Ngày 25
Tháng Năm năm 1965
ông quyết định cải tổ Nội các, thay thế một
số tổng trưởng nhưng phe giáo dân Thiên
Chúa giáo phản đối. Quốc trưởng Phan
Khắc Sửu cũng không đồng t́nh nên không phê
chuẩn.[2]
T́nh h́nh bế tắc kéo dài sang tháng 6 v́ bất
đồng giữa Quốc trưởng Phan
Khắc Sửu và thủ tướng Phan Huy Quát
không giải quyết được; chính phủ hoàn toàn
bị tê liệt.
Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975,
ông và gia đ́nh bị kẹt lại ở Việt Nam do
không kịp di tản. Ông không ra tŕnh diện
theo lệnh của chính quyền mới và sống trốn
tránh trong một thời gian ngắn. Trên đường
đi trốn, ông bị bắt giam cùng con trai út là
Phan Huy Anh và chết tại nhà giam Chí Ḥa v́
bệnh gan và không được cứu chữa kịp thời
ngày 27
tháng 4 năm 1979.
Tưởng niệm cựu
Thủ Tướng PHAN HUY QUÁT
nhân ngày giỗ thứ 29 - Ngày 27 tháng 4
Dương lịch
Nguyễn
Tú
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ
Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng
Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Pḥng, lần cuối cùng
giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Ḥa, vào năm
1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu
Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm
tuần báo Diễn Đàn, Sài g̣n, 1972.
Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản
bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa
đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí
Ḥa. Bài dưới đây do kư giả kỳ
cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người
đă sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày
tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Ḥa),
kể lại 'như một nén hương chiêu niệm chung.'
Di ảnh Cố Thủ Tướng
PHAN HUY QUÁT
Trong
thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất
nặng .Song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc
men do gia đ́nh tiếp tế không được nhận. Người
con trai út bị giam ở pḥng bên, có thuốc cho
bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông
không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên
bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27
Tháng Tư 1979.
Tang gia đă được phép để mang thi hài ra quàn
tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày
hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an
táng ngay, v́ ngày đó, 28 Tháng Tư 1979,
Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc tới Sài G̣n; Việt
Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết đến cái chết
bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam - có
thể ngó tới t́nh trạng giam cầm của hàng
trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người
nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy
Quát cũng như cái chết trong tù của ông - bên
cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức
văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.
* * * * *
Chí Ḥa, Sài G̣n Một ngày cuối Tháng
Tư 1979
Hôm nay đến lượt bốn
pḥng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED
được đi tắm, giặt. Mọi người
đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị,
cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi
mới được sối nước trên thân
thể hôi hám, ngứa ngáy
và ṿ vội quần áo đă tích trữ
kha khá mồ hôi, đất ghét, th́
trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi
chỉ được phép hưởng hai lần
mỗi tuần, ai mà không 'vui vẻ,
hồ hởi, phấn khởi' dù, trên lư
thuyết, thời gian tắm được quy
định 30 phút cứ bị cán bộ ăn
bớt, chỉ c̣n vỏn vẹn 15 phút. Cả bốn pḥng đă lần
lượt ra hành lang ngồi xổm sắp
hàng đợi cán bộ gác đến điểm
số. Lần đó, viện cớ bị cảm,
tôi xin phép ở lại trong
buồng. Tôi có mục đích riêng. Kiểm tra xong số người
ở lại mỗi buồng, cán bộ ra
hiệu cho mọi người đứng dậy,
tiến về phía cầu thang. Tiếng
guốc, tiếng dép khua trên cầu
thang, tiếng nói lao xao của
đoàn người xa dần rồi lắng
hẳn. Từ dưới sân đă bắt đầu
vọng lên tiếng sối nước ào ào,
tiếng nói oang oang, tiếng
cười khanh khách thỉnh thoảng
xen tiếng chửi thề thân mật,
tiếng sặc nước, tiếng rú khoái
trá của các bạn tù được làn
nước mát như nước lũ chẩy dồn
dập trên da. Hạnh phúc thật!
Buồng 5 chúng tôi ở đầu
dăy, sát với đầu cầu thang,
nơi đây đặt một cái bàn và một
cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ
tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi
đứng dậy, nh́n về phía đầu cầu
thang chỉ cách chừng ba thước
rồi quay người, đảo mắt suốt
dọc hành lang. Không có bóng
cán bộ. Căn pḥng vơi đi 58
người như rộng ra. Hơi nồng
của 60 mạng tù tích tụ từ suốt
ngày và đêm trước tự giải
phóng dần dần đem lại một cảm
giác thoáng khí hơn. Căn pḥng chỉ c̣n lại
hai người không đi tắm là tôi
và một người nữa đang nằm ở
hàng giữa, sát tường, trên
diện tích vỏn vẹn có 60 phân
tức 2/3 của một chiếc chiếu
hẹp. Đó là khoảng không gian
đă được chia rất đều cho 60 tù
nhân mà Việt Cộng đă cải cho
cái danh từ mỹ miều là 'trại
viên' Người đồng pḥng này
nằm, hai chân duỗi thẳng, hai
cánh tay gập lại trên bụng,
hai bàn chân chắp vào nhau,
mắt nhắm, vẻ mặt b́nh thản.
Ông bị bệnh đă hơn một tuần,
không thuốc men. Nước da mặt
đă chuyển sang màu tai tái
càng nổi bật với màu trắng của
cḥm râu và mái tóc. Bệnh nhân
nằm im, không cựa quậy, thân
h́nh như đă quen đóng khung
trong không gian 60 phân của
chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ
Phan Huy Quát đă từng là Tổng
trưởng nhiều lần, chức vụ cuối
cùng và cao nhất trong hoạt
động chính quyền của ông là
chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng
Ḥa vào Mùa Xuân 1965. Năm
1979 ông đă trên 70 tuổi. Tôi đảo mắt một lần nữa
suốt dọc hành lang, dơng tai
nghe ngóng. Vẫn không một bóng
người, không một tiếng động
khả nghi nào trên tầng gác
vắng lặng. Tôi bước vội tới
chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi
sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im,
mắt nhắm, không một phản ứng
nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có
người bên cạnh. Hơi thở yếu.
Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ
nhiều nhưng không bị xô lệch.
Đôi ống quần được kéo thẳng
tới cổ chân. Đôi tà áo được
khép gọn, ôm kín thân trên.
