Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4888 www.vietnamvanhien.net Trang Tham Luận về: Quốc Hội
Nguyễn
Học
Tập
Ai trong chúng ta cũng nghe nói đến quyền lực Quốc Gia được phân chia ra thành các quyền Lập Pháp (Quốc Hội), Hành Pháp (Chính Phủ) và Tư Pháp (Tòa Án). Trong một Quốc Gia dân chủ, Quốc Hội Lập Hiến (hay Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp) được đề cử để đề thảo ra Hiến Pháp và Quốc Hội Lập Pháp, được dân chúng tuyển chọn ra để soạn thảo luật pháp. Quốc Hội là cơ quan Lập Pháp của quốc Gia, có nhiệm vụ soạn thảo luật pháp. Nhưng đó có phải là nhiệm vụ chính yếu của Quốc Hội không? Từ ngữ "Lập Pháp", được gán cho là nhiệm vụ của Quốc Hội phải được hiểu theo ý nghĩa nào cho đúng đắn? Những dòng dưới đây được viết ra để chúng ta trả lời câu hỏi trên, đồng thời giúp chúng ta hiểu biết về nguồn gốc lịch sử Quốc Hội của các Quốc Gia tân tiến trên thế giới, xác định rõ vai trò chính của Quốc Hội, cũng như những hệ tại của vai trò đó trong cuộc sống Quốc Gia. I - Quốc Hội ở Thế Kỷ XII - XIV. Quốc Hội trong thời quân chủ không được thiết lập và có vai trò của Quốc Hội trong các Quốc Gia dân chủ Tây Âu hiện tại. Quốc Hội của Vương Quốc Sicilia ở thế kỷ XII chẳng hạn là Hội Đồng Tư Vấn của Vua, thành viên được Vua chỉ định, có nhiệm vụ bàn thảo góp ý với Vua trong việc cai trị đất nước. Nhưng mọi quyết định đều do Vua định đoạt lấy. Cơ chế của Quốc Hội Vương quốc Sicilia bắt nguồn từ thời Đế quốc Roma. Quốc Hội của các tổ chức Xã Ấp (Comuni) thời Trung Cổ cũng có thể chế tương tự như Quốc Hội của Vương Quốc Sicilia, là những Hội Đồng Tư Vấn của thành phố, thôn ấp như thời Thị Xã (Polis) của Hy Lạp. Các tổ chức vừa kể chỉ họp khi được Vua hay giới cầm quyền Xã Ấp triệu tập để bàn thảo các vấn đề được trình bày, rồi giải tán sau đó. Ở Tây Ban Nha thời kỳ nầy có "Cortes" và ở Pháp có "États Généraux de Paris", là những Hội Đồng Tư Vấn và Cơ quan Tư Pháp của Vua. Quốc Hội của thành phố Paris chỉ có nhiệm vụ ghi vào hồ sơ (enregistrer) các ấn chỉ của Vua. Mặc dầu các Quốc Hội "Tư Vấn và Tư Pháp" trên được Vua hay dân chúng triệu tập, chỉ định một cách nào đó để giải quyết những vấn đề cần thiết, nhưng những tổ chức manh nha rời rạc trên không có cách gì đâm chồi nẩy mậm thành Quốc Hội theo ý muốn mà chúng ta hiểu hiện nay, bởi lẽ ở các Quốc Gia trong thời Trung Cổ, thể chế quân chủ tập quyền các lãnh chúa là tối thượng, bóp nghẹt hết mầm mống dân chủ manh nha trong các "Tiền Quốc Hội" (Préparlementaire) trên. II - Nguồn Gốc Quốc Hội. Quốc Hội Anh quốc thế kỷ XVI. 2 Một tổ chức muốn trở thành cơ cấu Quốc Hội theo ý nghĩa của chúng ta, nhứt phải thỏa mãn 3 điều kiện sau đây: a) phải
là một tổ chức có
