Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
 www.vietnamvanhien.net


Phỏng Vấn Sử Gia Vũ Ngự Chiêu
Về Những Nghiên Cứu Lịch Sử Liên Quan Đến Hồ Chí Minh
Nguyễn Vĩnh Châu Thứ Bảy, Ngày 26 tháng 9-2009


  Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)



LTS: Trước năm 1975, Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu là một sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, gốc Pháo Binh, từng phục vụ trong nhiều binh chủng, kể cả Nhảy Dù. Ngoài ra, Ông c̣n là một nhà văn với hơn 20 tác phẩm được kư dưới bút hiệu Nguyên Vũ. Sau khi tị nạn tại Hoa Kỳ, Ông trở lại trường học và hoàn tất văn bằng Tiến Sĩ Sử Học tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984. Về sau, Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu định cư tại Thành Phố Houston, TX và điều hành cơ sở Xuất Bản và Phát Hành Văn Hóa. Trong thời gian này, Ông đă cho xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu sử học dưới bút hiệu Chính Đạo hay tên thật Vũ Ngự Chiêu. Tại Houston, Ông cũng hoàn tất văn bằng Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999. Với học bổng Fulbright, Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu đă đến Pháp (1982-1983, 1985-1986) và về Việt Nam (2004-2005) để nghiên cứu về những đề tài liên quan đến Sử học và Luật.
Trong Hợp Lưu 106, văn hữu Nguyễn Vĩnh Châu–cựu phóng viên đài VOA–đă thực hiện riêng cho tạp chí Hợp Lưu bài phỏng vấn đặc biệt Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu về Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa [VNDCCH] (1945-1976). Những vấn đề được đưa ra cũng tương tự như buổi phỏng vấn dành cho nhóm thực hiện CD về HCM năm 2008 (mới phát hành gần đây), nhưng được đăng toàn vẹn, và hoàn toàn dựa trên tài liệu văn khố nhiều nước, như Pháp, Nga, Mỹ, Trung Hoa Nhân Dân Cộng Ḥa Quốc và Việt Nam.
Nhân dịp cuộc đàm phán Việt-Hoa về Hoàng Sa và Trường Sa đang khởi sự - mà theo chúng tôi Việt Nam nên từ chối kư bất cứ một văn kiện tay đôi nào với Bắc Kinh,và cương quyết đ̣i hỏi một hội nghị quốc tế do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, để tránh ô danh đời đời trong lịch sử dân tộc như cha con Hồ Quí Ly, Mạc Đăng Dung... xin trân trọng giới thiệu với quí độc giả thân quí những giải đáp thuần túy chuyên nghiệp về sử học của sử gia Vũ Ngự Chiêu.

TẠP CHÍ HỢP LƯU

Nguyễn Vĩnh Châu:

Thưa ông, theo tài liệu của CSVN th́ ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của ông Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc, đă từ quan v́ chống đối triều đ́nh. Sự kiện này có đúng không?

Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu:

Cha ông HCM là Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy, gốc làng Sen (Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. (Sắc chỉ là tên gọi ngoài đời) Đậu Phó Bảng năm 1901, ông Huy không theo học trường Hậu Bổ mà từng làm việc với Bùi Quang Chiêu, rồi bổ làm Thừa Biện Bộ Lại. Sau cuộc nổi dậy mùa Xuân 1908 của dân miền Trung, thăng bổ làm tri huyện B́nh Khê (B́nh Định).

Theo tài liệu Pháp, tháng 1/1910, Tri huyện Huy bị ngưng chức v́ "nghiện rượu và tàn ác với dân chúng" (đánh chết một nông dân trong cơn say). Ngày 19/5/1910, bị chính thức tống giam v́ tội danh trên. Qua tháng 8/1910, được miễn tội, chỉ bị cách chức.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Theo sự nghiên cứu và những sử liệu mà ông có, xin ông vui ḷng tŕnh bày sự nghi vấn về tên thật và ngày sinh của ông Hồ Chí Minh.

TS Vũ Ngự Chiêu:

Theo tài liệu Pháp và Việt (như thư xác nhận Côn được nhận vào trường Quốc Học (Huế) ngày 8/7/1908, và bản án tử h́nh khiếm diện năm 1929 của tỉnh Vinh, bằng Hán ngữ pha chữ Nôm), tên thực Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Côn, với những bí danh như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Xin (?),Nguyễn Ái Quốc, v.. v....

Một số tác giả trong nước tự động sửa thành Nguyễn Sinh Cung [chỉ dựa theo lập luận rằng v́ anh là Khiêm].

Năm 1911, trong hai lá thư xin vào trường Ecole Colonale (Paris) viết từ Marseille, Nguyễn Sinh Côn tự xưng là Nguyễn Tất Thành. Trong những thư từ, từ 1912 tới 1914, c̣n có tên "Paul Thành."

Từ năm 1919, đổi thành Nguyễn Ái Quấc hay Quốc. Theo học giả Nga Anatoli Sokolov, HCM có tất cả trên 150 bí danh khác nhau.

Ngày và năm sinh của HCM cũng có nhiều vấn đề.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (HCM) tự khai sinh năm 1892.

Ngày 17/5/1945, báo chí VNDCCH công bố ngày sinh nhật 19/5/1890 của HCM và yêu cầu dân chúng treo cờ làm lễ mừng trong 3 ngày. (Cứu Quốc [Hà Nội], 17/5/1945).

Sử gia Huỳnh Kim Khánh cho rằng HCM chọn ngày này để ghi nhớ ngày thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh tức Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941). Nếu thế, ngày 19/5 cũng có thể để kỷ niệm ngày 19/5/1910, khi cha HCM bị cầm tù, cách chức, khiến HCM phải rời trường Quốc Học ra đi, và khởi đầu sự nghiệp chính trị.

Có dư luận cho rằng HCM đă ngụy tạo ngày sinh 19/5/1890 để bắt dân chúng Hà Nội treo cờ đón tiếp Cao ủy d’Argenlieu sẽ đến thăm chính thức Hà Nội vào ngày hôm sau, 18/5/1945, để bàn thảo về chuyến đi Pháp sắp tới của Hồ. Đồng thời, cũng để chứng tỏ sự yểm trợ của dân chúng với Hồ và chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Việc này có thể xảy ra, v́ HCM là loại người sử dụng mọi phương tiện để đạt mục đích.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Thưa ông, được biết, ông đă khám phá một sự kiện rất quan trọng là việc ông Hồ Chí Minh nộp đơn xin học trường thuộc địa của Pháp. Xin ông cho biết diễn tiến sự việc này ra sao và ảnh hưởng của công tŕnh khám phá này như thế nào?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Đầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô t́nh khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Đèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.. v... tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers). Mục đích của tôi là t́m hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Trường Tộ, v.. v...) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa và xă hội của luận án Tiến sĩ. Thật vô t́nh, t́m thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc Địa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, c̣n thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đă tŕnh bày khá rơ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đă rời nước không v́ muốn t́m đường cứu nước, mà chỉ v́ những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v...). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Địa, HCM sẽ t́m thấy cánh cửa mở rộng của Đại Học Phương Đông của Liên Sô Nga 12 năm sau.

Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng đă nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh đồng ư viết chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ biến các tài liệu trên tờ Đường Mới, nhưng ông Anh không phải là người phát hiện những tài liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang làm việc ở Aix-en Provence, Nguyễn Thế Anh cho tôi biết hai sử gia Pháp, tức Hémery và Brocheux, tuyên bố họ đă khám phá ra tài liệu này từ trước. Tôi chẳng mấy quan tâm. Vấn đề là tại sao Hémery và Brocheux không công bố các tài liệu trên trước chúng tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người làm phim truyền h́nh chiến tranh VN cũng sử dụng tài liệu trên.

Một số học giả Mỹ cho rằng khi công bố tư liệu trên, tôi đă có ư muốn discredit [hạ giá] HCM. Nhưng sự thực lịch sử chỉ là sự thực lịch sử. Đáng trách chăng là thái độ thiếu nghiêm chỉnh và lương tâm nghề nghiệp của một số học giả (kể cả William A. Williams). V́ tư tâm hay một lư do nào đó, họ đă gạt bỏ những tư liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch [thiên tả] của họ. Điều này ảnh hưởng không ít đến công tŕnh nghiên cứu của tôi. Tôi đă không nhận chỗ dạy học tại Đại học Georgetown, Oat-shinh-tân, v́ mất đi ḷng trọng vọng một số trong những "học giả".

Thật khó tin, nhưng có thực, là một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn c̣n ghi HCM đă rời nuớc năm 1912 để t́m đường cứu nước. Có người c̣n tuyên bố chẳng cần t́m hiểu thêm về HCM, dù tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng về Đảng CSVN. "As far as the Americans are concerned," người ta nói, ngần ấy kiến thức về HCM đă quá đủ. "Life goes on!"

Nguyễn Vĩnh Châu:

Như ông biết, CSVN cho rằng HCM là nhà tư tưởng vĩ đại, lỗi lạc. Theo sự nghiên cứu của ông sự thật như thế nào?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Tôi nghĩ HCM là người của hành động hơn tư tưởng. Tư tưởng chỉ đạo của HCM chỉ là "luật kẻ yếu." Một ấn bản mới của Câu Tiễn tân thời giữa thế kỷ XX. HCM rất lưu loát và rộng răi trong việc ca tụng người có thể giúp đỡ ḿnh, và không tiếc lời đả kích những đối thủ. Các nhà cung văn không tiếc lời ví HCM như thánh, thần, Phật, Chúa, v.. v... Nhưng đọc kỹ những ǵ Hồ đă viết hay tuyên bố, chỉ có 2 điểm đáng ghi nhận:

Thứ nhất, cho tới thuở trung niên, tức vào khoảng năm 1919-1920, Hồ vẫn tin tưởng ở nhân và dân quyền. Trong 8 điểm đệ tŕnh cho Hội nghị Versailles mùa Hè 1919, HCM tỏ vẻ rất tin tưởng ở những quyền tự do cá nhân, như tự do hội họp, tư tưởng, báo chí, v.. v... Trong các thư từ gửi đi từ Hà Nội năm 1945-1946, Hồ vẫn ca ngợi nhân quyền cùng nguyên tắc cao cả của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, v... v... như ánh sáng chỉ đạo.

Thứ hai, từ năm 1922-1923, HCM bắt đầu nói về cách mạng, theo mẫu Marxist-Leninist. Hồ kêu gọi đoàn kết vô sản thế giới, lập liên minh công-nông chống lại liên minh tư bản thực dân-Ki-tô giáo. Tháng 10/1923, tại Đại Hội Nông dân quốc tế, Hồ đă tố cáo thực dân và nhà Chung cấu kết với nhau để "câu rút giới nông dân nghèo khổ."Khoảng ba năm sau, trong những bài giảng cho đoàn viên Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Đồng Chí Hội ở Canton (Quảng Châu), HCM hô hào phải làm Kách Mệnh. [Xem Đường Kách Mệnh, in lại trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập [VKDTT], I:1924-1930, 2002:13-82]; David G. Marr, [On Trail, 1981:131n, 374-376] Theo Hồ, "Văn chương và hy vọng" trong tập sách gối đầu giường của cán bộ Thanh Niên chỉ ở trong hai chữ "kách mệnh, kách mệnh, kách mệnh." [The literary value and hope of this book are confined in two words: Kach menh, Kach menh, Kach menh ["Revolution, Revolution, Revolution."] Rồi Hồ trích dẫn Lenin: "Không kó lư luận kách mệnh, th́ không kó kách mệnh vận động. . . Chỉ kó theo lư luận kách mệnh tiền fong, đảng kách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiền fong."[ 25]

Trong 23 điều nói về tư cách người làm kách mệnh, 16 điều chẳng có liên hệ ǵ đến duy vật biện chứng. Không thấy nguyên tắc thực tập liên lũy [praxis] của Marx, tức ư muốn làm thử, rồi rút ra kinh nghiệm cho những hành động tương lai [that is the will to act in order to test belief and obtain the additional grounds for further action. (Marr, On Trail, 1981:378)]Hành động với HCM chỉ là thực hiện chủ thuyết Marxist-Leninist hơn là giải quyết những vấn đề theo công tâm "Muốn làm kách mệnh th́ phải biết: Tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy văn hóa và tôn giáo làm cho dân ngu. Nó làm cho dân chúng nghe thấy cách mạng th́ sợ rùng ḿnh. Vậy kách mệnh trước hết phải làm cho dân "giác ngộ." [23] Tóm lại, tư tưởng HCM chỉ có việc sao chép tư tưởng Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông. HCM thiên về hoạt động hơn tư tưởng.Việc cơ quan tuyên truyền CSVN đề cao tư tưởng HCM có lư do riêng. Nhưng ít khi thực sự v́ chính Hồ. Mà v́ những mục tiêu giai đoạn của người cầm quyền. Hăy lấy một thí dụ. Năm 1969, Lê Duẩn đă công bố ngày chết của HCM chậm 1 ngày (từ 2/9 tới 3/9), hay sửa lại, cắt xén di chúc của HCM. Một nguyện vọng nhỏ nhoi của HCM là được hỏa táng để phát động phong tục hỏa táng trong nước bị tảng lờ. Nói theo Brocheux, HCM đang bị "cầm tù" trong Lăng Ba Đ́nh. Thực ra, chẳng có dấu hiệu tôn trọng tư tưởng Hồ nào thiết thực hơn là giúp mang xác ướp của Hồ ra khỏi Lăng Ba Đ́nh, và hỏa táng.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Ông có thể cho biết, lư do tại sao ngày nay đảng CSVN lại tung ra chiến dịch học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Lănh đạo CSVN có lư do riêng của họ, khó đoán biết. Nhưng một cách tổng quát, có thể nghĩ rằng tinh thần "hủ Marxist-Leninist" khiến cán bộ tuyên giáo đang muốn phỏng theo gương Trung Nam Hải bắt dân Trung Hoa "học tập" kinh nghiệm Hán hóa thuyết Marist-Leninism." Người ta chỉ đổi đi năm chữ "tư tưởng Mao Trạch Đông" bằng "tư tưởng Hồ Chí Minh."

