Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net



Truyện Sử
Vũ Thanh Thư

(Tiếp Theo)

       Mục Lục

    Lời Nói Đầu

Lời Mở Đầu Về Thời Đại Tự Chủ

   * Nhà Ngô

   * Nhà Đinh

  * Nhà Tiền Lê

  * Nhà Hậu Lý

  * Lý Thái Tổ

  * Lý Thái Tông

  * Lý Thánh Tông

  * Lý Nhân Tông

  * Lý Thần Tông

   * Lý Anh Tông

   * Lý Cao Tông

   * Lý Huệ Tông

   * Lý Chiêu Hoàng

   * Nhà Trần

   * Trần Thái Tông

   * Giặc Nguyên

   * Kháng Nguyên Lần I

   * Trần Thánh Tông

   * Trần Nhân Tông

   * Kháng Nguyên Lần II

   * Kháng Nguyên Lần III

    * Trần Anh Tông

    * Trần Minh Tông

    * Trần Hiến Tông

    * Trần Dụ Tông

    * Trần Nghệ Tông

    * Trần Duệ Tông

    * Trần Phế Đế

    * Trần Thuận Tông

    * Chú Thích


NHÀ TRẦN (1225 -1413)

 * Thái-sư Trần Thủ Ðộ

 

          Ngẫm thế sự năm giềng bảy mối,

          Dẫu máy trời tráo đổi vần xoay,

          So bề bản lĩnh xưa nay,

1024. Vẫn chưa qua nổi bàn tay con người.

 

          Trần Cảnh đã lên ngôi lúc ấy

          Song Thái Tông tuổi hãy còn thơ (142),

          Triều cung trăm việc mưu đồ,

1028. Một tay Thủ-Ðộ Thái-sư mặc lòng.

 

          Ðộ vốn kẻ gan đồng dạ sắt,

          Lại là người bản chất thông minh,

          Cơ mưu quỷ khiếp thần kinh,

1032. Xuống tay chưa biết vị tình một ai.

 

          Nay trăm họ còn hoài nhà Lý,

          Bởi lo toan vương vị Trần gia,

          Tiền triều tông thất thôi đà

1036. Một cơn huyết lệ chan hòa thảm thương!

 

          Huệ Tông đã tìm đường ẩn dật

          Cũng không còn tấc đất an cư,

          Họ hàng tôn thất thân sơ

1040. Chẳng hầm chôn sống cũng lo lưu đầy! (143)

 

          Khắp thiên hạ ai nay họ Lý

          Phải đổi sang Nguyễn thị khác dòng

          Nhân vì tổ phụ Thái Tông

1044. Vốn là Trần Lý, e trùng húy danh.

 

          Trong gia tộc nhân luân xáo trộn (144),

          Kẻ chị dâu gả lộn em chồng,

          Cũng vì Chiêu-Thánh chánh cung

1048. Muộn sanh thái-tử nối dòng Trần gia.

 

          Vì cớ sự mà ra uất ức,

          Trần Liễu đem thủ túc nổi lên;

          Quân thua, lẻn đến ngự thuyền,

1052. Anh em khóc kể nỗi niềm trước sau.

 

          Thủ-Ðộ truyền chém đầu răn chúng,

          Nhờ Thái Tông hết bụng cản ngăn

          Liễu đà mới được toàn thân,

1056. Cấp cho thái ấp an phần tồn sinh.

 

          Buồn sự thế phồn vinh giả ảo,

          Chẳng khác phường mũ áo xướng ca

          Thái Tông thừa lúc canh ba,

1060. Dời thành kinh, bỏ lên chùa Phù-Vân (145).

 

          Thủ-Ðộ dẫn quan quân lên đón,

          Vua tạ từ: Việc lớn chẳng kham!

          Ðộ bèn truyền bảo các quan:

1064. Vua đâu triều đấy, cung vàng khởi công!...

 

          Con người ấy đứng trong trời đất,

          Há phải phường tâm thuật sói lang?

