
cao siêu nữa. Cái
khó khăn là nền văn hoá
này đã thành món
tạp pín lù giữa Nho vương đạo
và Hán Nho bá đạo.
Vì vậy mà phải tìm cho ra
cơ cấu
cũng như tiêu điểm để gạn đục khơi trong
mới nhận diện lại được. Muốn đi
vào cơ cấu của nền Văn hoá ta phải
đi
vào huyền sử, sách Ước, gậy Thần,
đi
vào
các cổ nghệ như cây Phủ Việt, tượng
Thần Mộc Núi Nưa, cái giá,
cái đỉnh, trống Đồng,.
. . còn
Nội dung hay triết lý nhân sinh
thì
phải đi vào lời ăn tiếng nói,
cách ăn mặc, cách hành xử
hàng ngày, nhất là
trong ca dao tục ngữ, trong phong tục tập
quán, trong hội hè đình
đám, trong tổ
chức làng xã, trong Kinh Điển. Đây
là công trình mới khai
phá cần được sự
tiếp tay của những vị lưu tâm đến nền văn
hoá nước nhà để nghiên cứu
cho rộng và sâu hơn, để hoàn
chỉnh lại, nhất là viết lại cho dễ hiểu
và dịch ra ngoại ngữ để trao truyền cho
giới trẻ để cho mạch sống dân tộc được
luân lưu không bị mai một. Hy vọng lắm
thay! Việt
Nhân ( 1 ) :
Einstein
đã có lý khi nói
rằng: Chúa
không chơi trò xúc xắc”. Vũ trụ
không phải được điều khiển bởi sự may
rủi, nó được điều khiển theo qui luật tối
ưu của tạo hóa. Sự bế
tắc của cách tiếp cận từ lý thuyết
tương đối rộng và cơ học lượng tử, những
khát vọng ? Cho đến nay, khó
có thể
xây dựng được một lý thuyết mô
tả được
toàn thể vũ trụ trong tổng thể của
nó .Nhiều ngàn năm trôi qua,
càng ngày càng
sáng tỏ một điều: Vũ trụ không phải là
tùy tiện, mà nó được điều
khiển bởi qui luật tối
ưu xác định. ( Nho
có 3 Luật lớn: Biến
dịch, Giá sắc và Loại tụ ) ( 2 ): Sự
quân bình với sức khỏe con người Sự
quân bình giữa thể chất và
tình trạng tinh
thần: Sức khỏe là kho tàng
quí báu nhất của cuộc đời.
Không có nó, mọi của cải
khác đều trở nên vô nghĩa
(Khổng Tử). Để khỏe mạnh chúng ta cần sự
quân bình.
Bị mất quân bình vì bất cứ
lý do nào, ta sẽ bị bệnh. Giữa sức
khỏe thể chất và
tình trạng tinh thần có một sự gắn
kết chặt chẽ. Nó cần được giữ quân
bình, hài
hòa. DaDi, người giữ linh hồn của Đại
học tâm linh thế giới Ấn Độ thường
nói:
“Trong cuộc đời tôi, tôi luôn
ưu tiên giữ sự bình an trong mọi
ý nghĩ và ảm xúc
của mình. Bằng cách này,
tôi không bị mất năng lượng,
và cách đánh giá của
tôi
cũng không bị méo mó bởi
những xung đột nội tâm. Cách thực
hành này mang lại
sức mạnh cho tâm trí, cơ thể
và giúp tôi có cảm
giác thoải mái trong mọi mối
quan hệ”. ( 3 ) : Vũ trụ
bao la huyền bí của chúng ta
giống như
một tư duy vĩ đại hơn là một cỗ
máy vĩ đại.
Vũ trụ vô hạn và đầy
bí ẩn. Sự hiểu hiểu biết của loài
người hữu hạn
? Phát biểu ngày 16-12- 2008,
trưởng nhóm nghiên cứu thuộc
Đài quan sát Vật lý
học thiên thể Smithsonia ở bang
Massachusetts, ông Alexey cho biết: nguồn
“Năng
lượng tối” cấu thành tới trên
70 % vũ trụ và là một dạng “lực hấp dẫn
đang kiềm chế vũ trụ, dù
hiện vẫn chưa rõ nó thực sự
là gì”.
Về
thính giác Khả
năng nghe âm thanh đối với con người, chỉ
giới hạn trong khoảng 25 -25000 Hz, trong khi
đó, nhiều loài vật như loài
chó,
loài dơi… có thể nghe được dải tần
số của sóng âm thanh lớn hơn nhiều
lần.
( 5 ) : Trong Cơ học
lượng tử có một hạt, ta không
ghi nhận được trực tiếp, nhưng sự tồn
tại của nó gây ra những hệ quả
có thể đo được, gọi là hạt ảo; một không- thời gian
bốn chiều, mỗi điểm tương ứng với một
sự cố; nhị nguyên sóng/
hạt (không
có sự khác biệt giữa
sóng và hạt,
một hạt đôi khi có dạng của
sóng và ngược lại). Nguyên
lý bất định xác nhận ta
không bao
giờ đo được chính xác cùng
một lúc vận tốc và vị trí
của hạt; càng
biết chính xác đại lượng
này, thì
lại càng
ít biết chính xác về đại
lượng
kia. ( Những
mục (1
), ( 2), ( 3), ( 4 ), ( 7 ) được
trích trong bài “ Năng lượng
tình
thương “
của Giáo sư Lê
Trọng Khánh, bàn về cuốn
sách “ Năng lượng Tinh thần “của Tiến
sĩ Đặng Kim Nhung. )’’’ (
6 ) :
A.- Kinh (
Điển ) Kinh đây
là
kinh điển, tức là minh triết được kết
tinh từ
nền văn hoá ngàn xưa để
lại, nhưng vì bị nô lệ lâu
ngày mà bỏ quên, đa
số cứ tin là Việt Nam không
có văn hoá, có chăng
là học của Tàu và của
Tây.
Của Tàu thì có
Kinh Điển của đức
Khổng Tử và các môn đệ để
lại trong Tứ thư Ngũ kinh gọi là Khổng
giáo, thực ra
là Nho giáo được đức Khổng Tử
thuật lại từ nền Văn hoá phương Nam,
tức là của
Bách Việt, mà đa số người Việt
Nam không còn nhận ra. Nhưng
Khổng giáo đã bị
các nhà cầm quyền chuyên
chế Tàu tịch thu đốt sách,
dè bỉu, vì nó bộc lộ
tính
chất bá đạo của vua quan. Nhất
là Nhà
Hán, một mặt thì tôn Nho
giáo làm quốc giáo, mặt
khác bổ 50 bác sĩ chuyên
môn
giải thích sai lạc Kinh Điển, cạo sửa
thêm bớt, biến nền Văn hoá Vương
đạo biến
thành Bá đạo, vì vậy
mà Kinh điển trở thành một mớ hổ
lốn, rồi các nhà Hán Nho
cứ vẫy vùng trong việc Ký tụng
từ chương, mê mãi ngâm thi
vịnh nguyệt, tầm
chương trích cú, mà
đánh mất cái tinh tuý “
vi ngôn đại nghĩa “ của Đạo Nho,
thay vì Nhu thuận thì biến
thành bạo lực, thay vì lấy “
Dân vi bang bản: lấy
Dân là gốc“, xưa thì “
Tôn quân” , nay thì
phò Đảng, thay vì “ chí
Nhân đại Nghĩa “ thì lại “ Tham
tàn và Cường bạo “ . Nho của nền
văn hoá Nông
nghiệp của Bách Việt thì trọng
Nhu thuận
hơn Bạo lực, trọng Văn hơn Võ,
phù yểu trọng Nữ hơn trọng Nam,
Dân vi quý, Quân
vi khinh, trọng Hòa hơn Chiến,trọng
Hoà bình hơn Chiến tranh. . ,
đó là bản
chất nền văn hoá hòa bình
nông nghiệp. Ngược lại là nền văn
hoá “ Tham tàn
Cường bạo “ của nền văn hoá Du mục bạo
động, mà các nhà cầm
quyền Tàu đeo đuối
từ ngàn xưa tới nay. Vì
không phân biệt được tính
chất của hai nền văn hoá bị
trộn lẫn, nên một số thì khen
Nho, số khác thì chê Nho,
việc khen chê rất hợp
lý vì người khen là khen
cái Vương đạo, kẻ chê là
chê phần Bá đạo. Các
nhà Nho
cứ bị vây khổn trong mớ hổ lốn
đó.
Kim
Định đã
căn cứ vào bản chất của hai nền
văn hoá lộn ien đó để tìm
ra mối Nhất quán mới phân biệt
mà gạn đục khơi trong,
hầu biết đâu là Vương đạo của
Nguyên Nho , đâu là
Bá đạo của Hán Nho, vì
cái vỏ
xơ cứng luân thường đạo lý của
Hán Nho mà ngày nay nghe
noi đến Nho nhiều người
dè bỉu cho quê mùa lạc
hậu, đã hết thời rồi không cần
bàn tới nữa, nhưng khốn
nỗi bỏ cái tinh túy của Nho tức
là đánh mất phần tinh túy
quan trọng của văn
hoá Việt! Nho là gia
sản chung của bách Việt trong đó
có Tàu, vì 70% dân
Tàu cũng thuộc Bách Việt,
Nho bị nhà Hán xuyên tạc
thành Hán Nho, phần Bá
đạo trong Nho là của riêng của
các nhà cầm quyền Tàu-
các nhà cầm quyền gây
chiến tranh ăn cướp và bành
trướng
xưa nay -! Trong Ngũ
kinh: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, thì
kinh Nhạc bị nhà Tần đốt mất, trong
đó Kinh
Dịch là vô cùng quan
trọng, xưa nay ai cũng tin
là của riêng Tàu
thì ngày nay con dân Việt
đã nhận ra nguồn gốc và tinh
tuý của Dịch là của chủng Việt,
vì là triết lý lờ mờ nằm
trong sự sống hàng
ngày của người Việt, vì
là Chủ nên người Việt mới đọc
được cái tinh tuý, còn
người Tàu chỉ hớt được cái ngọn
viết thành 64 quẻ thường dùng
làm bốc phệ. Việt
Dịch là Dịch lý, là
Thiên lý của vũ trụ
Hòa.
Nến văn hoá
hoà bình này có
tính chất Thái hòa,
có cơ cấu là bộ huyển số 2- 3,
5. 2 là Dịch
lý,
lý của Biến
dịch mà Thái hòa. 3
là Nhân
chủ là tự chủ, tự lực, tự cường,
5 là Tâm
linh là nguồn Sống và
nguồn Sáng hay là Nhân
Nghĩa, hay Bác ái Công
bằng, hay
Bi, Trí. Tất cà Tứ thư Ngũ
kinh đều có nền tảng từ bộ cơ cấu
này. Sở dĩ Khổng giáo bị
xuyên tạc là vì mới
chỉ có phần nội dung quá
cô đọng mà chưa có cơ cấu
như nền móng của ngôi nhà
để
neo lại, trì thủ cái Nội dung. (
xin xem cuốn Văn hoá Đông Nam của
tác giả để hiểu thêm ) . Ta
có thể có cái nhìn
khái quát về các Kinh
điển như sau:
1.-
Kinh
Thi là Kinh Người Dân viết
sách
về
những vấn đề:
* Lo giáo dục và
làm cho dân giàu (
giáo chi, phú chi )
*Lo thực hiện ý
Dân ( Ý Dân là
ý Trời )
*Muốn điều Dân
muốn, ghét điều Dân ghét (
Hiệt củ )
* Cùng đích của
chính quyền : Hạnh phúc của
Dân
2.- Kinh Thư : Kinh Dân
làm chủ
3.- Kinh Dịch : Thuật quyền biến
4.-Kinh Lễ : Giúp Người ăn ở
Hòa
với người 5.- Kinh
Xuân Thu : Đem Đạo vào Đời 6.- Kinh
Nhạc: Kinh hòa ( hòa nhạc
) Tất cả các
Kinh đều bàn về nến tảng của Nhân
chủ và Dân chủ ngày nay.
Đây là minh triết để
phục vụ con người, mọi người được ấm no hạnh
phúc. B.- Triết Để soi
sang vấn đề, chúng ta nên biết
qua ý
kiến của Thái Dịch Lý Đông
A sau đây về
hai loại Triết học: “ 1.- Loại triết
học thành Văn hoặc “
minh thị “
tức là triết học được ghi lại
trong Kinh Điển
như chúng ta
đã biết.
2.-
Loại
triết học “ ám tàng “, “ ẩn
tàng
“ hoặc bất thành văn là triết học
Nhân sinh nằm trong cách thức sống
và cách
thức suy tư. Muốn nhận diện, ta phải tìm
hiểu nguyên động lực của lời phát
biểu
hoặc của câu văn. Nếu là một cậu
chuyện kể thì phải tìm hiểu
tâm thức của người
dựng chuyện. . . Nếu là một bản văn
thì phải đọc giữa hai dòng chữ “ .
. . . Chúng ta sẽ đi
tìm dòng triết Việt ẩn ien qua 3 loại
sản phẩm văn hoá : · Trong Văn học ( truyện
truyền kỳ, chuyện khôi hài
dân
gian ). · Cách Tổ chức
Làng xã. · Chế độ vua quan. Về Thời Hồng Bàng
chúng ta còn giữ được một kho
tàng văn hoá ít ỏi, nhưng
vô cùng quý báu
là các
truyền kỳ về thời này. Vế thời kỳ tự chủ
chúng ta có một kho tàng
khác vô cùng
phong phú chưa được khai thác
là các thần
tích mà nhà Nho khinh miệt
như Dâm Thần, thần phả. Ngoài ra còn có
các
chuyuện trào phúng dân gian,
các tục ngữ phong dao, các
bài hát Ví, hát
Quan Họ, hát Chầu văn. Trong
cac tài liệu
kể trên, tài iệu nào co` đủ
ba yếu tố: a.- Cổ xưa b. Phi chính thống
( Phi Nho giáo ) c.-Phi chính thức. * Các huyền thoại đời
Hùng thoả mãn cả ba tiêu
chuẩn a,
b, c. *Truyện khôi hài
dân gian thoả mãn
tiêu chuẩn b. * Tục ngữ, Ca dao,
Hát Chầu văn... thoả mãn
tiêu chuẩn c. Một
cách tổng quát, sản phẩm văn
hoá nào càng ít
tính
chất bác học, càng chuuyên
chở nhiểu tư tưởng Chính thống Việt. Ngoài các sản phẩm
văn hoá nói trên, ta
còn có những thứ mang nặng
ý niệm triết học, đó là “
Cách thức sống của dân
Việt “, bao gồm Ngôn ngữ, Phong tục Tập
quán, cách tổ chức thôn
xã, chế độ chính
trị. . .” ( Triết
lý Lý Đông A. Phạm khắc
Hàm. Tr. 223- 224 –
225 ) Xưa nay
người ta không định vị được con người
trong 3
cõi, không để ý tới nhu
yếu thiết thân của con người, nên
quên mất con người,
cái mà ta gọi là vong
nhân, vong thân.