tính cách dân cử, Ba điều kiện vừa kể đã được thể hiện tại Quốc Hội Anh vào thế kỷ 15. Trong lúc Cách Mạng đang diễn tiến cũng như sau đó, vào thế kỷ 16, Quốc Hội Anh luôn luôn xác định mình là xướng ngôn viên chính thức của Quốc Gia đối với Vua. Đọc lại những văn kiện đòi hỏi quyền hành của dân chúng Anh trong thế kỷ 17 và 18, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Văn kiện Statute Book là khế ước Magna Carta của năm 1225 được thay đổi (C. Fraith Thompson, Magna Carta, Ist Role in the Making consstitution 1300-1629, Minesota University Press, 1948). Văn kiện Habeas Corpus Act 1679, văn kiện Bill of Rights 1689, văn kiện Act of Settlement 1701 là những tài liệu nói lên ý thức của dân Anh về quyền hạn của mình đối với Vua. Viên đá nền tảng của cả tòa nhà ý thức Quốc Hội được dân chúng Anh tuyên bố ở thế kỷ 17 như sau: "Nhà Vua ở trong Quốc Hội " (The King in Parliament). Quyền hành pháp vẫn nằm trong tay Vua, nhưng thuế má phải được Quốc Hội tán đồng. Luật pháp chỉ có thể ban hành (enacted), với điều kiện là Nhà Vua ở trong Quốc Hội, tức là được quốc Hội, gồm có Vua, các quân tước (Lords) và đại diện làng mạc xã ấp chấp thuận. Sau đây là nguyên văn của điều kiện tiên quyết đó để cho luật lệ được ban hành có giá trị: "By the advice and consent of the King, the Lords and the Commons in this Present Parliamentassembled and by the autority of the same" (luật muốn được ban hành và có giá trị phải được sự đóng góp ý kiến và đồng thuận của Vua, các vị quân tước và đại diện xã ấp trong Quốc Hội nầy đang nhóm họp và được chính Quốc Hội cho phép) (cit. by C.H. Mcllwain, Constitutionalism and the Changing World, Cambridge, Cambridge University Press 1939,227). Điều đó nói lên nhiệm vụ của Quốc Hội Anh không phải chỉ có trách nhiệm kiểm soát luật pháp đối với Vua, để Vua không được ra luật tùy tiện, mà còn có quyền góp ý kiến vào đường lối chính trị của Vua, tức là bàn luận, góp ý sửa đổi luật pháp trước khi được ban hành. Qua lịch sử
Quốc Hội Anh vừa kể,
chúng ta thấy rằng Quốc Hội Quốc Hội Anh có tư cách trổi vượt khá xa đối với các Tiền Quốc Hội thời Trung Cỗ và cả đối với Quốc Hội Pháp cùng thời đó. Không kể đến các Tiền Quốc Hội thời Trung Cỗ, là những cơ quan Tư Vấn và Tư Pháp của Vua, Quốc Hội Pháp chỉ được (hay chỉ có) nhiệm vụ ghi vào hồ sơ án chỉ của Vua để rồi ban hành sau đó. Có lẽ Quốc Hội Pháp lúc đó cũng chỉ có tính cách Tư Vấn đối với Vua, tức là bàn góp ý kiến vói Vua trước khi ghi vào hồ sơ các ấn chỉ. Vua có toàn quyền định đoạt tất cả mọi vấn đề. Nói cách khác, Quốc Hội Pháp lúc bấy giờ chỉ là tổ chức ngoại vi (corps externe) đối với mọi quyết định của Quốc Gia. Trái lại quốc Hội Anh qua văn kiện vừa kể là một cơ chế cấu trúc nội tại (structure interne) đối với các quyết định của xứ sở. Với viên đá nền tảng "Nhà Vua ở trong quốc Hội", Quốc Hội Anh (Vua, quân tước và đại diện xã ấp) không những có quyền và bổn phận Tư Vấn (bàn góp ý kiến với Vua), ghi hồ sơ luật pháp sắp được ban hành, mà còn có quyền "bàn cãi, sửa đổi và biểu quyết đồng thuận, cho phép (and by the authority of the same)", thì luật pháp ban hành mới có giá trị. Đọc qua
nguyên văn với những
dòng suy nghĩ vừa qua, chắc chắn chúng ta
đã ghi
nhận hai điểm nổi bật của quốc Hội Anh lúc bấy