          Hay là vận nước đa đoan

1068. Khiến sinh ra kẻ khích ngang cương cường?

 

          Một tấc đất chẳng nhường Mông-Cổ:

          "Ðầu tôi còn Bệ-hạ đừng lo !" (146)

          Một lời rửa sạch tiếng ô

1072. Nước Nam mới vững cơ đồ ngàn thu.

 

          Nhà Trần khởi nghiệp từ Thủ-Ðộ,

          Dẫu thịnh suy, mờ tỏ có thời;

          Ngót trăm chín chục năm vơi,

1076. Một thiên hùng sử muôn đời ghi công.         


Trần Thái Tông (1225 -1258)

 

          Năm Ất Dậu (dl.1225) Thái Tông chấp chánh,

          Cũng chẳng qua thừa lệnh Thái-sư,

          Vua thì tuổi hãy còn thơ,

1080.  Nước non đang thuở giao mùa hỗn mang.

 

          Dòng thanh nghị thêm trang sử mới,

          Bút mạn đàm tiếp nối nguồn cơn...

          Rơm kia vừa bén lửa hờn,

1084. Cuồng phong đã giục bốn phương tung hoành.

 

          Người trượng nghĩa dương danh phò Lý,

          Kẻ thừa cơ nuôi chí dị thường;

          Quốc-Oai nổi đám giặc Mường,

1088. Quân triều trải mấy phong sương mới bình.

 

          Ðoàn Thượng lại dấy binh khởi nghĩa

          Chiếm Ðường-Hào cương địa một phương;

          Bắc-giang, Nguyễn Nộn quật cường,

1092. Ðều vì họ Lý xưng vương dựng cờ.

 

          Bởi lòng dân còn thờ nhà Lý,

          Khiến Trần triều xử trí nan phương,

          Mới quyền biến vạch biên cương

1096. Chia cùng Ðoàn, Nguyễn, liệu đường chống che.

 

          Phò thế cục! năm bè bẩy lũ,

          Mưu tại nhân thành sự tại thiên,

          Nguyễn, Ðoàn gây cuộc tranh biên,

1100. Một rừng hai cọp dễ yên được nào!

 

          Nguyễn Nộn chiếm Ðường-Hào cương thổ,

          Chẳng bao lâu vắn số quy tiên.

          Sự thành bất chiến tự nhiên,

1104. Từ trung châu đến lâm tuyền định xong.

 

          Từ đấy để giữ lòng trung tín,

          Nhà Trần theo viễn kiến triều xưa,

          Lấy ngày mồng bốn tháng tư

1108. Hội thề Ðồng-Cổ làm mùa hội chung.

 

* Phong tục, tập quán, văn hoá, việc cải cách:

 

          Từ Kinh đến thôn cùng làng mạc,

          Nếp sống còn chất phác yên vui,

          Phật tâm nhuần thấm lòng người,

1112. Nho phong cũng đã khắp nơi chan hòa.

 

          Tục ăn Tết nhà nhà hương khói,

          Pháo nổ ròn mở lối xuân sang;

          Mồng năm Khai-hạ tiệc ban,

1116. Vua, quan, sĩ, thứ cư an lễ chùa.

 

          Sang tháng hai vui mùa đại chúng,

          Khắp nơi nơi cho dựng xuân đài,

          Chọi gà, đánh vật... tranh tài,

1120. Hưởng vui cho hết, đến ngày lập xuân;

 

          Vua cho hội quần thần trong điện,

          Vụt thổ ngưu ban yến khuyến nông;

          Tháng ba đổ bánh trôi xong,

1124. Ăn tết Hàn-thực giáp vòng tháng tư;

 

          Hội Ðồng-Cổ người như nước chảy,

          Ðạo hiếu, trung răn dậy lo chăm;

          Tháng năm cũng đến mồng năm,

1128. Ăn tết Ðoan-ngọ khắp trong thôn làng.

