Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4890

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



TRỒNG ĐỒNG VĂN LANG NHÁNH

LẠC VIỆT, TRỐNG MIẾU MÔN I.

 (phần 1)

Bác Sỹ Nguyễn Xuân Quang

Trống đồng nòng nọc, âm dương là bộ sử đồng của Đại Tộc Việt. Ta đã biết trống đồng là trống biểu của ngành nọc, trống (đực) mặt trời ứng với ngành nọc Việt mặt trời, là trống biểu của Hùng Vương, vua mặt trời. Trong các bài trước ta đã biết:

 .Trống Quảng Xương là một chương sử đồng viết về Bách Việt, Người Mặt Trời rạng ngời, con cháu của Hùng Vương, Vua Mặt Trời.

 Bách Việt, Người Mặt Trời rạng ngời trên trống Quảng Xương

Đại Tộc Việt  gồm có hai ngành: ngành lửa, chim Việt  mỏ cắt Viêm Đế (cõi tạo hóa)-Đế Minh (cõi thái dương hệ)-Kì Dương Vương (thế gian) theo mẹ lên núi:

Người chim ngành lửa Mẹ Tổ Âu Cơ dòng chim mỏ cắt, chim Việt gồm Viêm Đế (cõi tạo hóa )- Đế Minh (cõi thái dương hệ )- Kì Dương Vương (thế gian), Âu Cơ núi.

và ngành nước, rắn Việt Thần Nông (tạo hóa) – Đế Lạc ( cõi thái dương hệ, tương đương với Đế Minh) – Lạc Long Quân (thế gian) theo cha xuống biển.

 

Người rắn ngành nước Lạc Long Quân dòng rắn, cá sấu dao, sấu Việt gồm Thần Nông thái dương (cõi tạo hóa)- Đế Lạc (cõi thái dương hệ) – Lạc Long Quân (thế gian), biển.

 .Về ngành nước qua nhóm trống cóc/ếch có mặt trời 12 nọc tia sáng, ta đã thấy rõ một khuôn mặt sấm mưa Chấn/Cấn ứng với Lạc Long Quân có một khuôn mặt thần sấm có “nhà” ở đầu non Âu Cơ của Đại Tộc Lạc Việt ở cõi tạo hóa, sinh tạo và cõi trời thế gian (thái dương hệ). Ta cũng đã thấy rất rõ một khuôn mặt tiêu biểu của ngành nước Thần Nông – Đế Lạc – Lạc-Long Quân này qua trống Giao Việt Hòa Bình.

.Trống Kì Việt Phú Xuyên cho thấy rõ một khuôn mặt thế gian tiêu biểu của ngành lửa Viêm Đế – Đế Minh là Kì Dương Vương.

Trống Miếu Môn I này sẽ cho thấy một khuôn mặt lưỡng hợp thiếu dương và thiếu âm của hai ngành nọc dương và nọc âm của ngành nọc mặt trời thái dương ở cõi thế gian tức tiểu vũ trụ.  Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt đây là sự lưỡng hợp của hại nhánh Lang (nọc dương) Nọc Âu Cơ và Nòng Lạc Long Quân tức là một khuôn mặt của liên bang Văn Lang của Hùng Vương.

 Trống Miếu Môn I (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

 

 Tổng quát

 Trống Trống Miếu Môn I tìm thấy ở Miếu Môn, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn Bình năm 1961.

.Các vành ở biên trống mang tính âm thái dương.

Sự hiện diện ở biên trống của hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang nghĩa thái dương kẹp giữa một vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn cho biết trống thuộc ngành mặt trời Nước, Chấn thái dương [trong khi ở trống Phú Xuyên ở biên trống có hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương kẹp giữa hai vành chấm nọc, lửa, mặt trời thái dương sinh tạo (có Li đội lốt mặt trời Càn thế gian thái dương mang tính chủ)].

 Xin nhắc lại các vành ngoài biên trống cho biết trống thuộc ngành, đại tộc, tộc nào.

.Trống có cả hai yếu tố nòng nọc, âm dương.

Trên mặt trống ngoài các yếu tố dương như các vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói), các vành giới hạn có chấm nọc còn có các yếu tố âm như vỏ không gian hay vỏ Trứng Vũ Trụ rất dầy, đậm nét mang âm tính nghiêng về phía thái âm nước.

Ở vùng đất thế gian và ngoài biên trống có sự hiện diện của hai vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

Như thế trống này là trống biểu của hai nhánh nòng nọc, âm dương, có một dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương của ngành Mặt Trời Nước, Chấn thái dương.

.Điểm đặc biệt cần chú ý NHẤT là trống này có vành chủ yếu nằm gần sát mặt trời là vành thú bốn chân có hai loại thú khác nhau, trong khi ở trống Hòa Bình và trống Phú Xuyên vành chủ yếu chỉ có một loài thú là Sấu Việt và Hươu Việt. Sự hiện diện của hai loài thú bốn chân cho thấy trống có hai khuôn mặt của hai ngành, hai đại tộc hay hai tộc khác nhau. Vì nằm cùng một vành trên trống đống nòng nọc, âm dương thì hai loài thú này phải có một khuôn mặt lưỡng hợp nòng nọc, âm dương. Trống này là trống thế gian (mặt trời có số nọc tia sáng lơn hơn 7) và hai con thú có bốn chân sống trên mặt đất thế gian nên lưỡng hợp nòng nọc, âm dương của hai loài thú này là dạng lưỡng hợp thế gian tức ở cõi tiểu vũ trụ, nói một cách khác là dạng lưỡng hợp thiếu dương Li lửa thế gian với thiếu âm Đoài bầu trời thế gian (lưỡng hợp dạng thiếu ở tiểu vũ trụ).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là dạng lưỡng hợp thế gian của lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng của hai nhánh lửa, núi và nước, biển của  trăm Lang Hùng Vương thế gian. Như thế ta thấy ngay trống có một khuôn mặt là trống liên bang Văn Lang của Hùng Vương.

Xin xem chương Văn Lang trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt.  Chỉ xin nhắc lại Văn Lang cũng như các tên cổ sử khác như họ Hồng Bàng, Hùng Vương, Kì Dương Vương, Lạc Long Quân… đều phải nhìn dưới mọi góc cạnh trọn vẹn của cốt lõi văn hóa Bách Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Việt Dịch nòng nọc dựa trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Dưới lăng kính lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, Văn Lang  có một nghĩa là liên bang của hai nhánh nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng của trăm Lang Hùng, của Hùng Vương (tức phía con trai, mặt trời nọc thái dương), nghĩa là lưỡng hợp thế gian thiếu dương (OI) của phía dương Lang (I) tức IOI, Li  với thiếu âm (IO) của phía dương Lang (I) tức IIO, Đoài. Văn Lang là một liên bang có một khuôn mặt lưỡng hợp của thiếu dương Văn và thiếu âm Lang.      

.Một trong hai loài thú bốn chân đã thể điệu hóa, đã bắt đầu thần thoại hóa không còn ở dạng thiên nhiên (naturalistic) nữa, cho thấy trống đã hơi muộn và ta phải giải đọc các yếu tố trên trồng theo tính cách thể điệu hóa nghĩa là nghiêng nặng về phía ý nghĩa biểu tượng.

 Trống Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia sáng thuộc nhóm mặt trời có số nọc tia sáng là số Tốn (6, 14, 22…). Như đã nói ở trên trống này có khuôn mặt lưỡng hợp nên Tốn hôn phối với hai khuôn mặt dương của hai ngành nòng nọc, âm dương. Hai khuôn mặt này là hai khuôn mặt nào?

Qua ttrống Phú Xuyên có mặt trời 14 nọc tia sáng ta đã biết Tốn hôn phối với Càn. Kiểm chứng với Dịch sách thấy sự hôn phối này trong Hậu Thiên Bát Quái:

Sự hôn phối Tốn OII với Càn III là sự hôn phối tương đồng bản thể Lửa (II) ngành nọc dương. Tốn OII là Nàng O Lửa II hôn phối với Càn là Chàng I Lửa II.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Ai Cập ta thấy thần Set có một khuôn mặt Càn hôn phối với Nephthys có nột khuôn mặt Tốn (Nephthys là chị em sinh đôi với Isis. Isis mang hình bóng của Mẹ Tổ Âu Cơ có một khuôn mặt Tốn) (Sự Tương Đồng Giữa Cổ Việt và Ai Cập Cổ) .

Ở trống thế gian Miếu Môn I này Tốn thế gian 14 hôn phối với Càn thế gian tức là Li.  Sự hôn phối Tốn OII với Li này  cũng thấy rất rõ trong truyền thuyết Ai Cập cổ là nữ thần bầu trời Nut (goddess of Sky) có một khuôn mặt  Tốn lấy Thần Đất Keb (God of Earth), Li phía ngành nọc, dương (Sự Tương Đồng Giữa Cổ Việt và Ai Cập Cổ).

Và qua nhóm trống cóc/ếch Chấn/Cấn có mặt trời 12 nọc tia sáng ta có Đoài hôn phối với Tốn. Kiểm chứng với Dịch sách ta cũng thấy Đoài hôn phối với Tốn ở lá bùa trừ tà của dân gian Việt Nam (dùng trừ tà vì Dịch có một khuôn mặt Chấn Sấm có búa thiên lôi trừ được ma quỉ).

Sự hôn phối Tốn OII với Đoài IIO này cũng thấy rất rõ trong truyền thuyết Ai Cập cổ là nữ thần lửa Tefnut (goddess of Fire), Tốn lấy Thần Khí Gió Shu (God of Air), Đoài phía ngành nòng, âm (Sự Tương Đồng Giữa Cổ Việt và Ai Cập Cổ).

 Lưu Ý

Xin lưu tâm là Tốn OII nhìn theo những diện nòng nọc, âm dương khác nhau của Dịch có hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương khác nhau. Theo duy dương phía mặt trời, Tốn OII là Nàng Lửa II  hay mặt trời âm, nữ  đĩa tròn không có tia sáng O thái dương II giống như Âu Cơ có một khuôn mặt Tốn OII, Nàng Lửa, Thái Dương Thần Nữ. Theo duy âm phía nòng không gian Tốn là không Gian O Lửa II tức Khôn dương, khí gió ngành nòng âm. Với khuôn mặt âm bầu khí gió này mà Mẹ Tổ Âu Cơ đội lốt bầu vũ trụ, bọc Trứng Vũ Trụ mà sinh ra bọc trứng thế gian trăm Lang Hùng.

Điều này giải thích tại sao Tốn là lưỡng hợp với  Li/ Càn ngành nọc dương và với Đoài/Chấn ngành nòng âm.

Xin hãy dùng Việt Dịch đồng Đông Sơn giải thích cổ sử Ai Cập cổ.

Như thế trăm phần, trăm trống Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn có khuôn mặt lưỡng hợp là Càn thế gian (tức Li)/Tốn và Đoài/Tốn  tức diễn tả lưỡng hợp thế gian tiểu vũ trụ thiếu đương Li với thiếu âm Đoài.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Tốn (OII) là khuôn mặt Nàng (O), Lửa (II), Thái dương thần nữ Âu Cơ ngành Lửa đất (Núi dương, núi lửa) Li, Lửa thế gian Kì Dương Vương (cả hai đều có biểu là con hươu đực và cái). Do đó khuôn mặt Càn thế gian/Li/Tốn của trống Miếu Môn I ứng với phía Núi Âu Cơ tức Đế của Viêm Đế. Trong khi khuôn mặt Đoài/Tốn có Đoài (IIO) là Chàng (I) gió thiếu âm (IO), là Khôn dương Nông của phía nòng Khôn Thần Nông ứng với Lạc Long Quân. Rõ ràng trống Miếu Môn I mang một ý nghĩa biểu tượng cho lưỡng hợp hai nhánh Âu Cơ-Lạc Long Quân  của Hùng Vương tức có một khuôn mặt liên bang Văn Lang. Trống này có một khuôn mặt là trống Nông-Đế (Nông viết trước Đế vì các vành ngoại biên cho biết phía âm, Nông mang tính chủ).

.Trống có một nghĩa là đực, là nọc, là dương nên trống được dùng làm trống biểu của ngành mặt trời. Trống đồng hở đáy và trên mặt trống có hình mặt trời nằm trong vòn tròn vỏ không gian của của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc, âm dương nên là trống biểu tượng cho cả hai nhánh âm dương của ngành mặt trời: dương thái dương và âm thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống biểu của Hùng Vương (Hùng có một nghĩa là Trống, nọc, đực, mặt trời) lưỡng hợp Chim Rắn, Tiên-Rồng. Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn   là trống biểu của cả hai ngành Hùng Vương dương thái dương Lửa, Núi Mẹ Âu Cơ và âm thái dương Nước, Biển Lạc Long Quân và của Bách Việt (xem Trống Đồng Là Trống Biểu Của Hùng Vương trong bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).

.Họ

Trống Miếu Môn I  thuộc họ mặt trời hừng rạng, rạng ngời có tia sáng nọc mũi mác.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là trống biểu của họ Hồng Bàng có một khuôn mặt là họ mặt trời thái dương. Theo duy dương, họ Hồng Bàng có một nghĩa là Họ Đỏ, Họ Mặt Trời. Họ Hồng Bàng thế gian kể từ Kì Dương Vương trở xuống, nhìn theo diện nòng nọc, âm dương chỉ gồm có Kì Dương Vương (Kì Việt thuộc ngành mặt trời Viêm Đế và Lạc Long Quân thuộc ngành không gian Thần Nông.

Còn Hùng Vương trong họ Hồng Bàng có thể coi là có một khuôn mặt lịch sử là chính. Ở trống này ta thấy rất rõ dạng lưỡng hợp thiếu dương Li nhánh núi và thiếu âm nhánh nước là con cháu của Kì Dương Vương và Lạc Long Quân. Hùng Vương coi như là thuộc họ Hồng Bàng lịch sử.

Như thế họ Hồng Bàng cần phải nhìn dưới ba diện theo lưỡng hợp nòng nọc, âm dương: ở cõi Tạo Hóa là họ Hồng Bàng vũ trụ gồm hai ngành Viêm Đế và Thần Nông. Ở cõi thế gian: họ Hồng Bàng chỉ gồm có Kì Dương Vương và Lạc Long Quân. Ở cõi lịch sử, họ Hồng Bàng gồm hai nhánh Hùng Vương Núi và Biển.

Hùng Vương lịch sử đội lốt Tổ Hùng tạo hóa, sinh tạo ở cõi trên Thượng Thế.

Đế Minh là cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế thì Kì Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương cũng thuộc dòng mặt trời Viêm Đế. Hiển nhiên họ Hồng Bàng trăm phần trăm có một khuôn mặt là Họ Mặt Trời.

.Ngành

Hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ở biên trống cho biết trống thuộc ngành nọc dương thái dương mặt trời chói sáng khác với trống đồng âm thái dương ví dụ như trống Cổ Loa cũng có mặt trời 14 nọc tia sáng nhưng có hai vành đường rầy hay hình các thanh thang đứng (răng lược) ở biên trống cho biết trống thuộc ngành nọc âm thái dương, mặt trời êm dịu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là ngành mặt trời dương thái dương phía Viêm Đế.

.Nhánh

Mặt trời có tia sáng hình nọc mũi tên nhọn, sắc ứng với nhánh nọc, lửa, nọc nhọn, rìu nhọn tức nhánh rạng ngời khác với các trống cóc/ếch như trống Hữu Chung có nọc tia sáng cạnh cong hình búp măng, cánh hoa sen nhọn đầu mang âm tính diễn tả ánh sáng nọc âm êm dịu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là nhánh Việt mặt trời rạng ngời.

.Đại tộc

Khối lửa mặt trời hình cầu gai chói lọi không thấy đĩa tròn ứng với đại tộc thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, đây là đại tộc Việt thái dương ngành dương.

.Dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương

Thấy qua sự kiện là trống hở đáy, mặt trời-không gian ở tâm trống và tia sáng số chẵn âm đi với mặt trời dương.

Đặc biệt ở đây như đã nói ở trên có dạng lưỡng hợp thiếu dương thiếu âm ở cõi thế gian tiểu vũ trụ.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, lửa-nước ứng với Chim-Rắn, Viêm Đế-Thần Nông, Đế Minh-Long Vương, Kì Dương Vương-Thần Long, Lạc Long Quân-Âu Cơ, Tiên-Rồng, Hùng Lang, Hùng Vương lưỡng hợp hai ngành núi-biển, liên bang Văn Lang…

.Trống Nấm Vũ Trụ: trống có hình Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I).

Trống có hình cây nấm là trống Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) gồm đủ cả ba cõi, Tam Thế mang trọn vẹn ý nghĩa vũ trụ luận.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, trống này theo chính thống phải mang trọn vẹn cốt lõi văn hóa Việt dựa trên nòng nọc, âm dương nền tảng của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo.

1.    Mặt trống

Nhìn tổng thể, trống “mát dịu” vì có nhiều các yếu tố âm trên mặt trống như đã nói ở trên là vỏ không gian hay vỏ Trứng Vũ Trụ rất dầy, đậm nét mang âm tính nghiêng về phía thái âm nước. Ở vùng đất thế gian và ngoài biên trống có sự hiện diện của hai vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

Tính mát dịu này cho biết trống thuộc ngành mặt trời thái dương êm dịu, mặt trời chiều, hoàng hôn, mặt trời Nước ứng với An Dương Vương (Vua Mặt Trời Êm Dịu) ngành Lạc Long Quân mang tính chủ.

 Cõi Trên, Thượng Thế

 Thượng Thế, theo nguyên tắc, là phần ở tâm trống biểu tượng cho cõi trên chiếu xuống tâm trống hay là phần cõi trên đập dẹp xuống để làm mặt trống. Trống này có mặt trời 14 nọc tia sáng là trống thế gian (xin nhắc lại trống có mặt trời có số tia sáng bằng hay nhỏ hơn 7 là trống vũ trụ) nên tâm trống cũng mang một khuôn mặt cõi trên tức bầu trời của thế gian. Như thế phần tâm trống có thể coi như là mang hai khuôn mặt: một là cõi trên càn khôn, vũ trụ (đại vũ trụ, tạo hóa) chiếu xuống, hai là khuôn mặt cõi trên bầu trời thế gian (tiểu vũ trụ, cõi nhân sinh). Tâm trống ở đây có vỏ hư vô là vòng tròn bao quanh đầu tia nọc ánh sáng mặt trời. Vỏ không gian rất to nét, đậm nét mang tính thái âm, nước của ngành nọc âm thái dương, ứng với Lạc Long Quân thuộc phía nọc lửa Viêm Đế.