Khi muốn tìm triết lý
Nhân sinh thì phải tìm nơi
con người, nơi mọi sinh
hoạt của con người trong các
lãnh vực cá nhân, gia
đình và xã hội. Đó
là lý do thứ nhất. Ngoài
lý do ẩn tàng trên sở dĩ
con cháu Việt không
nhận ra được
nền văn hoá hay triết của
Tổ tiên. Lý do là
vì Tổ
tiên chưa kịp
có văn tự
để công thức hóa đã bị
Tàu thôn
tính và tịch thu hết mọi thứ,
lại nữa sau đó nếu viết triết lý
thành văn bằng
chữ Lệ của Tàu để minh thị thì
người Tàu tịch thu mất, cách hay
nhất là đem
triết vào cuộc sống và văn
chương truyền khẩu là triết lý
Nhân sinh
thì mới bảo vệ văn hoá
chắc chắn được, nhưng
về lâu về dài, nếu con
cháu không hiểu rõ
thì sẽ bị nhạt phai hay lảng quên
như
hiện nay. Xưa nay ai
cũng
cho rằng Việt Nam mình không
có Triết, chỉ có Tây
Tàu mới có Triết, còn
Việt
Nam thì không. Nay Kim Định lại
bảo
không những Việt Nam có
triết mà là thứ triết siêu
việt, vì triết này
không những có thể triệt Thượng
và triệt Hạ trong vấn đề Vũ trụ quan
và Nhân
sinh quan để nhìn thấu triệt vấn đề,
mà còn làm cho Thượng Hạ
giao thoa tức là
Mẹ tròn Con vuông, để triết
lý Nhân sinh đạt tới Minh triết,
triết này được đặt
nền trên con người gọi là
Nhân bản, với Nhân đạo có
tam cương Nhân, Trí, Dũng,
và Nhân sinh Hoà khắp cả
ba cõi: Thiên sinh, Địa dưỡng,
Nhân hoà, gọi là nền
văn hoá Thái hòa. Triết
này là loại
triết lý lờ mờ, ta chỉ có thể
tìm được trong đời sống Việt, mà
chưa được khai
thác và ghi rõ
ràng vào văn hóa nước
nhà. Triết gia Kim Định đã đi
trọn bước
đường độc đáo này. Triết
này khác xa với triết học
lý niệm của Tây phương
chỉ bàn luận, chiêm nghiệm
trên các ý tưởng,
bàn tới những vấn đề trừu tượng xa
lạ với con người với những luận cứ khó
hiểu đọc đến bể đầu. Đây là
công trình
của các nhà hàn
lâm, họ có đời sống vật chất dư
dật, không cần đến nhu yếu con
người cũng như phương tiện để phát
triển con người toàn diện của đa số
quần
chúng. Nhiều
người nghe nói Việt Nam có triết
siêu việt thì
không tin và lại không
thích triết Tây khó hiểu
xa rời con người, nên không cần
tìm hiểu, không cần quan
tâm. Làm người mà bỏ
quên triết lý Nhân sinh
là vong
Nhân, vong Thân. Triết
Nhân sinh này bị các vị
học triết Tây phương chê
là triết lý sà sà
dưới đất, vì chỉ bàn tới những
vấn đề căn bản gần gủi với con
người mà không bàn tới
những gì cao xa..
Một số khác thì lại
không ưa triết Tây vì
nó đi trên những đại lộ huy
hoàng, trừu tượng nên khó
hiểu và xa rời cuộc sống. Họ tưởng rằng
siêu việt là
phải đề cập những vấn đề ỡ mãi từ
trên cao, nhưng thực tế là Tổ
tiên ta toàn đi
trên những đường mòn, lối cũ,
sống vươn lên từ cái nhỏ đến
cái to, từ cái dễ
đến cái khó , từ cái đơn
giản đến cái phức tạp, tứ cái
thường thường đến phi
thường, những cái đó được mọi
người thực hiện hàng ngày trong
cách tu thân,
trong đời sống vợ chồng, con cái và
cách
giao liên xử thế làm sao cho được
sống hòa với nhau, siêu việt
là vươn lên như
thế chứ không phải những chuyện cho
là cao thượng xa xôi trên
trời. Nhờ vậy mà
từ Thiên tử đến thứ dân đều
có thể thực hiện được cách vi
nhân tùy theo khả
năng và hoàn cảnh của
mình. Sau
đây là ý kiến của Kim Định
về triết lý An
vi: I.- Những phạm trù trong triết
lý An Vi ( Hoa Kỳ với
thế chiến lược hoàn cầu: Chương V. Kim
Định ) “ An Vi chính
là triết lý Việt Nho nhưng được
đào sâu
và quảng diễn hợp với cảm quan thời đại
nên cần đặt cho tên mới để dễ nhận
diện. Nền triết lý này chia sử
trình Tâm thức con Người làm
3 nấc: Bái Vật, Ý
Hệ và Tâm Linh. 1.- Bộ phạm trù đầu
tiên
a.- Bái
vật
Là thời
mông muội, lý trí con Người
chưa phát triển đủ
nên hễ nghe sao tin vậy: Bất cứ vật
nào hễ xem ra có mòi quyền
phép đều được
coi như thần linh, được tôn thờ bái
lạy, nên gọi là Bái Vật (
animistic totemic
).
Con Người thờ đủ thứ vật từ con to
như hổ, báo,voi, hùm, sư tử cho
đến con nhỏ như cóc, ngoé, bọ cạp,
gà, chó,
mèo, heo. . . Cao lên một bậc
là ma thuật: Khi thấy van xin không
được thì tìm cách sai khiến
quỷ thần, đó gọi là ma thuật; ma
thuật kể như nghi
lễ của Bái vật. Như
vậy Bái vật là tên
rất chung chỉ mọi thứ dị đoan tràn ngập
đời sống lúc con Người chưa bước
vào
tuổi dùng lý trí,
còn y cứ trên những định đề của
Bái vật, những đế quốc cổ xưa
như Babylon, Assyria, Egypte, Perse, Ấn Độ thuộc
vào thời này, thời “ Nhĩ bất
thuận tâm “ nên rất hoặc. b.- Ý
hệ
Là giai đoạn
chống lại Bái vật. Con
Người không tin nữa mà chỉ muốn “
nhìn
tận mắt, bắt tận tay “ , quay ra phê
bình chỉ trích những niềm tin
trước, lấy
sự vật thực tế làm nền tảng.
Đây là
thời kỳ sẽ mở vào khoa học xán
lạn, mang lại ơn ích lớn cho loài
Người. Nhưng
trong phạm vi triết, vì cũng muốn theo
kiểu khoa học chỉ bằng vào có tai
mắt, nên hẹp hòi: tai mắt chỉ
có thể thâu
nhận những hình ảnh của vật trứ
hình, gọi là ý niệm. Nếu
xây triết trên ý niệm
suông sẽ gẩy ra ngoài biết bao
cái tế vi, vô hình,
thí dụ những gì linh thiêng
hoặc tình cảm con Người, tình
nhà, tính nước đều kể như
không có. Chỉ phát
triển có lý trí nên
gọi là Duy Lý một chiều, rồi hệ
thống hoá các ý niệm
cách
chặt chẽ nên gọi vắn tắt là
Ý hệ. Ý hệ là
triết làm bằng ý niệm suông
rất khô khan,
người ta gọi đó là triết lý
vô hồn: không có niềm hy vọng
lớn lai để thổi căng
cánh buồm nghị lực. Các
đế quốc được thiết lập theo Ý hệ
thì như
Tây Âu nhất là thời chiếm
thuộc địa, hoặc Nga Xô nay.. Còn
La Hy có thể coi như ngồi dang chân
lên
cả hai: Cả Bái vật lẫn Ý hệ. c.- Tâm linh
Là giai đoạn
của lý trí được mở rộng để bao
gồm cả Tình, cả Chí, cả
Thiên năng, Tiềm thức,
Siêu thức, gọi chung là
Tâm, nên chữ Tâm rất rộng
nghĩa. Ta có thể tạm
dùng chữ Thiên năng, Siêu thức để
chỉ tỏ cửa ngõ của Tâm đang
có một ý niệm sơ
sài. Vì tính
cách bao trùm đó, nên
triết lý xây trên nền
Tâm cũng gọi là Triết lý
Toàn thể , bao trùm cả Vũ trụ, gọi
là “ vũ trụ chi tâm
“. Tâm biểu lộ ra bằng Tình. Tình
ở đợt Bái vật là thứ
Tình bị tràn
ngập chưa được lý trí kiểm
soát. Ý
hệ
thì đẩy Tình ra để
lý trí chiếm trọn. Đến
Tâm
linh mới hội nhập cả Tình cả Lý,
cả Thiên năng, Tiềm thức, nên rất
hiệu
nghiệm, gọi vắn tắt là Linh. Linh với
Thần như nhau, đều không ở nơi nào
nhất
định, mà ở khắp chốn, nói
Tâm linh cũng là nói
lên sự hiệu nghiệm bao trùm
vì
có mặt khắp nơi, không gì
không tiếp cận.
Các nước y cứ trên Tâm
linh xưa có Tàu, Việt, Đại
Hàn, Nhật Bản, gọi
chung là Việt Nho. II.- Bộ phạm trù
thứ hai
Để nhận rõ hơn
tính chất của 3 đợt Tâm thức
trên,
triết lý An Vi đưa ra bộ phạm trù
thứ hai: Dụng, Từ, Ý, Cơ làm thước
do sự sâu
rộng của một nền triết. Triết nào khởi từ
Cơ thì đi xuyên qua Ý
và Từ để xuống
mãi tới Dụng:
1.-
Cơ. Là
nguyên lý cùng tột.
2.-
Ý.
Là tưởng, là triết học ( hệ
thống của ý )
3.-
Từ. Là
lời nói, văn học.
4.-
Dụng.
Là việc làm, định chế, thói
tục. Triết nào khởi
tự Cơ đi qua Ý, Từ rồi thấu đến Dụng
là
triết sâu và rộng nhất. Nói
Dụng, Từ, Ý,
Cơ là bắt đầu ở chỗ cụ thể hiện
hình mà lần lên cũng thấy
hợp với Từ và Ý rồi
đến Cơ thì cũng vậy. Triết
học lý niệm
khởi từ Ý, tận cùng ở Từ hầu
không tới được việc làm cụ thể, hậu
quả chỉ là
những thuyết lý trừu tượng hoặc
không tưởng ( utopie ) chẳng có
chân nào trên
mặt đất, như Cộng hòa của Plato hay
các thuyết trong triết học cổ điển
Tây Âu,
mà nền tảng siêu hình
xây trên ý niệm hữu thể rất
trừu tượng thuộc Lý trí
ròng
đến độ đẩy lui Tình và Chí
là những cái có sức huy
động nghị lực con Người, nên
triết trở thành trừu tượng son đẹt.
Triết làm ra là để
bàn luận trong trường ốc, chứ không
thực thi vào đời
sống được.
Nếu chẳng may người ta cưỡng
thi hành như Cộng sản cố tình
làm với triết học Karl Marx thì
phải bù bằng đủ
thứ công an mật vụ để ép buộc,
khủng bố mới có Làm, vì
cái Làm đó không do
tự
trong phát xuất thường trái với
bản tính con người, nên chỉ
có Làm bao lâu còn
có sự khủng bố, ép buộc. Ngược
lại,
triết lý đặt trên Cơ tức trên
nhu yếu thâm sâu của con Người, tất
nhiên có Dụng
theo, khỏi cần phải thúc đẩy từ
ngoài. . . Vì thế nó
khác với Ý hệ ở chỗ không
đưa ra Utopia hoặc nên ý tưởng rất
cao cũng vẫn còn làm được. Thứ
đến, nó cũng khác Ý hệ,
nhất là khác Bái
vật ở chỗ không dùng “ Mưu Gian Đạo
Đức “
( vì Đạo Đức mà đánh
lừa, pia fraus ), thí dụ Mặc Địch hứa
tìm việc cho
môn đệ, nhưng khi học xong ông
nói có việc đâu, đó
chỉ là đánh lừa môn sinh để
chịu khó học. Bái
vật dùng tràn ngập
pia fraus đã đành, cả đến Triết
lý nhiều khi cũng không chê,
thí dụ ông Tổ
triết Tây là Plato cũng dùng
bộn. Còn
Cộng
sản thì khỏi nói: luôn
luôn sống trên những lời hứa cuội (
lợi hành ) kèm
theo khủng bố ( Cưỡng hành ), tại
Ý hệ là triết học xây
trên Ý niệm, không đủ
sâu để khơi động nguồn nghị lực tâm
hồn, đành phải dùng những trợ lực
ngoại
khởi như pia fraus.
Hãy
so sánh các xã hội cổ sơ
vừa nhắc đến, để có sự minh hoạ. Đang
khi các xã hội theo Việt Nho đều
có cà 4
đợt: Dụng, Từ, Ý, Cơ:
1.-
Cơ là
Đạo Nghĩa.
2.-Ý
là Triết lý Đạo học. 3.-
Từ
là văn học nghệ thuật, cũng tuân
theo Đạo lý. 4.-
Còn Dụng là sự áp dụng
triết học vào đời sống gọi là Định chế,
là Thói tục, mà từ
vua tới
dân đều cố theo. Vì
thế tất cả 4 chặng đều ăn chịu với nhau như
một cơ thể, nên có hiện tượng
này là
dù triết đưa ra lý tưởng hết sức
cao ( Cơ ), nhưng vẫn hiện thực ( Dụng ) được,
không những thâu nhập vào
Triết học (Ý ), văn học ( Từ ), nhưng
còn thấu tới
Thân Tâm con Người. Lịch
sử văn minh đã phải khen là “ nền
luân
lý hiệu nghiệm hơn hết gặp được trong
các dân ở bất cứ thời nào “ ( W.
Durant. Story of Civ. Vol. I 6- 40
).
Một xã hội đông người nhất,
với phương thức cai trị bền bỉ nhất, vào
tạo
được hạnh phúc hơn hết cho con Người :
Không có chế độ Nô lệ hay nếu
có cũng đã
được bãi bỏ sớm. Tuy
có chuyên chế
nhưng là chuyện từng giai đoạn với từng
ông vua, chứ nói chung thì
không.
Người ta không thấy chỗ đó
vì lẫn lộn với
độc tài, độc chuyên với
chuyên chế .
