Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net


Sách Lược 10 Năm Quang Phục Quê Hương

 Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Gửi Các Bạn Trẻ Trong Và Ngoài Nước

Ngày nay vấn đề sinh tử của người Việt chúng ta là làm sao quang phục quê hương, giải thể chế độ Cộng Sản và xây dựng chế độ Dân Chủ.

Muốn đưa Cách Mạng Dân Chủ đến thành công phải có sự đấu tranh kiên cường của đồng bào trong nước và sự yểm trợ tích cực của đồng bào hải ngoại.

Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc chống chuyên chế, chưa thấy một quốc gia nào lại có cơ may như Việt Nam ngày nay. Đó là sự hậu thuẫn của khối đông đảo người Việt hải ngoại, ba triệu người như một, đồng lòng hướng về quê hương, mong cho dân tộc và đất nước tiến lên.

Chưa nói về sức mạnh tài chánh, đủ khả năng tiếp viện mỗi năm dăm bẩy tỷ mỹ kim cho quốc nội khi đất nước có tự do.

Chưa nói về sức mạnh phát triển, với hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật gia thượng thặng, đủ mọi ngành, mọi nghề, sẵn sàng trở về tái thiết quốc gia khi đất nước có dân chủ.

Chỉ nói về mặt nhân tâm, với hàng triệu tấm lòng, ngày đêm hướng về quê hương yêu dấu, mong cho đồng bào được hạnh phúc, cho dân tộc được tự do thì đó cũng là một sức mạnh tinh thần vô giá.

Một khi được vận dụng, sức mạnh này sẽ tạo thành động lực để thúc đẩy cuộc vận động lịch sử của người Việt trong nước đứng lên đòi quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Ngày nay, bằng sự vận động và tổ chức quần chúng, bằng sức mạnh của ngòi bút, sức mạnh của lời nói, sức mạnh của tư tưởng, chúng ta sẽ gây lại Niềm Tin. Vì có Niềm Tin mới có quyết tâm dấn thân hành động. Trên bình diện dân tộc Niềm Tin là võ khí lớn nhất. Nó đem lại những hy vọng mới, những chân trời mới, hướng dẫn con người đi tới tự do.

Dầu sao giải thể CS là một cuộc đấu tranh trường kỳ và cam go. Kinh nghiệm cho biết CS không bị giải thể vì những tấn công từ bên ngoài. Nó chỉ giải thể khi người dân không còn tha thiết bảo vệ chế độ nữa. Do đó muốn đưa Cách Mạng Dân Chủ đến thành công, chúng ta phải trông vào nội lực của chính mình.

Mà ngày nay dân trí bị bưng bít bởi bộ máy tuyên truyền vĩ đại của Đảng CS. Dân khí suy vi vì người dân thấy mình bị lường gạt trong 3 cuộc chiến tranh kéo dài hơn 40 năm. Dân quyền bị chà đạp trong một chế độ công an trị hà khắc. Dân tình đói khổ với những bất công và bất bình đẳng trầm trọng, lợi tức bình quân mỗi đầu người chỉ được 1 mỹ kim một ngày.

Chính quyền này coi dân như cỏ rác. Họ đánh giá quá thấp mạng sống con người. Trong vụ lính tuần duyên Trung Quốc sát hại 9 ngư dân Thanh Hóa, nhà nước chỉ bồi thường thiệt hại cho mỗi gia đình nạn nhân từ 30 đến 60 mỹ kim.

Trước tình trạng tủi nhục này chúng ta phải tự nhủ rằng, chúng ta sẽ góp phần vào việc giải phóng đồng bào khỏi sự bất công, khỏi sự nghèo đói, khỏi sự sợ hãi, khỏi nạn chuyên chế, khỏi nạn CS.

Cách đây hơn 70 năm Phạm Quỳnh đã cảnh giác chúng ta về nạn "dịch hạch CS". Ngày nay, với kinh nghiệm bản thân, chúng ta ý thức rằng CS còn nguy hại hơn dịch hạch. Nó là bệnh ung thư. Ung thư không thể trị liệu được. Ung thư phải bị cắt bỏ. CS cũng vậy. CS không thể sửa chữa được. CS phải bị giải thể!