Cánh tay áo trùm tới tận cổ
tay. Chẳng phải v́ cuộc sống
tạm bợ trong tù rất nhiều hạn
chế khắc nghiệt cộng thêm lâm
bệnh nặng đă hơn một tuần -
một trường hợp bất cứ ai cũng
có thể buông thả, mặc cho thân
phận nổi trôi và có thể kém đi
nhiều, ít cảnh giác về cách
phục sức và tư thế - mà Bác Sĩ
Quát thiếu chững chạc. Và từ
cái chững chạc này như toát
lên một cái ǵ có vẻ nghịch lư
đến độ vừa đau đớn vừa dũng
mănh giữa thân phận con người
và hoàn cảnh. Tôi khẽ lên tiếng: - 'Anh Quát! Anh Quát!' Không một phản ứng của
bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay
bệnh nhân, hơi cao giọng: - 'Anh Quát! Anh Quát!' Vẫn không một phản ứng,
tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi
bệnh nhân. Hơi thở quá yếu.
Dưới sân, tiếng sối nước bắt
đầu thưa dần. Thời gian tắm
giặt sắp hết. Tôi không muốn
mục đích khai bệnh giả của tôi
bị lộ là cố ư ở lại buồng để
đích thân nói ít điều cho là
cần thiết với Bác Sĩ Quát và
cả với tôi nữa. Buồng 5 chúng tôi vẫn
được Việt Cộng coi là một
buồng 'phản động' nhất trong
số bốn buồng của lầu 1, khu ED
v́ chứa một cựu Thủ tướng, 3
cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan
cấp tá, một số ít dân sự 'đầu
chai đá, khó cải tạo, phần tử
rất xấu, mất dậy.' Một buồng
'ngụy nặng' nên được Việt Cộng
tận t́nh 'chiếu cố' trong sinh
hoạt hàng ngày. Ngoài ra, c̣n
phải kể tới một vài tên 'ăng
ten' tức chỉ điểm được cài
trong buồng.
Tóm lại, chúng tôi đều bị theo
dơi rất sát, rất chặt. Tôi
phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn
cánh tay bệnh nhân, cao giọng
thêm: 'Anh Quát! Anh Quát!' Bệnh nhân vẫn lặng im.
Phải làm thật gấp. Tôi xoay
nghiêng ḿnh, tỳ tay xuống
chiếu, ghé miệng sát tai Bác
Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: - 'Anh Quát! Anh Quát!
Nhận ra tôi không?'
Lần này đôi mi bệnh
nhân hơi động đậy rồi dướng
lên, hé mở. Tôi thoáng thấy
ḷng trắng mắt vàng khè. Chẳng
cần phải học ngành y mới biết
bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi
mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều
thào: - 'Anh Tú!' Tôi hơi yên tâm. Miệng
lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi
nói: - 'Anh mệt lắm phải
không?' Đầu bệnh nhân hơi gật
gật. Không hiểu lúc đó linh
cảm nào xui khiến, tôi cố rót
vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi
nghẹn: - 'Anh có nhắn ǵ về
gia đ́nh không?' Bệnh nhân cố gắng lắc
đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không c̣n
tiếng sối nước nữa. Có tiếng
các buồng trưởng dục anh em
tập hợp để điểm số lại trước
khi lên buồng. Chỉ c̣n độ hơn
một phút. May lắm th́ hai
phút. Tôi dồn dập bên tai Bác
Sĩ Quát: - 'Ai đặt bày, lừa bắt
anh? Ai phản anh? Thằng Liên
phải không? Nói đi! Nói đi!' Đôi môi bệnh nhân như
mấp máy. Tôi vội nhổm lên, ghé
sát tai tôi vào miệng bệnh
nhân. Một hơi thở kḥ khè,
theo sau là vài tiếng khô
khốc, nặng nhọc như cố trút ra
từ một chiếc bong bóng đă dẹp
hơi đến chín phần mười: - 'Thôi! Anh Tú ạ.' Tiếng guốc, dép, tiếng
cười, nói ồn ào đă bắt đầu từ
chân cầu thang. Tôi chưa chịu
buông: - 'Nói đi! Anh Quát!
Nói đi!' Một hơi thở một chút
gấp hơn, như làn hơi hắt vội
ra lần chót! - 'Thôi! Thôi! Bỏ đi!' Tiếng guốc, dép, tiếng
cười, nói ồn ào đă tới quá nửa
cầu thang. Tôi vội nhổm dậy,
bước nhanh về chiếu ḿnh, nằm
thẳng cẳng, vắt tay lên trán. Ngoài hành lang, các
bạn tù hối hả, xôn xao phơi
quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ
kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi
như một đội quân đă chọc được
pḥng tuyến địch, họ ùa vào
pḥng, đứng lố nhố nghẹt lối
đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu.
Căn pḥng như bị co hẹp lại.
Tiếng cười đùa thưa dần khi
tất cả đă về được chiếu ḿnh.
Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Đây
đó tiếng rít của vài cái điếu
thuốc lào nổi lên ṣng sọc.
Bây giờ th́ mọi người, sau
trận tắm thỏa thuê, đă ngả
lưng trên chiếu. Cả pḥng lặng
tiếng. Tôi ngồi dậy, hỏi vọng
qua hàng chiếu giữa, phía sát
tường: 'Anh Châm! Anh coi lại
xem anh Quát bệnh t́nh hôm nay
ra sao?' Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu
Tổng trưởng Thông tin, Chiêu
hồi và Cựu chiến sĩ, có phần
chiếu liền bên Bác Sĩ Quát.
Ông Châm quay về phía Bác Sĩ
Quát, tư thế nằm vẫn y như
trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm
ĩ vừa qua của căn pḥng không
làm Bác Sĩ Quát động đậy chút
nào. Cái ǵ đă như làm tê liệt
bộ phận giây thần kinh điều
khiển nguồn năng ư chí con
người đến nỗi Bác Sĩ Quát
không phản ứng ǵ, hay không
c̣n muốn phản ứng ǵ dù chỉ là
một phác họa - trước cảnh
huống bên ngoài? Một h́nh ảnh
buồn thảm lóe lên trong tưởng
tượng; nếu không phải là mùa
oi bức th́ một tấm nền mỏng
đắp lên người dong dỏng và gầy
guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ
để đóng vai tṛ một tấm khăn
liệm. Bác Sĩ Châm hướng về
phía tôi, lắc đầu. Tôi lên
tiếng với buồng trưởng: - 'Anh Phương! Báo cáo
cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi
bệnh xá chứ!' Phương là hạ sĩ quan
binh chủng nhẩy dù, tuổi
khoảng 30. Tuy c̣n trẻ, tóc
Phương đă trắng xóa, có lẽ v́
'xấu máu.' Anh em bèn dán cho
cái nhăn hiệu 'Phương đầu
bạc.' Phương lặng thinh, coi
bộ ngần ngại. Nói cho ngay
suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ
Quát lâm bệnh Phương đă mấy
lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ
Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị
từ chối.