Độc
tài ( ienessenism ) thì nhất định
các vua xưa đều độc tài, nhưng
không hẳn chuyên
chế theo nghĩa mạnh của từ Tyrany hay là
Totalitarianism, nó đòi kiểm
soát hết
mọi chuyện không những chính trị,
mà hết cả đời sống, nó định đoạt
tiêu chuẩn
cho mọi giá trị, từ kinh tế, nghệ thuật,
văn học đến bản thân, tư tưởng, cảm
tình, tôn giáo như ta thấy
thực thi trong các xã hội cộng
sản: người dân mất
hết mọi tự do. Trong chế độ quân chủ xưa
mà ta gọi là độc tài, người
dân còn
hưởng rất nhiều tự do, từ tôn giáo,
tư tưởng, nghệ thuật đến kinh tế, đi lại,
cả đến tài sản. . . Có
thể so với dân chủ
ngày nay tuy đời sống thấp hơn nhiều,
nhưng về tự do không thua bao lăm, thường
chỉ trong chính trị, ngoại trừ một số
người sống bên cạnh vua bị ràng
buộc
nhiều hơn, còn toàn dân sống
trong thôn làng vẫn có thể
nói mà không sợ bị cải
chính, là “ phép vua thua
lệ làng “ Ngược lại trong
các nền văn minh khác như Babylon,
Perse ( Ba Tư ) , Egypte ( Ai cập ) phải gọi
là Đế quốc vì thường có
những điểm
đi cùng, như chuyện bóc lột hết
mọi tự do.
Đây là những cái diệt
hạnh phúc con Người, các xã
hội đó đều có cả bấy
nhiêu một cách nền móng.
Đó là kết
quả của sự xây trên Ý hệ cũng
như Bái vật, đã bao gồm một
vài giai cấp được
hưởng tự do như quý tộc trong xã
hội La Hy.
Nhưng nói chung, định chế vẫn đặt,
trên ien hệ chủ nô kéo theo
sự giàu
nghèo chênh lệch quá
đáng.
Đây là lý do
căn để để gây nên sự suy sụp
các Đế quốc nọ. Ngoại trừ Ấn Độ,
không một đế quốc nào sống được một
phần ba tuổi của các xã hội Việt
Nho.
Là vì Bái vật
và Ý hệ không có sự
hiệu nghiệm phát xuất từ cơ thể nên
không bao được Dụng, Từ, Ý , Cơ
mà trơ ra chỉ có Từ và
Ý, thì Từ đầu óc sản
xuất, rồi phát biểu ra miệng, không
đủ sức huy động Tâm Tình. Trái
lại Cơ phát xuất từ Tâm Tình
nên huy
động toàn thân, tự nhiên thi
hành ra, và khi thi hành
thì sinh ơn ích, gây hạnh
phúc cho con Người. Các xã
hội
dân chủ Tây Âu nay dù
đã bỏ được chuyên chế,
không phải do Cơ, mà hầu hết
là do
Lương tri như tranh đấu, do Kinh tế phồn
thịnh, do Tâm thức con Người đã
phát
triển đủ. . .
Vì không do Cơ, nên
xã
hội chỉ có luật pháp, trên
nữa không có Đạo Nghĩa, dười
không có gì hướng
dân
việc tu thân, tế gia và
các ien hệ tinh tế của con Người. Đây
là chỗ cần nói đến sự
khác biệt giữa cơ
cấu học hiện nay và cơ cấu AnVi. Tuy cả
hai cùng dùng phương pháp
như nhau:
cùng số độ, đồ hình, huyền
thoại, huyền sử, cũng đối chiếu với các
văn minh,
cũng nhìn bao trùm. . . Nhưng
cái khác
là cơ cấu hiện hãy còn
mang nhiều tính chất Lý
trí, phần lớn được Lý
trí kiến tạo ra ( construit ) để
tìm Hiểu
các văn hoá cổ sơ hay giải nghĩa
các tác phẩm văn học, chứ
không chủ chốt nhằm
vào hướng dẫn đời sống. Vì
vậy bộ phạm
trù Dụng, Từ, Ý, Cơ chỉ
áp dụng riêng
cho Việt Nho, ít ra cách trung
thực hơn cả. III.-
Ba
Nguyên lý
Để thấy điều đó
ta hãy phân tích cái
Cơ của Việt Nho
về phương diện triết. Vậy Cơ ở đây được
biểu diễn ra 3 nguyên lý tối cao,
nên
đúng ra gọi là Định đề ( premises
), đó là:
1.-
Nguyên
lý
Lưỡng hợp
2.- Nguyên lý Nhân
chủ
3.- Nguyên lý An vi. Ba nguyên
lý này thuộc Cơ, vì
nó không còn ở trong tầm
tay lý lẽ để mà chứng minh,
mà lý luận nữa, nó
đã ăn sâu vào Tiềm thức phần
lớn
rồi. 1.-
Nguyên lý Lưỡng hợp Hai mà một,
một mà hai, có mà như
không, không mà lại
có, đó là một,
không thể nhập nhằng
nước đôi, vậy đó là định
đề căn bản của triết lý An vi. Nhờ
đó, nó
đưa ra được vũ trụ quan Động, ngược hẳn với
nguyên lý Tĩnh của Ý hệ, gọi
là nguyên
lý Đồng nhất: A là A, Động
là
Động, Tĩnh là Tĩnh. Đã
Động thôi Tĩnh, đã Tĩnh
thôi Động. Nó
rất hợp với Lý trí, nên
làm nền móng cho Logic. Trái lại, Việt
Nho thì Động mà Tĩnh, Tĩnh
mà lại
Động.
Đó là Nguyên lý Đồng Thời Trong A đồng thời
có B, trong B đồng thời có A, một
mà
hai, hai mà một, các học giả
kêu là Dual Unit ( Hai mà
Một ), nó bao gồm cả hai
bên. Đợt cao nhất
của nó thuộc siêu hình
là Có Không, Không
mà lại Có. Có
nương Không mà sinh, Không
nương Có mà
xuất hiện. Đợt hai thuộc thực tế
cụ thể hơn, nên nói Trời Đất,
Núi Sông, Mưa nắng. . . Những
chữ đối
đáp này chỉ thị hai hạn từ đối
lập nên là phạm trù tổng
quát chỉ các cặp đối
lập như Sáng Tối, Cứng Mềm, Ngày
Đêm, Nam Nữ.
Triết học Lý niệm chỉ
có một bên, quen gọi là Duy:
một là một, A là
A, đã A thì không B,
không thể có trường hợp thứ ba
được: tertium non datur,
excluded middle. Triết lý An
vi không những nhận có trường hợp
thứ ba, còn tôn lên gọi
là Tam tài và lấy
làm
nền tảng.
Tam tài là Trời, Đất,
Người. Đó cũng
là điều nghịch lý, hay siêu
lý vì con Người bé
nhỏ đặt ngang hàng với Trời cùng
Đất sao được: không thấy vô
lý sao?
Nhưng vậy mới nói là
nó vượt khỏi phạm vi Lý trí
để ăn sâu vào Tiềm thức
và thuộc về Cơ.
Cơ chú ý tới mọi ien
hệ giữa hai Thái cực, nói trong
Tam tài có Người giữa Trời
cùng Đất cũng là nói
Người là ien hệ giữa Trời và Đất. Triết học cổ điển chỉ
chú ý đến từng hạn từ (term )
hoặc Trời hoặc Đất, hoặc Có hoặc
Không.
Do vậy hoặc Duy Vật hoặc Duy Tâm
mà không chú ý đến mối Tương quan
của nó như triết Việt Nho chú
ý đến cả
hai: Cả Âm lẫn Dương, “Âm Dương
tương thôi “.
Huyền sử nói Mẹ Âu Cơ gặp bố
Lạc Long trên cánh đồng Tương
là hàm ngụ ý
đó.
Nói cụ thể là không
đặt ưu tiên vào
Trời với Đất, mà đặt vào Người
được quan niệm là mối Liên Hệ giữa
Trời cùng
Đất. Do việc đặt
để này mà Việt Nho chính
là Tổ sư Cơ cấu: vì Cơ cấu
không quan tâm đến Hạn từ,
nhưng đặt nặng trên Tương quan của Hạn
từ.
Tương quan là cái
gì năng động.
Nói Người là Tài
cũng nói Người là Tác
năng, là “ tạo hoá Con “ , (
không tạo hóa viết hoa )
là do vậy. Hậu quả của sự nói Cơ
với Dụng là thế. Đó
là nguyên lý đầu
tiên có thể gọi là Vũ
trụ quan động. 2.-
Nguyên lý
Nhân chủ
Nguyên
lý
thứ hai thuộc Nhân sinh quan cũng thuận
theo thế Động của Vũ trụ quan gọi là
Nhân chủ theo nghĩa người là Chủ
nhân ông.
Chủ là cái gì ?
Thưa là Chủ Trời cùng Đất,
nói đúng ra chủ Thân
Tâm mình
bao gồm Trời Đất ở trong, ngược với Vật chủ ở
hai đợt Bái vật và
Ý hệ, nơi ấy con Người vong Thân
bị sự vật
sai sử nên gọi là Vật chủ (
chosisme ), Mỹ gọi là Reified man hoặc
thingified
man ). Đó
là Nhân sinh quan Nhân chủ. 3.-
Nguyên lý An
vi
Đây là
nguyên lý khó hiểu nên
cần bộ phạm trù thứ ba
gồm: Cưỡng hành, lợi hành
và an hành. a.- Cưỡng hành
Chỉ những việc
mà động cơ ở ngoài con Người như
làm vì
sợ trời đánh thánh vật, làm
vì bị bắt buộc như tù nhân
phải lao động, mất hết
tự do, tự lực. b.- Lợi hành Thì động cơ
là lợi lộc, tuy ở ngoài nhưng
còn để cho
con Người ít tự lực, được tự do khỏi
cưỡng buộc, chỉ mất tự do Luân lý. c.- An hành Không còn
tìm động cơ từ ngoài nhưng
tìm ngay trong
mình, thấy đáng làm
thì làm, thành bại
là thứ yếu.
Loại này hợp cho con Người được
quan niệm
như Nhân chủ, nó không phạm
đến Tự do Tâm lý con Người, con
Người vẫn là Chủ cả
ngoài lẫn trong, tâm lý vẫn
đủ sức tự Cường, tự Lực, khỏi cần sự thúc
đẩy từ
ngoài.
Nó là việc cốt cán
cho triết lý
xây trên Nhân chủ gọi
là An vi.
Gọi thế
để đặt vị trí giữa hai khuynh hướng triết
ở hai Thái cực là Hữu vi và
Vô vi. Hữu vi là có
làm hiểu là sự làm gắn liền
với Đối tượng, nô
lệ cho Đối tượng.
Điều đó kéo theo sự
nguy hiểm rất vi tế dẫn con Người đến tai họa bị Vật Hóa ( thingification
) vì thế đã có sự phản động
lại để
tránh tiếp xúc với sự vật để khỏi
bị Vật Hoá ( một thứ chính
sách Monroe trong triết cũng
gọi là chính sách đà
điểu ).
Nhưng không làm thì
sống sai, nhãn tiền là
không có ăn: theo nguyên tắc
tay có Làm thì hàm
mới có Nhai. Thế là
Vô vi
cũng mắc kẹt như Hữu vi. Đàng
nào cũng
chết: Làm thì bị Vật Hoá,
không Làm thì làm
sao sống. Vậy phải tìm lối nào
đây
để thoát khỏi gọng kìm một
bên là Hữu, một bên
là Vô. Và
câu thưa là An vi. Triết
lý An vi lấy An hành làm
lý tưởng,
nhưng không gảy bỏ Lợi hành
và Cưỡng hành. Nhưng cái
đó thuộc Tiểu ngã, thuộc
vòng hiện tượng
không dễ gì bỏ được, lý
tưởng là phải có thêm nhiều
tác động ở đợt An hành, để
nó làm Chủ, để nó bao phủ
lấy việc hai đợt dưới hầu làm cho
chúng trở nên thanh
thoát lấy.
Còn chính chủ tịch của của
Thanh thoát phải là các
việc thuộc đợt an hành: Chính
những việc này mới giúp
vào công cuộc thanh nhàn hơn
cả. Vì
thế
Tiên hiền Việt Nho đã đưa ra định
chế Tứ Quý để giúp thực thi. Tứ
Quý
là bốn tuần cuối bốn mùa
Xuân, Hạ, Thu, Đông
Hay tuần cuối của tháng 3, 6, 9,
12.Đó là bốn tuần mà Tứ
Quý mượn của bốn tháng
nọ.
Mượn để làm gì ? Thưa
để không làm chi hết, mà chỉ
Ngồi Không,
chữ Nho nói về vua là “
Thùy Y thường “ : thả lỏng áo quần
xuống như Người
không phải đi làm. Nếu
muốn nói “ có
Làm “
thì là làm
cái “ Không làm “ ,
vì
việc chính của Tứ Quý là
trút sạch những cái Có
trong lòng mình ra, những
cái đó thuộc Hữu vi đầy sức ngảng
trở Tâm hồn,
không để cho cái Có trồi
lên mặt Tâm thức để nói
lên tiếng nói Thiên mệnh, tức
là những nhu yếu thâm sâu của
bản tính con Người. Thành
thử con Người chỉ nghe được lệnh truyền
của Bái vật hoặc Ý hệ hoàn
toàn ngoại khởi, không nghe được
nguyên ngôn là mệnh
lệnh của Nhân tính Tâm linh. Những
ngảng trở đó có nhiều nhưng được
quy
vào hai cặp danh từ Bái vật
và Ý hệ. Đó
là
những động cơ từ ngoài, có sức Vật
Hoá Người
nên lâu lâu cần
thì giờ không làm gì
mà chỉ lo xả bỏ. Khi
xả hết rồi sự làm sẽ thong dong, để trở
nên An vi, làm vì
đáng làm là làm,
không phải làm vì bị trời
đánh thánh vật,
hoặc vì bôn ba lợi danh nữa. Những
thứ
làm đó đều bắt con Người nô
lệ cho Đối tượng, nô lệ cho sự thúc
đẩy bên ngoài,
nó làm sa sút Nhân
chủ tính, chỉ có an hành
mới xứng là việc của con Người Nhân
chủ.
Đó là
đại để
cái khung của triết lý An vi đặt
trên cơ cấu
ba nguyên lý Lưỡng hợp,
Nhân
chủ và An hành. Đó
là cơ cấu thượng
thặng ta có thể diễn tả bằng
Hình vẽ, bằng Huyền số, bằng Huyền
thoại. Xem lại lịch sử cũng
như quan sát con Người sẽ dễ dàng
nhận ra cả ba loại việc kể trên Cưỡng
hành, Lợi hành, An hành. Nhưng
nhiều khi có an hành mà
không có An vi.