giờ: Một yếu tố quan trọng khác chúng ta cần ghi nhận là mặc dù Quốc Hội Anh lúc bấy giờ đã trở thành một cơ chế cấu trúc nội tại trong việc định hướng và quyết định của guồng máy quyền lực Quốc Gia, Quốc Hội vẫn là một tổ chức tách biệt và độc lập đối với quyền Hành pháp (Vua vẫn nắm gìữ quyền hành xử quyền bính trong tay). Yếu tố quan trọng đó có những hệ tại thiết yếu đối với cuộc sống tự do dân chủ của người dân. Trong những dòng kế tiếp chúng ta sẽ có dịp đề cập đến điểm then chốt vừa kể cho cuộc sống Quốc Gia. III - Cơ Quan Tư Pháp và Quốc Hội. Qua phần trình bày trên, chắc chắn nhiều người sẽ đưa ra thắc mắc: quốc Hội Anh như vừa kể, hành xử quyền kiểm soát và định hướng chính của mình để bênh vực quyền lợi của dân chúng và mưu cầu lợi ích cho đất nước. Cơ quan Tư Pháp (Tòa Án) cũng dùng luật pháp để bênh vực quyền lợi cho dân. Vậy thì đâu là sự khác biệt giữa cơ quan Tư Pháp và Quốc Hội? a ) Như trên chúng đã có dịp trình bày, Hội Đồng Tư Vấn và Cơ quan Tư Pháp, những tổ chức Tiền Quốc Hội thời Trung Cỗ, là những cơ cầu do vua lập ra. Mặc dầu cũng có những tổ chức Tiền Quốc Hội cũng dùng vị thế của mình để bênh vực quyền lợi, sinh mạng và tài sản của dân, nhưng họ không phải là những tổ chức do dân bầu ra, nên họ không có tư cách đại diện cho dân. Nói cách khác, Hội Đồng Tư Vấn khi đưa ra ý kiến về đường hướng chính trị hay luật pháp nào đó, thì ý kiến của Hội Đồng chỉ là ý kiến cá nhân hay cùng lắm cũng chỉ là ý kiến của một nhóm người đơn phương, họ không nhân danh dân chúng cử tri đã ủy thác nhiệm vụ cho họ để phát biểu ý kiến. Ngược lại, Quốc Hội là một cơ chế dân cử. Tiếng nói của Quốc Hội là tiếng nói của dân chúng, phát biểu nguyện vọng của dân chúng. Quyết định của Quốc Hội là những quyết định nhân danh và thể hiện ý muốn của dân. b ) Điểm khác biệt thứ hai là điểm khác biệt giữa Cơ Quan Tư Pháp và Quốc Hội. Cơ Quan Tư Pháp không làm ra luật (lập pháp). Tư Pháp chỉ dùng luật lệ đã có sẵn, được soạn thảo sẵn hoặc theo luật tự nhiên (lex naturalis) hoặc theo tập tục truyền thống (traditio) để xét xử. Vị thẩm phán không làm ra luật (jus dare), mà chỉ giải thích và áp đụng luật (jus dicere) đã có sẵn theo tinh thần của luật pháp (secundum legem). Trái lại, Quốc Hội (cơ quan lập pháp) với tư cách đại diện dân cử của mình, không những để kiểm soát Hành pháp (Vua, Chính Phủ), để bênh vực quyền lợi, phát biểu thể hiện ước vọng của dân chúng để định hướng đường lối chính trị của xứ sở qua việc ban hành những luật lệ mới. Dĩ nhiên Quốc Hội, trong lúc thi hành nhiệm vụ lập pháp của mình cũng dựa vào tinh thần luật lệ và tập tục đã có sẵn, nhứt là những nguyên tắc nền tảng của Hiến Pháp. IV - Quốc Hội và Chính Phủ. Qua tư tưởng vừa đề cập, chúng ta thấy rằng Quốc Hội Anh ở thế kỷ 17 là một cơ chế độc lập và tách biệt đối với Hành Pháp. Quốc Hội là chiếc cầu gạch nối giữa Hành Pháp và dân chúng. Vị trí khởi thủy của Quốc Hội Anh lúc bấy giờ là ở phân nửa cầu. Quốc Hội không