Tôi quay về phía Bác Sĩ
Châm: - 'Anh Châm! Nói cho
Phương biết bệnh trạng của Bác
Sĩ Quát đi!' Ông Châm bèn bảo: - 'Anh Phương! Báo cáo
cán bộ ngay đi!' Phương không đáp, lộ rơ
vẻ ngần ngại. Trong pḥng bỗng nhao
nhao nhiều giọng thúc giục,
gay gắt: - 'Báo cáo đi! Chờ ǵ
nữa? Bệnh như vậy mà không đi
báo cáo, c̣n chờ ǵ nữa? Chờ
người ta chết à?' Căn pḥng đang im ắng,
sống động hẳn lên. Nhiều bạn đang nằm,
nhóm người nh́n về phía
Phương. Đang cởi trần, Phương
uể oải đứng dậy, bận áo, ra
khỏi pḥng, đi về phía đầu cầu
thang. Một lát khá lâu, cán bộ
gác tới, có Phương theo sau.
Anh chàng cán bộ, mặt hơi
khinh khỉnh, từ bên ngoài song
sắt cộc lốc hỏi vọng: - 'Đâu?' Bác Sĩ Châm nhích người
qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ
Quát: - 'Đây, cán bộ!' Nh́n một lát, cán bộ
quay lưng, Phương lẳng lặng về
chiếu ḿnh. Những anh em khác
lại đặt ḿnh nằm. Căn pḥng
ch́m trong im lặng hoàn toàn
như thể hồi hộp chờ đợi một
phán quyết sinh tử của trại. Chừng 20 hay 30 phút
sau, có tiếng lao xao ở đầu
cầu thang. Hai bạn tù được làm
ở bệnh xá, đem một băng ca tới
cùng với cán bộ gác và một cán
bộ khác, chắc là ở bệnh xá.
Căn pḥng lại náo động. Mọi
người đều ngồi dậy hoặc đứng
lên phần chiếu của ḿnh. Phương 'đầu bạc' dẫn
hai anh mang băng ca đến chỗ
Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê
man, tự ḿnh không ngồi dậy
được. Bốn anh em khỏe mạnh
trong pḥng xúm nhau nâng bệnh
nhân đặt trên băng ca. Trong
lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét
vào một túi nhỏ vài đồ cần
thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và
bàn chải đánh răng, vài đồ
lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa,
muỗng, chén... Băng ca được
khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm,
mắt nhắm, không một phản ứng.
Dưới sân, một tiếng kêu lớn!
'Lấy cơm!' Căn pḥng trở lại
cuộc sống đơn điệu hàng ngày
của một trại tù. Lúc đó khoảng
10 giờ rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở
về, anh em th́ thầm rỉ tai
nhau: - 'Bác Sĩ Quát chết
rồi!' Cả pḥng nhao nhao: - 'Hồi nào? Hồi nào?
Chết mau quá vậy?' Một anh đáp: - 'Nghe nói, hồi trưa
hôm qua th́ phải.' Chỉ một lát cáo phó
miệng của các bạn tù đi lấy
cơm đă lan truyền khắp khu ED.
Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào
hơn thường lệ. Có ai trong pḥng thốt
một câu: - 'Bệnh như vậy, suốt
hơn một tuần xin đi bệnh xá,
không cho. Đợi gần chết mới
cho th́ c̣n ǵ!' Một điếu văn ngắn, gọn,
hàm súc cho một bạn tù đă nằm
xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm
xúc lên án chế độ bất nhân, ác
nghiệt của Cộng Sản. Căn pḥng
gần như lặng đi. Không bao lâu
sau bữa cơm, cán bộ gác tới,
bảo buồng trưởng thu dọn đồ
của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng,
hắn c̣n nói với: - 'Nhớ làm bản kê khai,
nghe không!' Đối với tù nhân, đó là
lời công nhận chính thức cái
chết của bất cứ 'trại viên'
nào.
Lần này, là cái chết
của một vị cựu thủ tướng. Manh chiếu của Bác Sĩ
Quát đă được gỡ đi theo giỏ đồ
c̣n lại của ông xuống văn
pḥng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ
ra phần sân xi măng đă xỉn đen
thời gian, mồ hôi, đau khổ và
uất ức dồn nén của hàng hàng
lớp lớp thế hệ tù chính trị mà
ông đă là một trong biết bao
người kế tiếp bất tận. Trí
tưởng tượng của ta có mặc sức
tung hoành sáng tác biết bao
nhiêu chuyện về trại tù và
thân phận tù nhân dưới chế độ
Cộng Sản, th́ mảnh không gian
xi măng đen kia thầm lặng mà
hùng hồn nói lên c̣n hơn thế
nữa. Những ngày kế tiếp, cái
chết tức tưởi mang nhiều vẻ
không rơ ràng của Bác Sĩ Quát
c̣n là đề tài bàn tán của
nhiều người trong pḥng được
tóm gọn trong hai chữ 'nghi
vấn.' Nhiều người cho rằng nếu
được đi bệnh viện sớm hơn,
hoặc nếu không, mà được phép
biên thư về nhà để thân nhân
kịp thời gửi thuốc th́ có thể
Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông
nỗi đó.
Năm 1979 vẫn c̣n nằm
trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi
là 'rất căng.' Cuộc cưỡng
chiếm miền Nam Việt Nam, nếu
xuôi xẻ về mặt quân sự, th́ về
mặt dân t́nh và chính trị lại
chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều
nơi đă nổi lên những phong
trào chống đối vũ trang làm
cho Việt Cộng vô cùng lo lắng
trong việc ước lượng tầm cỡ
của mỗi phong trào để liệu cơ
đối phó. Ngay tại Sài g̣n, năm
1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa
đầy một năm sau 'đại thắng Mùa
Xuân' của Việt Cộng đă làm
chúng thất điên bát đảo và mặc
dù những người chủ trương và
lănh đạo vụ Vinh Sơn cùng với
một số chiến hữu đă bị Việt
Cộng thẳng tay đàn áp và thanh
toán, dư âm và ảnh hưởng của
vụ ấy vẫn c̣n kéo dài măi tới
1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc
chiến với Trung Cộng Mùa
Xuân 1979 ở miền Bắc và
cuộc chiến với Căm Bốt ở miền
Nam khởi sự từ 1978. Do đó
Việt Cộng càng siết chặt
kỷ luật đối với tù chính trị.