Đó là những bậc “ sinh nhi tri chi
“ tức là bẩm sinh được như thế : rất cao
thượng, không màng công danh. Nhưng
đó
là những đoá hoa vĩ đại
không được vun tưới mà tự
nhiên mọc lên được giữa rừng
hoang. Triết
lý An vi muốn phân tích
hành vi của những bậc cao cả nọ để
rút lấy cái cơ cấu đặng thiết lập
ra một nền
triết hẳn hoi để giúp nhận thức ra hiện
thực. Điều đó Việt
Nho đã làm rồi nhưng chỉ đủ cho
đợt tiến trước, không còn hợp cho
cảm quan đợt
tiến mới có thêm khoa học thuộc
cả Sinh ( Sống ) lẫn Tâm ( Linh ): Sinh
như kỹ
thuật cơ khí nâng cao mức sống,
Tâm như các khoa học Tân
Nhân văn: xã hội, khảo
cổ, Nhân học, uyên tâm, cơ
cấu. . .
Các
khoa học đó sẽ giúp con Người
có thêm rất nhiều những
xác định cặn kẽ hơn,
những cái nhìn thấu triệt mới
lạ. Vì
thế
cần một triết lý hội nhập tất cả
các sở đắc mới nọ.
Đó là nền triết lý
mà nước Mỹ, dân Mỹ phải
làm và rồi họ sẽ làm
được. Khi
nào làm
được thì Mỹ sẽ dẫn đầu cuộc cách
mạng Tâm linh đang thiếu đường hướng. Hiện
nay Mỹ đang ở tuổi Ý hệ, Lợi
hành.
Chỉ cần đặt trên Lợi hành
một đợt An hành
nữa là xong. Muốn
được thế cần mạnh dạn
đi vào cuộc cách mạng Tâm
linh mà việc đầu phải là
xây đắp nền triết mới trên
cơ cấu, rồi bắt toàn dân học hết
như biết Hiến pháp vậy. Nói
đến đây có người sẽ la ó
cho là phạm đến
tự do, phạm đến Hiến pháp xây
trên tự do, nên phải để mọi người
tự do!
Mỹ phải theo chế độ đa phương nghĩa
là
nhiều triết.
Nhưng bạn có
biết đa phương thực sự là chi chăng ?
Thưa là chắn che sự ngu dốt, sự
bất lực.
Nói rõ ra cả Mỹ cũng như
Tây Âu không sao
thiết lập nổi một nền triết Nhân sinh
có đủ sức làm lãnh
chúa, phải ở lì lại
trong Ý hệ, tất nhiên mắc cảnh “
Thập nhị sứ quân “, cá đối bằng
đầu, nên phải
lấy đa phương làm tôn chỉ, cốt để
tránh cái họa chuyên chế độc
hữu vốn là đặc tính của Ý
hệ.
Tưởng như vậy là trọng
kính tự do, có ngờ
đâu rằng nước thiếu một nền triết của
quốc gia cũng y không có một nền
Hiến
pháp. Nếu ở đợt Hiến pháp
không thể “đa phương “ thì
ở đợt Triết cũng vậy. Sở
dĩ người ta không nhận ra điều đó
vì không
biết đến thứ triết lý đặt trên Cơ
có tính cách bao dung
nên thường không xuất
hiện như nền triết lý độc nhất, nhưng
như triết lý ưu thắng, nghĩa là
vẫn dung
chứa các nền triết lý
khác, nhưng thường những triết
lý này chỉ có để
làm cảnh,
người nào thích thì đem
ra bàn cãi vậy thôi, chứ
giả có trao cho tay lái con
thuyền đời sống chẳng biết đâu mà
rờ. Thí dụ cụ thể
trong lịch sử Tàu, đời Hán ban đầu
rất
trọng Lão Trang, đã đem quyền
hành đặt vào tay Đạo giáo,
nhưng chỉ ít lâu tỏ ra
bất lực lại phải mời Nho lên đặt
trên Cơ .
Cái phiền của Âu Mỹ
là chỉ có loại triết lý
làm cảnh, chứ không có triết
lý xây trên Cơ. Triết lý đặt
trên Cơ phải đi sát đời sống,
nhưng đi sát mà lại không
đi vào những xác định
chi li, nên vẫn giữ được tính
chất bao dung.
Vì mỗi xác định là
mỗi bám sát vào biến cố,
một sự việc.
Thí dụ nói về
Chính trị, triết lý An vi chỉ
đưa ra những nguyên lý ở đợt đầu
gọi là Chính lược, không
xuống đến đợt Chiến
lược, càng không đến đợt Chiến
thuật. Vì càng xuống càng
cá thể hoá cho hợp sự
việc phải làm, việc nào cũng
có một không điểm, một thời điểm
nhất định, nên
chỉ có một không thể hai,
là những cái phải quyết định
tùy hoàn cảnh mỗi lúc
mỗi khác. Triết học Duy Lý
y cứ trên Ý niệm là
cái đã xác định
nhiều, khó có thể xuống tới Dụng
là việc làm.
Việc làm nào cũng là
một cá thể có một không hai,
phải luôn luôn quy
định riêng ien. Muốn
tổng quát hóa ở đợt
này sẽ dễ dàng đi vào độc
đoán và chuyên chế.
Đây là lý do khi theo
triết học lý niệm để câu nệ chấp
một, thiếu sự mềm
dẻo quên đi với triết học xây
trên Cơ.
Cơ
không có hệ thống nên
không kềnh càng, dễ thể nhập
vào bất cứ đâu, vào bất cứ
tổng hợp mới nào. Triết
học Ý hệ rất khó lột xác
để đi vào
tổng hợp mới, do cái hệ thống kềnh cơi
của nó với những xác định chi
li, vì thế
mà nó thất bại và chịu để
thế giới hiện dại như thuyền không
lái: bới thiếu một
triết lý đặt trên Cơ.
Ây là nền triết
lý con Người đang mặc nhiên mong
đợi, vì chỉ có nền triết
lý đầy Tâm Tình nó
mới ứng hợp cho con Người thời hậu kỹ nghệ,
nó sửa soạn bước vào giai đoạn
phong lưu, làm ít chơi nhiều,
sống thảnh thơi như chim trời cá nước. ( Trên
đây là
một mẫu thử áp dụng triết lý An
vi vào chính trị Mỹ ).”
( Hết trích ) C.- Sử Đối
với những nhà làm sử khi
nghiên cứu lịch
sử nước nhà, vì mê tinh
thần khoa học, không thích những
gì mơ hồ u linh man
mác, nên cho những chuyện
Tiên Rồng, Lạc Long Âu Cơ, thời
đại Hồng Bàng là
chuyện hoang đường, có nhiều vị
còn muốn cắt ngắn lịch sử chỉ
còn hai ngàn năm.
Còn triết gia
Kim Định nhờ
khoa tân Nhân văn,
không
những đi lên tới thời đại Hồng
Bàng của Việt Nam mà còn
vươn lên quá thời Tần
Hán bên Tàu cho đến
Nghiêu Thuấn, Ngũ Đế Tam Hoàng
của thời khuyết sử Tàu. Kim
Định cũng chưa dừng lại đây mà
còn vươn lên tới nền Văn
hoá Hoà bình tại
Thái
Bình Dương cách nay 12
ngàn năm tới 30 ngàn năm nữa,
vì nhận thấy được Tàu và
Việt có chung một số đại
đồng và một
số tiểu
dị. Kim Định phát
hiện ra những nhân vật huyền sứ của
Tàu là những nhân vật văn
hoá của nền văn
hoá Nông nghiệp của Tổ tiên
đại chủng Việt, sau khi thôn tính
các tộc Bách
Việt, Tàu mới đem các nhân
vật đó
vào
lịch sử, những nhân vật như Bàn
Cổ càng xa xưa được đem vào sau
hết. Nhất là
cái cơ cấu của nền văn hoá
đã được ẩn tang trong đó, tức
là thời sang tạo văn
hoá. Khi đã có cơ cấu
thì nền văn hoá không thể
bị xuyên tạc như Khổng giáo. Bỏ
quên Huyền sử tức là đánh
mất cơ cấu tức
là đánh mất cái nền tảng
cũng như cái tinh tuý của nền
Văn hoá. I.- Huyền sử Sau đây
là ý
kiến của T.G. Kim Định và các
nhà Văn hoá nổi tiếng thế giới
về Huyền sử ”: 1.-
“ Huyền sử là sử của những truyền kỳ,
của những huyền thoại. “ Huyền
thoại là tiếng nói của tiềm thức
cộng thông khác với lịch sử
là phạm vi của lý trí. Nhưng
vì trong thực tế không thể
phân biệt
hẳn hai phạm vi nên hay có sự lẫn
lộn nơi các tác giả, kể
các tác giả có viết
sách thực sự, nên đầy rẫy những
lẫn lộn “ông nói gà,
bà nói vịt “. Bà
là tiềm thức nói về thực tại bao la như văn hoá,
còn Ông lý trí lại
đi nói về thực tại
rõ rệt như chính trị. Vì thế cần thiết
lập một môn mới để khai thác
các nền
móng kia mà môn đó
tôi muốn thử khai mạc ở đây
và xin đặt tên là Huyền sử. Chữ Huyền
nói lên tính chất u linh ( Việt điện
U linh cũng như Lĩnh Nam trích
quái ). Còn
sử đi với huyền là một thứ sử rất
mông
lung với những niên kỷ co dãn như
cao su kiểu 18 đời Hùng Vương, với
những bờ
cõi chập chờn sồi sụt và
mênh mông của các nước
Xích Quỷ, Văn Lang. Vì lơ mơ,
nên duy sử cho là mơ hồ quái
đản, đáng thải
bỏ, ngược lại nếu là ien thì lại
chấp nhận trọn vẹn kiểu nghĩa đen. Hai
tâm hồn đó không ở với nhau
được. Nhưng
cả hai đều đáng quý, vì cả
hai đều có những đóng góp
rất giá trị cho sự tiến
hóa của con người. Vì thế Huyền
sử muốn mở ra một đường hướng dàn
hoà hai phe tân cựu: nó muốn duy
trì hồn thơ của các cụ xưa, đồng
thời áp
dụng đúng mức phương pháp khoa học
của thời nay: nó muốn là một
nhà khoa học ưa
thích nguồn thơ, hay lại muốn mơ mộng,
nhưng lại theo lối khoa học.
Để được như thế, nó tính đi lối
toàn thể nghĩa là dùng
tất cả khảo cổ, lịch sử, văn
hoá, văn chương, truyền kỳ, thần thoại,
nhất là lối nhìn toàn
cảnh: đặt nặng
trên những điểm tựa có bảo đảm,
để tìm được ra những gì ẩn hiện
mung lung, và
cuối cùng dẫn đến một thứ triết sử hay
là văn hoá sử, không
là văn học cũng
không là văn minh. Vì Việt Nam
và Trung Hoa cổ đại có cùng
một nền văn
hoá, ít ra đại đồng tiểu dị,
nên huyền
sử của Trung Hoa có ien hệ mật thiết
với huyền sử của Bách Việt, trong
đó có tổ
tiên chúng ta. Do
đó Trung Hoa cổ
đại đối với ta phải có hai khía
cạnh là văn hoá với chính
trị.
Thường tình người ta chỉ xem nước
Tàu như
như một thực thể chính trị, mà
quên mất khía cạnh văn hoá
chung trong quá trình
hình thành tạo dựng. Đó
là điều thiếu
sót cần được bổ khuyết. Muốn lên tận
đoạn đó chúng ta phải vượt qua
giai đoạn Tần Hán, để đi từ Khổng tử
trở lên đến
quảng khuyết sử mịt mờ, lúc mà
những tiền nhân ta còn sống dưới
quyền hướng dẫn
của họ Hồng Bàng trong miền Hoa Hạ, tức
là miền sông Lạc, sông
Hà và vùng Hồ
Quảng, trong những miền đất của Kinh, Sở,
Mán, Châu Dương, Động Đình
hồ, An Huy
( sông Hoài ), Chiết Giang, Giang
Tô, Bành Lãi. Đấy
là những lãnh vực mà
tiên
tổ ta đã có những mối ien hệ về
chính trị, kinh tế, văn hoá với
các dân vùng
xung quanh: và do đó đã
lập thành cái nhân của
dân tộc chúng ta. Có
thể quả quyết rằng cái gì
đã xẩy đến cho
những dân Man, Miêu, Thái,
Ngô, Di, Địch, Sở, nhất là Sở,
thì cũng đã âm vang
tới tiền nhân ta. Bởi
vậy phải coi Dương
Tử giang như xương sống, các châu
Kinh, Dương, Hoài, các nước
Ngô, Việt, Sở,
các hồ Động Đình, Bành
Lãi, Thái Hồ như ien bang
cùng chung vận hệ lịch sử . .
. Đấy là những
vùng âm u, theo nghĩa còn bờ
cõi cố định
với những sử liệu xác thiết, nhưng
bó buộc chúng ta phải lặn lội
tìm tòi, nếu
ta muốn tìm xa về cội nguồn của nước
nhà, vì đây là một
thời mang nặng những
nguyên tố cấu tạo nên tâm thức
của dân tộc, nên ta coi việc
nghiên cứu này như
một cuộc hành hương tìm về với
những trang huyền sử rất nắm sai bài học
và lúc
ấy chúng ta sẽ thấy về mặt văn
hoá thì
huyền sử nước Tàu không
còn là của riêng nước
Tàu
nhưng trở thành di sản chung cho
cả khối văn
hoá của ien bang Bách Việt, nơi
mỗi nước Viễn Đông phải tìm về
và đưa ra một
dịch bản soi sáng cho từng ngành
văn hóa riêng của mình,
sao cho duy trì được
cả gốc chung cũng như cả ngành
riêng.
Bí
quyết của sự thống nhất và đồng thời
nằm ở chỗ đó. Huyền sử Trung Hoa gồm
3 giai đoạn: là Tam Hoàng, Ngũ
Đế và Tam Đại. Tam
Hoàng là: Toại
Nhân, Phục Hy và Thần
Nông
( thuộc Viêm Việt ). Ngũ
Đế
là: Hoàng đế, Chuyên
Húc, Đế
Cốc, Nghiêu,
Thuấn.
Tam
Đại
gồm: nhà Hạ ( Vũ ) 2205, nhà
Thương ( Thành Thang ( 1766 ), nhà
Chu ( Vũ Văn, Chu Công ) 1122 ( thuộc Hoa
Việt ). ( Theo cách xếp của Tư Mã
Quang ) “
(
Việt lý tố nguyên, Kim Định )
2.-
Ý kiến của học giả ngoại quốc về Huyền
sử
“ Bộ huyền thoại của
một dân tộc là là đạo sống của
dân tộc đó. Nếu mất huyền thoại
thì thì
bất cứ một dân tộc nào, kể cả những
dân tộc văn minh nhất cũng sẽ sụp đổ khủng
khiếp . ( Karl Jung ) “ Bộ huyền thoại của
một dân tộc không phải là
những
chuyện hoang đường, mà là những
chuyện gần chân lý nhất, hơn nữa bộ
huyền thoại
là gia sản quý báo nhất
vì tính chất thiêng
liêng điển hình và mang lại
ý nghĩa
sống ”. ( Mircea
Eliade ) “ Không có
bộ huyền thoại thì không thể
thành một dân
tộc được. Dân tộc nào không
có bộ huyền thoại không thể được
coi là có văn hoá
hay văn minh gì hết, vì bộ huyền
thoại là những
câu chuyện diễn tả tinh thần của dân
tộc ở
mức độ cao nhất và cũng là di sản
thiêng liêng của dân tộc
đó ”. ( Laurens
Van
Der post
) “ Mất bộ huyền thoại
là mất mạch nối vào nguồn
quá khứ
tổ tiên và mất luôn căn bản
cho việc xây dựng tiền đồ dân tộc. Dân
nào mất bộ huyền thoại, dân tộc
đó quả
thực bị coi như không còn nữa ”. ( Wallace
Cliff )
II.- Lịch Sử Lịch sử là sử
thăng trầm của Dân tộc, các biến cố
được
xẩy ra trong Không gian và thời
gian xác định, đó là sự
thể hiện nếp sống Văn
hoá Dân tộc vào đời. Qua
lịch sử ta thấy
được những thăng trầm phế hưng của dân
tộc.