Nguyễn Vĩnh Châu:

Theo ông tại sao HCM lại có thể tự viết sách đề cao ḿnh, tự gán cho ḿnh là "Cha già dân tộc" vô cùng lố lăng như trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" với bút danh "Trần Dân Tiên"?

TS Vũ Ngự Chiêu:

HCM là một người hành động, một cán bộ cách mạng chuyên nghiệp [agitprop]. Việc HCM tự viết sách đề cao ḿnh hay sai người ca tụng ḿnh là việc phụ. Mục đích chính cần thực hiện là ca ngợi một nhân vật HCM chí thiện, chí thần, chí thánh. HCM rất ít khi quan tâm đến những khuôn thước giá trị tư bản, thực dân hay phong kiến mà HCM quyết tâm hủy diệt. Cũng nên thêm là "tư cách" hay "đạo đức" của người Cộng Sản, theo HCM, không giống quan điểm "phong kiến, thực dân"

[Tệ đoan cung văn này, dĩ nhiên, không do cơ quan tuyên giáo Cộng Sản độc quyền. Tại miền Nam, từng có huyền thoại về "điều trần" Nguyễn Trường Tộ, "nhà ngôn ngữ học" Trương Vĩnh Kư, hay "đầy vua không Khả, đào mả không Bài"–Khả, tức Ngô Đ́nh Khả, cha ruột Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963), xuất thân thông ngôn cho Tây, tích cực trong việc đánh dẹp phong trào Cần vương do Phan Đ́nh Phùng lănh đạo, và rồi được Pháp ủy thác giám hộ vua Thành Thái, với chức vụ Đề đốc kinh thành. Bài là Nguyễn Hữu Bài, cha đỡ đầu Diệm, từng được Pháp cử làm Tổng lư triều Nguyễn từ 1925 tới 1932, trong thời gian ấu vương Bảo Đại du học ở Pháp. Bàn tay Bài và quan lại Việt từng đẫm máu dân chúng miền Trung trong giai đoạn 1926-1932. Sau này, vào tháng 8/1944, Giám mục Ngô Đ́nh Thục viết thư cho Toàn Quyền Jean Decoux khoe kể công lao hăn mă của họ Ngô với Bảo hộ Pháp. Năm 1982, tôi nhờ Linh Mục Cao Văn Luận gửi một bản sao thư trên cho cựu Tổng Giám Mục Thục, yêu cầu cho biết ư kiến. Không thấy hồi âm; ít lâu sau nghe tin ông Thục đă chết v́ điên loạn ở Mỹ.

Nhưng khi tôi cho công bố tài liệu trên năm 1989, có người cho rằng đó là "tài liệu giả"–hiểu theo nghĩa sau đó có người in trộm tài liệu trên từ báo Lên Đường (Houston) vào sách họ, nhưng đă cố ư tẩy xóa một vài chi tiết trong thư.]

Nguyễn Vĩnh Châu:

Nhiều tác giả ngoại quốc vẫn nhận xét HCM là một người có tinh thần quốc gia, chỉ dùng chủ nghĩa CS để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ. Theo sự t́m hiểu của ông th́ sự thật như thế nào?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Tôi nghĩ cách diễn tả "tinh thần quốc gia" quá trừu tượng, chứng tỏ sự thiếu hiểu biết, đưa đến sự đánh giá sai lầm HCM. Trên cơ bản, HCM là người nuôi tham tâm giành đoạt chính quyền bằng mọi giá và giữ vững độc quyền cai trị. Cũng cần lưu ư là HCM, theo tôi, không là một cán bộ Cộng Sản thuần thành.

Liên hệ giữa Hồ và Quốc Tế Cộng Sản có nhiều vấn đề.

Từ năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đă bị QTCS khai tử.

Từ 1933-1938: NAQ phải sống với bí danh mới "Lin" hay "Linov," không được giao công tác ǵ. Năm 1935, chỉ được Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập cho 1 ghế dự khuyết trong Ban Trung Ương Chấp Ủy, lo việc phiên dịch các tài liệu của Đảng CSVN gửi Pḥng Đông Dương của QTCS. Năm 1938, vội vă rời Mat-scơ-va sang Diên An (Trung Hoa) để tránh bị Stalin thanh trừng. Nên chẳng có ǵ ngạc nhiên khi từ năm 1943-1944, HCM đă t́m cách móc nối cơ quan t́nh báo Mỹ. Từ sau chiến dịch Meigo của Nhật–tức cuộc bắt giữ hầu như toàn bộ chính phủ bảo hộ Pháp tại Đông Dương trong hai ngày 9-10/3/1945–HCM bắt đầu chính thức hợp tác với Phi Đoàn Cọp Bay 14 của Chennault tại Vân Nam. Và rồi, cơ quan OSS [T́nh báo chiến lược] Mỹ từ tháng 3 đến tháng 8/1945 (Frank Tan, thuộc GBT, và rồi Deer Team, OSS, ở Kim Lộng, Tuyên Quang). Sau ngày 19/8/1945, viên chức Mỹ đóng vai đường giây ngoại giao của HCM, giúp chính phủ Hồ tồn tại qua cuộc chiếm đóng của Trung Hoa, và phần nào giúp Hồ thành lập chính phủ liên hiệp với Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, tổ chức bầu cử Quốc Hội, chính thống hóa chế độ VNDCCH hầu kư Tạm ước 6/3/1946 tại Hà Nội, và rồi Modus vivendi ngày 14/9/1946 tại Paris.