Tuy không có bằng chứng rơ
ràng, nhiều người trong
pḥng có cảm giác 'ăng
ten,' tức chỉ điểm viên, đă
được tăng cường. Cuộc sống tiếp tục
trong bầu không khí càng ngày
càng ngột ngạt. Việt Cộng 'dư'
lư lẽ để đối xử với tù nhân
tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn.
Bác Sĩ Quát đă lâm bệnh trong
hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con
trai út của ông là Phan Huy
Anh bị bắt cùng với ông ngày
16 Tháng Tám 1975 không được ở
chung cùng buồng, mà bị giam ở
buồng 6 sát bên. Hai cha con
chỉ trông thấy nhau những lần
đi tắm, tức hai lần một tuần.
Khi tắm cũng không được liên
hệ với nhau. Huy Anh dù có
muốn giúp bố giặt quần áo hay
một vài việc vặt vănh cũng
không bao giờ được phép. C̣n
nói chuyện với nhau th́ tuyệt
đối cấm. Nếu bị bắt quả tang
hay có người tố cáo, hai cha
con sẽ bị cúp viết thư về nhà
với hậu quả kèm theo là bị cúp
thăm nuôi. Ấy là chưa kể có
thể bị kỷ luật đưa đi biệt
giam. Việc thăm nuôi của gia
đ́nh cũng tách rời, riêng
biệt: không bao giờ hai cha
con được thăm nuôi, gặp gỡ
thân nhân cùng một lúc, cùng
một ngày. Hai cha con sống sát
buồng nhau mà c̣n hơn hai kẻ
lạ. Hai kẻ lạ c̣n có thể xin
phép trao đổi với nhau chút
quà, nói với nhau dăm ba câu.
Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn
luôn bị từ chối và bị theo dơi
kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh,
Huy Anh nhiều lần xin phép qua
thăm và đem thuốc cũng không
được. Chỉ tới phiên đi lănh
cơm, Huy Anh mới được bước ra
khỏi buồng. Những lúc đó tôi
thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bă
của Huy Anh kín đáo nh́n qua
song sắt tới chỗ bố đang nằm
lịm. Tôi c̣n nhớ hai ngày
trước khi Bác Sĩ Quát được đưa
đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho
phép Huy Anh đem thuốc cho bố,
sau không biết bao nhiêu lần
năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép
đứng ngoài cửa nh́n vọng vào.
Thuốc th́ do buồng trưởng nhận
đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến
quá muộn, dù chỉ là thứ
thuốc thông thường trị bệnh
gan. Lần 'nh́n thăm' thầm lặng
được phép công khai đó
dài không quá hai phút. Và đó
cũng là lần chót Huy Anh được
chính thức nh́n bố qua
chiều dài gần 8 thước
của căn buồng dưới đôi mắt cú
vọ của cán bộ gác ngồi phía
đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được
khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng
không được phép ra khỏi buồng
dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi
và nh́n bố nằm thoi thóp trên
chiếc băng ca. Một ngày sau
khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh
được trại cho phép về thọ tang
bố. Nhiều người trong chúng
tôi hi vọng sẽ có tin thêm về
tang lễ và nhất là về cái chết
quá đột ngột của Bác Sĩ Quát
khi Huy Anh trở lại trại. Thói
quen giấu diếm, bưng bít đă
trở thành một thứ siêu vi
trùng trong máu của Việt Cộng,
thế nên khi Huy Anh trở về,
chúng tôi chẳng biết tin ǵ
thêm ngoài việc tang lễ đă
xong xuôi. Sau này có tin là
Huy Anh sẽ được thả nếu 'thật
tâm cải tạo tốt.' Có nghĩa là
không được tiết lộ bất cứ điều
ǵ liên quan đến cái chết, đến
tang lễ của bố, đến bất cứ
những ǵ Huy Anh đă nh́n được,
nghe được ở xă hội Sài G̣n bên
ngoài trong thời gian được về
nhà. Phải thừa nhận Việt
Cộng rất 'siêu' về thủ đoạn
dọa nạt, nhất là đối với những
ai đang bị gọng ḱm của chúng
siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đă
chết, không c̣n là một mối lo
chính trị đối với Việt Cộng,
do vậy không c̣n cần
thiết giữ Huy Anh làm con tin
để đe dọa, đầy đọa tinh thần
ông bố nữa, cũng phải đợi
đến cuối năm 1979, Huy
Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940,
Bác Sĩ Phan Huy Quát đă được
nhiều người ở Hà Nội biết
tiếng là một lương y. Bệnh
nhân của ông, cả Việt lẫn
Pháp, rất tín nhiệm ông v́ tư
cách đứng đắn và lương tâm
nghề nghiệp rất cao của ông.
Ngay cả một số người Pháp đă
chọn ông làm bác sĩ gia đ́nh
của họ, một trường hợp rất
hiếm trong y giới người Việt
thời ấy. Một đề tài nghiên cứu
y học của ông có liên quan đến
bệnh đau mắt của Hoàng Đế Bảo
Đại thời đó đă được tặng giải
thưởng đặc biệt của Hoàng Đế.
Cuộc đời chính trị của ông chỉ
thực sự bắt đầu sau khi cựu
Hoàng Bảo Đại đă kư hiệp ước
Vịnh Hạ Long với Cao ủy
Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng
Ba 1949. Trong chính phủ đầu
tiên của quốc gia Việt Nam do
cựu Hoàng Bảo Đại lănh đạo,
Bác Sĩ Quát tham chính với tư
cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia
Giáo Dục. Sau đó ông được bổ
nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng
Quốc Pḥng. Từ giữa năm 1953
trở đi, t́nh h́nh cuộc chiến
với Việt Minh ở miền Bắc
Việt Nam ngày càng tồi tệ.