Học Lịch sử để qua đó
chúng ta rút tỉa ra kinh nghiệm
sống (
minh triết trong huyền thoại. . . )
sao cho ngày càng một tinh tiến
hơn ở
đời.
Nho gia có nói: Xôi
Kinh là để “ liễu hiểu ” ( minh
triết
),
nấu Sử (
học Lịch sử ) là để biết “ quan sát
con người trong xương trong thịt, sống thật
trong những mối nhân luân với
những hoàn cảnh
xã hội cụ thể ”. Sử
biên
niên là lịch sử chết vì
đã bỏ sót mất
sự
sống động của
dân tộc. Việt Nam có
một lịch sử gần 5000 năm văn hiến. Việt Nam
là một nước nhỏ ở cạnh nước Tàu
khổng lồ. Tàu đã cai trị VN hơn
1000 năm và
gây ra 8 trân đại chiến,
nhưng VN vẫn vùng dậy đươc vả giữ vững
non sông
bờ cõi. Đó không
phãi là sức mạnh vật chất
mà là sức mạnh tinh thần, sức
mạnh
đó là mạch sống dân tộc
tức là nguồn sống của văn hóa
qua những nhân vật suốt
hàng thế kỷ đã hy hiến
thân tâm để dựng nước và
giữ nước. Nhưng vì bị nô lệ
Và
chiến tranh gây ra cảnh nghèo
đói, nên đã bị ngả quỵ,
vì vậy cần phải phục
hoạt lại
nền Văn hóa Cha ông để tu dưỡng
nội lực mà vực dậy vùng
lên.Lịch sử chẳng qua là tấm
gương phản chiếu của những
phế hưng thăng trầm của một dân tộc.
Trong cuộc mãn đàm giữa
nhà Thần học
Brazil là Leonardo Boff với Đức Đa La
La Ma của Tây Tạng, Đức La Ma đã
nói: “ Hãy
nhớ rằng vũ trụ dội lại hành
động và tư tưởng của chúng ta “. Nhìn
vào lịch sữ ta
nhận biết được mạch sống văn hoá của
dân
tộc đó.
D.- Văn Theo Nho thì
văn không chỉ để viết văn chương, tiểu
thuyết, thi phú . . mua vui mà
thôi , mà
“ văn dĩ tải đạo “, đạo đây
là Nhân đạo cũng là triết
lý Nhân sinh. Vì
vậy cho nên T riết là gốc của Văn
hay Văn và Triết có ien hệ mất
thiết với
nhau. Sau đây là quan niệm của
Kim Định về vấn đề: I.-
Ðông Tây đôi
ngả
“ Ðông
khác
Tây nên cũng không có
Triết theo lối Tây.
Vậy nếu đã suy tôn Triết
Tây làm mẫu duy nhất cho mọi nền
Triết thì quả
là Ðông phương thiếu Triết.
Nhưng vấn đề được đặt ra là có
thực Triết Tây là
nền Triết học mà bất cứ triết
nào cũng phải tuân theo nếu muốn
xứng danh Triết
? Ðó
là điều mà hầu hết thế hệ trước
đã
làm theo bằng cách đồng
hóa ý – hệ nhiều khi cả khoa học
với Triết . Nhưng
hiện nay
thì cả hai điểm đều đang bị đả
kích:
Ðiểm nhất là ý- hệ
thì bị ví với
cái lưới mắt quá thưa,
không bắt được thực tại tế vi, con người
quá phức tạp và
vi tế, không dễ gì đóng rọ
vào hệ thống. Còn việc đưa khoa
học vào Triết là
biểu lộ những thợ triết quèn
không thấy được giá trị Triết mới
phải đi mượn uy
tín của khoa học, không ngờ rằng
làm thế la hạ giá Triết. Không
khác chi bà Chúa đi mượn
áo của đoàn
hầu. Vì
triết là cái nhìn tổng
quan trùm
khắp, còn khoa học đi đến từng đối
tượng bé nhỏ và cần xác
định.
Không hiểu được như thế mà
lạm bàn tùm lum
sang bên khoa học thì chỉ
là làm việc rổng tuếch. Hễ
triết nào đã phải dựa vào
khoa học thì
đấy là thứ triết ăn mày. Giáo sư Dufrenne
đã nặng lời lên án lối vay
mượn vô
duyên đó, vì nó chỉ
làm ra được một thứ Triết học giả tạo với
cái thượng tằng ý
hệ nguy nga, nhưng giả tưởng trừu tượng.
Chính vì mấy cái lầm kịch
xù đó ( lầm tri
thức với liễu hiểu, lầm
ý hệ đã là Triết, lầm
khoa học bên trên
triết .
. . ) đã
khiến cho những người như Levi-
Strauss phải
thất vọng về triết, vì nó
làm khô héo tâm hồn. Xem
như vậy thì
hai điều vắng ien khiến người ta nghĩ
Ðông phương không có
Triết học lại là
những điều hại cho Triết chân thực,
mà Việt Nho đã may mắn
tránh được. Khổng Tử
dặn môn sinh: “ Quân
tử bất
khí ” : người muốn làm
quân tử
nghĩa
là muốn làm Triết nhơn không
nên để lòng bị trói buộc
vào một món chuyên
môn,
vì nó sẽ làm ứ trệ
tâm hồn, méo mó lý
trí không vươn lên được tới
cái nhìn bao
la cần thiết
cho triết nhơn.
Chính là vì thế khi
người ngoại quốc nói
trong đám
thôn dân Việt Nam có nhiều
triết nhơn thì là câu
nói có nền tảng, nó
không khác câu nhận
xét chung của
ông Columella rằng: “ đời
sống đồng áng cùng họ máu
với minh triết : la vie rurale est consanguine
à la
sagesse ”.
( Civ. VIII 149 ). Sở dĩ nhu vậy là
người nông dân vừa không bị
ngụy tạo
( sophistiqué ) bởi những ý hệ,
lại được tiếp cận với đời sống thiên
nhiên, nếu
được hướng dẫn xa xa bằng một nền minh triết như
trường hợp người thôn dân Việt
Nam thì bảo rằng có nhiều Triết
nhân giữa họ có lạ chi đâu. Ít
người trong chúng ta nhận ra điều
đó vì
không biết nhìn qua cái
nghèo nàn, trơ trụi của họ,
nên khó thấy được cái mặt
Triết nhân của cụ già thôn
quê mà ông Paul Mus đã
cho in trên bìa quyển
Sociologie d’une guerre và sánh
với khuôn mặt của Esope, còn bộ
diện đứa cháu
là của một ông hoàng. Ðó
cũng là lý do
giải nghĩa tại sao lại có
những nét hãm
trên khuôn mặt của nhiều Tiến sĩ
Triết học : là tại không biết
vượt thông thái
kềnh cơi đặng hoà mình
vào chủ đạo. Vì
thế
điều quan trọng hơn hết cho người đi học triết
là phải có một cái
nhìn toàn
cảnh về Triết để khi lặn lội vào rừng
chữ nghĩa sách vở có chỗ để
lâu lâu hướng
về, để bỏ Triết học sang Triết lý hầu
đạt minh triết. Chính bởi vậy mà
khi đi
vào Triết Ðông nếu có
cơ duyên gặp sách hay thầy giỏi
thì sẽ cảm thấy một sự
thích thú sâu xa biến đổi
cả một đời người làm cho cuộc sống được
thanh thoát,
khiến cho cái học trở nên đầy
thích thú. Và đó
phải là hướng tiến tới của nền
văn hoá nước nhà.
Ðể đẩy mạnh hướng
đi này
chúng ta sẽ gọi đó
là hướng Văn –
Triết . Ðó là
một hướng tiến sẽ hết sức mênh
mông mở ra cho mọi tài năng đủ
loại :
thi, ca, nhạc, kịch. . . và do
đó sẽ mang muôn sắc thái
không thể xác
định và cũng không nên
xác định. Vì thế trong
chương sau chúng tôi chỉ dựa
trên quan
sát thử đưa ra một số nét
đã xuất hiện hầu giúp ien một hai
ý niệm sơ sài thế
nào là Văn – Triết . “ II.- Văn
Chương
ngoại Triết
1 .- Văn hoá
vô hồn
Chữ vô hồn
cũng có thể gọi là vô đạo
hiểu là thiếu nguyên lý
nền tảng và thiết thực làm
kim chỉ Nam, nên mắc vào rất
nhiều mâu thuẩn trầm trọng : chẳng hạn
chính Platon là ông Tổ triết
học lại đứng
lên chống tự do, bắt mọi người phải theo
tôn giáo của nhà nước, ai
không tuân
thì hạ ngục, nếu còn bất khẳng
thì bị thủ tiêu . . . Ðến nỗi sử
gia cho đó thực là bản cáo
trạng chửi
vào mặt Socrate mà xưa kia Platon
đã tôn thờ làm thầy (
Véritable acte d’
accusation contre Socrate . Civ . VI . p. 87 ). Bởi chưng sứ
mạng của Triết
phải là giải phóng con
người nay lại bắt con người làm
nô lệ cho quyền uy, cũng như luôn
luôn
bảo vệ chế độ nô lệ. Ðấy
là một sự phản bội triết. Chính
chúa trùm triết đã đổi lập
trường như vậy, huống
hồ các môn đệ về sau: vì
Triết thiếu nguyên lý vững
nên chính Triết gia quay ra
chống triết. Bởi vậy có thể nói
chẳng khoa nào đi được với triết
vì triết tự
mâu thuẩn: lúc bênh Socrate
lúc đả kích.
Sau này các Triết gia cũng
thế, thí dụ đối với Cộng sản thì
nhiều Triết
học gia lúc tung hô, lúc
khác lại thoá mạ, không phải
trong chiến thuật mà ngay
trong chiến lược thì như vậy làm
sao có chủ đạo thống nhất, nên
đã không có một
triết nào là không phải sửa
sai ngay từ trong nền tảng: bảo sự vật
không có mà
lại theo lối có, bảo vật chất chẳng ra
gì mà lại cứ chao vát vật
chất. Ðề cao vô
sản mà cuối cùng lại phải theo
lối tư bản . . . vân vân
cùng khắp.
Triết học còn chưa đạt Triết
lý huống nữa
là văn chương, làm gì
có Triết, cái mà
các học gỉa quen gọi là triết
của nhà
văn này nọ kia khác chẳng qua
là những ý kiến những tư tưởng
nhân sinh, ai cũng
có hết nhưng ở đợt tản mác,
còn lâu mới quy tụ để đạt
trình độ Triết. Không cứ
văn chương nhưng là tất cả nền văn
hoá Tây Âu đều thiếu Triết
tức là thiếu sự ien
hệ sâu xa với một nền Minh triết
có uy tín được nhiều người thừa
nhận và cố
gắng hiện thực. Vì thiếu Triết
nên văn chương Tây Âu mang
theo một số nét đặc
trưng như đa ngôn, ưa chạy vòng
ngoài, đả kích lung tung. Ðó là
những điểm đáng lẽ phải tránh thì
lại đang được nhiều học giả chạy theo nên
cần bàn rộng. 2.- Ða ngôn
Ða ngôn
phải
hiểu là văn học xoay quanh từ ngữ
quá nhiều, do sự thiếu chủ đạo hay
thiếu cái
nhìn toàn cảnh, không thấy
được những chân trời man mác
tâm linh, nên dừng lại
ở đợt từ ngữ
vun tưới đến độ tôn thờ
lời. Trên hết là lời. Từ đó chương
trình giáo dục đổ dồn chú
ý vào lời:
Luật
lời ( ngữ luật )
Ý
lời ( luận lý )
Thuật
lời ( khoa ien biện )
(
Xem Cữa Không chương IV ) Ðến nỗi
nhiều sử gia cho rằng chính sự
tôn thờ lời đã làm mất Hy
Lạp. Người
Roma ban đầu đã tỏ ra khôn hơn
khi
không học tiếng mẹ đẻ ( La tinh ) và
công nhận rằng: “ Vì không
học La tinh nên mới có đủ giờ đi
chinh phục thế giới
để kiến tạo một đế quốc mênh mông ”. Nhưng rồi đế
quốc đó sẽ sụp đổ lúc người Roma
rơi vào vết xe Hy Lạp thờ lời, chú
ý quá
nhiều vào lời. Năm 425 khi
Hoàng đế Théodose lập đại học đầu
tiên ở Constantinople tất cả có 33
giáo sư,
thì:
Ngữ
luật đã chiếm 28
Còn
lại cho luật 2
Và
triết học 1 . Chính
vì thế
đế quốc Roma chỉ có thống nhất kinh tế
và chính trị, thiếu điểm cần hơn
hết là
thống nhất văn hoá ( Civ. X . 159 ). Văn
chương La Mã thì hoàn bị,
quyển XII của
Quintillien phê bình văn học
khó có thể hay hơn, nhưng về
triết thì quá tầm
thường, không một triết gia nào
đạt độ tâm linh. Người nay nhận ra rằng
quyển “ Ý Vàng ” của
Marc Aurèle đọc kỹ lại thực ra chỉ la
ý chỉ son đẹt, cầu an ( pensées
d’or
chỉ là pensées de plomb ) Sénèque
cho là
thứ văn “ đưa người đọc vào cửa
nào rồi cũng sẽ lại đưa ra cửa ấy ” (
Civ.
VIII.217 ). Cuối cùng
hầu khắp các Triết học gia đều bắt tay
với Tôn giáo tức là bắt
tay với yếu tố
chia rẽ. Ðế quốc Roma sụp đổ phần lớn
vì vấn đề thần học: “ Ðấng
Kitô có một
bản tính hay hai bản tính, ba
ngôi hay một ngôi . . . ( Civ.
X .