 

          Làng thôn tựa khoảnh giang sơn nhỏ,

          Một nóc đình mái đỏ uốn cong,

          Cắt người đình trưởng phân công,

1132. Ngăn ngừa trộm cướp đề phòng thiên tai.

 

          Ðất nước chia mười hai vùng lộ (147),

          Ngoài ra còn các phủ, trấn, châu;

          Kiểm tra trướng tịch trước sau,

1136. Quan, dân, lính, tráng, người vào ngụ cư...

 

          Phân giai cấp, gia tư, thân thế,

          Ðịnh tước hàm, quan chế, võ văn,

          Vua, quan cho đến thứ dân,

1140. Tì, hoành là hạng gia nhân, tội đồ.

 

          Người quyền quý lệ cho tập ấm,

          Kẻ nợ nần giam cấm, bán mua!

          "Con vua thì lại làm vua,

1144. Con nhà thầy chùa lại quét lá đa" (148).

 

          Việc xây dựng nước nhà Văn Hiến,

          Ngoài kỳ công kháng chiến chống Nguyên,

          Thuần phong mỹ tục lưu truyền,

1148. Văn Nôm còn có Hàn-Thuyên lẫy lừng.

 

          Ðãi kẻ sĩ khuếch trương văn học,

          Mở trường thi chọn lọc nhân tài,

          Khoa Tam giáo, bậc Tam khôi (149),

1152. Quốc-Tử, Giảng-Vũ là nơi trui rèn.

 

          Văn Nôm đã đắp nền tự chủ,

          Hán học thêm ưu tú kiện cường,

          Biểu văn đanh thép lập trường (150),

1156. Quán thông cả tiếng Mán, Mường, Thổ, Phiên.

 

          Ðạo Bát-chánh độ duyên trăm họ,

          Cửa Thiền-tông chỉ rõ chân như;

          Thái Tông soạn bộ Khoá-Hư

1160. Bao hàm công hạnh nhân từ độ tha.

 

          "Dân vi quý" Nho gia tư tưởng,

          Lại mặc nhiên khởi xướng tinh thần,

          Gây tình đoàn kết quân dân,

1164. Lẫy lừng trong thuở nhà Trần kháng Nguyên...


GIẶC NGUYÊN

 * Thành-Cát Tư-Hãn;

 *Nguồn gốc và thành tích chiến đấu của quân Mông Cổ.

 

          Nguyên Trung Quốc, về miền Tây Bắc,

          Phía thượng lưu sông Hắc Long Giang,

          Trên vùng cỏ cháy cát hoang,

1168. Giống dân du mục an nhàn sinh nhai.

 

          Người Mông-Cổ giỏi tài kỵ mã,

          Lại sở trường thiện xạ cung tên;

          Hung-Nô là giống tổ tiên

1172. Chăn nuôi trên những thảo nguyên xanh rì.

 

          Họ chưa biết sống nghề trồng trọt,

          Chữ nghĩa chưa thông suốt văn thư;

          Tuy nhiên trên giải hoang vu,

1176. Mình đồng da sắt rèn từ chiến chinh.

 

          Khi lâm trận kỵ binh tràn tới

          Như sóng thần vừa mới đâu đây,

          Sau lưng thoắt đã hiện ngay,

1180. Ðịch không tan trận cũng bay tinh thần.