Cõi trên Thượng Thế lại chia ra bốn tầng: vô cực, thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng/tứ hành.

a. Vô Cực

 

Như đã nói ở trên vòng tròn bao quanh đầu tia sáng là vỏ không gian diễn tả bằng vòng tròn rất to, đậm nét mang tính thái âm ngả về Khôn âm biểu tượng cho hư vô, vô cực tiến hóa về thái âm, Biển Vũ Trụ trước.

b. Thái Cực: bọc Trứng Vũ Trụ.

Gồm mặt trời 14 nọc tia sáng và không gian. Không gian ở đây được  diễn tả bằng các khoảng không gian giữa các tia sáng mặt trời có hình thái Tứ Tượng (hiện nay gọi lầm là ‘họa tiết lông công’) giống như ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Hình thái tứ tượng này cho biết trống có một khuôn mặt sinh tạo tức có khuôn mặt lưỡng hợp của hai nhánh nòng nọc, âm dương của ngành mặt trời thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, bọc trứng thế gian đội lốt bọc Trứng Vũ Trụ có khuôn mặt sinh tạo mang tính lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng, Viêm Đế-Thần Nông ngành mặt trời thái dương Đại Tộc Việt.

b. Lưỡng nghi:

-Cực dương:

Mặt trời thuộc họ mặt trời rạng ngời, ngành nọc chói chang, đại tộc thái dương. Mặt trời có khối lửa cầu gai chói chang và nọc tia sáng thuộc nhóm nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) là mặt trời nọc thái dương. Những nọc tia sáng mũi tên ở đây có cạnh thẳng, sắc, nhọn mang tính nọc dương thái dương, khác với các nọc tia sáng thuôn tròn mang âm tính thái dương âm trông như cánh hoa sen, hoa thị nhọn đỉnh (xin nhắc lại mặt trời hoa thị, hoa cúc có tia sáng mang âm tính là cánh hoa tròn đầu là mặt trời nữ thái dương như hình mặt trời hoa thị thấy trên trang phục bà Triệu và hình mặt trời hoa cúc 16 cánh của thái dươngthần nữ Ameraterasu của Nhật Bản).

Mặt trời có 14 nọc tia sáng. Số 14 là số Tốn (OII) tầng hai thế gian có một nghĩa  âm (O) thái dương (II) (14 =  8 + 6, số 6 là số lão âm, âm thái dương là số Tốn  tầng 1, vũ trụ, trong 8 chuỗi hay 8 tầng của 64 quẻ của Dịch những số Tốn là 6, 14, 22, 30, 38, 46, 54, 62).  Như đã nói ở trên, trống này có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian mang tính lưỡng hợp vì có vành hai loại thú bốn chân (xem dưới) nên có hai khuôn mặt là Càn thế gian hay Li/Tốn và Đoài/ Tốn.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng với nhánh Li/Tốn

(Hùng Vương nhánh Âu Cơ/Kì Dương Vương) và với nhánh Đoài/Tốn (Hùng Vương nhánh Lạc Long Quân). Đây là một dạng lưỡng hợp của liên bang Văn Lang.

-Cực âm:

.Không gian

 Cực âm là không gian chứa mặt trời. Như đã nói vỏ không gian (cùng chung với vỏ Trứng Vũ Trụ) ở đây là một vòng tròn to, dầy, đậm nét mang tính thái âm. Vỏ này cho biết bọc hư không, không gian, Trứng Vũ Trụ có một khuôn mặt mang tính thái âm.

Bản chất không gian thường được diễn tả bởi các hình thái ở các khoảng không gian giữa các tia sáng. Ở đây khoảng không gian có hình thái tứ tượng giống như ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Ở đây chỉ xin nói sơ lược, tóm gọn lại.

Khoảng không gian giữa các tia sáng có hình thái  tứ tượng  

Hình thái tứ tượng có 4 chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là:

-hình hai giọt nước rơi từ không gian (nên có đuôi) tức hai âm (OO) và có con mắt dương mang tính dương (I)  gộp lại là IOO, Chấn.

-chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói)  > có một nghĩa là lửa vũ trụ Càn.

-Bờm gió, tua gió có một nghĩa là gió dương Đoài.

-hình tháp nhọn mang hình ảnh núi tháp trong có đánh dầu chấm nọc có nghĩa là núi dương, lửa thế gian Li.

Hình thái tứ tượng này cho biết không gian mặt trời mang tính sinh tạo lưỡng hợp hai ngành nòng nọc, âm dương.

Như thế qua hình thái tứ tượng của khoảng không gian giữa tia sáng ở dây cho thấy trống này có một khuôn mặt lưỡng hợp với khuôn mặt chủ là ngành thái âm mang tính thái dương Chấn.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, khuôn mặt chủ là Lạc Long Quân nhánh Thần Nông thái dương.

c- Những Vành Sinh Tạo

Trống có những vành sinh tạo ứng với tứ hành giống hệt như ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

 Những vành sinh động tứ hành trên trống Trống Miếu Môn I.

 Có ba vành vận hành sinh tạo:

-vành trong cùng sát mặt trời là vành vòng tròn có chấm. Vì nằm sát mặt trời mang dương tính nên thuộc phía nọc lửa. Vòng tròn (O) có chấm (.) tức (.O) = (OI), thiếu dương (khuôn mặt âm O của ngành nọc I). Tóm lại vành vòng tròn có chấm trong cùng là vành thiếu dương, lửa thế gian Li.

-Vành phía ngoài cùng cũng giống như vành vừa nói nhưng vì nằm ngoài xa mặt trời nên mang âm tính, phải đọc là vành chấm vòng tròn    tức IO, thiếu âm (khuôn mặt đương I của ngành nòng O). Tóm lại vành chấm vòng tròn ở ngoài cùng là vành thiếu âm, gió thế gian Đoài.

-Hai vành này kẹp ở giữa vành hai chữ S gẫy khúc ôm nhau. Chữ S gẫy nhỏ nét mang dương tính diễn tả lửa vũ trụ. Chữ S gẫy này có ba khúc tức ba hào dương ghép lại, tức III, Càn Lửa vũ trụ. Chữ S mập phần giữa to nét mang âm tính thái âm diễn tả nước chuyển động mang dương tính, lửa. Phần mập ở giữa là giọt nước chuyển động và hai nọc nhọn ở hai đầu giọt nước mang nghĩa, lửa thái dương.

Như thế chữ S mập diễn tả nước OO dương I tức IOO, Chấn.

Vậy vành này diễn tả Càn-Chấn ôm nhau dưới dạng sinh động, sinh tạo năng động. Đây là dạng lưỡng hợp thái dương thái âm ở cõi đại vũ trụ, tạo hóa. Trong khi hai vành vòng tròn có chầm Li  và chấm vòng tròn Đoài là dạng lưỡng hợp thiếu dương, thiếu âm ở cõi tiểu vũ trụ, thế gian.

Hình thái tứ tượng ở các khoảng không gian giữa tia sáng ở dạng tĩnh mang nghĩa biểu tượng trong khi  tứ tượng ở các vành này diễn tả tứ tượng ở dạng chuyển động, vận hành nên là tứ hành diễn tả lưỡng hợp nòng nọc, âm dương sinh động, năng động.

 Xin nhắc lại Việt Dịch nòng nọc Đông Sơn cho thấy trong văn hóa Bách Việt chỉ có tứ hành khác với Trung Hoa có ngũ hành. Tứ hành liên tác sinh ra vũ trụ muôn sinh, được chia ra Tam Thế biểu tượng bằng Cây Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống). Người Trung Hoa lấy cây này làm thành hành Mộc nên mới có ngũ hành. Ngày nay khoa di truyền học cho thấy tứ hành của Bách Việt đúng hơn ngũ hành của Trung Hoa. Đơn vị di truyền căn bản DNA  chỉ có 4 chất CAGT được cho là Bốn Chữ của Sự Sống (Four Letters of Life), của Tạo Hóa (Four Letters of Creator), của Thượng Đế (Four Letters of God).

Xin đừng dùng ngũ hành giải thích văn hóa Việt.

Tổng quát ở cõi trên, trống Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia sáng có hai khuôn mặt (Càn-) Li/Tốn thế gian và Đoài/Tốn. Mặt trời thế gian có khoảng không gian giữa tia sáng lcó hình thái tứ tượng cho thấy trống này có một khuôn mặt lưỡng hợp thiếu dương Li và thiếu âm Đoài với khuôn mặt chủ là nghánh nọc nước, mặt trời Nước, Chấn thế gian.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt đây là trống có một khuôn mặt lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng của liên bang Văn Lang Hùng Vương với nhánh Lạc Long Quân mang tính chủ.

B. Cõi Giữa, Trung Thế.

Trung Thế là cõi giữa nhân thế gồm có vùng đất và vùng nước. Vùng đất là phần mặt trống còn lại và vùng nước là tang trống.

-Vùng Đất.

a. Đất dương

.Vành thú bốn chân

Trống này có mặt trời 14 nọc tia sáng là trống thế gian nên có vành chủ chốt nằm gần phía mặt trời là vành diễn tả hai loài thú bốn chân sống được trên mặt đất.

Như đã nói ở trên, vành này là một đặc điểm của trống vì gồm có hai loài thú bốn chân khác nhau. Với hai loài thú bốn chân ở cùng một vành cho biết là trống có một khuôn mặt lưỡng hợp ở cõi thế gian, tiểu vũ trụ là lưỡng hợp thiếu âm, thiếu dương. Một loài thấy rất rõ là mang gạc hươu sừng và một loài “thú lạ”.

Hai loài thú bốn chân trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

 Mang Gạc.

Trống Miếu Môn I có những con hươu giống những con hươu trên rống Ngọc Lũ I (trống đồng âm dương Ngọc Lũ I cũng có mặt trời 14 nọc tia sáng).

Trống này có 8 con chia ra mỗi bán viên có 4 con. Số 4 là số Cấn. Số 4 Cấn âm có khuôn mặt dương là Li 5 làm đại diện và hôn phối với Chấn. Như thế theo duy dương những con hươu này mang khuôn mặt là hươu Li dòng nước Chấn. Cả hai nhóm đều có 4 con cho thấy khuôn mặt Li mang tính chủ so với khuôn mặt Càn. Điểm này cũng giống như ở trống Ngọc Lũ I hai nhóm đều có 10 con, số 10 là số Khảm hôn phối với Li.

Nhóm hươu có cả hươu đực và cái cho thấy có sự hiện diện của lưỡng hợp nòng nọc, âm dương ngay cả trong một đại tộc. Bán viên dương là nhóm có con đực đi với 4 con hươu Càn thế gian/Li. Và bán viên âm có 4 con cái đi với 4 con hươu phía Đoài.

Trong 8 con thì 7 con là cái và chỉ có 1 con đực. Điểm này cho thấy khuôn mặt âm mang tính chủ.

Ở đây cũng như ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I những con hươu cái có sừng. Trong thiên nhiên hươu cái (nai) không có sừng ngoại trừ loài tuần lộc (reindeer), con cái có sừng. Những con hươu ở đây không phải là loài tuần lộc vì sừng chỉ có ba mấu nhọn (trong khi tuần lộc sừng có nhiều mấu nhọn).

Hươu cái có sừng cho thấy những con hươu này diễn đạt theo ý nghĩa biểu tượng. Điều này dễ hiểu vì loài thú đi cùng vành được thể điệu hóa rất nhiều trông rất “lạ”, hoàn toàn mang ý nghĩa biểu tượng. Trống này đã hơi muộn.  Con hươu cái có sừng mang ý nghĩa biểu tượng là nai lửa, thái dương ngành âm, cái, nữ (hai sừng nhọn là hai nọc, hai dương, lửa, thái dương). Điều này thấy rõ qua lá cờ hình hươu sao cái biểu tượng cho bà Ngu Cơ (Âu Cơ) của người Mường dùng trong tế lễ:

  Hươu Sao cái có sừng biểu tượng cho Ngu Cơ của người Mường (nguồn, J. Cuisinier, Les Mường).

 Lưu ý hươu sao Ngu Cơ Mường sừng có 4 mấu nhọn. Số 4 là số chẵn, số âm và cũng là số Cấn, Núi, bản thể thế gian của Ngu Cơ, Âu Cơ dẫn năm mươi con lên núi.

Âu Cơ, Ngu Cơ là Nàng Lửa, Thái dương thần nữ của Việt Mường nên có biểu tượng là con nai sao có sừng lửa, thái dương.

Ta cũng thấy rất rõ trong 8 con hươu thì có 7 con là hươu cái? Tại sao lại 7? Số 7 là số Càn, lửa thái dương. 7 con hươu cái mang  nghĩa biểu tượng là mặt trời Mặt Trời  Nàng Thái dương, Thái dương thần nữ. Khuôn mặt này mang tính chủ yếu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ta thấy hươu ở đây ứng với hươu Li/Càn ngành Nọc Lửa thái dương Viêm Đế, Kì Dương Vương với  tộc hươu Li thuộc ngành Mẹ Tổ Âu Cơ thái dương thần nữ tức nhánh Hùng Vương Lửa Núi mang tính chủ. Điều này ăn khớp trăm phần trăm với Mẹ Tổ Âu Cơ ở cõi trời sinh tạo có một khuôn mặt là Nàng Lửa, Nữ Thần thái dương OII, Tốn và ở cõi đất thế gian có một khuôn mặt là lửa đát thế gian tức núi Cấn, có thú biểu là con hươu sao cái còn thấy trong truyền thuyết Mường.

Cũng xin nhắc lại tiếng cổ Việt gọi hươu là con mang. Từ mang với biến âm muông có gốc nghĩa chỉ chung các loài thú bốn chân (muông thú) ruột thịt với Mường ngữ moong chỉ loài thú. Tại sao mang lại dùng chỉ chung các loài thú? Xin thưa, như đã biết, hươu là con thú và cũng là con người đầu tiên của nhân loại qua hình ảnh con hươu Keh của Đông Á cổ (James Churchward) và Hươu Đực Lộc Tục Kì Dương Vương, vua đầu tiên của nước Xích Quỉ, Người Mặt Trời. Mang coi như thủy tổ các loài thú trong khi cây Si với Si biến âm với Kì có nghĩa là Cây là thủy tổ của loài thực vật. Mang hươu là thủy tổ loài thú cũng đúng trăm phần trăm với từ Anh ngữ deer (mang, hươu). Cho mãi tới thế kỷ 13, tất cả loài thú bốn chân đều gọi là deer, ruột thịt với  Hy Lạp ngữ ther, có nghĩa là thú (vật). Ta thấy rất rõ ther = thú. Theo định luật Grimn th = d = z , ta có ther = thú = zoo (sở thú). Deer nguyên thủy hiểu theo gốc Hy Lạp ther, thú theo duy dương với nghĩa con hươu ngày là tổ tiên của các thú vật kể cả loài người của ngành nọc dương. Trong khi đó từ panther chỉ con báo là vật tổ của các tộc thuộc ngành nòng âm như Maya là tổ tiên của các thú vật kể cả loài người của nòng âm. Panther có pan- là tất cả và ther là thú. Panther là (tổ) của tất cả loài thú kể cả con người của ngành nòng âm vì con báo không có sừng. Cũng nên biết từ báo biến âm với bao, bầu, bì có một nghĩa là mang (bầu).

Như thế từ mang chỉ chung hươu nai (đực và cái) đúng hơn từ hươu chỉ riêng con đực (hươu là hèo là kèo là cọc, là c…c). Theo duy dương mang có nghĩa là cây gai nhọn (thảo mang). Mầm tre mới mọc trông như cái gai nhọn gọi là măng. Măng là biến âm của mang (gai nhọn). Vì thế theo duy dương mang có một nghĩa chỉ con cọc (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc), hươu cọc, hươu sừng. Rõ hơn gọi chung là mang gạc. Theo duy âm, mang có nghĩa là bao, bầu (có mang là có bầu) chỉ con nai cái. Trong Việt ngữ mang, mễn ngày nay chỉ loài hươu nai nhỏ con không có sừng mang âm tính. Như thế theo duy âm mang chỉ loài hươu mang âm tính, nai cái.

Vì thế, từ đây về sau tôi dùng từ MANG gọi các con hươu nai trên trống này vì ở đây vừa có con đực và con cái (gọi hươu chỉ con đực thôi không chỉnh, trong khi đó từ mang hàm nghĩa chỉ chung cả con đực và con cái).

Bây giờ ta hãy nhận diện các con mang này.

Như đã biết qua trống Phú Xuyên, tổng quát mang gạc hươu sừng biểu tượng cho ngành dương lửa Càn/Li thái dương với khuôn mặt Li lửa thế gian biểu tượng cho cõi giữa Trung Thế mang tính chủ ứng với Kì Dương Vương. Những con mang ở trống Miếu Môn I này được diễn tả khác với mang gạc hươu sủa ở trống Phú Xuyên như sừng có 3 mấu nhọn (ở trống Phú Xuyên sừng không có mấu nhọn), ở đây có thêm những con cái… như thế mang ở trống này còn có những ý nghĩa biểu tượng khác với hươu sủa ở trống Phú Xuyên.

Ta thấy rất rõ ở các con mang ở đây:


Những con mang trên Trống Miếu Môn I
(nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

  -ở mõm có chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) > mang nghĩa lửa, thái dương.

-Trên mình mang có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc dài uốn cong theo thân người con vật có nghĩa là nọc, dương. Hai bên có hai hàng chấm nọc dương, lửa, thái dương. Gộp lại cho biết mang  thuộc ngành nọc, lửa, mặt trời thái dương.

-mang đi theo chiều dương tức theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời.

-sừng mang có 3 mấu nhọn là ba hào dương III, Càn.

- 8 con mang với số 8 là số Khôn hôn phối với Càn. Rõ ràng mang có một khuôn mặt Càn.

Như thế tóm lại 8 con mang trên trống Trống Miếu Môn I này thuộc ngành nọc lửa, mặt trời thái dương với khuôn mặt lửa thế gian thiếu dương Li mang tính chủ. Với 7 con cái cho biết khuôn mặt thuộc dòng lửa thế gian nữ thái dương là chính yếu.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, 8 con mang biểu tượng cho cho ngành nọc lửa mặt trời Viêm Đế thái dương, với khuôn mặt Kì Dương Vương lửa thế gian Li mang tính chủ và nhánh Hùng Vương theo Âu Cơ  thái dương thần nữ lên núi là khuôn mặt chính yếu.