148 ). Thế rồi dòng
dã suốt thời Trung cổ và dẫn tới
ngày nay
nhiều
chương trình giáo dục vẫn xoay
quanh lời, quanh những cái tế vi về
ngữ luật, phân tích ngữ luật,
phân tích
lý luận ( analyse grammaticale, analyse
logique
), giống đực giống cái, số
ít, số nhiều . . . là thành
cái mà ngày nay nhiều học
giả nhận ra là không những
vô
ích, còn tổ làm
thành ác mộng cho tuổi thanh
niên
“ qui fait le cauchemare de la jeunesse
de l’
Occident ” ( Civ.III. 167 ). Hiện
nay
họ đang cố dùng phương pháp cơ cấu
để thải bớt những cái “ cần thiết giả tạo
”
nọ . 3.- Quá nặng
tiểu thuyết
Tiểu thuyết trung thực
có sức giúp cho người đọc biết
quan sát nhân tình thế sự,
tôi không hề phủ nhận giá trị
của nó. Một quyển sách
mà thiếu nhận xét thì
là quyển sách vô
duyên. Nhưng phải nói thêm
ngay rằng
thiếu liễu hiểu
thì lại là quyển
sách
tản mát rỗng tuếch. Cần phải
có cả nhận
xét lẫn sâu sắc mới là
toàn vẹn. Một quyển
sách hay hay một nền văn học cũng thế.
Muốn sâu sắc thì phải có
triết học,
triết lý, tâm lý như
nét Dọc.
Muốn nhận
xét ý nhị phải biết sử
ký, xã hội học làm
nét Ngang. Ðó
là những khoa giúp người học
biết thâu
lượm những kinh nghiệm hằng ngày, nghĩa
là có xảy ra thực sự trong
xã hội loài
người, để cho cái học không đi
vào duy trừu tượng. Việc
thâu lượm sự kiện quan sát
này sẽ được
tiếp tục trong văn hoá hậu trường bằng
tiều thuyết. Nhờ tiểu thuyết mà hai
nét
Kinh ( triết ) và Sử càng
trở nên sống
động.
Một nền giáo dục muốn
toàn vẹn
cần chú ý đến cả hai mặt Dọc
Ngang nọ cách cân bằng. Vì
thế nên giáo dục của Việt Nho xưa
đã đi
theo lối “ xôi Kinh nấu Sử ”.
Xôi Kinh
là để “ liễu hiểu ” , nấu Sử là
để biết “ quan sát con người trong
xương trong
thịt, sống thật trong những mối nhân
luân với những hoàn cảnh xã
hội cụ thể ”. Vì thế tuy
là cổ xưa mà giá trị vẫn
tồn trường. Triết
lý đã không bị cái
nạn thiếu cảm – thức lịch sử như triết học
Tây Âu. Trái ngược
với nền giáo dục Tây Âu mặc
dầu tiến bộ về khoa học mà về
thành nhân thì
chính
họ phải cho là tồi tệ ( lamentable ).
Bởi chương trình giáo dục
chỉ có tiểu thuyết mà thiếu sử
và nhất là
thiếu triết nên gây ra nông
nỗi.
Về
triết thì thực ra không thiếu
nhưng là thứ triết học quá
chuyên biệt, hóc búa,
trừu tượng khiến con người sống thực
không sao nhá nổi: như thế
có Kinh đâu mà
sôi.
Còn Sử thì xưa kia
không có trong
chương trình (
xem bài Sử mệnh trong Chữ
Thời ) lấy
chi mà nấu. Thiếu Kinh
để sôi, thiếu Sử để nấu thì nền
giáo dục tất trở nên ien quơ,
không đủ làm thoả
mãn tâm trí, cho nên
mọi người đổ xô vào tiểu thuyết,
bởi ngoài tiểu thuyết ra
còn chi nữa đâu để mà đọc. Vì
thế mà
tiểu thuyết đã được ien bốc lên
quá cỡ khiến cho phát triển
cùng cực và như thế
dễ sa vào quá đáng. Tiểu
thuyết đồng nghĩa với tao xạ, tức
là xa lìa thực tại. Ta
có thể nhận thấy rõ thực tại
nước nhà là
đang sống trong tả tơi bần hàn thế
mà thiếu chi những sách mang
nặng tính chất
quý tộc, cá nhân, hưởng
thụ trong thừa mứa: “ nhà văn phải
là kẻ viễn mơ sống
rong chơi trong cuộc đời ”, đang khi đất nước
tan hoang, muôn vàn đồng
bào đang
gục ngã.
Ðời thực dân cố đả phá
“ tự
trị xã thôn ” để dễ bề đồng
hoá thì tiểu thuyết cũng
ùa theo đả phá xã
thôn thế
mà chương cứ bắt học cả từng trăm quyển
tiểu thuyết, khiến đầu óc trẻ em bị nén
đầy, còn đâu tâm trí
thanh thản mà tâm tư. Cái
đó rất tai hại gây nên
óc hưởng thụ và hư
hại một đức tính tối quan trọng để trở
nên người là sự tập trung tư
tưởng.
Thiếu nó làm sao đi
sâu, mà không sâu
làm
sao có to, có đại, có vĩ
nhân.
Giáo dục
thay vì nhằm đào tạo nên
người lại vô tình đào tạo
ra toàn hạng sính viết. Ðầu
óc chẳng sản ra được cái chi
đáng viết,
cũng viết. Voltaire đã phải nặng lời
gọi bọn đó là giống chó
má sủa bậy cắn
quàng và co quắp ( Canaille
écrivant
cabalant et convulsionner) rồi
hè nâng
nhau lên tận mây xanh nhưng tựu
trung là những con bò cái
ngu dại : “ Ces gens impuissants
entre tous, des vaches
écrivantes
sont portés aux nuées , de
simple brutes célébrées ”. Chính
vì lý
do rất nghiêm trọng đó nên
các nền văn
hoá cổ xưa đều coi thường tiểu thuyết (
Civ. X. 336 ) . Viễn Ðông
chỉ cho tiểu thuyết nảy nở tù
lúc còn tiếp cận với Mông
Cổ
nghĩa là với văn minh du mục chạy
rông thiếu chiều
sâu. Tuy nhiên tiểu thuyết đã
không gây tai hại cho Việt Nho như
bên Tây Âu vì
giáo dục vẫn dành chỗ quan trọng
cho Kinh cho Sử . Tiểu
thuyết chỉ vận hành ở văn hoá
hậu trường, và đó là
trúng chỗ. Cần phải biết đặt vị
trí mỗi khoa như vậy, đừng đề cao
văn chương tiểu thuyết quá đáng
như nay đến nỗi lấn át hết chỗ lẽ ra phải
dành cho cái gì nền tảng đi
sâu. Cần nhấn
mạnh rằng tiểu thuyết không phải
là khoa đào sâu, nên
người xưa không cho là
nghệ thuật cao đẳng, mà chỉ là
nghệ thuật bì phu, là văn chương
nhẹ cần cho
những người không thể ngổi lâu:
vì thế nó phát xuất nhiều
nhất do tâm trạng du
mục nay đây mai đó (
nhớ lại bên Tàu
tiểu thuyết chỉ phát triển mạnh tự đời
Nguyên đầy chất du mục ), nên
không thể
so sánh với những nghệ thuật và
văn học phát nguyên từ nông
nghiệp quen ngồi
lâu nên có thể đào
sâu đi vào chỗ tế vi, vì
thế nên bao giờ cũng tải đạo, còn
du mục thì không, vì
không đào sâu đủ thì
làm sao đạt đạo để mà tải . Từ
đó Văn
chỉ nhằm giải trí, làm vui, chọc
cười, chọc khóc, vậy là hết rồi
đàng sau không
còn gì nữa. Ðó là
một nhận xét có vẻ mới cho nay,
nhưng người xưa
thì đều ý thức như vậy, cho
nên bên Ðông cũng như
bên Tây nhiều người vết tiểu
thuyết mà không dám
ký tên như trường hợp Lope de Vega
và cũng vì vậy mà có
vấn
đề cho là những tuồng của Shakespeare do
một nhà quý tộc Anh viết, nhưng
vì giữ
thể diện không dám ký
tên.
Ðây không có
ý phán đoán về vấn đề nọ
mà chỉ có ý ghi nhận
đã có vấn đề như thế, vì
có tâm
trạng khinh tiểu thuyết tuồng kịch. Dẫu sao thì
chương trình giáo dục
dành quá nhiều chỗ cho tiểu
thuyết như nay cũng là chạy
theo Tây, nơi mà
giáo dục xưa kia
dành độc quyền cho quý tộc,
dân gian không được tham dự cả trong
việc đi học,
lẫn trong việc hình thành kinh
sách
(
không hề có bộ nạp ngôn,
không có sử cho dân
chúng )
nên đã báo thù
bằng đề cao tiểu thuyết. Sự đề cao
này gây ra hai cái hại,
một là làm cho cùn nhụt
nơi người đọc khả năng tập trung
tư tưởng nhất là vào những vấn
đề trừu tượng tổng quát, như vậy
là làm mất mũi
nhọn đâm vào sâu khiến
nhiều người vì đọc quá nhiều
tiểu thuyết nên đọc không
nổi mấy sách viết sâu một
chút.
Có thể
nói chương trình giáo dục
nay đã tê liệt hoá
cái vòi ong hút nhụy ngọt
để biến
tất cả thành những con bướm đậu
đây bỏ
đấy. Cái
hại thứ hai là tiểu thuyết
nhiều khi lấy truyện trong những môi
trường thác loạn ( có vậy mới
lắm truyện
và truyện mới éo le kỳ lạ . . .
) khiến
người đọc bị tẩm nhiệm trong bầu khí
bệnh hoạn lâu ngày có hại
cho sự lành mạnh của tâm hồn của
phán đoán. Tôi thật
không dám vơ đũa cả nắm, nhưng
có lẽ là điều
không may cho tôi đã tiếp cận
với vài người chuyên về tiểu thuyết
đọc nhiều
viết nhiều, đều thấy rất bì phu, hầu như
không biết quan sát; còn
tâm hồn mất
cả bao dung đại độ: hầu như tinh anh đã
phát xuất hết ra câu văn hay rồi. Một
lần nữa tôi không tin rằng mọi người
viết
tiểu thuyết đều thế, chỉ tại tôi chưa may
mắn gặp mà thôi. Nhưng dầu sao chương trình
giáo dục nên dành tiểu
thuyết cho hậu trường
là hợp lý. Và
đó là một bước cách mạng
cần thực hiện trong nền học vấn của nước
nhà
hiện nay. 4.-Văn học Tây
Âu
Bây giờ
nói
đến văn học thì hầu hết cũng phỏng theo
văn học Pháp là nền văn học chưa
đạt
Nhân chủ, còn đang quanh quẩn ở
Địa chủ và Thiên chủ. Ðịa chủ là lối văn học
khách quan tuân theo những thuyết
có
họ với cộng sản: hạ tằng chỉ huy thượng tằng,
hoặc nói như Taine văn chương là
sản phẩm của địa phương. Do
đó tìm hiểu
được thổ ngữ và thời đại của tác
giả thì đã cho là nắm được
then chốt. Luận án
không chú trọng nhiều vào
ngay chính tác phẩm, cái
ien hệ nằm ngầm giữa tác
phẩm và các tác giả,
mà lại đặt nặng trên việc
tìm nguồn gốc vay mượn ở đâu,
những hoàn cảnh nào, những chi
tiết sinh thành, những sự kiện chi phối:
établir
des faits des sources littéraires, des
circonstances des ien génétiques. Ðó
là những điểm nói lên Địa
chủ, tức con
người không là chi cả, mà
chỉ là sản phẩm của những yếu tố
ngoài.
Vậy là giản lược tác giả
vào một tác vụ thảo
mộc: hẳn viết ra chẳng qua là dưới sự
điều động của những yếu tố kia, chứ con
người tự lực tự cường của hắn không được
kể tới. Ðấy
là một quan điểm văn học hẹp hòi,
và vì
được các đại học công nhận
nên cũng kể là chính thức
hay là của đại học (
universitaire ).
Quan niệm này hiện nay
đang bị công kích bới những quan
niệm không chính thức tìm
giải nghĩa văn học
theo ý hệ, có thể gọi là
tổng quát.
Ðây
có thể là một quan niệm tốt nhằm
bổ túc cho quan niệm phân
tích của đại học nói
trên. Tuy nhiên lại mắc phải trở
ngại khó có thể vượt qua được,
đó là theo ý hệ
nào. Hiện nay bên
Pháp ít ra có 4 ý
hệ : Mác Xít, Tâm
phân, Hiện tượng, Cơ cấu . . . . Trong
đó không một ý hệ
nào nắm được lèo lái,
thành ra mới là tứ tung, chưa
có một hướng để tới. Vì thiếu
hướng nên tiếp tục
quay cuồng phân hoá gây
nên một thứ văn học vô hồn,
đành dồn sức vào những
cái
bác học bì phu vô
tích, cùng lắm chỉ gây
được thích thú nghề nghiệp cho
mấy
giáo sư văn học, chứ không
tài nào gây nổi
được tinh thần trách nhiệm cao
độ của sứ mạng là một thứ thích
thú bao
la làm sảng khoái tất cả những
người đi học nào có đủ khả năng
thâu nhận. Trở lên
là
đại để mấy nét chính của văn học
Tây Âu hiện đang đè nặng
trên nền văn học Việt
Nam. Bao
lâu chưa thoát được mấy
cái quá
đáng thì không sao
có thể lập được nền văn hóa độc
lập đặt trên Nhân chủ có
khả
năng bảo vệ và làm phát
triển nhân phẩm nhân cách
của người đi học. 5.- Ðả kích
lung tung
Ðó
là hệ quả
tất nhiên của nền văn học tản mát
chi li vô hướng. Một khi đã
không nhìn ra cái
toàn diện thì hễ mở
miệng phê phán liền vấp ngả
vào một sai lầm sơ hở nào
đó, không sao thoát
khỏi.
Sau đây lấy thí dụ về Nho giáo
đã bị giới tân học đả kích
lối 1930 đó là một phong
trào nổi lên
vào quảng năm 1930 trở
đi: hầu hết
trí thức đều đả kích Nho
coi đó như cái đà cản trở
việc xây dựng một nền quốc học tăng
tiến. Bởi vì Nho
là của người Tàu cũng như
là cổ hủ nếu không san phẳng
thì làm thế nào xây
đắp
mới. Vì thế mà có sự
thành khẩn đả kích. Tuy
nhiên đó là
một sự thành khẩn hời hợt hầu hết
là chuyền hơi nhau những câu
nói thiếu nền
tảng hoặc thiếu phân tích
Thiếu
nền tảng như đặt vào miệng Khổng
Tử (
hay đổ cho Nho giáo ) câu
nói của một hai cá nhân.
Chẳng hạn câu
của Thái Tử Phù Tô “ Quân
sử thần tử, thần bất tử bất trung
“ vẫn được lôi ra làm cớ đả
kích. Có thể nói như vậy về
rất nhiều câu khác như Tam
ien của Ðổng Trọng Thư, trung thần bất
sự nhị quân
của Hán Nho. . .