thuộc về khối dân chúng, mà cũng không phải là thành phần của Hành Pháp (Hoàng Gia). Nhưng vị trí ban đầu đó dần dần không còn nằm ở chính giữa cầu nữa, nhất là Quốc Hội của các nước dân chủ ngày nay (và còn đặc biệt hơn nữa Quốc Hội ở các Quốc Gia Đại Nghị Chế). Càng ngày Quốc Hội càng xích sát gần về phía Hành Pháp, (trong Đại Nghị Chế, thường thì đa số lãnh đạo Hành Pháp cũng là đa số trong Quốc Hội, do đó mà Chính Phủ phải được đa số thành viên Quốc Hội tín nhiệm mới lãnh đạo được việc cai trị đất nước, cf. Anh quốc và Đại Nghị Chế). Thái độ vừa kể không có gì là khích lệ, nhứt là khi đất nước chỉ do một chính đảng lãnh đạo, như Đảng Cộng Sản ở Việt Nam chẳng hạn. Như trên chúng ta đã nói, Quốc Hội được bầu lên để đệ đạt nguyện vọng của dân chúng đối với vua. Quốc Hội Anh đã hành xử tư cách đại diện của mình bằng cách kiểm soát hành động của Vua và cùng với Vua soạn thảo ra những luật lệ mới. Vị thế khởi thủy đó của Quốc Hội Anh dần dần được Quốc Hội ở các Quốc Gia dân chủ hiện đại biến đổi. Quốc Hội hiện nay ở các nước dân chủ không những là cơ quan đại diện của dân chúng đối với Hành Pháp, mà còn là tiếng nói của Chính Phủ trước dân chúng theo đường lối chính trị của Chính Phủ (dĩ nhiên là đã được Chính Phủ và Quốc Hội thỏa thuận trước khi soạn thảo chương trình và luật pháp). Nhiệm vụ của quốc Hội hiện thời là nhiệm vụ lưỡng diện. Một mặt Quốc Hội là cơ chế dân cử, nên nhiệm vụ trước tiên của Quốc Hội là đại diện cho dân chúng, nói lên tiếng nói của dân đối với cơ quan Hành Pháp. Đàng khác Quốc Hội cũng có nhiệm vụ nói lên đường hướng chính trị, hướng đi của Quốc Gia nhằm mưu ích cho toàn dân. Do đó những quyết định luật pháp của Quốc Hội phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu chung của quốc Gia. Với vị trí vừa kể, Quốc Hội khó mà giữ được vị trí phân hai giữa dân và Chính Quyền. Đối với nhiều quyết định, Quốc Hội đã nhiều lần mặc nhiên trở thành cơ cấu nội tại của Chính Quyền. Quốc Hội đầu tiên của Anh Quốc và những quốc Hội kế tiếp đối thoại, tranh cãi với Chính quyền để bảo vệ dân. Quốc Hội của nhiếu quốc Gia hiện đại là cơ quan quyền lực của Chính quyền, là bình phong cho tư cách hợp pháp các hành động của Chính Quyền. Tình trạng càng trở nên nghiêm trọng hơn khi Chính Quyền lũng đọan, mua chuộc được Quốc Hội. Ở hầu hết các nước dân chủ hiên đại, các chính đảng chiếm đa số đương quyền cũng là những chính đảng chiếm đa số trong Quốc Hội. Do đó ý muốn của chính đảng đương quyền cũng sẽ dễ dàng trở thành "hợp pháp", được Quốc Hội phê chuẩn. Tiền liệu cho những điều bất trắc có thể xảy ra như vừa kể, Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đặt nặng vai trò của Viện Bảo Hiến, quyền can thiệp hữu hiệu của Chính Quyền các Tiểu Bang và giao cho thành phần thiểu số đối lập ngay trong Quốc Hội Liên Bang có thực quyền can thiệp vào tính các hợp hiến hay vi hiến của các đạo luật có thể được giới Hành Pháp Liên Bang soạn thảo và được Hạ Viện Liên Bang (Bundestag) "bồ nhà" có thể "chuẩn y, nhất trí" với phe nhóm đa số đương quyền (Điều 93, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, Cfr. Quốc Hội Cộng Hoà Liên Bang Đức, Cơ Chế Chống Độc Tài và Bất Ổn). V - Nhiệm vụ của Quốc Hội. Qua những