Đây chính là khuôn mặt thiếu dương Li lửa đất thế gian (Càn thế gian) tức Đế của Viêm Đế tương hợp với khuôn mặt Tốn 14 nọc tia sáng của trống Miếu Môn I ứng với phía Lửa, Núi Âu Cơ.

‘Thú Lạ‘ Sói Lang.

Tổng quát.

Cùng vành này là nhóm thú lạ chia làm hai nhóm bốn con đi xen kẽ với hai nhóm bốn con mang gạc.

Vành này là vành số 6 tức số Tốn. Cũng nên biết từ trong ra ngoài, mặt trống có 14 vành và trống này có mặt trời 14 nọc tia sáng với số 14 là số Tốn tầng 2, thế gian (14 = 6 + 8) ăn khớp với nhau trăm phần trăm. Điểm này cũng xác thực thêm cho thấy vành số 6 Tốn có hai loài thú là vành chủ yếu của trống này.

Như thế hai loài thú cùng ở trên vành chủ yếu 6 Tốn đều có một khuôn mặt  âm Tốn. Ta đã biết Tốn của trống này có hai khuôn mặt lưỡng hợp với Tốn là Li/Tốn và Đoài/Tốn và có một khuôn mặt lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu âm Đoài và ở trên ta cũng đã biết các con mang sừng có khuôn mặt là Li/Tốn rồi như thế tổng quát ta suy ra ngay những con thú lạ này phải có mạng Đoài/Tốn. 

 Những cón thú lạ trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

 Các nhà khảo cổ học Việt Namcho rằng đây là lloài “thú bốn chân dị kỳ có mỏ như chim ngậm mối” (Nguyễn Văn Huyên).

Bây giờ chúng ta hãy làm thám tử nhận diện con thú lạ dị kỳ này bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

Trước hết nhìn tổng quát những con thú trên trống Miếu Môn I này có vóc dáng của loài chó sói, chồn. Con thú nhỏ con chỉ to bằng con chó sói. Những con thú này đứng ở tư thế ngửa cổ nhìn lên trời đang tru hú.

                                                        Tư thế con thú lạ đang ngửa cổ lên trời giống hệt con sói đứng ở tư thế đang tru hú.

Con sói được coi là biểu tượng cho gió một phần là do tiếng hú của nó vì gió hú.

Thật vậy thú vật được dùng làm biểu tượng cho gió là loài thú vật có tên có nghĩa là bọc, túi, khí gió (vì hư không, không gian nguyên thủy là cái bọc, bao, túi khí gió). Ông thần gió thường khoác trên vai cái bao, túi gió. Ví dụ chim tu hú biểu tượng cho gió (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt). Những con thú bốn chân có đặc tính biểu tượng cho gió, hư không, bầu trời phải biết tru, biết hú, đó là con sói, con lang, con chó… Con chó là con chu, con tru, con hú ví dụ từ hound như “grey hound”, một loài chó, cũng như Đức ngữ “hound”, chó, biến âm với  “howl”, hú. Ngoài ra những con thú có các phần cơ thể biểu tượng cho gió như có bờm, có đuôi như cờ bông lau, tai như quạt gió (vì thế voi cũng có một khuôn mặt biểu tượng cho gió), màu trắng hay khoang, đốm trắng (lang)… cũng dùng làm biểu tượng cho gió, hư không bầu trời. Họ nhà lang, sói, chó là thú biểu chính của hư không, bầu trời, khí gió. Theo biến âm gi=ch như giăng = chăng (… dây) ta có gió = chó. Từ gió và chó biến âm với nhau cũng thấy trong Mã ngữ: angin (wind) biến âm với anjing (dog).

Hình ảnh đặc thù và linh thiêng của sói lang bao giờ cũng được khắc ghi bằng hình ảnh con sói lang ngửa mặt nhìn lên trời trong tư thế đang hú.

Như vậy chỉ nhìn qua tư thế con thú kỳ dị này giống hệt con sói đang đứng hú ta đã có ngay một ý niệm theo trực giác chúng là loài sói lang, con thú tru hú.

-Đuôi

Điểm nhấn mạnh nhất và nổi bật nhất của con thú kỳ dị này là có cái đuôi rất ‘kỳ dị’. Đuôi rất dài, dài chấm đất. Đây là đuôi ‘bông lau’, ‘cờ lau’. Đuôi bông lau, cờ lau là một thứ phướn gió biểu tượng cho gió. Vậy đây là con thú biểu tượng cho gió. Ta đã biết sói lang là thú biểu của gió, là bổn mạng của Hùng Lang Mặt trời-gió (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Trong thực tế, điều này cũng đúng, đuôi dài và rậm là nét đặc thù của loài sói, chồn. Loài sói có đuôi dài vì đuôi dùng để che phủ và đắp ấp cho mũi, các ngón chân về ban đêm lạnh khi nằm cuộn khoanh lại.

Con thú này có đuôi buông thõng xuống chấm đất giống như đuôi con chó sói đang ở tư thế đứng ngửa cổ lên trời tru (xem hình ở trên).

Đuôi buông thõng xuống cũng thấy ở tư thế đứng chỉ huy, oai nghiêm, dõng dạc đang cảnh giác, nghe ngóng, canh chừng, đương đầu với hiểm nguy.

Đuôi buông thõng xuống thấy ở thế con sói đứng chỉ huy đang nghe ngóng, canh chừng, đương đầu với hiểm nguy (nguồn soazwildlifecallers.org).

Đuôi bông lau chấm đất hiển nhiên là đuôi của con thú mang hình ảnh biểu tượng cho gió là sói lang.

 Rõ hơn nữa đuôi bông lau có những sọc song song trông giống hình lông chim giống đuôi con chim bổ nông biểu tượng cho con nông gió ở thân trống Hòa Bình nên chiếc đuôi này cũng biểu tượng cho gió.

Mặt khác các sọc này cũng có thể diễn tả ánh sáng tỏa ra rạng ngời, ánh sáng mặt trời mọc, ánh sáng rạng đông. Cái đuôi sáng rạng ngời này cũng cho ta biết đây là loài thú gì. Thật vậy con lang con sói còn có nghĩa là con “sáng”, con “rạng”, con “chói”. Lang là láng, là lạng (sáng lạng), là lạn (sáng lạn, sán lạn) là rạng. Theo s=ch (sửa = chữa) sói = chói. Chói là sáng (sáng chói). Chói đi đôi với chang (chói chang). Theo ch =l, chang = lang. Ta cũng thấy Latin con sói là lupus, Pháp ngữ là loup ruột thịt với Latin lux, ánh sáng. Vậy con thú ‘kỳ dị’ có đuôi ‘dị kỳ sáng chói’ là con sói, con sáng, con rạng, con lang.

Ta cũng thấy phía đầu của thuyền hay chim, thú là phía dương vì trên trống chuyển động theo chiều dương tức theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời và phía đuôi là phía âm. Những con thú này có đuôi lửa, thái dương sáng rạng ngời là lửa, thái dương II của phía âm O đuôi tức IIO, quẻ Đoài. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời con thú này biểu tượng cho Đoài và ở trên trống có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian nên là Đoài/Tốn thế gian.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là nhánh Hùng Vương  Đoài/Tốn Lạc Long Quân (ăn khớp trăm phần trăm với các vành nước, lửa, Chấn Lạc Long Quân mang tính chủ ở biên trống).

-Tai

Tai dài và to, đây là đặc tính của một vài loài sói chồn. Các con lân của ViệtNamcó tai rất to và dài mang dấu tích, hình ảnh sói lang (xem dưới).

Tai ở đây không dựng đứng mà ngả về sau là hình ảnh của con sói lúc ngửa mặt lên trời tru hú (xem hình ở trên).

-Thân người.

Trên người những con thú này có những chữ viết nòng nọc vòng tròn-que giống như trên người các con mang. Đây là những con thú thuộc ngành nọc, lửa, mặt trời thái dương như những con mang. Điểm này củng cố thêm cho thấy đuôi có những sọc là những tia sáng rạng ngời. Đây là con lang, con sói rạng ngời thái dương.

-Bộ giống.

Hình bộ giống đực khắc rất rõ, rất đậm, rất cường điệu, có ý nhấn mạnh đây là con đục, con chàng, con lang, con đực, con Hùng, con Việt.

-Mõm

Mõm rất dài và nhọn là nét đặc thù của sói nhất là loài sói coyote. Mõm dài và nhọn cũng là biểu tượng của nọc, đực, đục, thú biểu của ngành nọc Việt mặt trời thái dương. Bằng chứng là trong mõm có đánh dấu hay chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) > mang nghĩa nọc, lửa, thái dương.

Đăc biệt nhất là dưới mõm có hình chữ V hay hình tam giác ngược  mà các học giả hiện nay gọi là cái ‘mồi’. Các hình này cũng thấy ở các con cò trên vành số 9 trống Miếu Môn I này và ở một hai con chim đứng ở vành ngoài cùng trên trống Ngọc Lũ I. Các học giả hiện nay cho đây là những con chim ‘ngậm mồi’ và ‘con thú kỳ dị’ này cũng ‘ngậm mồi’. Bernet Kempers, trong The Kettledrums of SouthEast Asia gọi là thú, cò tha mồi hay “chim đói(“insatiable birds”, p.175).

Theo tôi thật sự có thể không phải là ‘mồi’ mà đây là chữ viết con nòng nọc vì những lý do sau đây:

./Mồi theo duy tục không thích hợp ở đây. Những con thú trên trống này đã ở dạng thể điệu hóa liên hệ với vũ trụ quan của liên bang hai đại tộc này không phải là những con thú nuôi con, không thể là những con thú đói.

./Chúng là thú bốn chân không thể tha cái mồi giống như mồi chim ở vành cò bay phía ngoài. Cò ăn mồi tôm cá không thể giống mồi của loài thú bốn chân giống sói lang ăn thịt thú vật này vậy mà ‘mồi’ con thú này ở đây giống ‘mồi’ của cò. Không hợp lý.

./Trong một vài cái ‘mồi’  lại có chữ viết vòng tròn có chấm có ý nghĩa theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que…. Chữ chấm vòng tròn là thiếu âm, nguyên thễ của khí gió. Mồi thì làm sao có chữ viết mang biểu tượng.

Như vậy đây thật sự không phải là “mồi”. Do đó ta phải nhìn thêm theo diện chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

Trước hết cứ giả dụ dù cho đây là mồi đi nữa thì mồi ở đây cũng đã dùng làm một biểu tượng, vì trong mồi có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình vòng tròn có chầm. Như thế dù là mồi thì cũng đã được dùng để diễn tả như một hình, một dấu, một chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, không thể hiểu mồi theo nghĩa duy tục được. .Như thế ở đây nghiêng nhiều về phía chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

Vậy bây giờ ta nhìn dưới lăng kính của chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

./ Nhìn theo chữ V.

Nếu chỉ nhìn theo phần dưới mỏ là chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình chữ V thì chữ V này có nghĩa ngược lại với chữ viết nòng nọc vòng tròn-que nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) đứng /\. Chữ V do hai nọc II ghép lại mang tính lửa, thái dương. Chữ V có mũi nhọn mang dương tính sinh động, năng động. Nhưng chữ V có đỉnh chỉ địa nên mang âm tính, của ngành âm. Gộp lại chữ V có nghĩa là nòng, âm lửa thái dương, nước-lửa, Chấn ngành âm thái dương.

Xin vắt tắt đưa ra một hai bằng chứng để kiểm chứng: trong The Da Vinci Code, Dan Brown cho rằng trong bức tranh The Last Supper, hình Chúa và John nối dính liền với nhau ở chỗ hông (hip) và ngả ra hai phía tạo thành một khoảng hở ở giữa hai người. Khoảng hở này hình V (chữ V) mà Dan Brown cho đây là biểu tượng cho phái nữ, đàn bà gọi là chalice.  Chalice hay calice, calyx có nghĩa là cốc, chén. Dan Brown cho chalice còn có thêm nghĩa nữa là tử cung phụ nữ. Biểu tượng này liên hệ với phái nữ và sự mắn sinh (The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Nhìn theo diện bên ngoài thì hình chữ V giống âm hộ, còn hiểu theo nghĩa chalice là chén là vật đựng thì có nghĩa là bộ phận sinh dục bên trong. Vật đựng như chén, nồi, bình, ve biểu tượng cho âm, nữ, dòng nước.  Dan Brown cũng cho rắng hình chữ \/ chalice này biểu tượng cho nữ, phái nữ ngược với hình tượng nguyên thủy  /\ biểu tượng cho đực, nam, phái nam, đàn ông mang hình bóng của một dương vật sơ khai (“a rudimentary phallus”) và được gọi là lưỡi sắc (blade). Chữ /\ chính là chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) đứng đỉnh chỉ thiên.

Tôi khám phá ra những mật mã của Dan Brown này chính là những chữ nòng nọc V và /\. Chẳng cần nói đâu xa, chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) > này ta thấy ngay trước mắt ở đây là ở ngay mõm con thú lạ này.

Về ngôn ngữ học, như đã biết nòng O theo duy âm nữ có một khuôn mặt biểu tượng cho âm, nữ, bộ phận sinh dục nữ, không gian. O khi dương hóa mở ra thành chữ U và V. Ta thấy rõ O = U = V qua từ O (phương ngữ Huế O là mụ, cô, mệ; mụ có một nghĩa là mẹ như Thiên Mụ = Mẹ Trời) = U (người Bắc gọi mẹ là U) = V= Vê = Vú (Trung Namgọi mẹ là Vú). Trong chữ nòng nọc U, V là dạng dương hóa của O.  Chữ U còn một vòng cung tròn ở đáy nên còn mang âm tính nhiều hơn chữ V nhọn đầu.  U là thái dương vì có hai cạnh đứng là hai nọc, lửa thái dương. U còn phần cong ở dưới như một vật đựng biểu tượng cho âm. Vậy U là âm thái dương của ngành nòng thái dương. Việt ngữ U là mẹ gọi theo Mẹ Tổ U Cơ, Âu Cơ có một khuôn mặt là thái dương thần nữ. Còn V có đỉnh nhọn không còn phần cong âm nào nên là âm thái dương của ngành nọc thái dương ứng với Chấn, Lạc Long Quân.

Như thế nếu nhìn cái “mồi” theo diện đơn giả là chữ V thì những con thú dạng sói lang này thuộc ngành nọc thái dương ứng với Chấn, Lạc Long Quân.  Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với ba vành ở biên trống là hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang nghĩa lửa, thái dương và vành ở giữa có hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, mặt trời Nước, Chấn ứng với Lạc Long Quân. Ba vành này mang nghĩa thuộc nọc  âm thái dương ứng với Chấn, Lạc Long Quân.

Nếu nhìn theo chữ V là âm, nước thái dương Chấn ứng với khuôn mặt Lạc Long Quân của trống.

Tóm lại nhìn theo chữ V, những con thú dạng sói lang này thuộc ngành nọc âm thái dương ứng với Chấn, Lạc Long Quân.

./ Nhìn dưới hình tam giác ngược.

Chữ V hợp với phần dưới mõm tạo thành hình tam giác ngược có đỉnh chỉ địa. Nếu nhìn dưới dạng hình tam giác thì đây là nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) hình tam giác ngược có nghĩa là nước lửa thái dương Chấn.

Như thế nếu nhìn dưới diện tam giác ngược thì cũng có một  nghĩa là nước dương Chấn.  Hình tam giác ngược chỉ địa có nghĩa đối nghịch với hình tam giác thuận mũi tên có đỉnh chỉ thiên (tam giác cũng là dạng biến đổi của nọc mũi tên, mũi mác, răng cưa, răng sói). Vậy tam giác dưới mỏ con thú dị kỳ và dưới mỏ cò ở đây cũng có cùng nghĩa với chữ V. Thật vậy hãy lấy một hai ví dụ, ta thấy tam giác chỉ địa là hình bên ngoài của bộ phận sinh dục nữ cùng nghĩa với chữ V như đã nói ở trên. Hình tam giác ngược chỉ địa cũng có nghĩa là nước thái dương (Chữ Nòng Nọc trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á):

 Hình tam giác ngược có nghĩa là nước.

 Vân vân…

Bây giờ coi tam giác là dạng dương hóa của nòng O, như đã nói ở trên. Tam giác có ba cạnh do ba nọc que tức Càn III là dạng dương (I) thái dương (II) của O (O có một khuôn mặt là bọc hư vô,không gian), nghĩa là một cái bọc mang siêu dương tính hình tam giác. Bọc tam giác có góc cạnh mang dương tính thái dương. Cái bọc dưới mỏ thú và cò là cái bọc dương, Khôn dương, thái dương II của nòng hư vô, không gian O tức IIO, quẻ Đoài, khí gió.  Như thế thú và chim ở đây có cái túi khí gió ở dưới cổ nghĩa là những thú, con chim thuộc đại tộc gió Đoài. Những con thú con chim có bọc khí gió dưới cổ có nghĩa là chúng có thể hú, huýt sáo được. Những túi dương khí gió này mang dương tính tức khi chuyển động phát ra âm thanh, là những cái bọc âm thanh, là một chữ viết nòng nọc vòng tròn-que diễn tả túi âm thanh. Đây chính là hình ngữ túi âm thanh (xem chương Ý Nghĩa Dấu, Hình, Biểu Tượng Trên Trống Đồng).

Con thú lạ có túi âm thanh dưới cổ là con thú có đặc tính có thể hú hay tru tức thuộc về loài sói, lang, chó.

Với tất cả những khám phá trên, rõ như dưới ánh sáng mặt trời con ‘thú kỳ dị ngậm mồi’ chính là con sói mặt trời rạng ngời, sói LANG, sói CHÀNG, sói Đoài thuộc nhánh nọc âm thái dương nước lửa Chấn thái dương.

Tôi gọi con thú có bọc âm thanh này là linh thú lang sói, lang trời vì đã bắt đầu thần thoại hóa không còn ở dạng thiên nhiên nữa. Nó có cốt là con chó sói, con lang, tương đương với từ thiên cẩu ngày nay dùng ở nhiều vùng quê ở Việt Nam. Tại đây còn có tục múa thiên cẩu.