Nói cách khác, yếu tố ngoại cường thống trị và ảnh hưởng sự thăng tiến của HCM. Chiêu bài "quốc gia"–HCM tự nhận nhiều lần chỉ thuộc Đảng Quốc Gia, và từng giải tán Đảng CSĐD ngày 11/11/1945–chỉ quan trọng trong nội địa Việt Nam.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Theo sự nghiên cứu của ông th́ ông HCM có trách nhiệm ǵ trong việc đảng CSVN sát hại các đảng viên những đoàn thể quốc gia trong thời gian những năm 45-46?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Dù có trực tiếp cho lệnh hay không, HCM phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Mặc dù Vơ Giáp cùng Bộ Nội Vụ ra tay tàn sát các đảng phái chống Cộng khi HCM đang ở Pháp, HCM được báo cáo tuờng tận chi tiết những vụ án ngụy tạo xét xử cán bộ Việt Quốc, hay cuộc tàn sát VNQDĐ tại Hà Nội với lư do "bắt tay Pháp làm đảo chính nhân dịp Quốc Khánh 14/7 của Pháp." Dĩ nhiên, nên lưu ư rằng, năm 1945-1946, HCM chưa hoàn toàn kiểm soát được guồng máy chính quyền. Trong nội bộ Đảng, HCM cũng không hoàn toàn kiểm soát được phe cực đoan như Trường Chinh Đặng Xuân Khu và Hạ Bá Cang (Cung?), tức Hoàng Quốc Việt, v.. v... Đó là chưa kể tinh thần địa phương Nam-Trung-Bắc. Nhưng những lời tuyên bố của HCM tại phiên họp kỳ II của Quốc Hội, từ 28/10 tới 9/11/1946, chứng tỏ HCM phê chuẩn việc làm của Giáp cũng như công an Việt Minh.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Là một nhà sử học, ông nghĩ ǵ về lập luận cho rằng dù ông HCM có nhiều lỗi lầm nhưng vẫn có công giải phóng VN khỏi ách thực dân?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Với những tài liệu đă giải mật (tháng 11/2008), không ai phủ nhận được tài năng của HCM trong việc lănh đạo Đảng CSVN tới chiến thắng cuối cùng của Đảng này. Nhưng cách diễn tả "giải phóng VN khỏi ách thực dân" cần xét lại.Sau Thế Chiến Thứ Hai, phong trào giải thực–hiểu theo nghĩa thực dân Trung Cổ–xuất hiện ngay trong tâm ư dân chúng các cường quốc thuộc địa. Thực dân Pháp bị thất bại ở Việt Nam cơ bản là do quốc dân Pháp và Việt đều muốn chấm dứt nó. Thế giới cũng chuyển biến sang một h́nh thức "trật tự mới"–tức vùng ảnh hưởng của các siêu cường–đặc biệt là Liên Sô Nga và Liên Bang Mỹ, hai "siêu cường" lănh đạo hai khối vô sản và tư bản. Sự nghiệp chính trị của HCM cho tới khoảng năm 1968-1969 phải được đánh giá trong hệ thống chính trị thế giơi chiến tranh lạnh "lưỡng cực" này. Và, rồi sự chia rẽ giữa Bắc Kinh và Mat-scơ-va từ năm 1958, dẫn tới chính sách ḥa hoăn đa cực (bao gồm thế tay ba Mỹ-Nga-Trung Cộng tại Đông Nam Á).

Nên ghi nhớ là ngay đến Ngô Đ́nh Diệm, năm 1954-1955, cũng khua chiêng, gơ trống cho thành tích "bài phong, đả thực"–nhờ phép lạ Mỹ.

Trường hợp HCM và Đảng CSVN, thoát khỏi "ách thực dân Trung Cổ Pháp" để bị trói buộc vào "ách thực dân mới Hán Cộng." Khó thể gọi là "giải phóng VN khỏi ách thực dân."

Nguyễn Vĩnh Châu:

Theo ông th́ trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm ǵ không ?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Trước khi nói đến trách nhiệm của HCM hay Đảng CSVN, cần t́m hiểu rơ ràng về vai tṛ cải cách ruộng đât trong các xă hội nông nghiệp, rồi đến trường hợp cá biệt Việt Nam.

A. Cải cách ruộng đất [CCRĐ]–tức làm sao có sự phân phối ruộng đất hợp lư để nông dân có đất cày cấy–là điều quan tâm hàng đầu của những nhà cai trị các xă hội nông nghiệp muốn dân giàu, nước mạnh.

Trong Đường Kách Mệnh, HCM từng viết:2. Tây đồn điền choán ruộng cách nào?

Nhiều cách.

Phần th́ Tây đồn điền cướp, phần th́ các nhà thờ đạo chiếm. Các cố đạo chờ năm nào mất mùa, đem tiền cho dân cày vay. Chúng nó bắt dân đem văn khế ruộng cầm cho nó và ăn lời thật nặng. V́ lời nặng quá, đến mùa sau không trả nổi, th́ các cố xiết ruộng ấy đem làm ruộng nhà thờ."[ 73]

3. Chính phủ Pháp đăi dân cày An Nam thế nào?

Tư bản Tây và nhà thờ đă choán gần hết đất ruộng, c̣n giữ được miếng nào th́ chính phủ lại đánh thuế thật nặng, mỗi năm mỗi tăng.[ 73] 10 phần lấy mất một.[ p.73]

Mua rẻ nhân dịp dân phải đóng thuế; xuất cảng. Nó chở đi chừng nào, th́ dân ta chết đói nhiều chừng ấy.

4. Bây giờ nên làm thế nào? phải tổ chức nhau để kiếm đường giải phóng.[ 74]

5. Cách tổ chức dân cày thế nào?[ 74] Bất kỳ tiểu điền chủ trở xuống đều được vào; (trừ đại địa chủ, mật thám, cố đạo, say mê rượu chè, cờ bạc và a phiến)[74]

Nông hội chống rượu chè, a-phiến khiến mất giống ṇi.

Biết kách mệnh tinh thần, kách mệnh kinh tế, th́ kách mệnh chính trị cũng không xa.Từ đầu thập niên 1930, cải cách ruộng đất, hay cách mạng thổ địa, là một chiêu bài của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Những khẩu hiệu như "Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn" được nêu ra từ cuộc nổi dạy 1930-1931 tại Nghệ-Tĩnh và Nam Kỳ, và thống trị các tài liệu tuyên truyền của Đảng CSĐD cho tới năm 1935-1936. Lư luận Marxist-Leninist phía sau chiêu bài sắt máu này là cuộc đấu tranh giai cấp giữa liên minh nông-công chống lại và tiêu diệt giai tầng địa chủ phong kiến, nhằm thủ tiêu hệ thống sản xuất cổ truyền, tiến tới việc xây dựng một xă hội công bằng mà ai nấy đều được hưởng tương ứng với những ǵ ḿnh sản xuất, trên đường tiến đến xă hội Cộng Sản, ở đó ai nấy đều làm theo khả năng, được hưởng theo nhu cầu.