dòng vừa kể, mặc
nhiên chúng ta đã đề cập đến nhiệm
vụ của Quốc Hội. 1 - Nhiệm vụ
đại diện cho dân
chúng. Walter Bagehot cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhứt của quốc Hội là làm sao chọn lựa đích đáng cơ chế Hành Pháp để điều hành Quốc Gia. Nếu Quốc Hội lựa chọn được Chính quyền xứng đáng, thì nhiệm vụ kiểm soát luật pháp cũng như hướng dẫn đường lối chính trị quốc Gia sẽ giảm bớt đi. Trong khi đó thì dường như kinh nghiệm thường nhật cho chúng ta những dữ kiện ngược lại. Người ta có cảm tưởng là nhiều Quốc Hội hiện tại có khuynh hướng "bất tín nhiệm" để cản trở, truất phế Chính Phủ hơn là cũng cố. Dưới đây chúng tôi xin đơn cử một vài ví dụ về nhiệm vụ của Quốc Hội Ý đối với Chính Phủ, điển hình vai trò Quốc Hội trong một thể chế dân chủ. Trước hết sau cuộc bầu cử và được Tổng Thống bổ nhiệm, Thủ Tướng và Nội Các Chính Phủ phải được Quốc Hội Lưỡng Viện bỏ phiếu tín nhiệm mới được hoàn toàn giao phó quyền hành xử quyền lực quốc Gia: "Trong
vòng 10 ngày sau khi
thành
lập, Chính Phủ phải được Lưỡng Viện Quốc Hội bỏ
phiếu tín
nhiệm" (Điều 94, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). Và một khi đạo luật về ngân sách được chuẩn y, chính phủ không có quyền tăng thêm thuế và ngân sách chi tiêu tùy ý Điều 81, id.). Quốc Hội có quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh cũng như cho phép Chính Phủ ký kết các thỏa ước quốc tế (Điều 78 và 80, id.). Và một trong những quyền hạn quan trọng là Quốc Hội có thể hạch hỏi và điều tra Chính Phủ bất cứ lúc nào mà Quốc Hội cho là cần phải can thiệp (Điều 82, id.). Hiện nay chúng ta có khuynh hướng và theo ngôn ngữ thông dụng gọi Quốc Hội là cơ quan Lập Pháp. Thật ra khi chúng ta chọn các vị đại biểu vào Quốc Hội, chúng ta không chọn họ theo tiêu chuẩn là họ có khả năng "làm ra luật" hay không, mà là có cùng chí hướng với chúng ta, có khả năng đại diện chúng ta hay không. Nhiệm vụ chính của Quốc Hội Anh lúc đầu không phải là "làm ra luật" (lập pháp), mà là "chuẩn y hay bác bỏ" dự án luật. Đọc lại nguyên bản của điều kiện Quốc Hội: "Sự đóng góp ý kiến, sự đồng thuận... và phải được Quốc Hội cho phép", chúng ta sẽ thấy rằng nhiệm vụ chính của Quốc Hội là chuẩn y hay bác bỏ dự án luật sắp được công bố. Dĩ nhiên có nhiều phương cách để chuẩn y hay bác bỏ. Có thể có loại chuẩn y "nhắm mắt ký đại", hay nói theo ngôn ngữ của thời Việt Nam Cộng Hoà là làm "nghị gù, nghị gật". Nhưng cũng có cách chuẩn y bằng cách duyệt xét kỹ lưỡng, đưa ra những phán đoán cân nhắc điều khoản nào nên giữ, điều nào cần bị cắt bỏ, thêm bớt sửa đổi để đạo luật thành đường lối chính trị Quốc Gia: "phải có sự đóng góp ý kiến, sự đồng thuận...và được Quốc Hội cho phép" là vậy. Nhưng đù là đóng góp ý kiến, đồng