 

          Dưới trướng Thiết Mộc-Chân Ðại-Hãn (151)

          Lệnh ban ra muôn vạn phục tùng,

          Tử sinh nhẹ tựa lông hồng,

1184. Cơ nào đội ấy trùng trùng xông pha.

 

          Ðầu thế kỷ mười ba, Thành-Cát

          Quân Thổ vừa tan tác dưới tay,

          Ầm ầm vó ngựa chinh Tây,

1188. Quay về Trung thổ bủa vây Trường-thành (152).

 

          Người Kim Quốc hùng anh dũng liệt,

          Thành Bắc-Kinh dù chết không hàng;

          Ngút trời khói lửa tan hoang,

1192. Vỡ thành, đá nát vàng tan thảm sầu.

 

          Thành-Cát lại vó câu Tây tiến,

          Qua Tân-Cương đến vịnh Ba-Tư;

          Nhành cây ngọn cỏ chẳng chừa

1196. Kinh hoàng cho đến thiên thu còn truyền.

 

          Hung-Gia-Lợi vừa yên nội bộ

          Bỗng như cơn cuồng nộ phong ba,

          Ðại quân Mông-Cổ tràn qua,

1200. Dân Hung nửa triệu máu hòa đỏ sông.

 

          Cả một giải mênh mông Hồi Quốc,

          Từ Ấn, Hồi trở ngược cận đông,

          Bốn mươi mấy vạn binh hùng

1204. Ðã thành tro bụi nát cùng kinh đô.

 

          Miền cực bắc Nga-Tư lãnh thổ,

          Mấy năm trời tử thủ kháng Mông,

          Máu xương trải khắp ruộng đồng,

1208. Tám phần lãnh thổ mất trong kinh hoàng.

 

          Người Tây Âu hoang mang khủng khiếp,

          Tưởng như ngày tận kiếp tới nơi;

          Giáo-hoàng La-Mã tức thời

1212. Cùng vua nước Pháp cử người sang Mông (153).

 

          Lúc ấy đã lấy xong Tây-Hạ,

          Triều đại Mông truyền đã ba đời,

          Hiến Tông vừa lại về trời,

1216. Hốt-Tất-Liệt mới lên ngôi trị vì...

 

          Vương hiệu tự xưng là Thế-Tổ,

          Quốc hiệu xưa Mông-Cổ đổi Nguyên;

          Ngựa chưa kịp cởi cương yên

1220. Ba quân đã nổi lệnh truyền Nam chinh.

 

          Quân dân Tống tận tình chống giữ,

          Ðến hơi tàn thất thủ Tương-Dương;

          Quân Nguyên như ngọn sóng cuồng,

1224. Tràn vào quét sạch chiến trường Hoa-Nam.

 

          Kể từ mấy ngàn năm lịch sử,

          Trên chiến trường kim, cổ, Ðông, Tây,

          Bốn mươi quốc thổ dưới tay,

1228. Chưa từng thấy chuyện xưa nay bao giờ.

 

          Hơn nửa mảnh thế đồ dẵm nát,

          Giặc Nguyên chưa thỏa đất tung hoành;

          Nào ngờ giấc mộng Nam chinh

1232. Ba lần tràn xuống tan tành cả ba.

 

          Ðánh cho giặc biết ta Văn-Hiến,

          Cho ngàn sau hãnh diện giống dòng,

          Cho cao đại nghĩa Diên-Hồng,

1236. Cho tình thế giới còn trong loài người (154).


* Trận kháng Nguyên lần thứ nhất (1257)

           Mộng-Kha (155), thuở sinh thời oanh liệt

          Sai em mang quân diệt Tống vương;

          Ðang khi vây hãm Tương-Dương

1240. Hốt-Tất-Liệt đã liệu đường Nam nhai.

 

          Tướng Ngột-Lương-Hợp-Thai (156) thống lãnh

          Ðạo binh hùng tiến đánh Vân-Nam;

          Lấy xong Ðại-Lý, lòng tham

1244. Lại nhìn xa đến bờ Nam Thái-Bình.

 

          Năm Ðinh Tỵ (dl.1257) triều đình vừa hội,

          Sứ thần Mông đã tới Thăng-Long,

          Khuyên vua một dạ phục tòng,

1248. Nhược bằng chống lại non sông chẳng còn.

 

          Trên đã quyết bảo tồn xã tắc,

          Dưới một lòng đánh giặc cứu dân,

          Ngục sâu giam bọn sứ thần,

1252. Lệnh vua ban xuống ba quân sẵn sàng.

 

          Giặc từ ngả Vân-Nam điều động,

          Theo sông Thao (157) kéo xuống Thăng-Long;

          Hai ngàn tiền đạo xuôi dòng,

1256  Ðại quân lũ lượt trùng trùng kéo theo (158).