Tuy nhiên một số người lại nhận định rằng CS đã giải thể rồi, và đảng CS đã biến thành một đảng Mafia hay băng đảng. Do đó chúng ta chỉ cần chống tham nhũng chứ không cần đấu tranh giải thể CS nữa.

Nhận định như vậy là chủ quan và không hiểu rõ bản chất CS.

Trên thực tế, bằng dĩ công vi tư, tham nhũng và lạm quyền, phe lãnh đạo CS ụ đã sang đoạt các tài sản quốc gia để làm giàu bất chánh. Hiện nay hàng trăm cán bộ CS cao cấp đã có những tài sản khổng lồ hàng chục triệu và hàng trăm triệu mỹ kim. Đồng bào vô cùng phẫn uất và đã tố cáo đích danh "con thằng Kiệt, con thằng Khải, cháu thằng Đỗ Mười" v...v... Mới đây cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, với đồng lương chết đói, đã dám tặng dữ một lần một triệu mỹ kim. Hành vi này cho biết ông ta đã vơ vét được hàng chục triệu mỹ kim từ thời cải tạo công thương nghiệp (đánh tư sản).

Điều đáng lưu ý là trong khi Mafia chỉ là một đảng cướp thường thì Đảng CS là một đảng cướp đã cướp được chính quyền.

Cũng vì vậy họ có chính phủ tay sai để thi hành đường lối chính sách của Đảng, có quốc hội bù nhìn để hợp thức hóa những nghị quyết của Đảng, và có tòa án công cụ để bắt giam độc đoán những công dân lương thiện đã đứng lên tố cáo bạo quyền đòi tự do, công lý, dân chủ và nhân quyền.

Hơn nữa, sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã thiết lập một chế độ độc tài toàn trị.

Do đó chúng ta còn phải đấu tranh giải thể CS ngày nào Đảng CS còn giữ độc quyền lãnh đạo, độc quyền tư tưởng. độc quyền thông tin, còn đàn áp tôn giáo và còn tước đoạt của người dân quyền tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng v...v...

Ngày nay Đảng CS là một con rắn hai đầu, đầu kinh tế Mafia và đầu chính trị độc tài. Muốn cho đất nước và dân tộc tiến lên, chúng ta phải kết hợp đấu tranh giải thể CS bằng cách chém đứt 2 đầu con rắn.

Bên cạnh quan niệm cho rằng CS đã tự giải thể, một số dư luận lại cho rằng CS không thể nào giải thể được. Đây là một nhận định bi quan và phản biện chứng.

Vì chỉ trên bình diện tôn giáo những nguyên lý chủ thuyết mới có giá trị là những chân lý tuyệt đối như đức từ bi của Nhà Phật, đức bác ái của Chúa Kitô, hay đức nhân nghĩa của Khổng Phu Tử. Trên bình diện dân sinh các nguyên lý chủ thuyết chỉ có giá trị tương đối theo thời gian và không gian. Về mặt chính trị xã hội các chế độ chỉ quy định những tương quan giữa người dân và quốc gia. Do đó nó phải thay đổi theo trình độ ý thức của người dân, điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia và trào lưu tiến hóa của lịch sử.

Cũng vì vậy tại Âu Châu, chỉ trong vòng hai năm (từ 1989 đến 1991), 22 quốc gia đã lần lượt giải thể CS: 7 nước thuộc Bức Màn Sắt Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, Roumanie, và 15 nước thuộc Liên Bang Sô Viết.

3 yếu tố giải thể CS là:
1) Sức mạnh của quốc dân biểu dương bằng những cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành, đình công v...v...
2) Một tổ chức đối kháng mạnh mẽ như Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan.
3) Ý thức phản tỉnh và tinh thần thể thao phục thiện của nhà cầm quyền. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do, khi thấy người dân không còn ủng hộ chế độ nữa, phe lãnh đạo CS đã lặng lẽ rút lui.

Trên thực tế không phải cuộc giải thể CS nào cũng hội đủ 3 yếu tố nói trên.
Tại Tiệp Khắc tới tháng 10, 1989 không thấy những cuộc biểu dương lực lượng quy mô của quần chúng. "Hiến Chương 77" chỉ là một tổ chức lỏng lẻo, không có nội qui, điều lệ, không có ban chấp hành và không có danh sách hội viên chính thức. Mục tiêu của Hội là đối thoại với nhà cầm quyền về những vấn đề nhân quyền và vi phạm nhân quyền.