Lang sói mang ý nghĩa biểu tượng gì?

Lang sói, chó cũng mang ý nghĩa biểu tượng trọn vẹn của Vũ Trụ giáo.

. Hư Không, Vô Cực.

Sói lang biểu tượng cho hư không. Tên lang là dạng nam hóa của nang, bọc túi. L là dạng nam hóa của N (Tiếng Việt Huyền Diệu).

Lang, nang dương có nghĩa là bọc, túi biểu tượng cho hư vô, bầu vũ trụ, bầu  trời mang dương tính, nghĩa là hư không chuyển qua khí gió trước. Theo truyền thuyết xưa thì Lang có một loài mà trước cổ có cái túi như ghi lại trong Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh đã ghi: “Lang bạt kỳ hồ: con lang đạp cái bọc da ở trước cổ nó, lúng túng không đi được – Người mình lại thường dùng mấy chữ ấy theo nghĩa trái hẳn là: đi nơi này nơi khác, không định chỗ nào”. Chúng ta dùng lang bạt kỳ hồ với ý nghĩa là đi đây đó phiêu bạt như gió.

Con lang có cái túi dưới cổ này đích thị là những con lang ở trên Trống Miếu Môn I nầy có cái túi (gió), túi âm thanh ở cổ mà được cho là cái mồi. Mặt khác qua từ lang bạt kỳ hồ ta cũng thấy con lang đi với bạt là gió. Ta có từ đôi bạt gió (như cánh chim bạt gió). Theo qui luật từ đôi của Nguyễn Xuân Quang ta có bạt = gió (Tiếng Việt Huyền Diệu). Ta có thể kiểm chứng lại, theo b=v, bạt = Phạn ngữ vâta là gió.

Ở Miền Bắc ViệtNamcó làng Vát chuyên làm quạt. Vát ruột thịt với Phạn ngữ vâta, gió vì quạt làm ra mát (quạt mát) liên hệ với gió (gió mát). Theo v=m, vát = mát. Theo v = qu như vấn = quấn, ta có Vát = quạt. Như thế làng Vát là làng Gió, làng Mát làng Quạt.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, con Lang biểu tượng cho gió, bầu vũ trụ, bầu trời, một khuôn mặt của Hùng Vương Đoài sinh ra từ bọc trứng sinh tạo thế gian tức bầu trời đội lốt bọc Trứng Vũ Trụ.

Lưỡng cực:

-Cực dương:

Lang có nghĩa là chàng (con trai) và cũng có nghĩa là đục (chisel) biểu tượng cho cực dương. Việt ngữ sói biến âm với chói (s=ch) là sáng hàm nghĩa mặt trời, lửa.

-Cực âm:

Họ nhà chó, cáo chồn cũng có khuôn mặt biểu tượng cho âm, cõi âm. Lang có khuôn mặt âm là nang biểu tượng cho âm, nữ, cõi âm. Lang là dạng dương hóa của nàng, nường, nòng.

Chó cõi âm (funerary dog) liên hệ với hồn người chết như chó gác cổng trời thấy trong truyền thuyết Đông Nam Á còn thấy trên những con thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, chó Anubis của Ai cập cổ, chó ngao ở địa ngục của Phật giáo.

Tứ Tượng:

-Tượng gió lửa trời:

Sói lang mặt trời rạng ngời. Như trên đã thấy sói = chói, chói sáng. Sói là con chó chói sáng, chó rạng ngời càn thái dương, chó lang có nghĩa là lạn, láng là sáng ngời. Sói là con chó mặt trời rạng ngời, lửa càn thái dương. Điểm này ta cũng thấy Latin chó sói là lupus ruột thịt với lux (ánh sáng, sáng).

-Tượng gió lửa đất thế gian:

Chó núi, con cầy họ nhà chó. Cầy biến âm với cây, ki, kì, kẻ biểu tượng cho đất núi.  Con chó gọi là con ki.

-Tượng gió lửa nước:

Chó mang khuôn mặt biểu tượng cõi âm nước, như đã nói ở trên, thấy qua hình ảnh chó ngao của Phật giáo, chó hoang anubis của Ai Cập cổ. Anubis là thần chết, thần tẩm liệm người chết…

Cáo thuộc họ nhà chó có loài mõm nhọn gọi là lạc, biểu tượng lửa nước (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Cáo biến âm với sáo (c=s) có một nghĩa liên hệ với nước (sáo là súp: sáo vịt, sáo măng; sáo là dụng cụ đánh cá: “Chẻ tre bện sáo cho dầy…”).

-Tượng gió lửa gió:

Con chó là con tru, con hú, biểu tượng cho gió. Lang là dạng nam hóa của nang có một nghĩa là túi mang tính dương, là nông là không (không gian dương) là gió. Lang là “túi đực”, “túi gió đực”, là gió lửa, là dông. Lang có một nghĩa là gió. Như đã nói ở trên, qua từ ghép lang bạt ta có lang = bạt. Theo b=v, bạt liên hệ với Phạn ngữ vâta là gió. Các shaman thường hóa thành chó sói bay về trời (M. Eliade, Shaman, p.478).

-Sự Sống, Cây Đời, Tam Thế

Chó còn có tên là con mang có một nghĩa là bọc, túi, có bầu, sinh đẻ (có mang).

Chó tham dự vào việc phán xét linh hồn để cho linh hồn về miền hằng cửu, tái sinh như chó gác cổng trời trên thuyền ở trống Ngọc Lũ I, chó ngao của Phật giáo, chó Anubis của Ai Cập hiển nhiên mang nghĩa sinh tạo, tái sinh…

Bây giờ ta thử xem Lang Sói có phải là con thú Việt bốn chân tức con Lang Việt sống trên mặt đất ở cõi Trung Thế hay không?  Nó có phải là vật tổ của Đại Tộc Việt không?

Bây giờ ta thử xem Lang Sói có phải là con thú Việt bốn chân tức con Lang Việt sống trên mặt đất ở cõi Trung Thế hay không? Nó có phải là vật tổ của Đại Tộc Việt không?

-Người cổ Việt có vật tổ là loài chó, con thú được thuần hóa từ loài sói lang:

Người Việt xưa không những có ‘tô-tem’ chim ‘lạc’, tô-tem rồng mà còn có nhiều tô-tem khác như trâu, chó…” (Trịnh Minh Hiền, Trần Mạnh Phúc, Tìm Hiểu Nghệ Thuật… HVDN, NXB KHXH, HN, 1972 t.I, tr. 230).

Trong Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyện có ghi: “Hùng Quốc Vương tức Hùng Vương thứ nhất – húy Lân Lang – lên ngôi năm Nhâm Dần, năm 2359 trước Công nguyên” (theo Trần Huy Bá khảo ở ngọc phả ký hiệu A227, chữ Hán, tư liệu lưu tại Thư viện Khoa-học Xã-hội, Hà Nội). Hùng vương thứ nhất húy LÂN LANG có một nghĩa là Lang Sáng, Lang mặt trời (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Ta thấy rõ sói lang là hình bóng thú biểu thế gian của Hùng Vương có mạng khí gió vũ trụ (Đoài vũ trụ) vì một trăm Lang Hùng sinh ra từ một cái BỌC, cái NANG (trứng). Lang là dạng dương hóa của Nang (L là dạng dương hóa của N, xem Tiếng Việt Huyền Diệu). Lang có một nghĩa là túi, bọc dương, bầu dương, Khôn dương tức khí gió vũ trụ. Tổ Hùng Vương có cốt là Bọc, Bầu Trứng Vũ Trụ, có mạng Khôn dương (khí gió), là Mặt Trời-Không Gian vũ trụ (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Như thế Hùng Vương thứ nhất có hiệu là Lân Lang có một nghĩa là Con Sói Rạng Ngời (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Sói Mặt Trời thái dương rạng ngời Lân Lang là Sói Trời, Thiên Cẩu. Gần đây ở hồ Trúc Bạch vừa tìm thấy một miếu thờ Chó. Ngày nay ở vùng quê Việt Nam nhiều nơi (vùng Huế) còn múa thiên cẩu trong ngày lễ tết.

Trong Thủy Kinh Chú, sách này ghi Văn Lang là nước Sài  Lang. Thủy Kinh Chú do Lịch Đạo Nguyên đời Bắc Ngụy chú giải bộ Thủy Kinh cổ là quyển sách về sử có giá trị khảo cứu. Sách ghi chép về các con sông ở Trung Quốc và các sông ngòi lân cận chảy ra biển, trong đó có các con sông ở phía nam Trung Quốc chẩy qua vùng “man di”. Theo Hoàng Hưng “đối với sử cổ đại Việt Nam, tài liệu giá trị nhất là phần chú giải của Lịch Đạo Nguyên, ông đã tham khảo các sách xưa và những sách có giá trị đương thời như dẫn sách Thượng thư đại truyện của Phục Thắng đời Hán và Lâm Ấp ký, Giao châu ngoại vực ký (thê kỷ thứ 4) là những sách ghi chép về miền đất nước ta thời Hùng vương hiện đã mất” (Thời đại Hùng vương trong thư tịch xưa, Hùng Vương Dựng Nước, T.I, tr.83). Như thế Thủy Kinh Chú cho rằng nước Văn lang là nước Sài Lang là chuyện đáng tin được. Dĩ nhiên đối với những kẻ thù địch thì họ bóp méo nghĩa chữ Sài Lang đi hiểu theo nghĩa xấu xa nhưng đối với con dân nước Văn Lang hiển nhiên Sài Lang hiểu là con Lang Rạng, con Sói Ngời, con Sói Rạng đông với ý nghĩa cao đẹp.

Từ Sài Lang chỉ chung sói lang ăn khớp với cốt lõi văn hóa Đại Tộc Việt dựa trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Sài là một loài sói nhưng sài cũng có nghĩa là “củi”, tức cây, nọc. Sài Lang gốc có thể hiểu là con Sói Nọc, Sói Lang ngành nọc dương, trong khi đó Lang là con sói ngành nọc âm. Nếu nhìn Sài là một tính từ (adjective) thì Sài Lang là con sói “củi”, sói nọc, sói Việt, Lang Việt  thú biểu của Hùng Lang, Hùng Vương.

Ngày nay chúng ta còn thấy rõ sự thờ phượng chó qua việc quấn khăn hình tai chó, thờ tượng đá chó đại bản, chó đá. Sói Lang mặt trời rạng ngời thần thoại hóa thành linh vật thiên cẩu. như đã nói ở trên, người Huế có tục múa thiên cẩu. Gần đây vừa khám phá ra một miếu thờ Chó ở Trúc Bạch.

-Người Lạc Việt Tráng (Choang), Zhuang (xem Đạo Mặt Trời Của Bách Việt) có tục múa chó lúc trẻ em vừa lọt lòng.

 Hình con chó dùng trong tục Múa Chó lúc trẻ sơ sinh mới ra đời của người Lạc Việt Tráng, chụp tại Bảo Tàng Viện Sắc Tộc ở Côn Minh, Vân Nam (ảnh của tác giả).

Dĩ nhiên ngày nay người Lạc Việt Tráng giải thích tục này theo nghĩa duy tục là mục đích của tục múa này là để bảo vệ, che chở cho trẻ sơ sinh đươc an lành, sống khỏe mạnh, tránh các ma lực, điều xấu làm hại đứa trẻ. Tục múa rối này ruột thịt với tục Múa Thiên Cẫu vào dịp tết của người Việt còn thấy ở Huế cũng cho là để cầu an, cầu hạnh phúc, cầu may mắn… Thật ra phải hiểu theo nghĩa đến tận cuội nguồn, theo vật tổ là con chó, thiên cẩu là vật tổ thiêng liêng của Hùng Vương Đại Tộc Việt. Hiển nhiên vật tổ chó, thiên cẩu, Lang trời có tất cả các nghĩa trong Vũ Trụ giáo kể cả sinh sản, sinh tạo, tái sinh, phồn thực, may mắn… trong đó bao gồm cả các nghĩa duy tục ngày nay đang hiểu.

-người Mán, một tộc của Bách Việt có vật tổ là chó Bàn Hồ.

-người Chăm liên hệ với Bách Việt có tên cổ là nước Hồ Tôn có nghĩa theo vật tổ là Cáo-Vượn cũng thờ vật tổ chó…

-Borneo, Đa Đảo: nhiều tộc ở miền trung Borneo, Đa Đảo có liên hệ mật thiết với người cổ Việt (có tác giả cho là Bộc Việt) còn giữ lại được nhiều dấu tích thờ chó cho tới ngày nay: “the ornamental art of central Borneo is to a considerable extent dominated by a motif called aso ‘dog’. Aso figures are placed on roofs of houses and of sepulchral buildings. The aso is found in the decoration of house walls, in paintings on shields, in the designs on bamboo receptacles, in embroideries and appliqué work on textiles and in tattooings. The animal is always extremely stylized” (Nghệ thuật trang trí ở miền trung Borneo tới một mức độ đáng kể ngự trị bởi một mô-típ gọi là “chó” Aso. Hình chó Aso để trên mái nhà và trên các kiến trúc lăng mộ. Chó Aso thấy trang hoàng trên tường nhà, trên các khiên mộc, trong các hình họa kiểu trên ống đựng tre, trong thêu thùa và các hình ghép đặt lên vải vóc và trong xâm chổ. Những con vật luôn luôn rất là thể điệu hóa…).

Hình khắc một con chó “aso” trên tường nhà… (Figure 35, Robert Heine Geldern, Some tribal Art Styles of South East Asia. p.196, hình này trích dẫn lại của Nieuwenhuis, 1904-07).

Hình thú há mồm như đang sủa, đang tru hú cho biết đây là con chó. Hình chó thể điệu hóa hay thần thoại hóa có đuôi hình xoắn xoáy. Lưu ý khí gió dương, chuyển động như bão tố, bão lốc cũng chuyển động theo hình xoáy, hình sóng cuộn. Trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que xoáy, sóng nước và xoáy, sóng khí gió cuộn được diễn tả theo hai chiều nòng nọc, âm dương khác nhau. Đuôi con chó này có hình xoắn vòng xuống là vòng xoáy gió lốc, gió dương sinh tạo khác với vòng xoắn nước vòng cong lên phía trên lưng như thấy ở con cá sấu dao ở trống Hòa Bình. Tai to cũng vòng cong xuống biểu tượng cho gió. Bờm cong gió Đoài. Trên người có đốm, một dạng biến thể của những chấm nọc lửa, thái dương. Đây là hình bóng thiên cẩu, Lân Lang (Sói sáng) của chúng ta.

Một con chó thần kỳ Aso ở đầu hồi mái nhà của người Dayak.

(http://www.zkta.com/indonesian-tribal-art/indonesian_tribal_art-aso_finial_dayak-2917details.htm).

 

Một con chó thần kỳ Aso ở đầu hồi mái nhà của người Ngaju, Nam Dương (cs.nga.gov.au).


VẬT TỔ HỌ NHÀ CHÓ CỦA CÁC TỘC KHÁC LIÊN HỆ VỚI TỘC VIỆT.

-Các tộc thổ dân Mỹ châu có gốc phát xuất từ Á châu có vật tổ chó sói  coyote. Xin nhắc lại tại Mỹ châu có các tộc có DNA giống hệt người Đông Nam Á tức Cổ Việt như người Pima ở Bắc Mỹ Châu, người Maya ở Trung Mỹ Châu và người Ticuna, Nam Mỹ Châu.

Người thổ dân Mỹ châu có truyện thần thoại Why The Coyote Looks Up When He Howls giải thích con chó sói suốt đêm đi lục tìm trong các bụi bờ, gần sáng cảm thấy cô đơn. Những người thân của nó đã biến thành những vì sao nhỏ trên trời, nên buồn bã, ngửa mặt nhìn lên trời gào hú thương tiếc. Đó là lý do tại sao tiếng chó sói tru nghe điếng hồn và chó sói mỗi lần tru đều ngửa mặt nhìn lên trời (William R. Palmer, Why The North Star Stands Still,tr.11). Qua truyền thuyết này cho thấy người thổ dân Mỹ châu cũng quan niệm y hệt chúng ta là chó liên hệ với gió với sao, “những người thân của nó đã biến thành những vì sao nhỏ trên trời”. Sao có một biểu tượng cho gió (Hán Việt sao có một nghĩa là túi, nang). Lửa liên hệ với mặt trời, nước liên hệ với mặt trăng, đá liên hệ với quả đất và gió hiển nhiên liên hệ với sao. Những người thổ dân Mỹ châu tin là chó sói chết biến thành những vì sao cho thấy họ có cùng quan điểm với chúng ta.

-Chó âm thế

Đông Nam Á có con chó cõi âm thường gác cổng trời và cắn đuổi những hồn ác xuống cõi âm. Phật giáo có con chó ngao sống ở âm phủ xé xác những người độc ác. Ai Cập có con chó Inpu, phiên âm thành Anubis, vị thần chuyên lo việc tẩm liệm mai táng, tên Anh ngữ con chó này gọi là jackal, Pháp là chacal, loài chó hoang giống chó sói nhưng chuyên môn ăn các xác thú vật đã chết (đây là một hình thức ‘tẩm liệm’, hóa kiếp!).

THÚ BIỂU  CHÓ TRÊN TRỐNG ĐỒNG

Rìu thờ Đông Sơn.

Như đã nói, trên một cái rìu Đông Sơn mà tôi gọi là rìu Hồng Bàng cũng có khắc hình con chó sói đứng ở đầu mũi rìu.

 Chú ý con chó có tai như chiếc sừng, cây nọc nhọn nói cho biết đây là con lang (chàng, đực, nọc), con sài lang, lang Việt. Trên người cũng có phụ đề thêm các chữ nọc chấm nọc có nghĩa là lửa, mặt trời, đực, thái dương. Đặc biệt nhất là đuôi chó cuộn tròn xuống mang nghĩa khí gió. Đuôi thõng xuống cũng diễn tả con sói đứng ở thế tru hú, chỉ huy…

Đây rõ ràng là con chó, con sói, sài lang, con Lang Việt, Lang sáng, Lân Lang.

Chiếc rìu này nếu nhìn tổng quát thì ba con thú biểu này biểu tượng cho Tam Thế: Giao Việt biểu tượng cho cõi nước thái dương, mặt trời Nước Chấn Lạc Long Quân, con mang gạc sừng hai mấu nhọn Kì Việt biểu tượng cho mặt trời Đất Li Kì Dương Vương và con Lang Việt biểu tượng cho mặt trời Gió Hùng Vương.