V́ mục tiêu cuối cùng–tức xă hội cộng sản, nơi nhà nước bị thăng hoa, chỉ có những người lao động sản xuất tự quản lư công hữu–chưa đủ điều kiện chào đời, Đảng Cộng Sản và liên minh công-nông tiếp tục duy tŕ nhà nước chuyên chính vô sản, hay "dân chủ tập trung," thẳng tay tiêu diệt giai cấp địa chủ phong kiến, lấy đất chia cho người nghèo, để họ tự làm chủ. Những nhà tiểu tư sản mới này sẽ giúp tăng gia sản xuất lương thực, tạo nên thặng dư để góp vốn vào việc công nghệ hóa nền kinh tế. Sự phát triển đồng thuận và song hành này sẽ giúp đất nước sớm hiện đại hóa, nâng cao đời sống công nông, phát triển nền văn hóa lành mạnh.

B. Đấu tranh Giảm Tức, Giảm Tô:

Từ năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa [VNDCCH] đă bắt đầu phát động chính sách đ̣i hỏi giảm tô (tức giảm tiền thuê ruộng đất) và giảm tức (giảm tiền vay lăi), nhưng có nơi thi hành, nơi không. Một trong những lư do chính là giai đoạn 1945-1946 c̣n có những nhu cầu và khó khăn, phức tạp cần giải quyết, liên hệ đến chính sự sinh tồn của chế độ.

Từ đầu năm 1947 tới năm 1949, chính sách nông thôn của Hồ chưa có thay đổi đáng kể, ngoại trừ những biện pháp tận thu, giảm chi, trên nguyên tắc "chớ nên mị dân." Tuy nhiên, chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Hoa lục (1949) và sự thành h́nh của "giải pháp Bảo Đại" (1948-1949) khiến Hồ chẳng c̣n lựa chọn nào khác hơn trở lại với khối tân Quốc tế Cộng Sản (Cominform), do Liên Sô Nga lănh đạo. Bên cạnh những chuẩn bị tái lập Đảng Cộng Sản Đông Dương (dưới tên mới Đảng Lao Động Việt Nam từ năm 1949-1951), và do nhu cầu tăng gia thu nhập cũng như củng cố sự yểm trợ của giới nông dân (bần cố nông và bần nông), từ đầu năm 1949, BTV/TW Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mă Khắc Tư ra Chỉ thị ngày 3/1/1949 cho các Khu ủy về sách lược vận động tranh đấu bắt các địa chủ giảm tô 25% như chính phủ qui định. Mục tiêu lần này được mở rộng tới các địa chủ "công giáo, và chỉ thị trên c̣n qui định việc giảm tiền xin lễ, nhưng tránh không chạm đến tín ngưỡng." (VKĐTT, 10, 2001:176-177)

Đầu tháng 6/1949, BTV/TW lại gửi điện ngày 1/6/1949 cho Liên khu [LK] IV về phong trào khuyến khích địa chủ hiến đất. (VKĐTT, 10, 2001:241) Ngày 14/7/1949, HCM kư Sắc Lệnh Giảm Tô. Ngày 14/10/1949, BTV/TW ra chỉ thị tạm cấp ruộng đất của Việt Gian cho người nghèo. (VKĐTT, 10, 2001:299-303) Ngày 22/10/1949, BTV/TW chỉ thị LK IV vận động giảm tô 25%. (VKĐTT, 10, 2001:307-308)

Ngày 18/11/1949, BTV/TW ra Thông tri về việc chấn chỉnh tổ chức nông dân: Khéo léo đưa địa chủ ra khỏi Hội Nông Dân Cứu Quốc bằng cách tổ chức vào những hội khác (Phụ lăo, Liên Việt) Thành phần BCH HNDCQ phải có bần cố nông, có người trẻ. Không nên có phú nông; nếu có chỉ để làm v́. Ra sức tổ chức Hội nông dân trong vùng Công Giáo. [Lê Văn Lương]. (VKĐTT, 10, 2001:314-315)

Ngày 5/7/1950,Trường Chinh đọc báo cáo về chính sách nông thôn tại phiên họp mở rộng của Ban Kinh tế TW [5 tới 7/7/1950]. (VKĐTT, 11, 2001:591- 626) Ngày 17/7/1950: Ban Thường vụ TW chỉ thị "hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức."

Tại Đại hội tái lập Đảng CS [Lao Động] vào tháng 2/1951, Tổng Bí thư Trường Chinh nhấn mạnh là CCRĐ chỉ nhắm vào giảm tô, giảm tức. Địa chủ hiến đất đai. Kháng chiến thắng lợi sẽ CCRĐ. [Ngày 16/4/1951 Hồ Viết Thắng được cử làm trưởng Tiểu ban Nông vận (c̣n có Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Đức Thịnh, Ca, Nông, Di, Đào). (VKĐTT, 12, 2001:526- 527)]

Ngày 22/4/1952, Hội nghị TW lần thứ ba của ĐLĐVN [22 tới 28/4/1952] vẫn c̣n ra nghị quyết: "Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh." (VKĐTT, 13, 2001:65- 75) Về chính sách ruộng đất sẽ tập trung vào giảm tô, giảm tức, lôi kéo địa chủ; tịch thu ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo. Chưa thủ tiêu bóc lột phong kiến. ( VKĐTT)13, 2001:118- 128).

C. Chính thức phát động CCRĐ:

Năm 1952, Mao Trạch Đông mời Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh, ép phải cải cách ruộng đất. Đồng thời thực hiện chỉnh quân, chỉnh huấn. (Hoan, 1987:359-367). Ngày 15/8/1952, Ban Bí thư [BBT] Đảng LĐVN ra chỉ thị bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất: Từ nay "Dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ vơí trung nông, liên minh với phú nông, lôi kéo hoặc trung lập một số địa chủ, đánh đuổi đế quốc và đại địa chủ phong kiến phản động." (VKĐTT, 13, 2001:239) Ngày 25/11/1952, BBT ra thông tri về việc điều tra nông thôn. (VKĐTT, 13, 2001:347- 360)

Đầu năm 1953, Trung Cộng cử Kiều Hiểu Quang, Phó Bí thư Quảng Tây, phụ trách đoàn cố vấn cải cách ruộng đất. (Theo Hoàng Tùng, La Quí Ba cũng ép Hồ phải đấu tố Nguyễn Thị Năm, tức Cát Thành [Hanh] Long. "Mấy ngàn người bị xử tử." (Tài liệu truyền tay kư tên Hoàng Tùng. Hoàng Tùng phục vụ trong Ban Tuyên huấn của Trường Chinh, nên có những thông tin đặc biệt. Theo tài liệu đă dẫn, HCM rất bất măn về áp lực của Bắc Kinh, nhưng không dám chống đối. Xem thêm infra.)