 

          Ðường dịch lộ quân reo ngựa hí,

          Giải Hồng-Hà rền rĩ chiêng thâu.

          Hai quân Hưng-Hoá chạm nhau,

1260. Tiếng đồn bách chiến ban đầu mới hay.

 

          Trần Quốc-Tuấn Sơn-Tây rút xuống.

          Viện quân qua sông Ðuống (159) dồn lên;

          Thái Tông ngự giá trận tiền,

1264. Vỡ bờ thác lũ quân Nguyên tràn vào.

 

          Quân Ðại-Việt sông Cầu (160) đóng lại,

          Giặc Nguyên từ sông Cái (161) đuổi theo;

          Vua ta lâm bước hiểm nghèo

1268. Ðông-Bộ-Ðầu (162), mượn thủy triều lưu vong.

 

          Thái Tông về giữ sông Thiên-Mạc (163);

          Thành Thăng-Long quân giặc tràn vào,

          Than ôi một trận máu đào

1272. Sục sôi lòng nước nghẹn ngào ba quân.

 

          Tình thế đã mười phần nguy ngập,

          Vua ngự thuyền triệu tập vương hầu.

          Run tay Nhật-Hiệu cầm sào,

1276. Dâng lời "Nhập Tống" viết vào nước sông (164).

 

          Dòng sông Cái nước ròng chảy siết,

          Tướng lạc quân thảm thiết trăm điều;

          Kỳ dư chức phẩm đại triều,

1280. Kẻ khuyên hàng giặc, người liều thí thân.

 

          Vua mới hỏi đến Trần Thủ-Ðộ

          "Ðầu tôi còn Bệ-hạ đừng lo!"

          Một lời quyết liệt chẳng ngờ

1284. Ðã thay đổi cả thời cơ tinh thần (165).

 

          Trời tháng chạp mưa dầm gió bấc

          Quân Bắc phương lạ đất chẳng kham;

          Mịt mù khói tỏa non lam,

1288. Rừng thiêng chặn lối, độc đàm giữ chân.

 

          Thái Tông thúc ba quân tử chiến,

          Ðông-Bộ-Ðầu toàn diện phản công (166),

          Máu thù nhuộm đỏ dòng sông,

1292. Xác thù phơi đã đầy vùng lau hoang.

 

          Giặc ngược sóng trường giang vội vã,

          Lui trở về Qui-Hóa đồn quân;

          Bỗng đâu sơn cước thổ dân

1296. Ðón đầu chận đánh muôn phần thảm thương.

 

          Giặc khi ấy cùng đường cạn kế,

          Phía quân Trần khí thế càng hăng;

          Sông Thao nổi sóng bất bằng,

1300. Núi Hùng kia cũng đằng đằng khí thiêng.

 

          Ðường thủy bộ sơn xuyên lũ lượt,

          Giặc mong sao chạy được thoát thân,

          Còn đâu cướp bóc lương dân,

1304. Lời rằng "Giặc Phật" có phần chẳng ngoa.

 

          Trận thử lửa quân ta đại thắng

          Song hãy còn cay đắng nhiều phen,

          Ba lần quét sạch quân Nguyên

1308. Nước nhà mới được bình yên lâu dài.


Trần Thánh Tông (1258 -1278)

 

          Giặc Nguyên đã đuổi ngoài cương thổ,

          Kịp khi xuân Mậu Ngọ (dl.1258) vừa sang.

          Thái Tông về phủ Thượng-hoàng (167),

1312. Ðông cung Trần Khoán ngai vàng nối ngôi.