Thất trận của Pháp ngày 07
Tháng Năm 1954 ở Điện Biên
Phủ mở màn cho Hội Nghị
Genève về Đông Dương với hậu
quả là Việt Nam bị chia đôi ở
vĩ tuyến 17 do Hiệp Định Genève được kư kết giữa
Pháp và Việt Minh ngày 20
Tháng Bảy 1954. Ở Pháp, Quốc
Trưởng Bảo Đại phong ông
Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng.
Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm
về nước. Được ủy toàn quyền
lănh đạo Việt
Nam, ông Diệm thành lập nội
các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ
Quốc Pḥng.
Bác Sĩ Quát trở lại
nghề cũ, mở một pḥng mạch ở
Dakao gần đầu cầu Phan Thanh
Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm
quyền, Bác Sĩ Quát không tham
chính: ông khó có thể thuận
với Tổng Thống Diệm về lề lối
làm việc quá quan liêu, hống
hách và độc đoán của gia đ́nh
họ Ngô. Thêm nữa ông là một
thành viên trong nhóm
Caravelle đă công khai đưa ra
bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đ̣i
chính quyền Diệm thực hiện tự
do, dân chủ. Cuộc đảo chính
ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số
tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa
lănh đạo chấm dứt chế độ Ngô
Đ́nh Diệm theo liền cái
chết bi thảm của vị tổng thống
và hai em ông là Ngô Đ́nh Nhu
và Ngô Đ́nh Cẩn. Đại
Tướng Dương Văn Minh và Thủ
Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm
quyền mới được ba tháng th́ bị
Tướng
Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II
chiến thuật, chỉnh lư ngày 30
Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát
được mời
làm Tổng Trưởng Ngoại Giao.
Ông ở chức vụ này tới khoảng
Tháng Chín, 1964 rồi lại trở
về pḥng mạch.
Cuộc đời chính trị của
ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng
khi, vào giữa Tháng Hai năm
1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh
triệu mời thành lập nội các
mới. Giữ chức thủ tướng được
khoảng ba tháng th́ ông trao
quyền lại cho Hội Đồng Quân
Lực v́ những mâu thuẫn khó bề
giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng
Phan Khắc Sửu. Ông lui về,
trực tiếp điều khiển pḥng thí
nghiệm y khoa của ông ở đường
Hai Bà Trưng. Hoạt động chính
trị của ông thu hẹp lại trong
khuôn khổ của Liên Minh Á Châu
Chống Cộng mà ông là chủ tịch
phân hội Việt Nam cho tới ngày
Sài G̣n thất thủ 30 Tháng Tư
1975.
Nhưng ngày kết liễu nền
Đệ Nhị Cộng Ḥa chưa phải là
ngày chấm dứt hoạt động của
Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa
hoạt động ấy sang một hướng
khác, hoàn toàn xa lạ với con
người vốn dĩ trong bao năm đă
quen và chỉ quen hoạt động
chính trị theo lối 'chính
quy,' trong 'đường lối chính quy.' Và con
người thận trọng trong ông đă
lao vào một trận địa mà trước
kia ông chưa từng một
lần lưu tâm và nghiên cứu địa
h́nh phức tạp, hết sức bất
thường do vậy cũng hết sức bất
ngờ: địa h́nh của trận địa
hoạt động bí mật, mà v́ tính
chất của riêng nó, đ̣i hỏi một
cách suy nghĩ khác, một thứ
thông minh khác, một
loại bén nhạy khác, thậm chí
đến cái can đảm trong hoạt
động bí mật cũng phải là cái
can đảm khác. Vị cựu thủ
tướng, tự thân, chưa được
chuẩn bị kỹ càng cho h́nh thái
hoạt động bí mật nó có những
điều luật, những nguyên tắc
đặc thù của riêng nó. Điều này
cũng dễ hiểu: ông chưa từng
thấy có nhu cầu đó. Hoạt
động chính trị của ông từ
trước không cần đ̣i hỏi ông có
những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh
đất nước rối bời đang diễn
tiến trước mắt, ông đă chọn
dấn thân vào con đường mới mẻ
này. Một quyết định dũng cảm
của một con người ngày ấy đă
gần 70 tuổi, và chắc chắn
không phải là một quyết định
dễ dàng.
Sau ngày Sai gon thất
thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ
Phan Huy Quát không đáp 'lời
mời' ra tŕnh diện của Việt
Cộng được phổ biến trên đài
phát thanh, truyền h́nh và báo
chí của chúng cho tất cả 'ngụy quân,
ngụy quyền'. Liền sau khi cộng
quân ào ạt tuôn vào Saigon từ
hai hướng Bắc và Nam ngày 30
Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đă
dời tư thất ở đường Hiền Vương
và bắt đầu cuộc đời 'du mục'
trong Saigon, quyết không để
cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba
ngày các con ông thay phiên nhau dẫn
ông đi thay đổi chỗ trú ngụ.
Sau gần ba tháng trốn tránh
như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi.
Các con ông khuyên ông trốn
'trụ' hẳn một nơi. Ông nhượng
bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm
khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đă sống ở
Saigon sau ngày 30 Tháng Tư
1975 chắc khó quên cái không
khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao
trùm khắp nơi, khắp chốn của
cái thành phố hơn ba triệu
người này hầu như ngày nào cũng
hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường
phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài v́
chiến tranh đă chấm dứt không
che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm
ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ
định đoạt số phận của Saigon
như thế nào? Thái độ nào tốt
nhất để đối phó với kẻ chiến
thắng đang huênh hoang, ngạo mạn?
Tùy hoàn cảnh và cương vị
riêng của mỗi cá nhân, người
th́ chọn lối âm thần sống ẩn, người
th́ mặc, muốn ra sao th́ ra,
cứ sống 'tự nhiên cái đă'.
Nhưng đại đa số th́ tính chuyện trốn
khỏi Việt Nam bằng đường biển
sau khi Mỹ đă vĩnh viễn phủi
tay. Một số khác th́ tính chuyện
tiếp tục tranh đấu chống Cộng.
Đă manh nha những sự thăm ḍ,
móc nối nhau, t́m ngơ ngách
trong hai lănh vực chính yếu:
thứ nhất vượt biên, thứ nh́
chống Cộng. Hai lănh vực này tưởng
là hoàn toàn riêng biệt, trái
lại, thường xoắn vào nhau khá
chặt, bởi lẽ nhiều khi t́m đường
vượt biển lại dẫn đến mối
chống Cộng, t́m đường chống
Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ
ai chọn dấn thân vào một trong
hai lănh vực này đều bị lôi
cuốn vào cái ṿng luẩn quẩn lưỡng
nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ
Quát không ngờ sẽ rơi vào
chính cảnh huống ấy. Trong thâm
tâm, ông không muốn bỏ chạy:
ông vốn nặng t́nh quê hương.