16/4/1951: Nghị quyết ngày 16/4/1951 của BCH/TW về việc thành lập các ban và tiểu ban giúp việc:Ban Tuyên huấn: Trường Chinh, Phạm Tô, Tố Hữu, Trần Quang Huy, Hoàng Tùng, Xuân Thủy, Lê Quang Đạo, Nguyễn Chương, Nguyễn Khánh Toàn, Minh Tranh.

Ban Mặt Trận: Hoàng Quốc Việt, Thoại Sơn, Hồ Viết Thắng, Xuân Thủy, Trần Cung, Lê Thành Lập, Dương Bạch Mai.

Ban Kinh tế-Tài chính: Phạm Tô, Cù Vân, Trần Đăng Ninh, Hồ Viết Thắng, Lê Văn Hiến, Đặng Việt Châu, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Trần Danh Tuyên, Nguyễn Đức Thụ.Tiểu ban Nông vận: Hồ Viết Thắng, Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Đức Thịnh, Ca, Nông, Di, Đào. (VKĐTT, 12, 2001:526- 527)

Cũng có nhân chứng cho rằng cuối tháng 3/1950, khi từ Bắc Kinh trở lại Tuyên Quang, Hồ tuyên bố với Ban Thường vụ Trung ương Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mă Khắc Tư (tức Đảng CSĐD, đă được bí mật tái khai sinh từ năm 1948-1949) là Stalin muốn làm cách mạng thổ địa, và Hồ muốn làm cách mạng thổ địa với sự tiếp tay của TC. (Vơ Nguyên Giáp, CĐTVV, 2001:349-350) Một tài liệu TC ghi ngày 5/3/1953, khi cùng HCM [dưỡng bệnh ở TH] rời Bắc Kinh về VN, Vi Quốc Thanh được HCM kể lại những chi tiết về chuyến qua Mat-scơ-va cuối năm 1952, và ư định thực hiện CMTĐ, theo lệnh Stalin. "Không thể đứng giữa một ngọn đ̣n sóc. (Vu Hóa Thẩm [Vương Chấn Hoa], "Vi Quốc Thanh," (Vu Hóa Thẩm, LQB, 2008:59)

D. Hội nghị kỳ 4 Đảng LĐVN (25-30/1/1953):

Theo tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tư Trung ương Đảng LĐVN (25-30/1/1953) đă quyết định tiến hành cải cách ruộng đất, tức phong trào đấu tố (rập khuôn Trung Cộng).

Ngày 25/1/1953, HCM đọc báo cáo về t́nh h́nh trước mắt và nhiệm vụ CCRĐ. Triệt để giảm tô, tiến tới CCRĐ. Theo Hồ, từ 1945, đă thực hiện giảm tô, nhưng tới nay chưa đúng mức: có nơi giảm, nơi chưa giảm. Nay phải triệt để thực hiện giảm tô. Phải phát động quần chúng nông dân tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô giảm tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Đảng và chính phủ phải lănh đạo, tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau đó sẽ cải cách ruộng đất. Nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc, và cũng là nền tảng của cách mạng dân chủ chống phong kiến, chống đế quốc. Muốn kháng chiến thắng lợi phải nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, chia ruộng đất cho nông dân. CCRĐ sẽ giúp Đảng LĐ Việt Nam giải quyết nhiều vấn đề:

Về quân sự: Nông dân hăng hái tham gia bộ đội; đồng thời làm tan ră ngụy quân.

Về kinh tế-tài chính: nông dân đủ ăn đủ mặc, sẽ giúp phát triển công thương nghiệp, hăng hái đóng thuế nông nghiệp.

Về chính trị: Nông dân nắm ưu thế trong làng xă, "nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và chắc chắn."

Về văn hóa: "có thực mới vực được đạo." Nông dân no đủ sẽ phát triển văn hóa.

Những vấn đề như thương binh, công an nhân dân dễ giải quyết.

Về Mặt Trận Liên Việt: Nông dân sẽ chiếm đa số, cơ sở công nông liên minh vững chắc hơn.

Đấu tranh triệt để giảm tô giảm tức làm đà cho CCRĐ.

E. Hồ nêu lên kinh nghiệm CCRĐ ở Trung Hoa:

Tới cuối năm 1952, đă hoàn thành CCRĐ, chia đất cho nông dân. Hơn 500,000,000 nông dân được chia hơn 700 triệu mẫu ruộng. Nông dân giữ lại được hơn 30 triệu tấn thóc địa tô. Hăng hái tăng gia sản xuất: Năm 1950 lương thực tăng 20% so với năm 1949; năm 1952 tăng 40%. Thành phần xă hội thay đổi rất nhiều: trung nông tăng từ 20% tới 80%; bần nông giảm từ 70% xuống c̣n 10-20%. Về chính trị, chỉ tại bốn khu Hoa Trung, Trung Nam, Tây Nam và Tây Bắc nông hội đă có hơn 88 triệu hội viên, trong đó hơn 30% là phụ nữ; 60% đến 80% nông dân tổ chức thành những đội đổi công, hợp tác xă. Nông dân trở thành trụ cột của chính quyền ở nông thôn; nhân dân dân chủ chuyên chính và công nông liên minh trở nên vững chắc. Công nghệ và thương nghiệp mau phát triển; văn hóa cũng lên vùn vụt. Hơn 49 triệu trẻ em nông dân được đi học. V́ tŕnh độ giác ngộ lên cao, phong trào chống tham ô lăng phí, quan liêu và chống Mỹ, giúp Triều nông dân hăng hái tham gia. (HCMTT, 7:1953-1955, 1996:8-9.

Thực ra HCM không hoặc không muốn nói đến thực trạng sắt máu của bài học CCRĐ Trung Hoa. Từ ngày 1/10/1949 tới cuối tháng 8/1951, có tới 28,000 bị hành quyết tại Quảng Đông. Trong nửa năm đầu 1951, khoảng 800,000 phiên ṭa xét xử phản cách mạng, và 135,000 người bị tử h́nh. Từ 1949 tới 1952, khoảng 2 triệu người bị hành quyết. Hơn 2 triệu người khác bị gửi vào các trại cải tạo. ( Maurice Meisner, Mao’s China, 1977:81).