Nếu nhìn theo một ngành Giao Việt thôi vì hai con Giao Việt nằm ở cán rìu mang tính chủ. Đây coi như là rìu biểu giao long của đại tộc nước Lạc Long Quân gồn có hai nhánh, hai tộc của Hùng Vương là Lửa thế gian, Đất Li  mang gạc Kì Việt Âu Cơ-Kì Dương Vương và  Gió thế gian, tộc Đoài lang Việt Hùng Vương, khuôn mặt dương của nhánh Lạc Long Quân.

Nếu nhìn theo diện thế gian, lịch sử thì rìu là biểu tượng cho liên bang Văn Lang gồm hai nhánh Hùng Vương lửa đất Âu Cơ-Kì Dương Vương và nhánh Hùng Vương lửa gió (khuôn mặt Khôn dương) Lạc Long Quân.

Như thế rìu này ăn khớp với Trống Miếu Môn I này trăm phần trăm.

Trên một trống minh khí cũng có hình chó.

Chiếc trống minh khí mang ký hiệu  LS b 1257 (ký hiệu cũ là I 19.564) hiện lưu trữ tại Bảo Tàng Viện Lịch Sử Việt, cao 5,5 cm, mặt trống hơi vồng lên, chính giữa có tượng một con chó há mõm (Nguyễn Văn Huyên). Con chó há mõm là diễn tả con chó đang sủa hay đang tru, đang hú, mang một ý nghĩa biểu tượng cho gió, bầu trời, bầu không gian, bầu vũ trụ. Trống minh khí là trống chôn theo người chết, là vật tùy táng dùng làm bùa ‘hộ mệnh’ cho người chết, dẫn đường chỉ lối cho người chết về Thượng Thế, là thông hành (passport) của người chết như thế con chó ở đây phải mang nghĩa biểu tượng cho sinh tạo, tái sinh tức là một vật tổ, một con thú tổ mang trọn ý nghĩa của Vũ Trụ giáo.

Chó cõi âm trên thuyền phán xét linh hồn.

Trên hai con thuyền ở trống Ngọc Lũ I (số 1 và 5) có hình một con thú đứng sau đài Tam Thế (xem chương Hình Thuyền Trên Trống Đồng). Phần lớn các tác giả cho đây là con chó.

Hình chó trên một chiếc thuyền ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Như đã nói ở trên, chó có một khuôn mặt cõi âm gác cổng trời không cho hồn ác lên trời và thuyền này là thuyền phán xét linh hồn (xem chương Hình Thuyền Trên Trống Đồng) nên đây phải là con chó liên hệ đến việc phán xét linh hồn. Điều này cũng thấy rõ hơn khi so sánh với truyền thuyết của tộc Niassan, Đa Đảo. Họ có con mèo gác cổng trời. Người Niassan cũng tin là Cây Vũ Trụ sinh ra mọi vật. Để đi lên trời, người chết phải đi qua một cây cầu, dưới cầu là vực thẳm cõi âm (abyss of the underworld). Một người gác cổng trời tay cầm giáo và mộc. Một con mèo giúp người này ném các hồn tội lỗi xuống cõi nước âm ty (infernal waters). (M. Eliade, Shaman). Người Đông Sơn có con chó gác cổng trời đi đôi với người Niassan có con mèo.  Con vật đứng cạnh cầu đài ngã ba tam thế có cổng về trời, cõi trên và ngõ về cõi dưới, cõi âm, người trên đài có nhiệm vụ canh chừng các linh hồn sau khi đã được phán xét cho về cõi trời hay bắt phải về cõi âm vì thế con chó giữ nhiệm vụ canh chừng giúp người gác cổng trời người trên đài cắn đuổi các linh hồn ác xuống cõi âm.

Trên người con chó này có chữ nọc que dài đậm, hai bên phụ đề các chấm nọc nhỏ giống như trên người con mang hươu trời thế gian ở vành chim thú trên mặt trống, cho biết con chó mang dương tính nghĩa là con chó nhà trời thuộc họ nhà sói, lang. Trên mõm cũng có phụ đề chữ nọc nhọn (^) giống như ở mỏ chim nông, mang, cò có nghĩa nọc, thái dương. Con chó đứng sau cầu đài ngã ba Tam Thế có cổng trời, người trên đài có nhiệm vụ canh gác cổng trời, nó giúp người này cắn đuổi những hồn ác xuống cõi âm, ngăn chặn không cho vào cõi trời. Điểm này còn thấy bằng chứng là con chó Ngao ở địa ngục của Phật giáo, truyền thuyết Trung Hoa cũng có chó, sói lang gác cổng trời, thiên đình và các loài chó “ foo dog” gác các nơi linh thiêng và con chó anubis của Ai Cập cổ là thần tẩm liện xác chết và mai táng…

Đây là con chó cõi âm (funerary dog) gác cổng trời vì nó có mặt trên thuyền phán xét linh hồn.

Chó thông thường:

Trống Vân Namcó những hình chó nhà thông thường.

Chó thường trên một trống Vân Nam Yunnan

 Chó mang hình bóng chó sói, to lớn.  Hai con đều là chó đực. Trên người chó có những đốm hình chấm nọc dương đi đôi với vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) trong có ba chấm nọc. Ở đây chó cũng ở trên trống có vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước  giống như ở trên trống Trống Miếu Môn I này. Vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước  đi với vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có ba chấm nọc lửa Li, Càn mang một nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn thái dương  giống như trống Trống Miếu Môn I. Ở đây con chó nhà còn thấy mang hình bóng vật tổ sói Lang biểu tượng cho khuôn mặt dương Đoài Khí Gió ở trên hai trống cùng ngành nước dương, lửa nước, Chấn thái dương (nên nhớ các tộc Nam Trung Hoa đa số thuộc ngành nòng nước ứng với Lạc Long Quân Chấn thái dương).

Chồn cáo

Trên một trống Lào có hình thú mà nhiều tác giả cho là loài chồn (weasel).

 (A.B. Kempers, The Kettledrums of Southeast Asia).

Lưu ý con thú có đuôi bông lau rất dái, nét đặc thù của loài chồn sói. Đuôi cũng có các sọc như đuôi con Lang trời trên Trống Miếu Môn I. Trống này có mặt trời 12 nọc tia sáng Chấn/Cấn ứng với Lạc Long Quân/ ÂuCơ.Các con thú này ở dưới thuyền cho thấy chúng mang một khuôn mặt âm, chúng là lo ài cáo chồn, khuơn mặt âm của chó. Chúng thuộc ngành nòng âm.

Cũng có thể trống này đã mất chính thống của một tộc đã mất gia phả hoặc bị ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn hay là trống bắt chước bởi vì theo chính thống con thú bốn chân phải ở trên mặt đất, trong khi đó, ở đây chúng ở dưới vành thuyền. Tuy nhiên với cách diễn tả không qui ước này có một điểm lợi là  nó giúp cho ta biết rõ những con thú này có một khuôn mặt âm của đại tộc nước, chúng là loài chó âm tức chồn cáo.

Trên mặt trống cũng có vành chủ yếu là vành sóng cuộn có hai hình móc nước dương nhỏ là nước dương, lửa, vận hành.  Trống có khuôn mặt lửa, dương của ngành âm Chấn.

Rõ ràng con chồn cáo ở đây có một khuôn mặt dương khí gió Đoài của ngành nòng Khôn âm giống như con Lang trời trên Trống Miếu Môn I. Khuôn mặt cáo chốn thuộc họ nhà chó ở đây củng cố, xác thực thêm cho khuôn mặt sói Lang trên Trống Miếu Môn I.

Lang nghĩa là gì?

Từ Lang cũng như các tên cổ sử Việt khác phải nhìn dưới lăng kính trọn vẹn của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Tam Thế, Việt Dịch.

Xin thật tóm tắt ở đây (xem chi tiết trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

1. Lang  Chàng, là Đục, là Đực là con trai, là mặt trời.

 2. Lang  là Chàng, Người Trai Trẻ, Người Nam, Người Mặt Trời, người Đại Tộc Việt Mặt Trời.

 3. Lang là Nang mang dương tính, là Nòng dương, là Nông, Khôn dương khí gió, Đoài là Bầu Trời Thế Gian, bọc trứng thế gian ngành nọc đương.

4. Lang là Chàng là đực, la Hùng là Mặt Trời hừng rạng, là tổ của các Hùng Vương thế gian, lịch sử Việt.

5. Lang là con sói, sài lang, Sói Việt, Lang Việt.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt  Hùng Lang có một nghĩa là con Lang Đực (Hùng là đực) hay Lang Mặt Trời tức là Lân Lang vua tổ của các Hùng Vương Mặt Trời ở cõi thế gian.

Khuôn mặt đích thực của những con thú dị kỳ.

Tóm lại những con thú kỳ dị trên Trống Miếu Môn I là những con sói lang thể điệu hóa, bắt đầu thần thoại hóa là con lang trời một thứ thiên cẩu như dân gian Việt Nam gọi ngày nay.

Kiểm chứng lại ta thấy rất rõ trống Miếu Môn I qua khuôn mặt thiên cẩu lang trời có một khuôn mặt là trống Đoài/Tốn có mặt trời 14 nọc tia sáng (Đoài ở cõi vũ trụ là khí gió dương, Tốn là gió âm) có một khuôn mặt biểu tượng cho ngành Hùng Vương có mạng Đoài khí gió vũ trụ mang dòng máu Tốn gió âm của Mẹ Âu-Cơ, sinh ra từ bọc, bầu không gian, nang Trứng Vũ Trụ.

Kiểm chứng lại, trong lưỡng hợp thế gian tiểu vũ trụ giữa thiếu dương và thiếu âm mà Văn là Mang sừng đã là thiếu dương Li  đất lửa rồi thì thiên cẩu Lang trời bắt buộc phải là thiếu âm khí gió Đoài.

Một điểm cần lưu ý là những con hươu ở đây nhỏ con hơn những con sói lang cho biết con lang mang tính chủ. Điểm này dễ hiểu vì trống thuộc ngành nọc thái âm, mặt trời Nước, Chấn Lạc Long Quân.

Con thú trên Trống Miếu Môn I là con lang trời, thú biểu của lang Hùng nhánh dương thái dương Đoài của ngành nọc âm thái dương Lạc Long Quân Chấn.

Linh Thú Lang Trời, Thiên Cẩu.

Lang thần thoại hóa thành con Lang Trời, Thiên Cẫu (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

như đã nói ở trên, ở một vài vùng quê Việt Nam ngày nay vẫn còn có tục múa thiên cẩu. Một vài vùng ở Đông Nam Á và  Đa Đảo múa các linh thú giống thiên cẩu mà có nhiều tác giả gọi là múa lân.

Ở đây cũng cần phải nói thêm về con Lân này. Theo cổ thư Trung Hoa cặp kì lân chỉ nói một cách tổng quát là con kì là con đực  và con Lân là con cái, không nói rõ một loài thú nào. Vậy ta phải nhìn kì lân dưới nhiều loại thú khác nhau.

Nếu hiểu  theo cùng một loài thú thì Kì có cốt là con hươu đực có sừng và Lân là con nai (con Cái, nai biến âm với nái). Trong các lễ lạc có múa lân, đôi khi ta thấy có cặp kì lân, con kì có sừng và con lân không có sừng. Nhiều khì con kì chỉ có một sừng (unicorn), như đã biết, con kì có cốt là con mang gạc thật sự phải có hai sừng. Con kì có một sừng là con lân mang khuôn mặt dương của phía nòng âm, đại diện cho con Lân cái không có sừng.

Người Việt Nam nhất là miền Trung, Nam thường gọi là múa Lân chứ không nói là múa Kì. Gọi như thế là đứng về phía ngành nòng âm Lạc Long Quân. Điều này dễ hiểu vì đa số dân miền Trung Nam là con cháu của những người Việt di cư từ các vùng phía bắc miền Trung nằm trong địa bàn của An Dương Vương Lạc Long Quân.

Nếu hiểu kì lân là hai con vật thuộc hai loại thú khác nhau thì Kì là con thú đực, con nọc, con cọc, con hươu sừng và Lân là con Lang đại diện cho con thú cái Nang (nàng, nường).

Vì thế gọi múa Lân thì có thể con Lân là một con thú khác thuộc ngành nòng âm không phải là con Lân Nai cái mà là con Lân-Lang Thiên Cẩu (như đã nói vùng quê ở Huế ngày nay còn múa Thiên Cẩu chứ không múa Lân).

Thật vậy, nếu ta nhìn cặp kì lân theo diện lưỡng hợp tiểu vũ trụ thế gian tức lưỡng hợp thiếu dương Li và thiếu âm Đoài  thì theo vật tổ là lưỡng hợp Kì Li và Lân Đoài, lưỡng hợp mang sừng và Sài Lang.

Con Lân ở đây có con thú chủ là con Sài Lang, Sói Lang, Thiên Cẩu. Chứng tích còn thấy rõ là con Lân của Việt Nam còn mang nhiều dấu tích của con sói Lang.

  Tác giả chụp với hai con Lân-Lang Thiên Cẩu Việt Nam tại gian hàng trưng bầy của Việt Nam ở Triển Lãm Thượng Hải Shanghai Expo, tháng 10, 2010 (ảnh Michelle Mai Nguyễn).

Hai con gọi là lân này mang vóc dáng sói lang, chó, đặc biệt nổi bật nhất là có hai tai rất to và dài rất cường điệu như hai cái quạt gió, nét đặc thù của loài lang, chó giống như hai tai linh thú Lang trời trên Trống Miếu Môn I như đã thấy. Trên đầu có cục u nhỏ mang hình ảnh chiếc sừng nhỏ mang âm tính. Một cục u hay sừng âm cho biết đây là con Sài Lang, thú biểu mang dương tính của ngành nòng âm tức thiếu âm khí gió Đoài, trong khi con Lân Nai Cái đi với con Kì hươu đực  không có sừng.

Nhìn con vật gọi là lân trong bức tranh cổ dân gian ta cũng thấy con Lân Việt mang vóc dáng thiên cẩu Lang trời có hai tai như hai cái quạt gió.

Đây có thể là múa thiên cẩu mà ngày nay gọi nhầm là múa lân.

Như thế con linh thú của Việt Nam mà ta gọi thường gọi là con Lân có thể ta đã gọi sai. Ta phải gọi đây là con Lang Trời, Thiên Cẩu hay nếu muốn dùng từ Lân thì gọi là Lân-Lang Trời và phải hiểu theo  nghĩa kì lân là cặp lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Kì mang gạc và thiếu âm Đoài Lân-Lang Trời.

Vành thú chủ yếu của Trống Miếu Môn I gồm có mang sừng và Lang trời. Đây là vành Mang Lang. Trống có một khuôn mặt chủ Mang Lang nghĩa là dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li Mang với thiếu âm Đoài Lang, mang một khuôn mặt của kì Mang sừng và lân Lang trời.

Những con hươu trên Trống Miếu Môn I là Mang sừng thú biểu của  âm O của ngành Lửa  I  tức OI, thiếu dương (hào âm trên hào dương là thiếu dương). Thiếu dương OI của ngành dương I là IOI, quẻ Li.

Những con lang trời là thú biểu của dương I phía âm O  tức IO, thiếu âm. Thiếu âm của ngành dương I là IIO, Đoài.  Đây chính là hai khuôn mặt Li/Tốn và Đoài/Tốn của Trống Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian. Hai loài thú cùng nằm trên cùng một vành nên là lưỡng hợp thiếu dương Li với thiếu âm Đoài dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ ở cõi thế gian (vì thế mới dùng loài thú bốn chân sống trên mặt đất).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thì đây là dạng lưỡng hợp của nhánh Hùng Vương Lửa thế gian đất dương (núi), thiếu dương Li, khuôn mặt âm của phía nọc lửa Âu Cơ, theo mẹ lên núi với nhánh Hùng Vương Gió dương thế gian thiếu âm Đoài, khuôn mặt dương của phía nòng nước Lạc Long Quân theo cha xuống biển.

Sự lưỡng hợp ở tiểu vũ trụ thế gian này chính là một khuôn mặt của liên bang Văn Lang Hùng Vương thế gian.

Nhìn dưới diện thú biểu này ta thấy từ Văn trong liên bang Văn Lang có nghĩa là con mang sừng. Thật vậy, trong Việt ngữ Văn có nghĩa là phái nam, đực thường dùng làm chữ đệm trong tên của người Việt Nam để chỉ phái nam như Nguyễn Văn Mỗ (trong khi phái nữ dùng chữ Thị). Theo biến âm v = m như váng = màng, Văn = Măng, mầm tre trông như cái gai lớn nhọn mọc ra khỏi mặt đất.

Như đã nói ở trên măng biến âm với mang có nghĩa là chiếc gai nhọn (thảo mang là cỏ gai) và cũng có nhĩa theo duy dương là con thú có nọc nhọn, sừng nhọn là con mang (sừng).

Vậy Văn có một nghĩa là con Mang.

Tuy nhiên Văn là dương, nam của phía lửa âm như ta thấy qua từ đôi đối nghĩa Văn Võ (văn là dương, nam của phía nòng âm còn Võ là dương, nam của phía nọc dương) và Văn cũng có nghĩa là Vẻ Đẹp, Vẻ Sáng như thấy qua từ đôi Văn Chương. Mang-Văn ở đây nghiêng về con mang thái dương lửa  thế gian phía âm.

Điều này thấy rõ qua sự kiện là trong 8 con mang thì 7 con là con cái.

Rõ như ban ngày vành chủ yếu trên trống Miếu Môn I có hai loài thú Mang Lang là con Văn và con Lang là hai khuôn mặt thú biểu của hai ngành  nọc âm thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là hai khuôn mặt thú biểu thế gian Mang sừng  nhánh Âu Cơ và Lang trời  nhánh  lửa dương  của Lạc Long Quân của  liên bang Văn Lang Hùng Vương.

Tên nước của Hùng Vương là Văn Lang nhìn dưới diện thú biểu bốn chân của đại tộc nọc âm thái dương, thì Văn là con Mang sừng của phía Âu Cơ và Lang là con Lang rạng ngời, con Lang đực, Lang nọc, Lang Việt  phía Lạc Long Quân.