Còn thiếu phân tích thì thí
dụ Trương
Tửu
dồn chân tướng của Nho giáo
vào 5 điểm là: 1.-
Tôn trọng quyền đàn ông,
đàn áp quyền
đàn bà. 2.-
Tôn trọng quyền chồng đàn áp
quyền vợ. 3.-
Tôn trọng quyền cha, đàn
áp quyền con. 4.-
Tôn trọng quyền vua đàn áp
quyền dân. 5.-
Tôn trọng lý tính, toả chiết
tình cảm. Ai đã đi
sâu
vào Nho giáo đều nhận ra
đó là 5 điểm của Hán Nho. Một thí dụ
khác trong bài đầu Kinh Thi tả nam
nữ nhớ
nhau đêm nằm trằn trọc giở mình 4
kiểu (
xem bài “ Hưng ư Thi “ ở cửa Khổng ).
Vậy mà Trương Tửu giải nghĩa
là bà Hậu Phi ngóng
tìm hầu thiếp cho chồng
đến “
mất ăn mất ngủ ” . Viết sai hẳn đi
như vậy mà cứ được sao chép. Chỉ
một ít
thí dụ như vậy tỏ rằng sự chống
đối Nho
giáo đều căn cứ trên những
cái hiểu lầm được truyền tụng, sao đi
chép lại mà
không một phen đi tận nền tảng.
Rồi
sau đó không sao chép
Tây Âu thì lại dẫm
chân trên văn chương bình
dân cách
nông cạn và cẩu thả, quên
đi rằng Việt với Nho là một, văn chương
Việt xây trên
cùng một cơ cấu với Nho, nên bỏ
Nho cũng là bỏ Việt, thứ Việt sâu
thăm thẳm ( Xin nhớ
rằng tôi đang đứng trên cơ cấu
mà
bàn. . .
)
III.- Những
nét
đặc trưng của Việt văn
1.- Cần tìm điểm
phát xuất
Những nét đặc
trưng của Việt văn rất nhiều, khó
lòng
lên sổ hết và thực ra cũng
không cần.
Ðiều cần là chọn một
số nét căn
bản và tìm ra chỗ móc nối
với những nguyên lý uyên
nguyên, đặng dùng như nền
tảng quy tụ những nét căn bản nọ. Ðây
là
làm việc theo cơ cấu. Nói
đến phương
pháp cơ cấu là phải nói
đến nguyên lý uyên
nguyên làm điểm phát xuất
cũng như
phải có đối chiếu với các nền
văn minh khác. Chính nhờ hai
điểm nọ mà những suy luận những câu
quyết đoán tránh được đến mức tối
đa cách hồ đồ mỗi khi đan cử nét
này nọ kia
như là đặc trưng. Theo đó
thì một nét kể như đặc trưng phải
được đặt trên
nguyên lý nền tảng, lại được kiện
chứng bằng đối chiếu với một số văn minh
khác
không có như vậy.
Thí
dụ tiếng
dân ( ca dao ) dựa
trên nền Nhân chủ phát
nguyên nhân tự Tam tài,
mà ở các văn minh khác
không
có. Khi đã thiết định được như vậy
thì lúc ấy có thể
dùng điểm nọ làm tiêu
chuẩn để lựa chọn các sách cổ điển
xưa, cũng như sau này tìm
sách từ bốn phương
có khả năng làm giàu di sản
thiêng liêng của mình. Nhờ
lối đó phạm vi Việt văn trở nên rất
rộng
và lý thú mà
không xô bồ thác loạn.
Về dĩ vãng nó sẽ bao gồm
những
sách Cổ Ðiển cùng một tinh
thần Nhân chủ với Kinh Ðiển chẳng
hạn “ Tứ đại kỳ
thư
” của Trung Hoa tuy viết bằng Nho,
mà tinh thần Việt lại rất phong
phú.
Nếu đem Tam Quốc, Thủy Hử, Hồng
Lâu Mộng, Tây Sương Ký
vào chương trình Việt thì
số sách cổ điển tăng lên
nhiều.
Rồi
tương lai cũng có tiêu
điểm chọn sách
trên thế giới đúng hướng,
mà không đưa vào bừa
bãi những sách hoàn
toàn du hí,
hưởng thụ theo óc quý tộc
Tây Âu. Nhờ
vậy
việc phong phú hoá nền Việt văn
có nền tảng vững chải mà
vãn rộng mênh
mông.
Chính vì những lý do
trên, nên
trong bài này chúng
tôi thử đưa ra
một
số nét đặc trưng theo hai tiêu
chuẩn trên: đặt trên nguyên
lý và tỷ giảo. 2.- Dân gian
tính
Nét đặc
trưng đầu tiên phải kể tới là
dân gian tính, vì văn
chương do dân phát xuất. Ðiểm này
đã được bàn trong Việt Lý,
chương Tiếng dân
cũng như trong Tinh Hoa Ngũ Ðiển trong hai
chương Kinh Thi và Thư ( xem
phần Kinh Điển ở trên ).
Ở
đây chỉ nhắc sơ qua để nói
lên nguyên lý nền
tảng của nó là Tam tài,
một nguyên lý sâu thẳm đặt
nền cho Nhân chủ, ngoài
thuyết Tam tài ra khó lòng
đặt nền Nhân chủ. Vì thế
chúng ta có thể nói Nhân
chủ là nét độc đáo tối
hậu của Việt
Nho, mà
hậu qủa đầu tiên và rõ
nhất
là nền Dân chủ ( đã
bàn trong Tinh
Hoa Ngũ Ðiển ở chương trên ). Từ Nhân chủ
nảy sinh ra óc công thể: mọi người
như nhau về quyền lợi và nghĩa vụ, ai
cũng như ai.
Ðiều đó được biểu thị bằng
cái bọc 100 trứng:
con nào cũng lớn mạnh phương phi,
có nghĩa là ai cũng như ai,
nên những công
tác nền móng nào cũng do
công thể, trong đó phải kể trước
tiên đến việc suy tư,
nói, làm, vắn tắt là
toàn dân viết sách. Khởi đầu
bằng ca dao tục ngữ mà Việt Nho gọi
là quốc phong, nghĩa là
ngọn gió của
cả nước chứ không của riêng một
người. Như thế là tạm xong phần nhất đặt
việc
sáng tác công cộng
trên nền nhân chủ mà then
chốt là thuyết Tam tài.
Bây
giò đến phần Tỷ
giảo thì chỉ việc
đem đối chiếu với một hai nền văn minh lớn
khác như Âu Ấn sẽ thấy tác giả
“ Kinh Sách ” ở đây không
phải là dân gian
nữa mà là Tăng lữ. Còn
bên Tây Âu là
Quý tộc hay Tư tế ( đã
bàn trong Tinh Hoa Ngũ Ðiển ). Như vậy cả
hai đều đại diện cho Thiên hay Ðịa
tức cho tôn giáo hay quý
quyền mà không cho
Người, nên không có
Nhân chủ, do đó không
có Kinh Ðiển mà chỉ
có Kinh Thánh hay
là Cổ Ðiển. Triết – sử
gia Vico đã nhận định rằng văn học
dân gian chỉ đến sau trên những
nấc thang
cuối cùng của tiến trình biến
hoá: đầu tiên là thần
quyền với Kinh Thánh, rồi
đến quý quyền giầu sách anh ien
ca, sau cùng mới đến văn chương
dân gian. Vico nhận xét
đúng nhưng không nhìn ra
được lý do vì
ông không được thừa hưởng nền
Nhân chủ như bên Việt Nho. Chỉ
có trong nền Nhân
chủ thì kinh nghiệm bản thân cũng
như của tiền nhân ( kết tinh lại trong ca
dao, quốc phong , . . . ) mới
được coi
trọng hơn ảnh hưởng trăng sao (
Maspéro
158 có biết nhận xét điều
này ) cũng như các sách
Thần khải Địa khải. Cả hai
nơi Âu cũng như Ấn vì triết
còn yếu quá nên chưa đạt
giai đoạn ba này. Bởi thế đến nay muốn xa
lìa ảnh hưởng thần quyền thì
lại chuyển liền sang đại chúng
tính tức là đám đông
xô bồ chỉ được tổ chức tự
ngoại (
pháp luật, công an, mật vụ ) chứ
không có tinh thần nội khởi của một
dân tộc ( xem đầu quyển Hiến Chương
Giáo
Dục ) có truyền thống, có
sách dân tộc, có huyền sử
tức cái gì có gốc ngọn,
nguồn cơn ien tục, kết tinh của một nền minh
triết dài lâu như Granet nhận xét
về Việt Nho ( P. C . 26 ). Cần
suy nghĩ rất nghiêm chỉnh về điểm đầu
tiên này: Bởi
thoạt nhìn tưởng như cái
chi tầm thường, nhưng thực ra là dấu của
bước tiến cao độ và làm nảy sinh
ra
tất cả các nét đặc trưng
khác. Các nét khác
xa hay gần có thể coi như hệ luận
của nét nền tảng
đầu tiên
là dân gian (
Dân gian do Nhân chủ, Nhân
chủ do Tam tài ) 3.- Phác thực
tính
Ðây
là hệ
luận của dân – gian- tính,
vì dân gian thường bao giờ cũng chất phác và thiết
thực. Chất phác là
có sao nói vậy, không
lèo lá
bôi bác kiểu quý tộc.
Còn thiết thực là không
nói những chuyện trừu tượng như
quý tộc La Hy hay nói về thế
giới về bên kia mồ hay hư vô như
tăng lữ, nhưng là
nói về việc ăn làm, giao tế
hàng ngày, ở đây và
bây giờ. Vì thế mà học đi
với
hành, tránh cái học để
mà học, kiểu du hí, bác
học kềnh cơi, xa lìa thực
tại.
Người thời mới đã được
đào luyện
trong cái học trừu tượng cao bay
khó lòng thưởng thức nổi
cái đơn sơ chân thực
của văn chương Việt Nho, vì cho
là sà sà mặt đất,
đã không ngần ngại thải bỏ
Việt Nho để nhét đầy chương
trình những nền triết học lý
niệm và trừu tượng của
bọn quý tộc Tây phương: Platon,
Aristote, Kant, . . . cho
đến những cái suy luận quẩn quanh
ngày
nay. Marc Aurèle cảm ơn trời đất
vì đã không phải học
logique, nhờ thế mà lương
tri ông còn lành mạnh. Các
đàn em Việt
Nam nay chẳng được hưởng cái ơn
đó vì đàn anh họ
đã quá say Tây, nên
các em
phải học những cái làm cho
các em càng ngày
càng xa bà con cô
bác sống ở thôn
quê, tiếp cận với những thực tế rất cụ
thể.
Một ngày nào đó
các em sẽ buồn lòng nhận ra rằng
những điều chương trình
đang bắt các em nhồi
nhét vào đầu óc,
đã
bị Tây Âu thời mới cho là
cù lần tự khuya rồi, và thực ra
rất dại dột, thế mà
các em vẫn phải học để rồi sau
này khi phải đối mặt với cuộc đời
thì chẳng biết
dựa trên nguyên lý
nào mà xoay xở . Các em
bổng thấy mình nghèo nàn
đến độ hễ
lìa xa sách, thì
không còn biết nói được
cái chi, dù chỉ là một
thí dụ cố gượng
đưa ra cũng đầy đớ đẩn. Ðứng
trước các
ông già bà cả các
em chẳng còn thấy chi để nói,
không lẽ đem thuyết cuộc đời
nôn mửa ra bàn hay là hữu
thể với thời gian ra mà nói ! Chương
trình giáo dục đã đưa
các em xa đời
thực tại quá lắm, là vì
lớp nắm quyền hành hiện nay đã
được đào tạo trong bầu
văn hoá do trưởng giả và
tôn giáo sáng nghĩ ra,
nó khác một trời một vực với
văn hoá của dân gian, tức cũng
là của con người sống thực, con người
to lớn
không để cho Thiên Ðịa ăn nạt. Vì thế cũng nên
bàn riêng nét đó
là : 4.- Con Người to lớn
Hãy đọc câu ca dao
sau :
Ngọc
Hoàng ngồi tựa ngai vàng
Thấy
con uống rượu hai hàng lệ rơi
Tưởng đâu
con
uống con chơi
Ai
dè con uống con rơi xuống sình. Câu ca dao tiết
ra bầu khí Nhân hoàng: con
Người giao
thiệp với Trời rất tử tế, nhận Trời làm
cha, nhưng vẫn giữ độc lập. Giá phải
nơi khác thì trời đã
làm sét đánh cái
rẹt, đàng này Trời chả biết
làm gì hơn là
khóc. Và xem chừng lúc con
rơi xuống sình rồi cũng chẳng vớt
lên nổi, lôi khăn
ra thấm nước mắt: Thấy con uống rượu hai
hàng lệ rơi. Văn
mà như thế thực là độc lập. Nếu
muốn truy
căn thì sẽ nhận ra vị trí con
người trên cấp tối hậu, tức là nếu
Trời
là vua, Đất là vua thì
Người cũng là
vua.
Ðã là vua là
Nhân hoàng, thì văn chương
không có nói đến tội. Nếu
có là do óc Hán
Nho hay tôn giáo về sau,
chứ với nền nhân chủ Việt Nho thì
không, vì tội là bề dưới
với bề trên: dưới
càng thấp thì tội càng
nhiều, càng tiến lên thì
tội ít đi, và sẽ không
còn nói
đến tội nữa ở cấp “ Tề Thiên Ðại
Thánh ”. Về điểm này
rất tế vi nên văn hoá của ta chịu
ảnh hưởng nặng của thanh giáo cũng như
của
luân lý Tây Âu mang
quá nặng mặc cảm tội lỗi, đánh
mất vẻ hồn nhiên tự lập . .
. 5.- Thái
hoà
Tuy vậy mà vua
không ngông cuồng đến chỗ chối bỏ
Thượng Ðế hay là dấy loạn, nhưng giữ
cung cách Thái hoà
là hoà Trời hoà Ðất
trong mối “ Thiên Nhân tương dữ :
Trời
che Ðất chở Ta thong thả .” Ðấy là
nét đặc trưng của văn minh nông
nghiệp, văn
minh “đi cày, đi cấy, không những
lấy công, mà còn trông
nhiều bề “, để cho
việc mình làm trở thành
cộng tác với cái toàn thể. Vì
thế “ trông Trời trông Ðất
trông mây ” trở
thành nét đặc trưng biểu lộ trong
Quốc phong thành thể tỷ, hứng
ngoài thể phú.
Phú
là nói tuột điều mình
nghĩ ra,
không gửi gắm vào cái chi
cả, không che đậy: đàng sau điều
nói ra là hết, cùng
lắm là do điều viết mà đoán
ra khung cảnh hoặc tâm trạng người
nói. Thí dụ bài
cát đàm hay quyền nhĩ trong Quốc
phong.