thuận,... cho phép, nhiệm vụ chính của Quốc Hội không phải là lập pháp (làm ra luật), mà là góp ý kiến, chuẩn y hay bác bỏ luật. Như vậy Lập Pháp không có nghĩa là làm ra luật, mà "làm thế nào để luật được ban hành là một đạo luật hữu lý và có lợi cho quốc gia". Bởi lẽ khi chúng ta chọn dân biểu vào Quốc Hội chúng ta không đòi buộc họ phải có Cữ Nhân hay Tiến Sĩ Luật, có khả năng chuyên môn để làm luật, soạn thảo luật. Vấn đề "soạn thảo luật" sẽ được giao cho một ủy ban chuyên môn có trách nhiệm soạn thảo chớ không phải Quốc Hội. Chúng ta cần chú ý đến tư tưởng vừa kể về nhiệm vụ của Quốc Hội là chuẩn y hay bác bỏ luật cũng như hướng dẫn đường lối chính trị quốc gia bằng luật pháp. Đi ra ngoài nhiệm vụ chính yếu vừa kể, Quốc Hội có thể rơi vào cạm bẩy của danh từ Lập Pháp (làm luật), nhứt la khi Quốc Hội xích lại gần Hành Pháp, nhất cử nhất động của Chính Phủ đều được Quốc Hội làm ra luật. Quốc gia sẽ tràn đầy luật; luật lớn, luật nhỏ, luật con, luật cháu.., thay vì Quốc Hội đứng biệt lập với Hành Pháp để chuẩn y hay bác bỏ, duyệt xét và hạn chế, sửa đổi để Hành Pháp không được đưa ra những dự án, quyết định tùy hỷ. Người Roma
trong thời cực thịnh của đế quốc
họ đã đưa ra nhận xét: Câu nói vừa kể gợi cho chúng ta nhớ lại một trong những tư tưởng then chốt của Quốc Hội: Quốc Hội là một cơ quan chính trị của Quốc Gia, biệt lập và độc lập đối với Hành Pháp. Trong một nước dân chủ thực sự, luật pháp muốn có hiệu lực và công bằng phải được Cơ Quan "Chuẩn Y hay Bác Bỏ" tách rời khỏi Hành Pháp quyết định, để giữ mức thăng bằng và giới hạn quyền lực của Hành Pháp đối với dân chúng. Một ngày nào đó Quốc Hội không còn biệt lập và độc lập đối với Hành Pháp để "chuẩn y hay bác bỏ", như trong thể chế "Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước quản Lý, Dân Làm Chủ", làm chủ với hai bàn tay trắng, không còn một tất quyền lực trong tay, chúng ta chỉ còn sống trong một Quốc Gia, trong đó quyền Hành Pháp (nhứt là hành pháp theo lệnh lãnh đạo của Đảng) thao túng áp đặt trên đầu chúng ta những gì họ thích. Quốc Hội
là một cơ quan phân
quyền trong một nước dân chủ là vậy. Nguồn: http://www.lenduong.net Quốc Hội và Chính Quyền Trong Hiến Pháp Dân Chủ Nguyễn
Học
Tập
"Việc hành xử quyền lập pháp không thể được ủy thác cho Chính Quyền, nếu không với những nguyên tắc và tiêu chuẩn định hướng, chỉ trong thời gian giới hạn và các đối tượng được xác định". Chúng
tôi vừa trích dẫn
điều 76 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, liên
quan đến mối
tương giao đúng đắn phải có trong thể chế
Dân Chủ,
giữa hai quyền lực Quốc Gia, Lập Pháp và
Hành
Pháp. Luật
pháp được Quốc Hội "chuẩn y hay
bác bỏ" lập ra là dụng cụ
tiên khởi và thông thường để
xác định, bảo
vệ, thực hiện và phát huy triển nở quyền
và tự do
của người dân trong cuộc sống Cộng Đồng Quốc Gia:
Với những
mục đích vừa kể của tổ chức
Quốc Gia, được Hiến Pháp nêu ra "...mỗi
người được triển nở hoàn hảo con người của
mình và