Cũng qua trống này ta thấy nghĩa đích thực của tên Văn Lang phải hiểu theo lăng kính trọn vẹn của Vũ Trụ giáo, của Việt Dịch nòng nọc, theo lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Vì thế mà từ Văn Lang tức liên bang Văn Lang có nhiều khuôn mặt tùy thuộc vào nhìn theo góc độ nào của Vũ Trụ giáo hay theo góc độ nào của các tộc khác nhau trong liên bang Văn Lang. Ở trống Miếu Môn I  này, nhìn dưới diện thú biểu ở cõi thế gian của Hùng Vương lịch sử là lưỡng hợp cõi tiểu vũ trụ thiếu dương Li  Mang với thiếu âm Đoài Lang. Trong khi ở trống Quảng Xương cũng có một khuôn mặt liên bang Văn Lang qua sự lưỡng hợp ở đại vũ trụ giữa thái dương người Tiên Chim Rìu mỏ cắt và thái âm người Rồng Rắn nước.

 Trống Trống Miếu Môn I (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

b.   Đất âm

 .Vành cò bay

Kế đến là vành có 16 hình cò bay.

Ta đã biết cò có mỏ dài mang dương tính và sống ở bờ nước mang âm tính, tức dương của âm, tức thiếu âm nguyên thể của khí, gió. Vì thế cò là chim biểu tượng cho khí gió (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt  cò bay là chim biểu Cò Lang của Hùng Vương có một khuôn mặt sinh tạo là bầu trời, gió thế gian sinh ra từ bọc trứng thế gian. Cò Lang Gió thuộc đại tộc Cò Gió Bạch Hạc, Phong Châu, Hùng Vương (Chim Lạc Hay Cò Lang?).

Cò bay theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời liên hệ với mặt trời, vua mặt trời (Hùng Vương). Đây là trống mặt trời thái dương thế gian có 14 nọc tia sáng nên cò bay có một khuôn mặt thái dương.

Mười sáu con cò bay với số 16 là số Khôn nước thế gian tầng 3 (0,8, 16).

Mười sáu con cò bay với số 16 là số Khôn thế gian tầng 3 (0, 8, 16). Như thế nhìn tổng quát 16 con cò gió Lang này có một khuôn mặt Khôn  thái dương . Nếu nhìn theo ở cùng một ngành nòng âm, ta thấy Khôn dương là khí gió Đoài. Vậy những con cò này có một khôn mặt Đoài. Ở trống này là Đoài/Tốn. Nhìn dưới dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương ta có Khôn hôn phối với Càn. Như thế những con cò này có thêm một khuôn mặt nữa là Càn và ở trống thế gian này ta có Càn thế gian tức có Li/Tốn.

Như thế 16 con cò bay có cả hai khuôn mặt lưỡng hợp thế gian thiếu dương Li và thiếu âm Đoài của trống mặt trời có 14 nọc tia sáng Tốn tầng 2 thế gian.

Bây giờ ta hãy mổ xẻ, giải đọc bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que những con cò trên trống này.

Trước hết những con cò bay này có nhiều điểm giống hình cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

 Hình cò bay trên trống Miếu Môn I ở cổ và phần trên có tên viết bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc giải gió,  tua gió, đuôi diều và có bờm phướn gió (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Cò có mỏ dài rất thẳng, thanh tao mang dương tính của ngành âm tức thiếu âm gió Đoài.

Trong mỏ có đánh dấu hay viết chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) (>) cho biết cò có một khuôn mặt nọc, dương, lửa, thái dương, Việt.

Bờm hình cờ, phướn gió giống như hình cò trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I cho biết những con còn này là cò gió Đoài (xem trống đồng âm dương Ngọc Lũ I).

Trong bờm có những chữ viết nòng nọc vòng tròn-que cho biết mỗi con cò diễn tả một khuôn mặt của Vũ Trụ Tạo Sinh, của mỗi một tộc.

Rất tiếc không có đủ hình vẽ chi tiết của tất cả 16 con cò nên tôi không muốn nhận diện chúng một cách suy diễn.

Cánh cò mang hình ảnh cánh diều gió.

Mấu chốt chính là tên con cò này viết bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que hình giải gió, tua gió bay như đuôi diều diễn tả gió bay cho biết cò là Cò Gió thái dương Đoài. 

Nhưng đặc điểm nhất là những con cò này dưới mỏ có cái mà các nhà khảo cổ học hiện nay gọi là “cái mồi” giống như các con Lang trời ở trên.

Ta đã biết “cái mồi” này là một chữ, một dấu hình trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.

Nếu nhìn theo chữ V thì có nghĩa là âm, nước thái dương Chấn ứng với khuôn mặt Lạc Long Quân của trống.

Nếu nhìn dưới dạng hình tam giác thì đây là nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) hình tam giác ngược có cũng nghĩa là nước lửa thái dương Chấn hay  nhìn theo diện thiếu âm gió thì đây là cái túi dương khí gió tức túi âm thanh cho biết những con có này là những con cò “húyt sáo” được tức những con cò gió Đoài.

Có nhiều yếu tố khiến ta nghiêng về phía đọc theo chữ V hay tam giác ngược có nghĩa là nước lửa thái dương Chấn như sau:

-Trống này là trống nọc âm thái dương với ba vành biên trống diễn tả lửa nước, Chấn thái dương.

-So sánh với trống Phú Xuyên nọc dương thái dương với ba vành biên trống diễn tả lửa Càn thái dương có vành cò lửa Càn giữa cánh có tên viết bằng chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) hình tam giác có nghĩa là lửa vũ trụ, Càn thì những con cò ở đây là những con cò gió thuộc đại tộc nước dương vũ trụ Chấn viết bằng chữ V hay tam giác ngược có nghĩa là nước dương Chấn.

Gộp lại đây là những con cò gió Đoài của đại tộc nọc âm Khôn thái dương Chấn-Đoài. 

 Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cò gió Đoài vũ trụ là chim biểu của đại tộc Gió thái dương dòng nọc âm  thái dương mặt trời Thần Nông-Lạc Long Quân thái dương. Ở đây có khuôn mặt chủ là Khôn dương Lang Việt ngành nước âm Khôn Lạc Long Quân Thần Nông thái dương.

Lưu Ý

 Cò Gió Lang ở đây mang hình ảnh cò Lang ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I nhưng khác là có hình chữ V hay túi âm thanh ở dưới mỏ cho biết cò Gió này thuộc nhánh nước thái dương, ngành mặt trời Nước, Chấn Lạc Long Quân-Thần Nông  trong khi cò Gió Lang ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I không có chữ V hay tam giác ngược thuộc về cả hai ngành nòng nọc, âm dương, Lửa Nước của họ Viêm Đế-Thần Nông. 

Như thế vành chủ yếu (vì nằm sát mặt trời) thú bốn chân, thú biểu của cõi đất dương, trần gian, Trung Thế là mang sừng và lang trời và vành cò bay thuộc ngành nọc âm thái dương Chấn-Đoài cho thấy trống này là trống Mang Lang của ngành nọc âm thái dương Lạc Việt.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là vành thú biểu MANG VĂN của nhánh lửa 50 con theo mẹ Âu Cơ lên núi và thú biểu LANG trời thiên cẩu, khuôn mặt dương của nhánh nước 50 con theo cha Lạc Long Quân xuống biển. Vành chủ yếu này là vành VĂN LANG.

Vành cò bay diễn tả cò Gió Đoài cho biết hai chi tộc, hai nhánh mang lang Văn Lang thuộc đại tộc Gió Đoài Lang Việt ngành nọc âm thái dương Thần Nông, Lạc Long Quân.

.Các vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que ở biên trống.

Ngoài biên trống có ba vành chữ viết nòng nọc vòng tròn-que (‘hoa văn’) gồm hai vành ở ngoài hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có một nghĩa là nọc lửa, thái dương.

Đặc biệt ở trống này trong nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) còn có đánh dấu hai chấm nọc có mục đích nhấn mạnh đây mang nghĩa hai nọc, lửa, thái dương sinh tạo.

Hai vành này kẹp ở giữa vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

Như thế ba vành này cho biết trống này thuộc nhánh nọc âm, nước lửa thái dương, Chấn thái dương ngành Khôn thái dương.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là trống ngành nọc âm thái dương Thần Nông-Lạc Long Quân  thái dương.

Những vành giới hạn nọc chấm cho biết trống có khuôn mặt lửa, thái dương mang tính chủ.

Tóm tắt lại mặt trống từ tâm trống ra ngoài biên ta có: Thượng Thế là mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn-không gian tứ tượng và các vành tứ hành sinh động. Vùng đất dương có vành chủ yếu gồm hai loài thú bốn chân Mang Văn và Lang Trời diễn tả một khuôn mặt liên bang Văn Lang qua thú biểu thế gian.

Vành 16 cò bay Gió Đoài cho biết thuộc tộc Hùng Vương bầu trời thế gian Gió Đoài vũ trụ thuộc ngành Khôn nước thái dương.

Ba vành ngoại biên cho biết thuộc nhành nọc âm thái dương, nước lửa, Chấn thái dương.

-Vùng nước

Vùng nước là phần phình tang trống (trông như một vật đựng nước).

Tang trống có những ‘hoa văn’ chữ viết nòng nọc vòng tròn-que giống ở biên trống gồm hai vành  giới hạn nọc chấm và ba vành với hai vành nọc mũi mác mang nghĩa lửa, thái dương kẹp ở giữa vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

.Thuyền

 Chủ điểm của tang trống là 6 hình thuyền, trên mỗi thuyền có 4 người ngồi khom lưng.

Trống Miếu Môn I là trống thuộc nhóm Đoài/Tốn thế gian có mặt trời 14 nọc tia sáng nằm cùng trong một nhóm với trống Ngọc Lũ I nhưng là trống muộn. Trên vai trống Miếu Môn I cũng có 6 chiếc thuyền. Nhìn tổng quát, sự trình bày của thuyền ít tinh vi và ít phức tạp hơn. Thuyền không còn là thuyền phán xét linh hồn như trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I nữa nhưng vẫn diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh mang ý nghĩa Vũ Trụ giáo bằng một cách đơn giản hóa và nghiêng theo duy dương.

Số 6 là số Tốn vũ trụ. Những con thuyền này mang khuôn mặt Tốn. Ta đã biết trống này có hai khuôn mặt lưỡng hợp với Tốn là Đoài/Tốn và Li/Tốn. Vậy 6 con thuyền này thuộc hai nhánh Đoài/Tốn và Li/Tốn của hai ngành nòng nọc, âm dương. Suy ra giống như ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I trong 6 thuyền có hai thuyền đại diện cho hai ngành nọc dương thái dương ứng với Viêm Đế-Kì Dương Vương thái dương và ngành nọc âm thái dương ứng với Thần Nông-Lạc Long Quân thái dương. Còn lại bốn con thuyền biểu tượng cho bốn đại tộc ứng với tứ tượng (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Rất tiếc ở đây chỉ có hình vẽ chi tiết hình hai con thuyền nên bốn thuyền còn lại không biết như thế nào.

Hai chiếc thuyền ở đây, một thuyền ở đầu mũi có con chim đứng nhìn theo hướng dương tức theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời và có một con chim mổ cá ở đuôi thuyền và còn lại chiếc thuyền kia chỉ có một con chim nhìn theo hướng âm tức theo chiều kim đồng hồ.

-Chiếc thuyền thứ nhất ở đầu mũi có con chim đứng quay về chiều dương tay phải.

Hình thuyền trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

.Thuyền

Mũi thuyền hình đầu Rắn Nước Chấn thái dương đang há miệng tương tự như ở mũi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I (xem trống này). Hàm trên của linh vật Rắn Nước biến thành con chim dương có mỏ rất lớn.

Mũi thuyền lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương, thái âm Chim-Rắn, Tiên Rồng.

 Trong hai phần mỏ chim có đánh dấu các chấm nọc có nghĩa là nọc, dương, lửa. Đầu có mũ sừng có chấm nọc, dương, lửa và có con mắt dương vòng tròn có chấm. Chim mang hình ảnh chim mỏ cắt lửa lớn (Great Hornbill Buceros bicornis) mang tính siêu dương lửa thái dương Càn vũ trụ. Mũi thuyền diễn tả sự lưỡng hợp ở cõi đại vũ trụ tức thái âm nước Rắn Chấn với thái dương lửa Chim mỏ cắt lớn Càn.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là dạng lưỡng hợp Tiên-Rồng ở cõi đại vũ trụ ngành mặt trời thái dương Thần Nông-Viêm Đế. Ở đây khác với ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.  Chim và Rắn còn là hai thực thể riêng rẽ ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Chim rìu mỏ cắt lao vào miệng Rắn nước ở đầu thuyền diễn tả lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng theo dạng hai cá thể riêng rẽ. Ở trống Trống Miếu Môn I này chim và rắn ở dạng nhất thể cùng ở trên một cá thể là đầu thuyền rắn-chim nhưng vẫn còn giữ nguyên dạng thiên nhiên. Trường hợp nhất thể này là dạng tiền thân của dạng đầu thuyền nhất thể tiến xa hơn nữa ở dạng rắn có bờm chim như thấy ở trống Hữu Chung. Dạng Chim-Rắn, Tiên Rồng nhất thể rắn bờm chim này chính là dạng Rắn Lông Chim Quetzal-Coatl của Mễ và Kukulcan của Maya (nên biết là Mễ và Maya có gốc từ ven biển Đông Nam Á qua Trung Mỹ và Maya có DNA giống cổ Việt ở Đông Nam Á).

Đuôi thuyền có hình chim có bờm gió, có túi nang thể điệu hóa có mũi nhọn mang dương tính trong có các sọc song song nghiêng diễn tả khí gió và có con mắt dương. Ngoài ra còn phụ đề bắng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình chấm vòng tròn (.O), ở đây mang âm tính vì ở đuôi thuyền nên có nghĩa là thiếu âm gió. Đây là đầu chim bổ nông (IO) thiếu âm gió dương Đoài vũ trụ giống như ở đuôi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, nhưng ở đây đã thể điệu hóa khó nhận diện hơn, vì trống đã hơi muộn.

Sau đuôi thuyền hình đầu chim bổ nông có cây cọc hình chim mỏ lớn, có mũ sừng và con mắt dương. Đây là chim bồ cắt (OI) thiếu dương lửa Li giống như ở trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

 Lưu ý

Đầu chim cắt thiếu dương ở đuôi thuyền này có mỏ nhỏ trong không có đánh dấu các chấm nọc dương so với đầu chim mỏ cắt lớn thái dương có mỏ rìu rất cường điệu và bên trong có đánh dấu các chấm nọc, nên mang ít dương tính hơn đầu chim ở mũi thuyền nghĩa là mang tính thiếu dương (trong khi ở đầu thuyền chim mỏ cắt lớn mang tính thái dương).

Một điểm nữa mũi thuyền mang dương tính còn đuôi thuyền mang âm tính vì thế con chim cắt lửa, dương (I) ở đuôi thuyền có mang âm tính (O) tức âm của dương tức thiếu dương IO.

Đuôi thuyền có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm bổ nông Đoài với thiếu dương bồ cắt Li.

Như thế đầu và đuôi thuyền diễn tả dạng lưỡng hợp đại vũ trụ thái dương lửa vũ trụ Càn với thái âm nước Chấn và tiểu vũ trụ thiếu dương lửa đất Li với thiếu âm gió Đoài.

Thân thuyền có các sọc đứng răng lược biểu tượng cho nọc âm thái dương có đánh dấu các chấm nọc lửa, thái dương. Ở thân và cổ thuyền có những hình trông giống như chiếc “nơ”. Thuyền này có 7 hình. Số 7 là số Càn hôn phối với Chấn cho biết thuyền này có một khuôn mặt nòng Chấn với khuôn mặt Khôn dương là Đoài.

Ở cổ đầu thuyền rắn có ba chữ vòng tròn có chấm là ba dương ở dạng sinh tạo (ba mặt trời) tức Càn. Càn hôn phối với Chấn cũng cho thấy thuyền có một khuôn mặt Chấn/Đoài.

.Người

Mỗi thuyền có 4 người. Số 4 Cấn theo duy âm hôn phối với Chấn (Âu Cơ Cấn núi hôn phối với Lạc Long Quân Nước dương, biển).

Một người ngồi trong miệng rắn-chim là người thuyền trưởng và ba người chèo thuyền.

Tất cả 4 người trông như không mặc quần áo. Những người thuộc tộc nước thường được diễn tả ở trần truồng.

./Người thuyền trưởng

Taycầm rìu Việt trong có dấu chấm nọc, dương, lửa biểu tượng của Đại Tộc Việt Người Mặt Trời.

Xin nhắc lại Rìu Việt mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh và ý nghĩa biểu tượng cho ngành, đại tộc, tộc, chi tộc  của ngành mặt trời thái dương ứng với Viêm Việt Viêm Đế. Vì thế Rìu Việt có những chi tiết khác nhau ứng với  tứ tượng, Tam Thế. Ở cõi trên mặt trời tạo hóa, Rìu Việt mang hình bóng đầu chim Việt mỏ cắt lớn có sừng, ở cõi đất thế gian mang hình bóng chiếc sừng hai mấu nhọn mang gạc và ở cõi nước mang hình ảnh đầu rắn có sừng hay biểu tượng  búa thiên lôi hình chữ Y (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Cây rìu Việt ở đây có mấu rìu hình túi nhọn với đường nét cong mang âm tính biểu tượng cho nhánh nòng Chấn-Đoài.

Trang phục đầu có hai phần chính, phần phía trên hình cong mang nghĩa nọc âm thái dương Đoài-Chấn. Ở đây trông nghiêng nhiều về hình chiếc bờm gió tạt Đoài vũ trụ, phần sau gáy hình sọc nước Chấn. Người thuyền trưởng biểu tượng cho ngành nòng thái dương Chấn-Đoài. Phần bờm cao, to hơn phần sau gáy cho thấy khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

Ba người chèo thuyền có trang phục đầu có thêm phần thứ ba ở giữa cho biết thuộc tộc nào (rất tiếc vì không có đủ hình cả 6 con thuyền nên không dám suy diễn).

Số 4 là Cấn, theo Dịch âm dương hôn phối đề huề, Cấn hôn phối với Chấn và theo âm Dịch, Cấn hôn phối với Đoài. Vậy chiếc thuyền này là thuyền Đoài Chấn. Trống này là trống Đoài/Tốn, Đoài nước ngành Chấn có thể mang tính chủ.