Nhưng gia đ́nh ông 14 người, mặc
nhiên là một áp lực tinh thần,
thầm lặng đấy, nhưng đáng kể,
buộc ông không thể không nghĩ
đến sự an toàn cho vợ, con,
dâu, rể và các cháu nội ngoại,
nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt
biên. Ngoài t́nh quê hương ông
cũng nặng t́nh gia đ́nh không
kém. Thực ra, khoảng một
tuần trước ngày 30 Tháng Tư
1975 lịch sử, chính phủ Trung
Hoa Dân Quốc đă ra lệnh cho ông
Đại sứ của ḿnh ở Saigon nhân
danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát
qua Đài Bắc trú ngụ nếu như
phía Mỹ chưa lo liệu cho bác
sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa
quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và
nói sẽ liên lạc sau. Về phía
Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát
c̣n ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975
đă liên lạc với ông, hứa đưa
hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát
trả lời không thể nhận sự giúp
đỡ quư hóa ấy nếu tất cả gia
đ́nh ông gồm 14 người không
được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại,
nhưng rồi cũng thuận ư muốn
của Bác Sĩ Quát và cho ông một
điểm hẹn. Điểm hẹn này sau
bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng
Tư 1975, t́nh h́nh căng thẳng
tột độ, chính phủ Dương Văn
Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ
phải triệt thoái toàn bộ nhân
viên D.A.O. tức bộ phận tùy
viên Quốc Pḥng của Mỹ trong
thời hạn 24 tiếng đồng hồ.
Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị
tắc nghẽn. Chuyến trực thăng
cuối cùng chở người Việt tị
nạn không có Bác Sĩ Quát và
gia đ́nh.
Như đă nói, ông nặng
t́nh gia đ́nh, không muốn gia
đ́nh bị khổ trong ṿng ḱm kẹp
của Cộng Sản và muốn gia đ́nh
sống một nơi an toàn. Đồng
thời ông cũng không muốn làm
'kẻ bỏ chạy' v́ ông cũng rất nặng
t́nh quê hương, đất nước. Ông
muốn, nếu đi th́ cả nhà cùng
đi. Nếu ở lại th́ cả nhà cùng ở lại.
Nhưng sau hai lần lỡ dịp di
tản gia đ́nh, Bác Sĩ Quát ư
thức rất rơ hai mối t́nh song hành kia,
t́nh gia đ́nh và t́nh quê
hương, đất nước, khó mà dung
được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và
ông đă chọn. Ông bằng ḷng cho con
trai út Phan Huy Anh đi thăm
ḍ đường lối. Do một người bạn
của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ
Quát thuận gặp một người tên
Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng
là một thành viên quan trọng
của một tổ chức chống Cộng
nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với
Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ
chức và nơi tổ chức có thể
giúp gia đ́nh ông vượt biên.
Bác Sĩ Quát đồng ư về đề nghị thứ hai
của Liên. C̣n về đề nghị gia
nhập tổ chức, ông nói sẽ có
quyết định sau khi gặp người đại diện
có thẩm quyền của tổ chức. Đôi
bên đồng thuận. Gia đ́nh Bác
Sĩ Quát gồm bà Quát, các con,
cháu hơn mười người được dẫn
đi trước xuống Cần Thơ, ở lại
đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi
tiếp, dọc đường bị chận lại,
đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà
biết là đă bị mắc lừa. Một tuần
sau bị giải về trại giam Chí
Ḥa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi
đă cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị
biệt giam, điều kiện sinh hoạt
rất khắc nghiệt. Do con, cháu
bà năn nỉ măi, Việt Cộng cho phép một
cháu ngoại gái của bà mới 12
tuổi qua ở biệt giam để chăm
sóc bà. Được mấy tháng, v́ t́nh
trạng sức khỏe ngày càng xấu
đi, bà Quát được đưa ra ở
pḥng tập thể với các con cháu.
Được hơn một năm, có lẽ v́ xét
thấy gia đ́nh bà Quát đại đa
số là giới nữ và khai thác cũng không
thêm được ǵ, Việt Cộng bèn
thả hết. Riêng người con rể
c̣n bị giữ lại, đưa đi trại cải
tạo Hàm Tân, gần mười năm sau
mới được thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và
con trai út của ông là Huy Anh
th́ được tên Liên đưa đi tạm
trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ
Lớn. Hai ngày sau, theo kế
hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ
Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi
xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng
vẻ thuộc tỉnh Biên Ḥa th́ đă
có một xe ô-tô khác đậu bên
đường, nắp ca pô mở sẵn theo
mật hiệu đă quy định. Xe chở
Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một
toán người đi tới, vây quanh
xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ
Quát biết ḿnh bị lừa. Ông và Huy
Anh được giải về Bộ Tư lệnh
Cảnh Sát, đường Vơ Tánh,
Saigon. Hôm đó là
ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi
đầu cuộc thử thách chót trong
đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc
thử thách không giống bất cứ
một thử thách nào ông đă đương
đầu trước kia. Một cuộc thử
thách mà chủ đích của
Việt Cộng nhằm hạ nhục con
người chỉ chấm dứt sau khi vị
cựu Thủ tướng đă vận tất cả
năng lượng vật chất và tinh
thần ném hết vào cuộc đấu
tranh cuối cùng của ông, lần
này mới thực là mặt đối mặt
với quân thù với không biết
bao nhiêu căng thẳng, gay go
về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh
riêng lẻ mà ông chưa
từng có một ư niệm và không
bao giờ ngờ có ngày phải tiến
hành trong đơn độc, đă kết
thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư
1979, đúng ba hôm trước ngày
Kỷ niệm Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy
Quát đă vĩnh viễn nằm xuống
sau ba năm, tám tháng đấu
tranh không nhượng bộ trong
gọng ḱm Việt Cộng. Ngày 30
Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch:
1978) Gần một tháng
trước Tết Mậu Ngọ tôi bị
chuyển về pḥng 1, gác 1, khu
BC. Ba pḥng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng
pḥng 1 có 'khách hàng'. Bác
Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở
đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới
lỏng, mọi người được đi lại
thăm bạn bè ở các pḥng khác,
gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ
Quát và tôi không ra khỏi gác
1. Chúng tôi thường đi bộ dọc
hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ
Quát bắt nhịp đi theo tiếng
chống nạng của tôi lúc đó chân
bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp
hiếm có để có thể nói với nhau
nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ư
hay soi mói quá đáng. 'Ăng ten'
cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ
Quát đă tóm lược cho tôi nghe
cuộc 'phiêu lưu' của ông và
gia đ́nh. Tôi có hỏi ông về
thời gian ông giữ tại Bộ Tư
lệnh Cảnh sát, đường Vơ Tánh.