 

          Vua Thánh Tông vốn người quảng đại,

          Lại giầu lòng hòa ái tương thân;

          Hai mươi năm lẻ quây quần,

1316. Nước nhà yên trị nhân dân thái hòa.

 

          Vua cử hoàng đệ là Ích-Tắc,

          Vốn nổi danh trí thức đương thời,

          Mở trường đào luyện nhân tài,

1320. Lo cho tỏ mặt tương lai nước nhà.

 

          Bộ sử ký quốc gia Ðại-Việt,

          Lê Văn Hưu ghi chép đảm đương,

          Viết từ đời Triệu Vũ-Vương

1324. Ðến thời Lý mạt dọn đường hậu lai.

 

          Ngoài việc tuyển nhân tài giúp nước,

          Vua còn lo công cuộc khẩn hoang;

          Từ đây mới có điền trang,

1328. Dân nghèo nô nức mở mang nông trường.

 

 * Mặt trận ngoại giao với Mông-Cổ.

 

          Khi ấy họa Bắc phương chưa dứt;

          Vẫn nuôi lòng chinh phục phương Nam,

          Vua Nguyên sai Nột-Loạt-Ðan

1332. Dụ truyền đòi Thánh Tông sang Bắc triều.

 

          Giặc Nguyên ỷ quân kiêu thế mạnh,

          Triều ta nhờ quyết đánh chấp nguy;

          Hai bên chiếu lại biểu đi,

1336. Vua ta lần lữa đợi khi kiện cường.

 

          Nếu chinh chiến trăm đường gian khổ,

          Thì hòa đàm nào có dễ đâu;

          Thánh Tông không chịu sang chầu

1340. Lại còn thoái thác trước sau đủ điều.

 

          Tuy nhiên chẳng quên câu già néo,

          Thế mà còn khôn khéo nắn buông;

          Bởi chưa đủ sức tự cường,

1344. Mới đành chịu để Bắc phương sách nài.

 

          Nguyên chủ đòi cống người, gồm đủ

          Nghề nho, y, lý, số bác thông,

          Cùng đồ phương vật, thủ công,

1348. Ba năm lại giáp một vòng tiến dâng.

 

          Lại đòi đặt chức quan Chưởng-ấn (168)

          Ðể ngó dòm châu quận nước ta;

          Trần triều tính kế gần xa,

1352. Trong lo thao luyện ngoài đà phục uy.

 

          Cuộc giao hiếu tùy nghi tiến thủ,

          Nhờ tay Trần Thủ-Ðộ nhắc cân;

          Người lo rèn tướng luyện quân

1356. Ấy Trần Quốc-Tuấn giỏi phần lược thao.

 

          Mười năm tựa vó câu qua cửa,

          Cuộc hiếu hòa lần lữa thu đông;

          Vua xin bỏ cống người xong,

1360. Ðến đồ phương vật cũng không chu toàn.

 

          Ðành chỉ nhận chức quan giám thị,

          Ðể gọi là chung thủy phục thần;

          Thoạt đầu Nguyên đã chuẩn ân,

1364. Năm sau thêm lại trăm phần nặng hơn:

 

          Quân trưởng phải Bắc môn triều bái,

          Ðưa con em ở lại làm tin,

          Khai dân, nộp thuế phú điền,

1368. Thực thi quân dịch, giữ nguyên giám thần...

 

          Từng yêu sách bị Trần thoái thác,

          Lấy lẽ công bài bác tận tường,

          Biểu văn đanh thép lạ thường

1372. Tuy trong khôn khéo mà dường trêu ngươi.

 

          Ðòi cống voi: e voi chậm chạp;

          Hỏi cột đồng: đất lấp đã sâu;

          Hỏi người: chết cũng từ lâu;

1376. Hỏi vua: vua bệnh, sang chầu khó khăn!

 

          Mười năm nữa xoay vần cũng ngắn,

          Việc hòa đàm khi nắn lúc buông;