tham gia thiết thực vào tổ chức chinh trị, kinh
tế và
xã hội của xứ sở", luật pháp được
Quốc Hội "lập ra" là những
dụng cụ tiên khởi để
thực hiện lý tưởng và ước vọng được ghi
trong Hiến
Pháp. I- Quyền lập pháp hạng hai của chính quyền Qua những
gì vừa được bàn đến,
quyền Lập Pháp là quyền của Quốc Hội
và quyền thực
hiện luật pháp, áp dụng luật pháp
hay Hành
Pháp là quyền đặc thù của
Chính Quyền. Như vậy,
muốn thực hiện các đạo luật
của Quốc Hội vào hoàn cảnh chính
trị, kinh tế,
xã hội của xứ sở, đối nội cũng như đối ngoại,
và nhứt
là trước những hoàn cảnh thay đổi,
Chính Quyền cần
giải thích sao cho thích hợp với
hoàn cảnh
và thích ứng các chỉ thị tổng
quát được đạo
luật của Quốc Hội chỉ định vào hoàn cảnh
và thời
điểm cá biệt, cũng như phương thức thích
hợp phải được
áp dụng, làm cách nào để Để giải thích và thích ứng các đạo luật chỉ thị tổng quát của Quốc Hội, Chính Quyền phải viết thành văn bản những quy tắc (normes), có hiệu lực luật định hạng hai, dựa theo và bên dưới các điều khoản luật được Quốc Hội lập ra trước đó. Các
quy tắc được Chính Quyền
soạn thảo ra được gọi là những đạo luật hạng hai,
đối luật
pháp của Quốc Hội. Và dĩ nhiên trong
một Thể Chế
Dân Chủ, theo nguyên tắc phân quyền,
các quy
tắc của Chính Quyền soạn ra để áp dụng
không thể
nào là: Nói như vậy, không phải là Chính Quyền của Thể Chế Dân Chủ được Hiến Pháp khoán trắng cho muốn giải thích, thích ứng ra quy tắc, sắc luật thế nào tùy hỷ, mà các quy tắc hay sắc luật đó phải được một đạo luật Quốc Hội ủy thác cho và không thể đi ra ngoài hay đi ngược lại các đạo luật hiện hành của Quốc Hội (E. Palici si Suni, La regola e eccezione: Istituzioni parlamentari e potestà normative dell’esecutivo, Giuffré, Milano 1988). Và
đó là những
gì đã được Hiến Pháp xác
định: Tình
trạng Benito Mussolini giải
thích luật pháp và áp dụng
tùy hỷ, ở
Ý ai cũng nghe nói đến, bởi đó
trên đầu
môi chót lưỡi của họ, họ luôn
luôn
khuyên chúng ta phải thận trọng: Quốc Hội của
Đảng và Nhà Nước
Dân Chủ CHXHCNVN nhà mình có
bao giờ biết
thiên hạ trên thế giới hành xử như
vừa kể
không? II- Quyền lập pháp hạng nhứt của chính quyền Chúng
ta vừa đề cập đến quyền lập
pháp của Chính Quyền, được soạn thảo ra
các quy
tắc (norme), sắc luật (decreti legislativi) là
những văn bản
giải thích và thích ứng với
môi trường
và hoàn cảnh để áp dụng các
đạo luật của
Quốc Hội, định hướng đường lối chính trị Quốc
Gia. Các
quy tắc, sắc luật được gọi là những văn kiện luật
pháp
hạng hai, so với các đạo luật Quốc Hội, bởi lẽ
là những
lối giải thích và thích ứng để
áp dụng
các đạo luật đã được Quốc Hội "lập
pháp", "chuẩn y hay
bác bỏ" cho
nẩy sinh ra trước. Nhưng quyền "lập pháp" của
Chinh Quyền
không phải chỉ có vậy. Dĩ
nhiên là đạo luật ủy nhiệm
phải hàm chứa các * kế đến
trong trường hợp khẩn trương Chính
Quyền có thể đề thảo ra những sắc lệnh (decretti
legge),
không cần đợi có được đạo luật ủy nhiệm của
Quốc Hội. Tuy
nhiên, sắc lệnh đó phải được Quốc Hội biến
cải
thành luật trong vòng 60 ngày.