Ông kể: 'Chúng bắt tôi viết bản
tự khai tất cả những ǵ tôi
làm khi tôi giữ chức Thủ
tướng. Bản viết của tôi không dài quá một
trang tôi viết vắn tắt là
trong thời gian tôi ở cương vị
Thủ tướng, tôi lănh đạo việc nước, tôi chỉ
đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất
cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất,
đến cao nhất gần gũi với Thủ
tướng ở mọi ngành quân, dân,
chính đều làm việc theo chỉ
thị và mệnh lệnh của tôi. Một ḿnh
tôi trách nhiệm. Chúng không
bằng ḷng, bắt tôi viết lại.
Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy
đến hơn một tháng, gần hai
tháng. Chúng bèn chuyển sang
thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới
vắn tắt: Tôi trách nhiệm.
Chúng đủ tṛ áp lực như anh
biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi
nhận viết. Vả lại, thú thực
lúc đó nhịp tim đập của tôi
loạn xạ đă nhiều ngày, và tôi không có
thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy
chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết
được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu
một số nhận định về thời cuộc,
đưa ra một số đề nghị kiến
thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề
tên người nhận văn bản của tôi
là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch
Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Chúng bắt tôi xóa, chỉ được
viết là bản tự khai. Tôi không
chịu. Sau cùng chúng cũng nhận
tập viết của tôi.'
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát:
'Anh có tin là chúng chuyển
tập viết của anh tới Nguyễn
Hữu Thọ không? Tôi ngờ lắm. Ông đáp.
Nhưng không sao. Tôi mượn cớ
đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm
bảo chúng rằng tôi không
biết tới Hà Nội trong khi tất
cả chúng ta đều rơ là Nguyễn
Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng
Miền Nam chỉ là công cụ của Hà
Nội và Hà Nội thừa biết điều
đó hơn ai hết.' Tôi bật cười,
Bác Sĩ Quát cũng cười theo.
Chúng tôi hiểu nhau. Trong
buồng có một vài bạn tù đứng
đắn, chúng tôi có thể nói
chuyện thẳng thắn, cởi mở,
không nghi ngại. Tôi nhớ một
lần, vẫn trong dịp Tết Mậu
Ngọ, chúng tôi năm người đứng
nói chuyện gần ở một góc hành
lang, câu chuyện loanh quanh
thế nào mà dẫn đến việc một
bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một
vài cộng sự viên thân cận nhất
của ông mà ông thật tâm tác
thành cho:
- 'Có thật hay không,
tiếng đồn có người đá ngầm anh
khi có dấu hiệu anh trên đà
xuống dốc?' Bác Sĩ Quát mỉm cười,
trả lời, giọng b́nh thản: - 'Tôi đă có nhiều dịp
gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh
thời cụ. Tôi nhớ măi một lời
cụ dậy: sống ở đời phải cho nó
chững. Tôi thường kể lại cho
các con, cháu trong nhà nghe
lời của cụ Trần, kẻo uổng.'
Câu nói của Bác Sĩ Quát
không trả lời thẳng vào câu
hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ
như mấy bạn biết thưởng thức
câu trả lời đó v́ họ cười ha
hả. Sau Tết, chúng tôi bị
chuyển sang pḥng 5, gác 1,
khu ED. Được vài hôm, pḥng
nhận thêm một tù nhân từ biệt
giam qua. Người này, khi nhận
thấy Bác Sĩ Quát th́ tỏ vẻ
lúng túng, ngượng ngập.. Có
chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc
Liên, người mời chèo Bác Sĩ
Quát vào khu để rồi rơi vào
bẫy sập ở Biên Ḥa. Trong
pḥng ngoài Bác Sĩ Quát và
tôi, không một ai khác biết
mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát
và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất
tự nhiên, không tỏ vẻ ǵ khó
chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng
tôi cũng không để lộ cho tên
Liên rơ là tôi biết chuyện của
hắn. Cuộc sống ở Chí Ḥa đơn
điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày
khác, mọi người như chết đi
trên 2/3 manh chiếu của ḿnh.
Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ
Quát thốt lên dù chỉ nửa lời
than van về số phận của ḿnh
hay của gia đ́nh về sự mất mát tài
sản mà Việt Cộng đă tịch thu
toàn bộ chỉ để lại cho ông hai
bàn tay trắng. Ông sống lặng
lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều
lần, cán bộ Việt cộng cố ư
công khai làm nhục ông trước mặt mọi
người. Ông giữ im lặng, cái im
lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy
ở ông một vẻ ǵ kiêu kỳ, của
một người đă từng giữ những
chức vụ cao sang trong chính
quyền cũ. Ông biết ḥa ḿnh một
cách đúng mức. Với anh em cùng
cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên
bảo vệ tư thế riêng của ông
bằng một khoảng cách mà chẳng
ai dám nghĩ muốn vượt qua.
Ngay đối với tên Liên mà nhiều
yếu tố trong vụ Biên Ḥa đủ để
được xứng đáng nhăn hiệu
'tên phản bội, tên lừa bịp',
ông vẫn giữ được cách lịch sự
bao dung buộc kẻ kia tự ḿnh phải có
thái độ ăn năn, kính cẩn đối
với ông. Thế nên tôi rất hiểu
tâm địa ông khi ông thều thào:
'Thôi! Bỏ đi!' để trả lời câu
hỏi dồn ông về tên Liên bên
chiếu bệnh. Ông biết v́ ông mà
vợ, con, cháu ông đang dũng
cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu
thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội
gái của ông, con gái đầu ḷng
của Huy Anh, mới ba tháng đă
'được' Việt cộng bỏ tù v́ bố mẹ và
đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt
Cộng chưa bẻ găy được ư chí
đối kháng thầm lặng của ông
th́ gia đ́nh ông, đa số là phụ
nữ và con nít vần là những con
tin hữu hiệu trong tay Việt
Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy
đọa tinh thần ông, nghiền nát
những ǵ là nhân tính trong
ông, buộc ông phải thốt lên một lời
quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đă
đứng được đầu gió. V́ ông đă cứng.