Năm 1952, Mao và Đảng CSTH đă khiến giai cấp đại địa chủ ngừng hiện hữu, nhưng cả Mao lẫn Hồ, đều hiểu rằng CCRĐ chưa phải là cách mạng XHCN. Theo lư luận Marxist-Leninism, đây mới chỉ là giai đoạn "tư sản" [bourgeoisie] của cách mạng, hay cái gọi là "Tân Dân Chủ" của Mao. Nói theo Marx, "chế độ Bonaparte [Pháp] là triều đại của nông dân."

Mục tiêu chính của Mao chỉ là: mở rộng cơ sở ủng hộ; kiểm soát hành chính xuống các xă thôn; làm gia tăng mức sản xuất nông phẩm. Bài diễn văn ngày 14/6/1950 của Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ] hầu như đă được phỏng dịch lại trong bản báo cáo của HCM: thực hiện CCRĐ từng bước với sự thận trọng và biệt phân, trong khi lượng sản xuất nông phẩm gia tăng; phải dựa vào bần và cố nông, liên minh với trung nông, và vô hiệu hóa phú nôngHồ cũng không nhắc ǵ đến những con sóng bạo lực và sự phẫn nộ của 20 triệu người Hoa bị "vạch thành phần" là địa chủ, sự chống đối của họ [107- 108]. Bi thảm hơn nữa là dù CCRĐ đă hoàn tất, t́nh trạng nghèo khổ của nông dân TH không thay đổi. Chỉ có Đảng CSTH đại thắng khi thay thế những kỳ hào cũ của các thôn xă bằng những người trẻ trung hơn, giúp đẩy mạnh việc trung ương tập quyền cho Đảng và Trung Hoa Nhân Dân Cộng Ḥa Quốc. Đồng thời chuẩn bị cho bước tái tổ chức kế tiếp, tức tập trung sản xuất [collectivation].Trường Chinh báo cáo về mục đích, ư nghĩa, phương châm, phương pháp và kế hoạch thực hiện CCRĐ. (VKĐTT, 14:30- 83.

Ngày 30/1/1953, ra Nghị Quyết "Thẳng tay phát động triệt để giảm tô." (VKĐTT, 14:128- 132)

F. Ngày 5/2/1953, Trường Chinh ra chỉ thị về cách phổ biến Nghị Quyết của Hội nghị lần thứ tư BCHTW (khóa II): chỉ phổ biến CCRĐ tới cấp khu ủy và đại đoàn ủy, nhưng tạm thời giữ bí mật thời điểm thực hiện. Cấp tỉnh ủy và trung đoàn ủy chỉ nói giảm tô, tiến tới CCRĐ. Cấp dưới, không nói đến CCRĐ, chỉ nói đến 5 công tác trong năm 1953. (VKĐTT, 14:136-137).

Trong khi đó, Hồ liên tục xuất hiện phát động các kế hoạch rập khuôn Trung Cộng khác: Ngày 5/2/1953, HCM nói chuyện trước Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc. Hôm sau, 6/2/1953, HCM nói chuyện trước lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, Dân, Chính ở cơ quan TW. Hồ nhắc nhủ các cán bộ: "Ngồi giữa hai ghế th́ nhất định sẽ ngă."

Ngày 22/4/1953, Ban Bí thư ra chỉ thị v/v 10 điều kỷ luật của cán bộ khi thi hành CCRĐ. Ngày 24/4/1953, Ban CHTW ra Chỉ thị v/v phát động quần chúng trong năm 1953.

Chỉ thị của BCT ngày 4/5/1953 v/v Mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng trong năm 1953 phản ảnh khía cạnh sắt máu của kế hoạch CCRĐ:

Trừng trị địa chủ phản động và gian ác

Mức thoái tô, dây dưa tiền công

Tước vũ khí của địa chủ [vụ đồn điền Vũ Ngọc Hoành]

Yêu cầu về tŕnh độ tổ chức trong cuộc phát động quần chúng

Chỉ thị số 43/CT/TW của BCT ngày 10/6/1953 v/v Hướng dẫn công tác phát động quần chúng. (VKĐTT, 14:223- 234. Theo tin quân sự Pháp, thời gian này tại miền Bắc, Pháp chỉ kiểm soát được 1,129 làng (trên tổng số 7,000 làng). (10H 282).

Phản ứng của dân chúng, và nhất là cán bộ cực kỳ xúc động. Ngày 29/6/1953, Thông Tri của Ban Bí thư về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng. ghi nhận "Ngay đến một số cán bộ lănh đạo chưa thấm nhuần đường lối của CP. Nhiều nơi, địa chủ và ngay cả phú nông, trung nông tự tử."( VKĐTT, 14: [tr. 246])

Ngày 3/7/1953, để trả lời những thắc mắc như "có CCRĐ trong kháng chiến hay không?," BCT khẳng định Hội nghị TW lần thứ 4 (1/1953) đă quyết định CCRĐ trong kháng chiến.

G. Luật CCRĐ 19/12/1953:

Trung tuần tháng 11/1953, tại Hội nghị lần thứ 5 BCH/TW Đảng LĐVN và Hội nghị Toàn quốc lần thứ nhất Đảng LĐVN (14-23/11/1953), kế hoạch CCRĐ được chính thức công bố. Bước kế tiếp chỉ c̣n là việc của Quốc Hội. Ngày Thứ Ba, 1/12/1953, Quốc Hội VNDCCH họp khóa thứ ba [tới 4/12/1953]. HCM tham dự. Đọc báo cáo về t́nh h́nh thế giới, kháng chiến và CCRĐ.

Trên mặt trận tuyên truyền, người ta chỉ được giải thích là lấy ruộng đất của "địa chủ phong kiến, Việt Gian ác ôn" chia cho người nghèo, với khẩu hiệu người cày có ruộng. Trên thực tế, để tiêu diệt cái gọi là chế độ sản xuất phong kiến, chính phủ Hồ áp dụng "công lư bần nông," tức các phiên ṭa đấu tố, bắt ép những người bị qui [vạch] vào thành phần địa chủ, cường hào, ác ôn hay Việt Gian phải nhận cả những tội lỗi họ chưa bao giờ vi phạm; rồi sau đó xử tử h́nh, hạ tầng công tác hay tập trung cải tạo.

Đợt thí nghiệm ở Thái Nguyên (dân số 10,781 người) từ tháng 12/1953 tới tháng 3/1954. Tịch thu, trưng thu, trưng mua 2,609 mẫu cho 6,089 nông dân. (VKĐTT, 15:1954, p. 201).

Số nạn nhân của kế sách CCRĐ được ước lượng từ 15,000 tới 50,000 người. (Catton, 2002; Brocheux, 2003:225).