Và đó
là những gì được tuyên bố ở điều 77:
Qua những
gì vừa kể, Chính
Quyền muốn có được thực quyền hiến định để "làm
ra
luật", Điều đó cho thấy trong Thể Chế Dân Chủ không có cách hành xử "lưỡng đầu chế" (bicefalismo) hay (dualismo) của hai trung tâm quyền lực lập pháp. Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc, trong
lãnh vực lập pháp, đặt Chính Quyền
trực thuộc
và dưới quyền giám định của Quốc Hội với Thể Chế
Dân Chủ là thể chế đặt
trọng tâm thượng đẳng xây dựng Quốc Gia
trên nền tảng
Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng
nói phát
biểu lý tưởng và ước vọng của người
dân. Nhiệm vụ
lập pháp, định hướng đường lối chính trị
Quốc gia
là nhiệm vụ của Quốc Hội. Cho đến một
lúc nào đó,
nếu Quốc Hội thấy mình không còn
có đủ khả
năng "lập pháp" để hướng dẫn
đường lối
chính trị Quốc Gia, bảo đảm quyền và tự do
của người
dân, Quốc Hội phải nhận thức tự lương tâm
mình
nên giải tán. Đạo luật Hiến Pháp của điều 76 đang bàn đặt giới hạn bắt buộc Quốc Hội hành xử trong lằn mức không thể thiếu, khi soạn thảo và tuyên bố đạo luật ủy nhiệm giao cho Chính Phủ quyền lập pháp trong một vài trường hợp cá biệt nào đó: "với các nguyên tắc, tiêu chuẩn hướng dẫn, thời gian giới hạn và mục dích xác định" (điều 76). Lằn mức bắt
buộc đó đối với Quốc Hội,
giảm thiểu tự do của Quốc Hội, nhưng đồng thời cũng
là phương
thế bảo vệ Quốc Hội và bảo chứng quyền và
tự do của
dân chúng. Quốc Hội không thể
khoán trắng,
giao đại, ủy nhiệm thả cửa cho Hành Pháp,
khiến Quốc Hội
không còn một tấc quyền trong tay và
Chính
Quyền biến thành Chính Quyền Phát
Xít độc
tài Mussolini, soạn thảo và hành xử
luật lệ
tùy hỷ lên đầu lên cổ dân
chúng. Và
tính cách vi hiến
hay hợp hiến đó, không phải Quốc Hội tự
mình đứng
ra phán quyết, cũng không phải do
Chính Quyền thoả
thuận với Quốc Hội đứng ra ếm nhẹm, mà là
do Viện Bảo
Hiến, "cơ quan đứng giữa và đứng
trên",
được
Hiến
Pháp
thiết
lập
để
công
minh
bảo
vệ
Thế Chế
Dân Chủ và bảo vệ người dân: Và
với những quyền được Hiến
Pháp giao phó vừa kể, Viện Bảo Hiến
đã không
ngần ngại cho là vi hiến, đặt ngoài
vòng
pháp luật đạo sắc lệnh số 400/1988 của
Chính Phủ Ý
lúc đó. Sau 60 ngày công bố,
không
được Quốc Hội đồng thuận chấp nhận hoán chuyển
thành đạo
luật, Chính Phủ thu hồi để rồi sau đó lại
sao ý
bản chính đệ trình, xin Quốc Hội triển hạn
cứu
xét. Đó là lối hành xử quanh
co, bất
chính và vi hiến, ngược lại những
gì đã
được Hiến Pháp xác định lằn mức ở điều 77,
chúng
ta vừa trích dẫn ở trên. Nguồn: http://www.lenduong.net Lấy Nhân Tâm
làm
phương tiện, dụng Dân Tâm làm quốc
sách: "An Dân & Lạc Quốc" là
kim chỉ nam cuả
thể chế Dân Chủ Văn Hiến.
Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến Trang Tham Luận: Quốc Hội www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ
và phổ biến
những biên khảo, sáng tác
và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích bảo tồn di sản văn hóa. Thắp
sáng niềm tin
Diên Hồng và nếp sống văn hiến hầu phục
hồi nền "An
Lạc
& Tự Chủ"ngàn đời của Việt tộc.
|