.Chim

Thuyền này có hai con chim đứng ở phía mũi và đuôi thuyền. Số 2 là số chẵn, âm cho biết thuyền này ở nhánh nòng âm Chấn-Đoài. Cả hai con chim đều quay về phía tay phải dương như thế khuôn mặt dương mang tính chủ nghĩa là khuôn mặt Đoài mang tính chủ. Con thuyền có khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

Con chim đứng dưới nước ở mũi thuyền theo chính thống phải là một loài chim nước. Điểm này thấy rõ trên người có hình sóng nước dương Chấn. Người chim thon gọn có đuôi dài mang vóc dáng của một con đực. Mỏ hình rìu mang dương tính trong có đánh dấu nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) có nghĩa là nọc dương, lửa, thái dương. Mào ba múi hình ba nọc que lửa vũ trụ Càn. Bìu hay mồng thịt nhỏ dưới cổ trong có chữ vòng tròn có chấm cũng cho biết mang tính dương. Chân cao đứng trên lá hay bờ đất nhưng có cổ ngắn nên không phải là loài sếu cò. Tóm lại đây là một con chim nước đực mang hình bóng loài gà nước, chim cuốc mang tính lửa mặt trời nước thái dương là chim biểu của Chấn thái dương.

Ở cuối đuôi thuyền trên nước, có hình con chim đuôi ngắn, có mỏ dài hình túi đang mổ con cá để nhấn mạnh cho biết đây là loài chim nước. Con cá cũng mang ý nghĩa biểu tượng có con mắt dương vòng tròn có chấm và mõm nhọn nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) trong có dấu hay chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) cho biết đây là loài cá nọc Việt. Trên người cá viết chữ nọc que hai bên có hai hàng chấm nọc lửa, thái dương. Con cá thuộc ngành nọc mặt trời thái dương.

Trong mỏ chim có chữ nọc que nhọn mang nghĩa nọc dương ngành âm khác với chữ nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ngành dương. Bờm gió, trên người có phụ đề 3 hình chấm-vòng tròn, số 3 là số Đoài. Chim đứng trên một cái “bè” có 11 chữ vòng tròn có chầm nòng nọc, âm dương sinh tạo. Số 11 là số Đoài tầng 2. Đây là con chim bổ nông Đoài.

Tóm lại thuyền này của nhánh nòng âm thái dương Chấn-Đoài với khuôn mặt Đoài mang tính chủ.

-Chiếc thuyền thứ hai ở đuôi thuyền có một con chim đứng quay về chiều âm tay trái.

Hình thuyền trên Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

 .Thuyền.

Nhìn tổng quát giống thuyền trên, chỉ khác các chi tiết sau đây:

.Đầu chim cắt ở hàm trên đầu thuyền rắn không có mũ sừng nên ít có dương tímh tức thiếu dương Li cho biết thuyền có khuôn mặt Li mang tính chủ của nhánh lửa Càn-Li.

.Ở thân và cổ thuyền có những hình trông giống như chiếc “nơ”. Thuyền này có 4 hình. Số 4 là số Cấn có số 5 Li đại diện cho biết thuyền này có một khuôn mặt nọc Càn thế gian-Li với khuôn mặt Càn âm tức Li mang tính chủ.

./ Người

Thuyền cũng có 4 người, ở đây theo duy dương cùng ngành lửa số 4 Cấn đi với khuôn mặt dương đại diện là Li 5 và cùng ngành Càn (Mẹ Tổ Âu Cơ  Cấn núi âm số 4 có Kì Dương Vương núi dương Li 5 đại diện và cùng ngành Càn Viêm Đế).

Lưu Ý

Kiểm chứng lại bằng số học ta cũng thấy số 4 (người trên thuyền) nằm giữa số 3 Đoài và số 5 Li. Theo duy dương tức theo chiều về tay phải thì số 4 đi với số 5 ở bên phải, phía trên (số 5 lớn hơn 4 ở bên trên 4) và theo duy âm tức theo chiều về tay trái thì số 4 đi với số 3 ở bên trái, phía dưới (số 3 nhỏ hơn 4 ở bên dưới 4). Rõ như ban ngày thuyền có 4 người nhìn theo âm dương có hai khuôn mặt Đoài Li.

Thuyền trưởng có trang phục đầu hình rìu trong có hai chấm nọc lửa là người đại diện của nhánh Lửa Càn-Li. Cây rìu Việt cầm trong tay có mấu nhọn có góc cạnh dương tính lửa mang hình ảnh rìu Việt sừng mang gạc Li của nhánh Càn-Li trong khi người thuyền trưởng ở thuyền trên cầm rìu có rìu hình túi nhọn với đường nét cong biểu tượng cho nhánh nòng Chấn-Đoài.

Vậy thuyền này là thuyền biểu tượng cho nhánh Càn Li với khuôn mặt Li mang tính chủ.

Hai con thuyền có một khuôn mặt ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu âm Đoài và thiếu dương Li.

./Chim

Chim trông cùng loài với con chim đứng ở mũi thuyền số 1 ở trên nghĩa là mang vóc dáng chim cuốc. Một con chim với số 1 là số lẻ số dương. Chim đứng ở đuôi thuyền và quay về bên trái, chiều âm. Gộp lại tức là âm của dương là thiếu dương Li. Thuyền này có một khuôn mặt Li mang tính chủ.

Rất tiếc bốn chiếc thuyền còn lại không có hình vẽ chi tiết.

Tóm lại hai chiếc thuyền này biểu tượng cho hai ngành: ngành nọc dương thái dương Càn Li với khuôn mặt Li mang tính chủ và cho ngành nọc âm thái dương Chấn Đoài với khuôn mặt Đoài mang tính chủ. Suy ra bốn con thuyền còn lại biểu tượng cho bốn đại tộc ứng với  tứ tượng (xem thêm chương Ý Nghĩa Hình Thuyền trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

C. HẠ THẾ

Chân trống còn giữ được chính thống vì không có trang trí,


 (phần 5 và hết)

Nguyễn Xuân Quang

 Trống Trống Miếu Môn I (nguồn: Phạm Huy Thông và các cộng tác viên).

D. THÂN TRỐNG

Thân trống hay eo trống là Trục Thế Giới nối liền ba cõi.

Thân trống có những vành ‘hoa văn’ thẳng đứng và nằm ngang giống như ở tang trống.

Ngoài ra còn có thêm sự hiện diện của vành sóng uốn khúc xoắn ốc hình chữ S kép với vòng tròn đồng tâm và có hai mầm nhánh trong có chữ vòng tròn có chấm.

 

Vành uốn khúc hình xoắn ốc chữ S kép với vòng tròn đồng tâm và có hai mầm nhánh trong có chữ vòng tròn có chấm ở thân trống Trống Miếu Môn I và trên trống Lào.

Những vành này chia trụ trống ra 8 ô chữ nhật chính trong ô có từ một đến hai hình người mà các nhà khảo cổ học Việt Nam hiện nay gọi là “dũng sĩ” và  hai ô nằm giữa hai đường khuôn đúc bỏ trống.

 Hình thái sóng uốn khúc xoắn hình chữ S kép (double S-shaped spirals) là một thể dạng biến thể của hình thái uốn khúc xoắn gợn sóng thường gọi là “hình xoắn hai chữ S” thấy trên một vài trống như trống Hoàng Hạ, Vienna, Lào và Salaya (Nam Dương), và những trống muộn khác…

 Hình sóng uốn khúc xoắn hình chữ S kép gồm hình sóng do hai chữ S thường (hình A, B, F) hay có phụ đề thêm chữ nòng nọc “vòng tròn có chấm” (hình C, D) với nghĩa mặt trời-vũ trụ hay mặt trời âm hay vũ trụ dương… và hai nhánh nọc nẩy ra từ đầu của hình xoắn (hình A, B, D, F) hay từ thân của hình xoắn (hình C ). Những nhánh nọc nhọn (hình D) diễn tả hai dương, thái dương. Những nhánh tròn đầu là dạng biến thể của dấu móc câu, nếu không có gì cả diễn tả hai nước, hai âm, thái âm (hình A) nếu có phụ đề thêm chữ “vòng tròn có chấm” thì có thể có nghĩa là nước-lửa, nước dương hay nước vũ trụ âm dương (hình B, C). Ở trống này hai nhánh là hình đầu chim có con mắt dương diễn tả trống này liên hệ với một tộc dương, thái dương của ngành nước dương Khôn Chấn-Đoài ứng với Thần Nông Lạc Long Quân thái dương.

Như thế nhìn tổng quát những người nằm trong ô có  hình sóng uốn khúc xoắn chữ S kép lửa nước thái dương cho biết những người này có khuôn mặt chủ thuộc ngành nọc âm thái dương.

Nếu ta chỉ chọn 8 ô có người để nhận diện tổng quát về người trong các ô thì ta chỉ lấy 8 ô có người thôi. Số 8 là số Khôn tầng 2 dưới dạng lưỡng hợp hai ngành nòng nọc, âm dương là Khôn-Càn và dạng đại diện cùng ngành nòng âm thì có Chấn thái dương đại diện tức Khôn-Chấn. Như thế các người này có hai khuôn mặt Càn-Li và Chấn-Đoài. Trống này là trống thế gian thì hai khuôn mặt Li-Đoài mang tính chủ.

a. Ô có một người.

Những ô nhỏ có một người nhẩy múa (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Đây là những ô nhỏ, từng đôi một đối xứng với nhau: 1 và 2 đối xứng với 5 và 6. Trong mỗi ô nhỏ chỉ có một người (Nguyễn Văn Huyên).

Các tác giả Việt Nam hiện nay gọi là ‘dũng sĩ” (danh từ nhuốm mầu võ biền, khát máu).

Tôi không nghĩ là như vậy. Xin nhắc lại thân trống là Trục Thế Giới, Trục Vũ Trụ thông thương ba cõi. Do đó theo chính thống trên thân trống chỉ khắc những người hay vật có thể đi lại ba cõi. Ví dụ  về người, thì đó là các đấng siêu phàm, thần tổ (Supreme Beings), người đại diện của ngành, đại tộc, tộc, các thầy tế, phù thủy, thầy thuốc shaman, bà đồng, ông mo, các linh hồn người chết… Những người này có thể lên trời hay đi xuống âm thế. Trục Thế Giới lưng trống là siêu xa lộ xuyên ba cõi của họ. Họ là những kẻ có thể lên cõi trời liên lạc với các thần linh cõi trên và đi xuống cõi âm, liên lạc được với âm thần, với các âm hồn và linh hồn người chết có thể lên cõi trên hay bị đẩy xuống cõi dưới, địa ngục theo trục lộ này. Chỉ có giới này và linh hồn mới có thể đi lại lên xuống giữa ba tầng trời theo trụ trời, Trục Vũ Trụ. Còn ở những trống có thân trống coi như là núi Trụ Thế Gian, thì người và thú trên thân các trống này mang nghĩa biểu tượng cho người và thú thế gian của tộc ứng với trống.

Do đó những người ở trên thân trống không phải là những “dũng sĩ” nhìn theo duy tục.

Các người ở đây mang vóc dáng đang nhẩy múa chân trước chân sau.

Người số 1

Người số 1 Đoài: phần giữa trang phục đầu có hình cánh chim nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) gió dương Đoài, tay phải cầm rìu bổ nông có bờm gió.

-Trang phục đầu

Trang phục đầu hình chim gồm ba phần:

.Phần cao diễn tả ngành.

Ở đây có hình nọc cong diễn tả nọc thái dương âm. Nếu nhìn theo chiều dương tức chim quay đầu về phía trước mặt tay phải (chiều ngược kim đồng hồ) thì nọc cong này là sừng cong nọc âm Càn Li ngành nòng âm thái dương. Nếu nhìn theo chiều âm (chiều kim đồng hồ) tức chim quay đầy về phía sau lưng, phía tay trái thì phần nọc cong này là cái đuôi dài diễn tả Đoài-Chấn ngành nòng âm thái dương.

Ở đây trên trống Trống Miếu Môn I thuộc ngành nọc âm thái dương diễn tả bằng ba vành ở biên trông và có sự hiện diện của những vành sóng uốn khúc hình chữ S kép ta chọn cách nhìn về phía âm tức phần cao là đuôi chim diễn tả Đoài-Chấn. Ở đây là trống thế gian nên Đoài mang tính chủ.

.Phần cánh cho biết thuộc đại tộc nào ứng với tứ tượng.

Ở đây hình cánh chim có hai nọc que II, lửa hai bên có hai hàng chấm nọc, lửa, thái dương diễn tả cánh gió thái dương Đoài .

.Phần sau gáy cho biết thuộc tộc nào.

Ở đây hình đuôi chim xòe ra có sọc gió Đoài.

Trang phục đầu hình chim biểu tượng cho người mặt trời nhánh nọc âm thái dương có khuôn mặt chủ là tộc thiếu âm gió Đoài.

-Khí giới hay tế biểu

Người này tay phải tức tay dương cầm rìu Việt đầu chim có mấu nhọn ở bên hình mỏ rìu và có bờm gió cao. Rìu Việt nghiêng về Rìu bổ nông Gió Đoài.

-Mộc phướn

Taytrái tức tay âm cầm phướn mà các học giả hiện nay cho là chiếc mộc. Tôi gọi là mộc hình phướn hay mộc phướn.

Chiếc mộc phướn có hình đầu chim có mỏ lớn và có bờm cách điệu có con mắt dương vòng tròn có chấm biểu tượng cho gió thái dương Đoài.

Chân phướn có hình cuộn sóng cuộn có phụ đề thêm chữ vòng tròn có chấm nọc dương cho biết là hình sóng cuộc dương tức gió cuộn Đoài.

Thân phướn có những tua ngang diễn tả gió bay Đoài.

Trên chỗ tay cầm có hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn trên có vòng tròn có chấm và các chấm nọc cho biết thuộc về ngành nọc âm thái dương Chấn thái dương.

Như thế mộc phướn diễn tả ngành nọc âm thái dương Đoài-Chấn và có khuôn mặt chủ là gió Đoài.

Tóm lại người này thuộc về tộc Đoài.

Người số 2

Người số 2 Li: phần giữa trang phục đầu có hình cánh chim hình rìu ngnag chữ nhật lửa đất âm, tay phải cầm rìu bồ cắt.

-Trang phục đầu

Chỉ khác người thứ nhất là phần cánh chim hình rìu chữ nhật nằm ngang trong có hình hai vòng tròn có chấm nối bằng tiếp tuyến theo chiều dương. Vòng tròn có chấm có phụ đề nọc que và các cha71m nôc lửa, dương cho biết mang nghĩa theo duy dương là thiếu dương (OI). Rìu này diễn tả thiếu dương Li sinh động Li ngànhh âm.

Trang phục đầu hình chim biểu tượng cho người mặt trời nhánh nọc âm thái dương có khuôn mặt chủ là tộc Li ngành nọc âm nước Chấn.

-Khí giới hay tế biểu

Người này tay phải tức tay dương cầm rìu Việt đầu chim có bờm cường điệu có sọc nước mang âm tính (bồ) có mỏ rìu lớn trong đánh các dấu chấm nọc dương, lửa (cắt). Rìu Việt nghiêng về rìu bồ cắt Li.

-Mộc phướn

Taytrái tức tay âm cầm phướn có hình đầu chim có mỏ lớn trong có chấm nọc dương có con mắt dương vòng tròn có chấm mang hình bóng chim bổ cắt biểu tượng cho Li.

Chân phướn có hình cuộn sóng nước cuộn theo chiều âm chiều kim đồng hồ, trên có chữ hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn cho biết thuộc về ngành nọc âm thái dương Chấn.

Như thế phướn diễn tả tộc Li ngành nọc âm thái dương Chấn với khuôn mặt Li mang tính chủ.

Hai người 1 và 2 này là thiếu âm Đoài và thiếu dương Li ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ.

Người số 1 và số 2 đối xứng qua vành sóng uốn khúc chữ S kép đứng.

 Hai người Người số 1 và số 2 đối xứng qua vành sóng uốn khúc chữ S kép đứng cho thấy rõ họ thuộc đại tộc Đoài-Li ngành nọc âm thái dương.

 Người số 3

Người số 3: Càn

trang phục đầu có thêm hình mã tấu là nọc thái dương ngành âm. Phần giữa trang phục đầu

hình cánh chim Càn, tay phải cầm rìu mỏ cắt mũ sừng Càn.

-Trang phục đầu

 Chỉ khác hai người thứ nhất và thứ nhì là có thêm một phần thứ tư hình lưỡi mã tấu cong mang tính dương, lửa của ngành nòng âm ở ngay sau phần cao cong vút. Hình mã tấu cho biết người này thuộc nhánh nọc dương thái dương Càn-Li ngành nòng âm.

Phần cánh chim rất rõ trong có chữ vòng tròn có chấm ở đây lấy nghĩa là lửa sinh tạo vũ trụ Càn.

Trang phục đầu hình chim biểu tượng cho người mặt trời nhánh nọc dương thái dương có khuôn mặt chủ là tộc thái dương Càn lửa vũ trụ.

-Khí giới hay tế biểu

Người này tay phải tức tay dương cầm rìu Việt đầu chim mỏ cắt lớn có sừng (Great Hornbill Buceros bicornis). Rìu Việt nghiêng về Rìu chim bổ cắt lớn có mũ sứng biểu tượng cho lửa vũ trụ Càn.

-Mộc phướn

Taytrái tức tay âm cầm phướn có hình đầu chim không có bờm chỉ có mỏ lớn trong có chấm nọc dương mang hình bóng chim bổ cắt biểu tượng cho gió lửa vũ trụ Càn.

Ở đây có một điểm không ăn khớp là con mắt là con mắt âm có hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước đáng lẽ phải là con mắt dương tức chữ hình vòng tròn có chấm mang dương tính. Phải chăng có ẩn ý cho biết Càn ở đây thuộc ngành nọc âm thái dương?

Ở dưới phần trên tay cầm có hình vòng tròn có chấm mang dương tính lửa vũ trụ Càn.

Chân phướn không có hình cuộn sóng mà chỉ hai hình nọc que lửa và bên cạnh có hàng chấm nọc dương nghĩa là siêu dương Càn.

Như thế người này nghiêng về tộc Càn của ngành nọc âm thái dương.

Người số 4.