***
Tôi thường nghĩ, trong suốt
cuộc đời tham chính, thành tựu
của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ư nghĩa lớn lao nhất, có
ích cho quốc dân nhất, do đó
quan trọng vào bậc nhất v́
trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến
tiền đồ tổ quốc, là ông đă
giành được chủ quyền cho ngành
giáo dục Việt Nam, khi ông được
Cựu Quốc Trưởng Bảo Đại phong
ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo
Dục trong chính phủ đầu
tiên của Quốc gia Việt Nam mới
được Pháp thừa nhận nền độc
lập. Do ḷng trí kiên nhẫn,
thái độ khéo léo, mềm dẻo
nhưng không thiếu cương quyết
trong thương thảo rất khó khăn,
nhiều khi đến độ rất căng
thẳng với phái đoàn Pháp mà
một số thành viên lại là thầy học cũ của ông
ở Đại học Y khoa Hà Nội. Ông
đă thuyết phục được phía Pháp
trao trả Việt Nam trọn quyền của
ngành giáo dục. Ông đă đặt nền
móng vững chắc cho việc dùng
Việt ngữ là ngôn ngữ chính
trong mọi giáo tŕnh, mở đầu
kỷ nguyên cải cách giáo dục
toàn diện từ tiểu học, qua trung
học, lên tới đại học và trên
đại học mang tính chất hoàn
toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và
nguyên tắc đó không một ai,
sau ông, có thể thay đổi được.
Pháp ngữ đă lui xuống thứ hạng như bất
cứ sinh ngữ nào khác được
giảng dậy trong mọi cấp học
tŕnh. Thành quả tranh đấu gay go
trong thầm lặng nhưng thật rực
rỡ của ông với Phái đoàn Pháp
và công cuộc tiến hành cải cách
giáo dục của ông đă được báo
chí thời đó xưng tụng và mệnh
danh một cách rất xứng đáng
là 'Kế hoạch giáo dục Phan Huy
Quát.' Tên tuổi ông đă gắn
liền với tương lai của biết bao
thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu
niên trong lănh vực giáo dục
nó là ch́a khóa của tiến bộ văn minh và
phát triển văn hóa cho đất
nước, cho dân tộc. Thành công nào có thể
đẹp hơn, lâu bền hơn thành
công của ông trong sự nghiệp
giáo dục đào tạo con người?
*****
Một pḥng lẻ loi dành cho lính
gác ở ngoài ṿng rào trại giam
Chí Ḥa đă được quét dọn khá tươm tất. Giữa pḥng,
một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt
trên đôi mẻ. Trên tấm ván một
h́nh người nằm ngửa, chân duỗi
thẳng, hằn rơ dưới tấm mền
mỏng phủ kín từ đầu xuống
chân. Thi thể Bác Sĩ Phan Huy
Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam
Cộng Ḥa nằm đó, cô đơn, lạnh
lẽo giữa một buổi trưa hè
nắng gắt, oi nồng. Cùng với
tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông
là tĩnh vật trang trí độc nhất của
căn pḥng lính gác quạnh hiu.
Chung quanh không một bóng
người. Cái tịch mịch của căn pḥng
như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính
quyền Việt Cộng hứa cho phép
quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại
chùa Xá Lợi. Đến phút chót Việt Cộng
bội hứa như chúng vẫn có thói
quen đó đă trở thành quán
tính. Chúng buộc tang gia phải chôn
cất ngay ngày hôm sau tức là
ngày 28 Tháng Tư 1979.
T́m hiểu ra mới biết
ngày 28 là ngày ông Tổng thư
kư Liên Hiệp Quốc tới Saigon:
cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn
tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra
nhiều phiền phức, rối ren
không lường được. Quái thật! Một
chế độ luôn luôn tự vỗ ngực
lớn tiếng huênh hoang ta đây
'Anh hùng nhất mực' và 'ra ngơ
là gặp anh hùng' lại sợ đủ
thứ! Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ
đi nên phải bắt nó vào tù với
mẹ nó cho chắc! Sợ từ cái xác chết sợ
đi, nên bắt chôn ngay sợ xác
chết 'thần giao cách cảm' với
Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc th́ rầy
rà to. Đám tang bị hối thúc
rồi cũng chu toàn nhờ sự tận
t́nh giúp đỡ của thân bằng,
quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, c̣n
sót lại là nghi vấn về cái
chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ
sơ bệnh lư do Việt cộng chính thức
đưa ra là 'nhồi máu cơ tim,
tai biến mạch máu năo cùng
viêm gan siêu vi trùng'. Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là
một nghi vấn.
Nguyễn Tú ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ 1/ Kư giả Nguyễn Tú,
nguyên đặc phái viên chiến
trường của Nhật báo Chính Luận
tại Việt Nam trước 1975, cũng
như của nhiều báo ngoại quốc.
Ông đă bị giam hơn mười năm
trong lao tù Cộng Sản, vượt
biên tới Hong Kong năm 1990 và
sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư
ngụ tại vùng Hoa Thịnh Đốn. 2/ Tài liệu tham khảo
thêm: Declassified CIA
Documents on the Vietnam War
(84 documents contain the
indexing term PHAN HUY QUAT)
Nguồn:
http://huongduongtxd.com/phanhuyquat.pdf
Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến Trang
: Phan Huy Quát www.vietnamvanhien.net
(Tin tức cập nhật thường xuyên) www.vietnamvanhien.org
(Thuần ngữ tải nhanh) www.vietnamvanhien.info
(Tủ sách Văn Hiến với hơn 8600 tác
phẩm) www.vietnamvanhien.com
(Kinh Tế và Tài Chánh)
Nhóm mạng Việt Nam Văn
Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo,
sáng tác và ư kiến của quư
học giả, nhân sỹ, thi-văn sỹ và độc giả nhằm
hai mục đích: (1) Bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc.
(2) Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn
Hiếnhầu phục hồi nền "An Lạc & Tự
Chủ" ngàn đời của Việt tộc. Chúng tôi rất hân hạnh được
nhận những gởi gắm của quư vị và các bạn.
Kính xin vui
ḷng điện thư đến nhóm mạng qua địa chỉ dưới đây.