Còn Tỷ bao hàm ý
nghĩa khác với
điều nói ra, có thể gọi
là nói ien giống như ngụ
ngôn: tức ý nghĩa
không ở trong lời nói ra nhưng từ
một
việc nhỏ nào đó vươn lên
việc to. Nói đến con châu chấu đẻ
nhiều mà lại nghĩ
đến dòng dõi đông
đúc.
Nói đến chuột phá
ruộng đồng, mà lại nghĩ đến quân
xâm lăng hay vương quyền chiếm đoạt.
Hứng cũng là một thứ Tỷ nhưng
nhắc đi nhắc lại như điệp khúc, thí
dụ nói về vật hay cây rồi
nói đến điều
mình nghĩ, điều chú ý
nói ra thường ở câu dưới
( nhi kỳ sự thường tại hạ cư );
còn Tỷ thì ngoài
câu ( Sở chỉ chi sự
thường tại ngôn ngoại ). Như
vậy Hứng
cũng là một thứ Tỷ nhưng Hứng
nói thẳng điều mình nghĩ,
còn Tỷ thì dấu, nhưng
dấu hở và cả hai hay đi đôi . Các nhà
chú
giải chỉ thường được bàn đến vậy
là cùng mà không
nhận ra rằng đó là những lối
“ Trông Trời trông Ðất ” dưới
muôn vàn hình thái
dị biệt nhưng tựu trung nói
đến mối tình thâm sâu giữa
Trời, Ðất, Người, khiến cho văn hoá
Việt Nho gây
trong tâm trạng người học cái
gì ấm cúng mát diụ. Rất nhiều tâm hồn
đang bị dằn vặt vì văn học, vì
triết
học Tây Âu đến khi bắt gặp bộ triết
lý An Vi cảm thấy lòng dịu lại rồi
dần dần
thấy thanh thoát, an nhiên tự tại
là do cái lý sâu xa
nọ, nó không còn để
mình
trong vũ trụ của Thiên hay Ðịa, song
để mình trong thế giới của riêng
mình,
nhưng vẫn có ien hệ với Thiên với
Ðịa. Do đó
mà
Việt Nho trong thơ văn chú ý rất
nhiều đến cái toàn thể,
toàn cảnh thường được
phác họa trong mấy nét lớn lao:
Dừng
chân đứng lại trời non nước
Một
mảnh tình riêng ta với ta. Ít khi dừng
lại ở những cái tỉ mỉ, những hiện
tượng. Do đó thơ văn không cần
dài. Chỉ phác
hoạ một hai nét chấm phá
làm đà cho mình vươn
lên. Hay ở chỗ chấm phá lơ thơ để
bao trùm toàn cảnh nên vắn
mà hoá dài, dài
trong âm vang vào cõi trời
đất.
Vì thế mà ta thấy chỉ một
bài thơ 4 hay 8
câu đã làm rung động
tâm hồn các cụ xưa hơn những
áng văn tràng giang đại hải. Ðiều đó
phát
xuất từ cái nhìn bao trùm
Thiên, Ðịa, Nhân . Thế hệ mới
vì được đào luyện trong bầu
khí văn hoá rậm lời, đã
làm quen với những anh ien
ca từng vạn câu như Odyssée,
Eliade, Mahabharrata với những cuốn tiểu
thuyết
dày cộm, nên không thưởng
thức nổi cái hay cô đọng của Việt
Nho nữa. Nhưng nếu muốn
xét Việt văn đúng bầu khí
của nó thì
cần phải xem toàn bích mới thấy
được cái cao siêu như
ông Granet đã nhận xét về
Kinh Dịch đọc
từng câu có vẻ tà tà,
nhưng cái hứng của toàn thể thật
lạ ien (
P. C. 16 ). Chính nhờ lối đó
mà một số học giả sành điệu
đã biết nhận xét “ cái
hay, cái tao nhã nằm trong chỗ
biểu lộ tế vi ngắn ngủi thoáng qua ”
và họ cho
đấy là một di sản mà Viễn
Ðông đã cống hiến nhân
loại hiện đại: “ L’extrême
– Orient a donné au monde moderne ces
formes poétiques toutes delicatesse don’t
le charme reside dans l’expression subtile et
brève d’une impression fugitive .
Civ. III. 357
”. 6.- Vui sống
Ta biết cái
gì vật nào chặt nhỏ ra là
chết, để nguyên toàn bộ là
sống. Vì
thế mà nét đặc trưng toàn
thể làm nảy
sinh ra một số nét đặc trưng ien hệ tới
sống, tới sinh:
Sinh
thú
Vui
sống
Sống
mạnh. Vì thế
ghét
sự ien giết, nhưng thiên về những cảnh
thái bình, an vui, yêu
thương. Giàu về
hí hước, trào lộng, ít về
bi kịch, thảm sầu. Khác văn chương
Bát khổ của Thiên
trúc hay những áng văn thê
lương oán trách ( lamentations )
kiểu Tây Âu, một
lối văn “ chưa sống đã lo chết ”,
Heidegger nói “ con người sinh ra để
cho được
chết ”.
Có người bảo quyển Cung
Oán
Ngâm Khúc “ là tinh hoa
của Việt Nam. Lầm. Ðó là hậu quả của
ngoại lai. Chính Việt Nho thì chấp
nhận trọn vẹn
cuộc sống với mọi chiều kích của
nó: cả vui cả buồn nhưng sinh thú
được đề cao
hơn là khổ đau. Ðó
là hậu quả tất nhiên
của “
sinh sinh chi vị dịch ”,
và do đó ghét chiến tranh,
coi là việc cực
chẳng đã để tự vệ. Vì
thế quan văn bao
giờ cũng được suy tôn hơn quan võ.
Cũng như văn chương không sản xuất những
anh
ien ca thường giầu chất chiến tranh đánh
phá. 7.- Truyền sinh
Nếu đã vui
sống, đã đề cao nguyên lý
sinh sinh thì tất nhiên việc
truyền sinh phải được
coi trọng. Chính vì thế
mà khi nhiều văn minh gọi cơ quan sinh
dục là sự xấu xa
hoặc là của tội thì
Việt Nho lại gọi là
Ngọc Hành, và văn chương
dân gian nói về việc nam nữ hợp
thân cũng như về việc
gạ hỏi cưới xin một cách rất hồn
nhiên thành thực, không một
vết mặc cảm tội
lỗi chi cả:
Gái
chưa chồng trông mong đi chợ
Trai
chưa vợ lơ lửng đứng đường
Cô
kia “ học triết ” một mình
Cho
tôi học với chung tình làm
đôi.
Cô
còn học nữa hay thôi?
Cho
anh học với làm đôi vợ chồng.
Cô
kia cắt cỏ bên sông
Có
muốn ăn nhãn thì lồng sang
đây
Sang
đây anh bấm cổ tay
Anh
hỏi câu này có lấy anh chăng
?
Ðôi
ta như thể con ong
Con
quấn con quýt con trong con ngoài.
Ðêm
khuya khêu ngọn đèn loan
Nhờ
chàng quân tử thở than mấy lời
Mong
chàng chẳng thấy chàng ơi
Thiếp
tôi trằn trọc vội dời chân ra.
Nhác
trông giăng đã xế tà
Ðêm
hôm khuya khoắt con gà đã
gáy sang canh
Mong
anh mà chẳng thấy anh
Thiếp
tôi buồn bã khêu quanh ngọn
đèn. Hởi cô
gánh nước quang mây
Cho
anh một gáo tưới cây ngô
đồng.
Em tham giầu lấy
thằng bé tỉ ti
Ðêm nằm sờ mó quẩn quanh
cho đỡ buồn
Nó
còn bé mọn đã nên cơm
cháo gì ! Thôi ! xin chấm
tròn, kể ra không bao giờ hết.
Vì câu
nào cũng hay, hay cái hồn
nhiên, vô tội, thành thực như
kiểu Kinh Thi, Quốc
phong, nhưng khác hơn ở chỗ không
bị giải nghĩa phản yêu đương, nên ca
dao có
một sức hút kỳ lạ, đã đọc
là hết muốn ngừng. 8.- Sinh hoá
Tuy
nhiên đó không phải
là cái sống để mà sống,
nhưng
sống để mà hoá mà vươn
lên tới đợt tâm linh: trút bỏ dần những cái
chật hẹp của cá thể. Và
vì thế mà vẫn không
chú ý
đến cá nhân mà chú
trọng nhiều tới điển hình, vì
điển hình là con đường nối
dài
của huyền sử.
Ở huyền sử là phạm vi sơ
nguyên tượng. Còn điển
hình là những sơ nguyên
tượng đã nhập thể nhiều hơn, mặc
dầu chưa đạt đợt cá thể. Thí dụ những nhân
vật trong Tam Quốc, Thuỷ Hử chỉ là những
điển hình, tức không có
ý như vậy
trong thực tại, mà ý chính
của Tam
Quốc
là nói lên tinh thần
phương Nam đánh ngụy Bắc. Thuỷ Hử
nói lên cuộc chống Vương
triều của dân gian. Còn
Ðông Chu Liệt
Quốc nói lên thời tan rã
của Việt Nho. . . , nên chỉ
còn những mảnh vụn,
những điển hình thoáng hiện
thoáng biến trong một vũ trụ đang vỡ lở. Xem dưới khía cạnh
đó chúng ta sẽ thấy mấy
sách cổ điển trên sáng
giá rất nhiều, chúng trở nên
một
thứ tài liệu vô thức đang cố ghi
lại cách phóng khoáng tất
cả dòng truyền thống
tâm linh của một Nhân chủ đang bị uy
hiếp. Về điểm đó thì sau
này chưa có sách
nào bì kịp. Vì
thế mà thải bỏ mấy sách cổ điển
là nghèo nàn hoá
Việt Nho, đánh mất mố cầu nối dân
gian không đi học với dân gian
có học.
Người đi học thì sôi Kinh
nấu Sử. Sôi Kinh là
Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu, Dịch. Nấu Sử
là Nam Sử, Tả truyện rồi Bắc Sử.
Còn dân
không đi học thì nghe kể chuyện
Ðông Chu, Tam Quốc hay Thuỷ Hử . . .
, kết quả
hai bên cùng thở chung một bầu
khí của sinh hoá. Dùng ngay đời sống
hàng ngày đầy cam go bất trắc, với
những thực tế phụ phàng để cố hiện thực
những điển hình tức là những mẫu
gần gũi hơn để từ đó tiến đến các
mẫu xa hơn
là những sơ nguyên tượng, để từ đấy
bước vào vòng tâm linh bất
khả ngôn, nên
cũng hết tượng, dầu la sơ nguyên. Nhờ
vậy
mà lịch sử Trung Quốc sống động hơn bất
cứ lịch sử
nước nào dầu là dân
vô học nhưng nhờ Tam
Quốc, Thuỷ Hử . . . , mà biết rõ
về Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, Tào
Tháo. . .
, cũng như thấm nhuần triết lý nhân
sinh của dân nước hơn đâu hết. ( Ước
mong
văn hoá nước nhà sản xuất được
những tác phẩm cân xứng ). Xem thế
đủ biết tính chất hợp thời của Việt
Nho, văn hoá
của Liên Hiệp Quốc đã khuyến
cáo văn chương nên chú
trọng sự làm đẹp đời sống
hơn là tô chuốt câu văn. Như thế
là
Tây Âu cũng đã bắt đầu nhận
ra văn hay không còn chỉ ở trong
những câu đẹp,
những ý tưởng ngộ nghỉnh nhưng
trên hết là nhằm tô thắm
đời người và đó là
ý
hướng nền tảng của Việt Nho. Nói thế
có thể gây ngạc nhiên cho
nhiều người là vì
Việt Nho coi như không hẳn nhằm như thế:
đó là vì nó đi theo
lối nhằm mà không
nhằm, không nhằm mà nhằm. Hay
nói phân
tích ra
ba yếu tố như trong quyển
Pensée Chinoise . P. VII:
*Một
là Việt Nho luôn hướng đến văn
hoá
*Ba là không đả
kích mà nói lên
cái toàn thể một cách
thứ lớp. Chính ba yếu tố
đó đưa đến tinh thần phục vụ đời sống
cách sâu xa. Vì
thế Việt Nho đã cố duy
trì đường lối của mình
xuyên qua bao cuộc lạc hướng trải
dài ra trong lịch sử.
Trong quyển Tinh Hoa Ngũ Ðiển chúng
tôi đã bàn đến 4 lần lạc
hướng và 4 lần trở
về nguồn gọi là phục cổ tức
là phục hồi
cái tinh thần thiết thực cụ thể của
Việt Nho. Hiện văn học cũng như
văn hoá nước nhà đang chạy theo
lối văn hoá du hí, trưởng giả,
quý tộc, vu nghiễn của Tây
Âu. Cần phải làm một
cuộc về nguồn nghiêm túc để văn
hoá cũng như giáo dục giúp
đắc lực vào cuộc
sống mạnh của dân tộc. Vì thế
chương sau sẽ bàn đến điển chương tiết
yếu đi
liền văn chương. Bởi vì việt văn
có đặc tính vắn thì
không phải vì nghèo
nàn
nhưng vân đề có thì giờ
làm, để cho hành đi với học, chứ
có học để mà học đâu . Vì thế
mà
sau Việt văn thì đến việc – văn, sau
Kinh Ðiển thì đến Ðiển Chương
tức bàn về
những biểu tượng đại tượng của một số
hành tung, thể chế . . . Tất cả những điển
chương của nền triết Việt đều nói
lên tinh thần thiết thực cụ thể của
nông nghiệp, cũng là tính
chất tổng hợp của
nó như được biểu lộ cách hiển
nhiên qua cái Đình,
cái Đàn bầu, cách Ẩm thực,
miếng Trầu. Còn Điển chương
cuối cùng có ien hệ tới Kinh Dịch
nên
chúng ta sẽ bàn trong chương về
sách Ước Gậy Thần.” ( 7): “
Các cổ thư đã
vạch ra một đời sống ở cõi trần như
sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để
lo cho gia đình, đây là
giai đoạn tiến sâu vào trần
thế, 25 năm sau nữa phải từ
bỏ việc đời để lo cho tâm linh,
đó là thời điểm quan trọng để
đi ngược lên,
hướng về tâm linh, và 25 năm
sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham
thiền, quán
tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người
Á châu thì 50 tuổi là
lúc từ bỏ vật
chất để hướng về tâm linh, nhưng người
Âu châu lại khác, họ ham
mê làm việc đến
độ mù quáng, cho đến già
vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho
bản
ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ
hưởng . Do đó, đa số mất quân
bình và khi chết
hay gặp các nghịch cảnh không tốt” ( Hamud
El
Sarim người Ai cập nhập
học trương Oxford năm 1856 và tốt
nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật
lý. Ông
là một pháp sư ẩn tu trong
núi, ít tiếp xức với bên
ngoài. Lời phát biểu
trên của
Hamud
qua cuộc nói chuyện về
“
cõi
Vô hình “ với Giáo sư Evans-Wentz).
( 8 ) :
|