Cần nhấn mạnh, mục tiêu chiến lược của CCRĐ vào thời gian này: bên cạnh quyết tâm "tiêu hủy giai cấp địa chủ phong kiến," nhắm mở rộng sự kiểm soát các làng xă, tiêu diệt khả năng chống đối của địa chủ, gia tăng thu nhập lương thực và thuế, gia tăng số người nhập ngũ và "dân công" phục vụ nhu cầu chiến trường (lên tới hơn 100,000 trong chiến dịch Điện Biên Phủ). Măi tới sau đợt cải cách ruộng đất thứ 5 vào mùa Xuân-Hè 1956–trong không khí chống đối, bất măn khắp nơi, kể cả biến cố nông dân Quỳnh Lưu nổi dạy, Vơ Giáp phải mang quân lính đến đánh dẹp–Hồ mới họp Hội nghị TWĐ lần thứ 10 (khóa II, 8-10/1956), nh́n nhận khuyết điểm, tự chỉ trích và phê b́nh; rồi tự ḿnh thay Trường Chinh làm Tổng Bí thư, và trừng phạt chiếu lệ những cán bộ điều khiển chính sách cải cách ruộng đất. (TTLTQG 3 (Hà Nội) có một số tư liệu của Kho Quốc Hội đă giải mật. Bộ Văn Kiện Đảng Toàn Tập cũng in lại khá đầy đủ những nghị quyết và chỉ thị cơ bản về chính sách CCRĐ của Đảng Cộng Sản từ năm 1949 tới 1957. Xem, Chính Đạo, "Mặt Trận Nông Thôn: Từ Cải Cách Ruộng Đất tới Ấp Chiến Lược;" Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, tập II (Houston: Văn Hóa, đang in).

HCM đă chịu áp lực của Bắc Kinh để thực hiện việc cướp đoạt tập thể tài sản dân chúng này. nhưng qui trách cho sai lầm của Trường Chinh, không phải do các cố vấn TQ. (Hoan, 1987:366-367)

Kết luận sơ khởi của chúng tôi là cuộc cách mạng thổ địa vừa từ trên xuống (theo nghĩa do đảng LĐVN lănh đạo, phát động, tổ chức và kiểm soát) vừa từ dưới lên (bạo lực tự phát của giới nông dân nghèo khổ, ao ước được chia đều phương tiện sản xuất, kể cả đất đai) chỉ mới thành công về chính trị và quân sự hơn kinh tế và xă hội hay văn hóa.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Trong vụ án "Nhân Văn-Giai Phẩm", ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm ǵ không?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm là hậu quả đương nhiên của quyết định độc quyền cai trị bằng họng súng của Đảng CSVN. Là Chủ tịch Đảng và Nhà Nước, HCM chịu trách nhiệm. Riêng với HCM, đó c̣n là sự phản bội chính những đ̣i hỏi thuở trung niên của Hồ.

Nguyễn Vĩnh Châu:

C̣n về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, ông Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm ǵ không ?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Thời điểm này, HCM hầu như không c̣n thực quyền. Lê Duẩn-Lê Đức Thọ đă nắm hết quyền lực. Vấn đề đặt ra là liệu những viên chức địa phương đă vượt qua chỉ thị vào tháng 1/1968 của Lê Duẩn? (Phá cho tan hậu cứ VNCH, tức các đô thị).

Nguyễn Vĩnh Châu:

Hiện tại, nhiều đồng bào trong nước cũng như hải ngoại rất quan tâm và bất b́nh về vấn đề mất đất, mất các quần đảo do Trung Cộng chiếm đoạt. Vậy, theo ông th́ ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm ǵ không?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Dĩ nhiên là có. HCM là người cầm đầu Đảng và Nhà Nuớc. Thư ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai–tự nguyện nh́n nhận biên giới do Trung Cộng tự vẽ, với những dấu chấm ở vùng lănh hải phía Nam–phải được sự phê chuẩn của HCM và Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam như Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Lê Đức Thọ, v.. v...

Bắc Kinh và Hà Nội thường nói về t́nh "môi hở, răng lạnh," hay "viện trợ không kèm móc câu hay tḥng lọng." Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu và tḥng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu đựng.

Nguyễn Vĩnh Châu:

Qua những điều đă tŕnh bày th́ theo ông, Hồ Chí Minh đă để lại di sản ǵ cho Dân Tộc Việt Nam?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Một di sản buồn.

Ba mươi năm chiến tranh, hàng triệu người chết và thương tật, sự tàn phá của làng mạc, ruộng vườn, đất đai. Và mối hận thù khó nguôi của các giai tầng xă hội.

Một tương lai, mù sương, trong cuộc hành tŕnh vô định, đầy thử thách từ một xă hội nông nghiệp, nửa thực dân nửa phong kiến đă chết, tới một thể chế chưa đủ khả năng chào đời.

Từ năm 1991 bắt đầu nhập cảng thứ lư thuyết Marxist bị Hán hóa từ phương Bắc, và thay thế bảng hiệu "tư tưởng Mao Trạch Đông, lư luận Đặng Tiểu B́nh" bằng "tư tưởng Hồ Chí Minh."

Nguyễn Vĩnh Châu:

Nói tóm lại, theo ông th́ Hồ Chí Minh có công hay có tội đối với dân tộc Việt Nam?

TS Vũ Ngự Chiêu:

Có lẽ c̣n quá sớm để đánh giá HCM.

Vấn đề tùy thuộc ở những ǵ những người kế vị HCM sẽ thực hiện trong tương lai.

Houston, 1/2009

Nguyễn Vĩnh Châu

Nguồn: http://www.hopluu.net


  

                       
                                                                 Giới Thiệu Sử Gia Vũ Ngự Chiêu



Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)


Chính Đạo là một trong hai  bút danh của  Vũ Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975.  Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đă có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đ́nh di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.  

    Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có  Đời Pháo Thủ (bút kư), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cơi Chết (truyện), Ṿng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút kư), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v.  Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đă in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút kư), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.  

    Về nghiên cứu sử học, ông đă in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ kư tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm kư tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học.  

   Ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.  

    Sau năm 1975 ở hải ngoại, có những ḍng thác ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội và biện minh cho sự vô minh của ḿnh, Vũ Ngự Chiêu đă dần dần xuất hiện như  một nhà sử học khai sáng và can trường. Giá trị tinh thần của người trí thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà c̣n nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời tâm linh có ư nghĩa đă h́nh thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đă làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau, trong t́nh dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới của Vũ Ngự Chiêu là một đóng góp sáng giá và có ư nghĩa trong chiều hướng đó.   

Trích Từ : http://www.chuyenluan.net




Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Phỏng Vấn Sử Gia Vũ Ngự Chiêu
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo, sáng tác và ư kiến của quư vị và các bạn nhằm mục đích
 bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền an lạc & tự chủ của Việt tộc.



Trở Lại Trang Mặt