Tại Hung Gia Lợi "Diễn Đàn Dân Chủ" cũng chỉ là một câu lạc bộ để thảo luận về vấn đề dân chủ. Yếu tố giải thể CS là ý thức phản tỉnh và tinh thần thể thao phục thiện của nhà cầm quyền.

Tại Đông Đức tới tháng 10, 1989, trong ngày kỷ niệm 40 năm lập quốc, Tổng Bí Thư Honecker còn mạnh bạo khẳng định rằng chế độ CS sẽ tồn tại 100 năm! Vậy mà chỉ 2 tuần sau, ngày 9-11-1989, bức tường ô nhục Bá Linh đã bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ CS.

Sự giải thể CS tại 7 nước Đông Âu năm 1989 đã đưa đến sự tan rã của Liên Bang Sô Viết năm 1991, và 15 quốc gia trong Liên Bang đã lần lượt giải thể CS.

Như vậy yếu tố giải thể CS thay đổi tùy theo điều kiện đặc thù của từng quốc gia. Dầu sao chúng ta thấy có 2 yếu tố chung: CHÍNH NGHĨA Và THỜI CƠ.

Chính Nghĩa ở đây là Chính Nghĩa Tự Do Dân Chủ. Và Thời Cơ là sự kiệt quệ của Liên Xô, kiệt quệ về Niềm Tin và kiệt quệ về kinh tế.

Từ sau cái chết của Stalin nhân dân Liên Xô đã ý thức sự sai lầm của chủ thuyết cách mạng vô sản, và muốn sống chung hòa bình với các nước tư bản Tây Phương. Hơn nữa từ thập niên 1980, kinh tế Liên Xô lâm vào tình trạng suy kiệt sau cuộc thi đua võ trang với Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Tinh Cầu (Star Wars).

Để cứu nguy đất nước, năm 1985, Gorbachev phải thay đổi chính sách bằng tái cấu trúc về kinh tế và cởi mở về chính trị. Vận dụng cơ hội lịch sử này, 7 nước Đông Âu đã đứng lên đấu tranh giải thể CS năm 1989. Và hai năm sau, năm 1991, Liên Bang Sô Viết đã tan rã, và 15 quốc gia trong Liên Bang đã giải thể CS.

Hậu quả dây chuyền của sự giải thể CS Âu Châu là sự tiêu vong của chế độ CS Á Phi tại Angola, Mozambique, Ethiopie, A Phú Hãn, Mông Cổ, Cao Miên v...v...

Dầu sao chúng ta ý thức rằng con đường quang phục quê hương còn lắm chông gai và giải thể CS là một việc thiên nan vạn nan. Hơn nữa chúng ta sẽ gĩặp nhiều trở ngại hơn các dân tộc Đông Âu.

Vì người dân Âu Châu thường có tinh thần thể thao phục thiện, trong khi phe lãnh đạo CS Việt Nam lại bất phục ngoan cố. Người dân Âu Châu thường ngay thẳng bộc trực, trong khi phe lãnh đạo CS Việt Nam lại ngụy trang dối trá. Người dân Âu Châu thường có tinh thần công bằng trọng pháp, trong khi phe lãnh đạo CS Việt Nam lại bao che tham nhũng. Đó là chỗ khó khăn của chúng ta.

Trong cuộc chiến đấu này chúng ta phải tìm hiểu những nhược điểm của đối phương để khai thác, và những võ khí của đối phương để hóa giải.

Những nhược điểm của CS là: độc tài, tham nhũng, bất công, bất lực, thường xuyên vi phạm nhân quyền và trắng trợn vi phạm nhân quyền.

Hai võ khí chiến lược của CS là: tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố.
Tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố là hai võ khí chiến lược của Đảng CS để cướp chính quyền và củng cố chính quyền. Đây là một cặp song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả. Nếu chỉ có tuyên truyền đối trá, mà không có đàn áp khủng bố, thì CS sẽ tiêu vong. Trái lại nếu chỉ có đàn áp khủng bố, mà không thể tuyên truyền dối trá được nữa, thì CS cũng sẽ bị giải thể.

TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ

1) Về mục tiêu độc lập thống nhất
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập Đảng CS đã lồng cách mạng CS trong chiêu bài giải phóng dân tộc Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng CS phủ nhận chủ nghĩa dân tộc. Họ không quan niệm độc lập quốc gia là một mục tiêu chiến lược, một cứu cánh tối hậu phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Đảng CS chỉ quan niệm độc lập quốc gia như một chiêu bài, một phương tiện, hay một sách lược để đạt được mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ phủ nhận bất cứ nền độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó, họ đã phủ nhận nền độc lập và thống nhất quốc gia do Hiệp Định Élysée trao trả cho Việt Nam năm 1949. Và họ tiếp tục phát động chiến tranh võ trang trong 40 năm - từ 1949 đến 1989 - để cướp chính quyền và bành trướng chủ nghĩa bá quyền.

Từ 1949 Chiến tranh Việt Nam không còn là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ (như Chiến Tranh Triều Tiên).

Sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa năm 1949, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế CS là nhuộm đỏ 2 bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Tháng 6, 1950 với sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc, Bắc Hàn đem quân xâm lăng Nam Hàn. Từ đó chiến tranh ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ.

Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết: 3 triệu người đã hy sinh thân sống tại Triều Tiên, 3 triệu thanh niên nam nữ đã hy sinh thân sống tại Việt Nam, và 2 triệu người Cao Miên đã bị tàn sát, không phải để giành độc lập cho quốc gia mà để cho Đảng CS có cơ hội cướp chính quyền.

Vì Đảng CS Đông Dương phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 quốc gia Đông Dương năm 1949, nên 3 cuộc chiến tranh Đông Dương đã xẩy ra, và Đảng CS Đông Dương phải chịu trách nhiệm về cái chết của 5 triệu người Đông Dương.

Đảng CS tuyên truyền rằng Pháp đem quân sang Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Đây chỉ là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ sau Thế Chiến II, Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Và năm 1946 Pháp đã ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả độc lập cho 2 quốc gia này.

Tuy nhiên Pháp và phe Dân Chủ Tây Phương không chịu trao Đông Dương cho Đảng CS Đông Dương, vì họ không muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Do đó từ 1947, Pháp đã thương nghị với phe Quốc Gia Việt Nam để trả độc lập cho Việt Nam.

Tháng 3, 1949 tại Paris, Tổng Thống Vincent Auriol ký HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE với Quốc Trưởng Bảo Đại để trả độc lập cho Việt Nam. Tháng 7, 1949, Tổng Thống Auriol lại ký Hiệp Ước với Quốc Vương Sisavangvong để trả độc lập cho Ai Lao. Và tháng 11, 1949 Tổng Thống Auriol lại ký Hiệp Ước với Quốc Vương Sihanouk để trả độc lập cho Cao Miên "theo tinh thần Hiệp Định Élysée".

Như vậy, sự thật lịch sử đã chứng minh rằng, từ sau Thế Chiến II tại Á Châu, chế độ thuộc địa đã cáo chung để nhường chỗ cho chế độ liên hiệp.

Từ 1955, trong kế hoạch thôn tính miền Nam, Đảng CS lại tuyên truyền rằng Hoa Kỳ đem quân sang để thống trị Miền Nam. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì trong hai thập niên 1950 và 1960, Hoa Kỳ đem quân tham chiến tại Đại Hàn và Việt Nam, không phải để thống trị hai nước này, mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.

Nói tóm lại, trong cuộc đấu tranh giành độc lập Đảng CS đã dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc. Họ đã phủ nhận nền độc lập và phá hoại nền thống nhất do những người Quốc Gia yêu nước đã tranh thủ được từ 1949. Và hai cuộc Chiến Tranh Việt Nam từ 1949 đến 1975 là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa.

Đại hạnh của Ấn Độ là có một Gandhi theo chủ nghĩa dân tộc. Đại bất hạnh của Việt Nam là có một Nguyễn Ái Quốc theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.