 Người số 4:Chấn

 trang phục đầu có thêm hình mã tấu là nọc thái dương ngành âm. Phần giữa trang phục đầu

hình cánh chim nước, tay phải cầm rìu mõm cá sấu Lạc Việt  há miệng.

-Trang phục đầu

Giống người thứ 3 là có thêm một phần thứ tư hình lưỡi mã tấu cong mang tính dương, lửa của ngành nòng âm ở ngay sau phần cao cong vút. Hình mã tấu cho biết người này thuộc nhánh nọc dương thái dương ngành nòng âm thái dương.

Phần cánh chim rất to trong có sọc nghiêng không gian và trong có hình hai vòng tròn có chấm nối với nhau bằng một hình tiếp tuyến nên ở dạng nước âm sinh động. Cánh có mang âm tính nước biểu tượng cho tộc Chấn ngành nòng âm thái dương.

Trang phục đầu hình chim biểu tượng cho người mặt trời nhánh nọc âm thái dương có khuôn mặt chủ là tộc Chấn.

-Khí giới hay tế biểu.

Người này tay phải tức tay dương cầm rìu Việt hình mõm cá sấu (không có bờm, mắt) trong có chấm nọc dương, thái dương, lửa. Rìu Việt biểu tượng cho Chấn thái dương.

-Mộc phướn.

Tay trái tức tay âm cầm phướn có hình đầu chim có mỏ lớn có con mắt âm có hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn. Đây là con chim bồ nông nhánh nước thái dương.

Chân phướn có hình cuộn sóng nước Chấn. Ở chỗ tay cầm cũng có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn. Đây là cái phướn duy nhất có hai chữ lửa nước Chấn này.

Phướn này diễn tả Chấn.

Như thế người này nghiêng về tộc Chấn ngành nọc âm thái dương.

Hai người 3 và 4 này là thái dương Càn và thái âm Chấn ở dạng lưỡng hợp đại vũ trụ.

Người số 3 và số 4 đối xứng qua vành sóng uốn khúc chữ S kép đứng.

 Hai người Người số 3 và số 4 đối xứng qua vành sóng uốn khúc chữ S kép đứng cho thấy rõ họ thuộc đại tộc Chấn-Càn ngành nọc âm thái dương.

Tóm lại bốn người này là người đại biểu của bốn tộc ứng với tứ tượng của ngành nọc âm thái dương.

b. Ô có hai người.

Đây là những ô lớn, cũng từng đôi một đối xứng với nhau: 3 và 4 đối xứng với 7 và 8. Trong mỗi ô có hai người “dũng sĩ” trên đầu có hai con chim bay (Nguyễn Văn Huyên).

Bốn ô lớn có hai người ở thân Trống Miếu Môn I (nguồn: Nguyễn Văn Huyên).

Các viền khung của ô gồm ba vành như ở biên trống gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương kẹp giữa vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn. Viền khung của ô cho biết những người này có một khuôn mặt chủ là ngành nọc âm thái dương tức là những người đại diện của trống. 

Ta thấy ngay mỗi ô có hai người diễn tả lưỡng hợp tiểu vũ trụ và hai cò bay diễn tả lưỡng hợp cõi trời của hai nhánh người mặt trời thái dương tức liên bang Văn Lang ngành nọc âm Chấn thái dương.

Trên mặt trống diễn tả những khuôn mặt dương còn tang trống diễn tả các khuôn mặt nước âm và thân trống là Trục Thế Giới thông thương ba cõi diễn tả hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương, hai nhánh lửa nước của liên bang Văn Lang là điều dễ hiểu.

Bốn người cầm phách hay khí biểu hình tháp nhọn /\. Li. Bốn người cầm rìu Việt có hình dạng thay đổi ứng với tứ tượng. Vì là trống Mang Lang (Văn Lang) có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương thiếu âm, ta suy ra rìu Việt biểu tượng cho thiếu âm Đoài có bốn khuôn mặt hay bốn chi ứng với tứ tượng của tộc gió Đoài.

 Lưu ý

.Ba cặp người cầm khí giới hay phách hình núi tháp Li nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) đứng /\ đi trước người cầm vìu Việt, chỉ có một cặp người này đi sau cho biết khuôn mặt Li mang tính chủ. Điểm này thấy rô qua hình 5 chiếc mộc phướn có ở đầu trên và dưới hai chữ vòng tròn có chấm mang dương tính chỉ có một chiếc mộc phướn ở trên đầu có chữ hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn.

 Trên đầu mỗi cặp người này có các cặp cò gió bay có bờm có hình dạng và các hình, dấu, chữ viết nòng nọc vòng tròn-que khác nhau cho biết chúng thuộc tộc nào, tượng nào. Những con cò này cũng là một hình thức “phụ đề” giúp để nhận diện các người này. Ví dụ có một cặp cò không có chữ V, hình tam giác hay túi âm thanh (thường gọi là “cái mồi”), con bay trước không có bờm hình phướn gió mà bờm nằm sát cổ trong có chấm nọc lửa. Con này bay hướng lên cao (hướng về phía mặt trời). Đây là con cò tộc Gió Lửa.

Hai con cò không có “mồi” đi “cọc cạch” cùng đàn với sáu con cò “tha mồi” xác quyết cho thấy đây không phải là mồi mà là một dấu, chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hoặc là chữ V hay tam giác hoặc túi âm thanh.

Nhìn tổng quát thì những người này là những người nhẩy múa đại diện của các tộc, chi tộc hoặc các vị lãnh đạo tín ngưỡng, tinh thần của hai nhánh nòng nọc, âm dương của ngành Người Mặt Trời thái dương. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là người Đại Tộc Việt (Bách Việt), Người Mặt Trời Thái dương ngành mặt trời thái dương tức liên bang Văn Lang.

Trên mặt trống nhánh Lang trời thiên cẩu gió trời Đoài vũ trụ mang tính chủ vì con Lang to lớn hơn con mang sừng trong khi ở thân trống tộc Văn Mang mang tính chủ vì bốn người cầm khí biểu hay phách hình núi tháp lửa thế gian Li ở vị trí không thay đổi và như đã nói ở trên ba cặp người cầm khí giới hay phách hình núi tháp Li nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) đứng /\ đi trước người cầm vìu Việt, chỉ có một cặp người này đi sau cho biết khuôn mặt Li mang tính chủ.

 Kết Luận

 Đây là trống mặt trời thái dương 14 nọc tia sáng Càn thế  gian/Tốn hay Li/Tốn và Đoài/Tốn. Đối chiếu với Dịch sách,  Càn hôn phối với Tốn thấy trong Dịch Hậu Thiên Bát Quái và Đoài với Tốn trong Dịch Chấn/Cấn có một khuôn mặt sấm ở đầu non (Lạc Long Quân sấm ở nhà đầu non Âu Cơ) thấy ở là bùa trừ tà của dân gian Việt Nam.

 Điểm này cho thấy rõ trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là một Dịch đồng bằng hình diễn tả bằng chữ viết và hình dấu nòng nọc vòng tròn-que. Bộ sử đồng này có thể diễn tả hai thứ Dịch trên cùng một trống trong khi  Dịch sách chỉ diễn tả được một khuôn mặt.

.Mặt trống mang tính dương vì các vành giới hạn là những chấm nọc. Từ trong tâm trống ra ngoài: mặt trời thái dương   có 14 nọc tia sáng với không gian có vỏ dầy, to nét, mang âm tính  thái âm với khoảng không gian giữa các  tia sáng có hình thái  tứ tượng của cả hai ngành nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng.

Các vành giới hạn nọc chấm diễn tả ngành mặt trời thái dương rạng ngời.

Các vành sinh tạo mang trọn vẹn ý nghĩa tứ hành.

Vành chủ yếu Mang-Lang trời diễn tả hai thú biểu Mang sừng  thiếu dương Li và Lang trời thiếu âm Đoài vũ trụ tức ở dạng  lưỡng hợp tiểu vũ trụ thế nhân. Đối chiếu với truyền thuyết và  cổ sử Việt là liên bang Văn Lang nhìn dưới lăng kính thú biểu, vật tổ bốn chân thế gian.

Vành cò bay diễn tả đại tộc cò gió ngành nọc âm nước Chấn.

Ba vành ngoài biên cho biết trống thuộc ngành nọc âm nước Chấn thái dương. Các vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) ngoài biên trống được nhấn mạnh bằng các nọc chấm diễn tả nhánh nọc lửa dương, mặt trời thái dương rực  sáng.

Ở vùng nước tang trống có 6 con thuyền mang nghĩa Vũ Trụ giáo, mũi thuyền ở dạng lưỡng hợp đại vũ trụ Thái dương thái âm chim rắn ở dạng nhất thể nhưng chim và rắn còn là hai cá thể riêng biệt. Đây là dạng tiền thân của dạng nhất thể thần thoại hóa hoàn toàn trở thành hình rắn-bờm chim như thấy ở trống Hữu Chung và dạng rắn-lông chim Quetzal Coatl của Aztec va Kukulcan của Maya.

Đuôi thuyền ở dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ  thiếu âm chim bổ nông với thiếu dương chim bồ cắt.

Hai con thuyền biểu tượng cho ngành nọc dương thái dương Càn Li với khuôn mặt Li mang tính chủ và cho ngành nọc âm thái dương Chấn Đoài với khuôn mặt Đoài mang tính chủ. Suy ra bốn con thuyền còn lại biểu tượng cho bốn đại tộc ứng với tứ tượng.

Ở thân trống bốn ô nhỏ có bốn người nhẩy múa là những người đại biểu của bốn tộc ứng với tứ tượng của ngành nọc âm thái dương và từng cặp người trong bốn ô lớn diễn tả lưỡng hợp tiểu vũ trụ với khuôn mặt Li mang tính chủ và hai con cò bay trên đầu mỗi cặp người diễn tả lưỡng hợp cõi trời của hai nhánh người mặt trời thái dương tức liên bang Văn Lang ngành nọc âm Chấn thái dương.

Tất cả đều diễn đạt tuyệt vời với chủ đề của trống.

Tuy nhiên điểm quan yếu nhất là vành thú chủ yếu của Trống Miếu Môn I gồm có mang sừng và Lang trời.

Đây là vành Mang Lang. Trống có một khuôn mặt chủ Mang Lang nghĩa là dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu âm Lang, mang một khuôn mặt của kì Mang sừng và lân Lang trời.

Những con hươu trên Trống Miếu Môn I là Mang sừng thú biểu của  âm O của ngành Lửa I  tức OI, thiếu dương (hào âm trên hào dương là thiếu dương). Thiếu dương OI của ngành dương I là IOI, quẻ Li.

Những con lang trời là thú biểu của dương I phía âm O tức IO, thiếu âm. Thiếu âm của ngành dương I là IIO, Đoài.  Đây chính là hai khuôn mặt Li/Tốn và Đoài/Tốn của Trống Miếu Môn I có mặt trời 14 nọc tia sáng Tốn thế gian. Hai loài thú cùng nằm trên cùng một vành nên là lưỡng hợp thiếu dương Li với thiếu âm Đoài dưới dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ ở cõi thế gian (vì thế mới dùng loài thú bốn chân sống trên mặt đất).

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thì đây là dạng lưỡng hợp của nhánh Hùng Vương Lửa thế gian đất dương (núi), thiếu dương Li, khuôn mặt âm của phía nọc lửa Âu Cơ, theo mẹ lên núi với nhánh Hùng Vương Gió dương thế gian thiếu âm Đoài, khuôn mặt dương của phía nòng nước Lạc Long Quân theo cha xuống biển.

Sự lưỡng hợp ở tiểu vũ trụ thế gian này chính là một khuôn mặt của liên bang Văn Lang Hùng Vương.

Rõ như ban ngày vành chủ yếu trên trống Miếu Môn I có hai loài thú Văn và Lang là hai khuôn mặt của hai ngành của  liên bang Văn Lang Hùng Vương  nhìn theo diện thú biểu Mang sừng và Lang trời.

Tên nước của Hùng Vương là Văn Lang nhìn dưới diện thú biểu bốn chân, thì Văn là con Mang sừng và Lang là con Lang rạng ngời, con Lang đực, Lang nọc, Lang Việt (KQKTCSHV).

Cũng qua trống này ta thấy nghĩa đúng thực sự của tên Văn Lang như đã nói ở trên, phải hiểu theo lăng kính trọn vẹn của Vũ Trụ giáo, của Việt Dịch nòng nọc, theo lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Vì thế mà từ Văn Lang tức liên bang Văn Lang có nhiều khuôn mặt tùy thuộc vào nhìn theo góc độ nào của Vũ Trụ giáo hay theo góc độ nào của các tộc khác nhau trong liên bang Văn Lang. Ở cõi thế gian của Hùng Vương lịch sử là lưỡng hợp cõi tiểu vũ trụ thiếu dương Li với thiếu âm Đoài.

Cũng xin nhắc lại là ở trống Quảng Xương cũng diễn tả sự lưỡng hợp hai nhánh Hùng Vương là người chim mỏ Cắt ứng Mẹ Âu Cơ với và người rắn Nước ứng với Lạc Long Quân, tức cũng có một khuôn mặt của liên bang Văn Lang nhưng khác ở đây. Trống Quảng Xương là trống mặt trời Càn Khôn có 8 nọc tia sáng mang hình ảnh bọc trứng trăm Lang Hùng, các ngôi nhà thờ phượng chỉ có nhà mặt trời (tiền thân của nhà Lang, nhà đình) tức nhà thờ Lang Hùng toàn con trai (không có nhà nòng không gian mái vòm) và ba vành ngoại biên mang ý nghĩa lưỡng hợp tiểu vũ trụ Đoài vũ trụ-Li thế gian vòng tròn có chấm có tiếp tuyến của ngành nọc âm thái dương diễn tả bằng hai vành đường rầy hay hình các thanh thang đứng (răng lược). Như thế  khuôn mặt lưỡng hợp ở trống Quảng Xương là khuôn mặt lưỡng hợp đại vũ trụ Chim-Tiên và Rắn-Rồng của hai nhánh tộc người Lửa Núi Âu Cơ và Nước Biển Lạc Long Quân của đại tộc Hùng Vương Lang Việt. Trong khi ở trống Miếu Môn I này diễn tả liên bang Văn Lang của các vua Hùng thế gian lịch sử có dạng lưỡng hợp tiểu vũ trụ qua hai thú biểu bốn chân thiếu dương Mang-Văn và thiếu âm Lang trời ở cõi giữa thế gian của ngành nọc Nước Lửa thái dương Lạc Long Quân tức Lạc Việt.

Dĩ nhên liên bang Văn Lang còn có nhiều khuôn mặt khác ở các trống khác như trống Sông Đà, Ngọc Lũ I…

Các nhà làm văn hóa Việt nhất là các nhà viết sử Việt từ trước đến nay chỉ giải nghĩa từ Văn Lang theo một diện nên không bao quát, trọn vẹn được hết và hoàn toàn thiếu sót.

Trống Miếu Môn I là trống liên bang Văn Lang Lạc Việt nhìn dưới lăng kính vật tổ.

Tổng tóm lược.

Trống Miếu Môn I là trống biểu của nhánh nọc âm Khôn thái dương Chấn-Đoài [diễn tả bằng ba vành biên trống gồm hai vành nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) thái dương kẹp giữa vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm nọc dương có nghĩa là nước dương, lửa nước, Chấn] và vành cò gió nhánh Chấn có tên là cái “mồi” chữ V hay tam giác ngược có một nghĩa là lửa-nước thái dương Chấn.

Trống có vành chủ yếu là thú bốn chân Mang Lang. Mang là thú biểu của nhánh nọc dương phía âm thiếu dương Li và con Lang trời là của nhánh nọc âm phía thiếu âm Đoài. Đây là một khuôn mặt lưỡng hợp thiếu dương và thiếu âm của hai ngành nọc dương và nọc âm ở cõi thế gian tức tiểu vũ trụ. Lang có khuôn mặt mang tính chủ vì khắc to hơn con mang.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt đây là trống lưỡng hợp thú biểu Mang Lang của liên bang Văn Lang Hùng Vương với khuôn mặt Lang Việt mang tính chủ của ngành nọc âm thái dương Thần Nông thái dương có một khuôn mặt Lạc Long Quân Lạc Việt.

Lưu Ý

.Xin lưu ý ba trống Kì Việt Kì Dương Vương Phú Xuyên ngành nọc lửa thái dương, trống Giao Việt Lạc Long Quân Hòa Bình ngành nọc nước thái dương và trống liên bang Văn Lang Miếu Môn I lưỡng hợp nòng nọc, âm dương này đều tìm thấy ở một địa danh là tỉnh Hà Sơn Bình. Điểm này cho thấy ba trống này liên hệ mật thiết với nhau và là những chương sử đồng ở kế tiếp nhau của cùng một bộ cổ sử đồng của Việt Nam. Điểm này cũng cho thấy nơi làm ra hay tìm ra trống có thể liên hệ với lịch sử địa phương của Đại Tộc Việt. Ba trống ở Hà Sơn Bình này cho thấy vùng này là vùng đất tổ Việt. Ta cũng thấy các trống tìm thấy ở vùng Cổ Loa, kinh đô của An Dương Vương là trống Cổ Loa I và Cổ Loa II (xem những trống này) là những trống liên hệ với lịch sử vùng Cổ Loa tức là những trống ngành nọc âm thái dương dòng An Dương Vương, Lạc Long Quân. Bằng chứng thấy rõ nữa là trên một trống Lào có hình vật tổ chồn cáo (weasel) của người Tráng Zhuang với tiếng cổ Choang có nghĩa là chó hoang dã. Trống này cho biết đây là trống biểu của những người Tráng Zhuang di cư từ Nam Trung Hoa xuống phần đất Lào ngày nay. 

Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là của Việt Nam nói riêng, của Bách Việt nói chung không thể nào là của Trung Hoa. Chỗ nào có trống đồng nòng nọc, âm dương là nơi đó có tộc Lạc Việt nói riêng và Bách Việt nói chung hay nơi đó bị ảnh hưởng của văn hóa Bách Việt.

Nguồn: http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/2011/07/29/tr%e1%bb%91ng-van-lang-mi%e1%ba%bfu-mon-i-ph%e1%ba%a7n-5-va-h%e1%ba%bft/ 


Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Trống Văn Lang Nhánh Lạc Việt - Trống Miếu Môn I
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ ngàn đời cuả Việt tộc.

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.