2. Về mục tiêu tự do dân chủ.
Đảng CS hứa thiết lập một chế độ dân chủ gấp triệu lần chế dộ dân chủ Tây Phương. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền dối trá. Về chủ thuyết Đảng CS không chủ trương thực thi tự do dân chủ cho người dân. Mục tiêu chiến lược của họ là thiết lập một chế độ độc tài vô sản, hay đúng hơn, một chế độ độc tài của Đảng để thống trị vô sản và nhân dân. Họ không tôn trọng bất cứ quyền nào trong 26 dân quyền căn bản dầu rằng những quyền này đã được ghi trong hiến pháp.

Kết quả là sau 60 năm cướp chính quyền, Đảng CS đã biến Việt Nam thành một trong những nước phản dân chủ nhất thế giới, kém cả Cao Miên. Vì tại quốc gia nầy tương đối có tự do tôn giáo và có chế độ đa đảng (Đảng Nhân Dân, Đảng Bảo Hoàng và Đảng Quốc Gia). Ngày nay Mông Cổ cũng theo chế độ lưỡng đảng trong khi Việt Nam vẫn giữ chế độ độc đảng và độc quyền lãnh đạo.

3. Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc.
Đảng CS hứa hẹn sẽ cải cách ruộng đất để chia ruộng cho người cày, đem lại công bằng xã hội cho người dân. Thật ra đây chỉ để đấu tranh giai cấp.

Đầu thập niên 1950, trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, Đảng CS đã sát hại hơn hai trăm ngàn trí thức và nông dân tiểu tư sản được đôn lên hàng địa chủ. Chỉ cần có 2 hecta ruộng mà không tự tay canh tác cũng bị đấu tố, tịch thâu ruộng đất, tài sản và nhà cửa. Năm 1956 họ chia cho bần cố nông mỗi người chừng 2 sào ruộng (mỗi sào là 360m2). Để rồi 2 năm sau, năm 1958, họ lại trở mặt thâu hồi lại tất cả ruộng đất đã phát cho bần cố nông trong chính sách tập sản hóa ruộng đất hay hợp tác hóa nông nghiệp. Theo chủ thuyết Đảng CS không công nhận quyền tư hữu và không chủ trương chia ruộng cho tư nhân. Do đó "người cày có ruộng" là một khẩu hiệu tuyên truyền chiến lược dối trá trắng trợn nhất của Đảng CS. Tới Thế Chiến II Việt Nam là một trong những quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á được mệnh danh là "bao lơn Thái Bình Dương", Saigon là "Hòn Ngọc Viễn Đông". Vậy mà ngày nay, sau 60 năm CS cướp chính quyền, Việt Nam trở thành một trong 10 nước nghèo đói nhất thế giới, lợi tức bình quân mỗi đầu người chỉ được một mỹ kim một ngày. Trong khi đó tại Phi Luật Tân là 3 mỹ kim, tại Thái Lan là 6 mỹ kim, tại Mã Lai là 10 mỹ kim, tại Đại Hàn là 25 mỹ kim, tại Đài Loan là 40 mỹ kim, và tại Tân Gia Ba là 85 mỹ kim. Đặc biệt tại Congo, một cựu thuộc địa Pháp tại Phi Châu, lợi tức bình quân mỗi đầu người cũng gấp đôi Việt Nam.

Trong cuốn Nhật Ký Rồng Rắn, Trần Độ đã vạch trần chính sách tuyên truyền dối trá cố hữu của Đảng CS: "Đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xã hội này là nói một đàng làm một nẻo. Nói thì dân chủ vì dân, mà làm thì chuyên chính phát xít, nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, nói vậy mà không phải vậy. Đặc điểm này tạo ra một xã hội dối lừa, lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối, bằng cấp giả dối, giáo dục giả dối, đến gia đình cũng lừa dối... Các vị lãnh đạo nói nhiều điều tốt đẹp là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì lãnh đạo hò hét "kiên quyết chống tham nhũng". Dân yêu cầu dân chủ, [đổi mới] thì lãnh đạo thêm chữ dân chủ, [đổi mới] vào khẩu hiệu [tuyên truyền] chiến lược. Nhưng nói thêm chữ thì chưa có ý nghĩa gì. Vì ta vốn nói một đàng làm một nẻo. Người trí thức và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia là vô nghĩa..."

Để chống lại sự tuyên truyền dối trá, chúng ta phát động phong trào truyền bá sự thật lịch sử và sự thật xã hội để chứng minh rằng Đảng CS không có công giành độc lập, không có công thống nhất đất nước và đã phản bội đồng bào trong các mục tiêu tự do dân chủ và mưu cầu hạnh phúc. ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ

Võ khí chiến lược số 2 của CS là đàn áp khủng bố. Đây là một trong hai song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả. Nếu CS không còn có thểù tuyên truyền dối trá được nữa, nếu người dân biết rõ mặt thật của CS họ sẽ không tha thiết bảo vệ chế độ nữa và CS sẽ tiêu vong.

Lịch sử đã chứng minh điều đó. Tại Đông Đức và Lỗ Ma Ni năm 1989, bộ máy công an kìm kẹp cũng rất hung dữ. Nó có sự dã man của mật vụ Gestapo thời Hitler, và sự tàn ác của mật vụ KGB thời Stalin. Vậy mà khi người dân đã biết rõ mặt thật của CS và đứng lên đòi Dân Tộc Tự Quyết thì võ khí đàn áp không còn hiệu nghiệm nữa.

Tại Liên Xô cũng vậy. Để chống lại mưu toan đảo chánh ngày 19-8-1991 của phe CS cực đoan, nhân dân đã đứng lên đòi giải thể CS. Quân đội xuất phát từ nhân dân đã đứng về phía dân. Và công an mật vụ phải bó tay không dám bắn vào đoàn người biểu tình.

5 bậc thang đàn áp khủng bố là: thủ tiêu cá nhân, tàn sát tập thể, lao động cải tạo, tòa án luật pháp và quản chế hành chánh.

1) Thủ tiêu cá nhân
Mặc dầu không ngừng kêu gọi đoàn kết quốc gia, Đảng CS đã thủ tiêu những người Quốc Gia yêu nước là những đối thủ nguy hiểm của CS trên đường cướp chính quyền. Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, họ đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Nhượng Tống v...v...

2) Tàn sát tập thể
Đồng thời với thủ tiêu cá nhân, Đảng CS còn tàn sát tập thể. Tàn sát vì lý do tôn giáo như sát hại các tín đồ Cao Đài và Hòa Hảo trong Chiến Tranh Đông Dương; vì lý do đảng phái như sát hại các cán bộ đảng viên Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân v...v...; vì lý do giai cấp như sát hại 200.000 trí thức và nông dân tiểu tư sản trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất; vì lý do chính kiến như sát hại 5 ngàn người Quốc Gia tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân.

3) Lao động cải tạo
Mặc dầu kêu gọi hòa giải hòa hợp dân tộc, từ 1975 Đảng CS đã bắt giam hơn hai trăm ngàn quân cán chánh và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại các "trại cải tạo", người thì 5, 7 năm, người thì 15, 17 năm. Đây là những trại lao động khổ sai cưỡng bách để đọa đầy thân xác và hủy diệt ý chí của tù cải tạo.

4) Tòa án luật pháp
Thay vì để ban phát công lý cho người dân và bảo vệ con người về sinh mạng, tự do, danh dự và tài sản, tòa án luật pháp CS được sử dụng làm công cụ đàn áp để bắt giam độc đoán những người đấu tranh ôn hòa cho tự do, công lý, dân chủ và nhân quyền.

Từ 1975 họ đã truy tố:
Về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, và đã kết án Nguyễn Khắc Chính, Linh Mục Phạm Ngọc Liên, Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đình Huy v...v...

Về tội tuyên truyền chống chế độ, và đã kết án Trần Vọng Quốc, Trần Tử Thanh, Trần Tử Huyền, Đoàn Thanh Liêm. Năm 1996 Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu và Nguyễn Kiến Giang đã bị kết án về tội tiết lộ bí mật nhà nước, thay vì tội tuyên truyền chống chế độ, dầu rằng họ đã công khai phủ định chế độ Cộng Sản.

Về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, và đã kết án Hòa Thượng Thích Quảng Độ và cụ Hoàng Minh Chính.

5) Quản chế hành chánh
Từ sau vụ án Lê Hồng Hà (1996), trong 5 năm, không thấy có vụ án chính trị công khai nào. Vì từ năm1997 Đảng Cộng Sản đã ban hành quy chế quản chế hành chánh để quản thúc tại gia những người đối kháng, cấm không được hành nghề, không được di chuyển, không được tiếp xúc với quần chúng, không được trả lời phỏng vấn và không được tham gia chính quyền.

Sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11-9-2001, khi Hoa Kỳ và đồng minh còn đang bối rối, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng thời cơ leo thang khủng bố từ bậc 5 (quản chế hành chánh) lên bậc 4 (tòa án luật pháp).

Một tháng sau họ kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lý về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia. Sau đó họ kết án Lê Chí Quang về tội tuyên truyền chống nhà nước và kết án Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Vũ Bình về tội gián điệp.

Ngoài ra họ còn truy tố thêm 7 người về tội gián điệp, nhưng sau phải cải thành tội lợi dụng quyền tự do dân chủ để kết án Nguyễn Vũ Việt, Nguyễn Trực Cường, Nguyễn Thị Hoa, Trần Dũng Tiến, Phạm Quế Dương, Trần Khuê và Nguyễn Đan Quế.

Và tháng 11-2004, muốn tránh tiếng đàn áp tôn giáo, họ đã truy tố và kết án Mục Sư Nguyễn Hồng Quang và một số truyền đạo Tin Lành về tội thường phạm chống người thi hành công vụ.

Tổng kết lại từ sau vụ Đại Khủng Bố ngày11-9-2001 đến tháng 11-2004, tòa án đã truy tố và kết án 18ụ tù nhân tôn giáo và tù nhân chính trị bằng những tội danh giả tạo bịa đặt, và cưỡng ép lố bịch.

THẬP DIỆN MAI PHỤC

Vì không được quyền tranh luận trước tòa, trong 14 năm, từ 1991 đến 2004, chúng tôi đã đệ trình quốc dân những bản biện minh trạng để bào chữa cho 22 tù nhân lương tâm. Ngoài ra chúng tôi còn công bố bản Thất Điều Trần để biện hộ chung cho 10 bị can bị bắt giữ về tội gián điệp. Trong phần kết luận chúng tôi nhận định rằng ngày nay Cộng Sản sợ 7 điều (Cộng Sản Hữu Thất Cụ). 7 điều Cộng Sản sợ chính là 7 mặt trận đấu tranh của chúng ta để giải thể Cộng Sản và xây dựng Dân Chủ.

1) Cộng Sản sợ internet, sợ tin tức ý kiến: Chúng ta phát động mặt trận truyền thông.
2) Cộng Sản sợ dư luận quốc tế, sợ mất chính nghĩa, mất viện trợ đầu tư: Chúng ta phát động mặt trận quốc tế vận.
3) Cộng Sản sợ đối lập: Chúng ta phát động phong trào tổ chức, phát triển và kết hợp các lực lượng dân chủ ở trong nước và hải ngoại.
4) Cộng Sản sợ sự thật: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá sự thật, phục hồi sự thật lịch sử, để giành lại chính nghĩa tự do dân chủ, hậu thuẫn quần chúng và hậu thuẫn quốc tế.
5) Cộng Sản sợ tự do: Chúng ta phát động mặt trận đấu tranh đòi tôn trọng và thực thi những quyền tự do căn bản ghi trong hiến pháp và trong Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị.
6) Cộng Sản sợ dân chủ: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá dân chủ, phổ biến ý thức dân chủ và những kỹ thuật pháp lý tiến tới việc thiết lập chế độ dân chủ pháp trị, dân chủ đa đảng.
7) Cộng Sản sợ nhân quyền: Chúng ta phát động mặt trận truyền bá nhân quyền, đấu tranh đòi thực thi nhân quyền, phản kháng những vi phạm nhân quyền, đặc biệt tranh thủ từng tù nhân lương tâm.

Ngoài 7 mặt trận nói trên, chúng ta còn phát động 3 mặt trận:
8) Mặt trận tự do tôn giáo: Đấu tranh đòi phóng thích các tù nhân tôn giáo, đòi lại quyền sinh hoạt tự trị cho các giáo hội, và đòi lại các cơ sở tài sản của giáo hội để hoằng dương đạo pháp.
9) Mặt trận bảo vệ chủ quyền lãnh thổ: Tố cáo phe lãnh đạo Cộng Sản phản bội Tổ Quốc bằng cách nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc, chống chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc, và đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh hải của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
10) Mặt trận luật pháp tòa án: Phối hợp các mặt trận đấu tranh để hóa giải võ khí đàn áp khủng bố của Cộng Sản. Với sự thiết lập Tòa Án Hình Sự Quốc Tế, 3 loại đàn áp khủng bố dã man nhất là thủ tiêu cá nhân, tàn sát tập thể và lao động cải tạo sẽ cấu thành tội chống nhân loại thuộc thẩm quyền Tòa Án Hình Sự Quốc Tế. Do đó ngày nay luật pháp tòa án là võ khí chiến lược căn bản của Cộng Sản để đàn áp đối lập và củng cố chính quyền.

ƯỚC VỌNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH

Ngày nay Hoa Kỳ và các đồng minh muốn phát triển các tương quan ngoại giao, kinh tế, văn hóa với Hà Nội để hy vọng thực hiện lộ trình diễn biến hòa bình, cho Việt Nam hội nhập vào cộng đồng các quốc gia dân chủ trên thế giới.

Đó cũng là ước vọng của chúng ta.
Mọi người kỳ vọng rằng, với sự phát triển kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa và trao đổi tin tức ý kiến, rồi đây dân trí sẽ mở mang, đời sống kinh tế của người dân sẽ thoát khỏi sự kiềm tỏa của nhà nước, và ý thức dân chủ sẽ khai thông kỷ nguyên nhân quyền và tiến bộ.

Kinh nghiệm Đông Âu cho biết, nhờ có trao đổi tin tức ý kiến, người dân lần lần hiểu rõ bản chất của Cộng Sản. Và khi biết rõ mặt thật Cộng Sản, họ không còn tha thiết bảo vệ chế độ nữa, và chế độ đã tiêu vong. Tại Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Bảo Gia Lợi chế độ Cộng Sản đã bị giải thể bằng diễn biến hòa bình.

Điều đáng lưu ý là các nhà lãnh đạo Cộng Sản Âu Châu thường có ý thức phản tỉnh và tinh thần phục thiện. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do khi thấy người dân không còn tín nhiệm chế độ nữa thì họ đã lặng lẽ rút lui.

Việc này sẽ không xảy ra tại Việt Nam.
Vì những người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam không suy nghĩ và hành động như những người Cộng Sản Âu Châu. Họ không bao giờ dám tổ chức trưng cầu dân ý hay tuyển cử tự do để biết rõ nguyện vọng của người dân. Thay vì có tinh thần thể thao phục thiện, họ lại bất phục ngoan cố. Họ không phải là những người yêu nước và không đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của đảng phái. Họ chỉ giả nhân giả nghĩa, sử dụng các tài sản quốc gia và các ngân khoản viện trợ để trang bị bộ máy công an nhằm đàn áp đối lập và củng cố chính quyền.

Hơn nữa họ rất sợ giao lưu văn hóa và trao đổi tin tức ý kiến với thế giới dân chủ. Họ chỉ lợi dụng giao lưu văn hóa một chiều để tuyên truyền cho cái gọi là "sự nghiệp giải phóng dân tộc" và "sự nghiệp đổi mới" nhằm tạo huyền thoại cho Hồ Chí Minh, và gây uy tín cho Đảng Cộng Sản được độc quyền lãnh đạo quốc gia.

Như vậy nếu có đổi mới thì cũng chỉ là thay đổi về hình thức, chứ không thay đổi về thực chất.
Trong điều kiện này, nếu chúng ta chỉ chờ đợi bất chiến tự nhiên thành mà không hy sinh tranh đấu, thì đến năm 2015 - nghĩa là 70 năm sau khi Cộng Sản cướp chính quyền - xã hội của chúng ta cũng sẽ không bằng xã hội Miền Nam đầu thập niên 1970.

Do đó phương châm hành động của chúng ta vẫn là:
Hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ giúp ta.
Hãy hy sinh và chiến đấu rồi đồng minh sẽ giúp ta.
Diễn biến hòa bình chỉ là một ước vọng, không phải là sách lược.

LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG

Nguồn: http://www.lenduong.net





Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Sách Lược Quang Phục
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ.


Trở Lại Trang Mặt