          Thánh Tông về phủ Thiên-Trường,

1380. Thượng-hoàng giám quốc, ngôi nhường Nhân Tông.


Trần Nhân Tông (1279-1293)

 * Mặt trận ngoại giao với Mông Cổ tan vỡ

 

          Thái tử Khâm nối dòng hào kiệt

          Lên ngai vàng Ðại-Việt Quốc vương

          Thời nay Nam quốc tự cường

1384. Gươm đao đọ với Bắc phương kiêu hùng.

 

          Nguyên năm trước Sài Thung (169) sang sứ

          Hạch sáu điều sách dụ năm xưa (170)

          Mười năm trải mấy nắng mưa

1388. Mà cơn cuồng vọng vẫn chưa nguôi lòng.

 

          Sài Thung vốn kiêu căng quen thói,

          Triều đình ta cứng cỏi dễ đâu;

          Nhân Tông nào chịu đi chầu

1392. Sai Trịnh Quốc Toản sang Tầu thảo thương.

 

          Sứ đã bị Bắc phương giữ lại,

          Nguyên triều kia còn phái Thung sang

          Truyền rằng: Ngoài kỹ, nho, lang, ...

1396. Thay vua phải đúc người vàng tiến dâng.

 

          Vua e việc chiến tranh tàn hại,

          Mới cử Trần Di Ái sang thay (171),

          Vốn hàng quốc thích xưa nay,

1400. Tùy tùng Lê thị hai người Mục, Tuân (172).

 

          Nguyên vốn đã tính phần xâm lược,

          Bèn thừa cơ bầy chước gian ly,

          An-Nam quốc đổi thành Ty (173),

1404. Phong Trần Di Ái chức vì Quốc vương.

 

          Năm Nhâm-Ngọ (dl.1282)  Sài Thung điều động 

          Hơn ngàn quân hộ tống Ái về;

          Quân hùm theo ngọn tướng kỳ

1408. Sứ-đô Nguyên-soái họ đề "Sài" lang (174).

 

          Cuộc giao hiếu giữa đàng tan vỡ,

          Trần triều thêm phẫn nộ căm gan,

          Ðiều quân chặn nẻo Nam-Quan,

1412. Quyết đem gươm giáo luận bàn thị phi.

 

          Trúng tên nhọn phách lìa chủ soái,

          Vướng giáo dài cạn lối gian vương,

          Sài Thung bôn tẩu tìm đường,

1416. Bọn Trần Di Ái vô phương ra hàng (175).

 

          Chưa quên thói sài lang cậy sức,

          Nguyên chủ sai Bỉnh-Trực giả danh,

          Mượn đường sang đánh Chiêm kinh

1420. Chẳng qua mượn kế đoạt thành, cướp lương !

 

          Vua cầu phong "Bình-Chương" mượn thế

          Cốt chối từ trá kế mượn lương.

          Thế mà trăm sách nghìn phương

1424. Vẫn không thoát cuộc chiến trường oan khiên.


* Cuộc xâm lăng lần thứ hai của giặc Mông Cổ (1284-1285)

 

          Thu Nhâm-Ngọ (dl.1282) từ trên xứ thượng,

          Ngựa biên thùy ruổi xuống Thăng-Long;

          Tin xa canh cánh bên lòng

1428. Còn ngờ sét đánh giữa đồng bỗng dưng,

 

          Năm mươi vạn binh hùng Mông-Cổ

          Dưới soái kỳ thái-tử Thoát Hoan,

          Trùng trùng tướng hổ quân lang

1432. Vó câu sầm sập kéo sang biên thùy.

 

          Lấy cớ mượn đường đi quá độ,

          Giặc đem quân thủy bộ tràn qua,

          Toan bề chiếm lấy nước ta

1436. Biến thành quận huyện xóa nhoà biên cương.

 

 * Hội nghị Bình Than:

Triệu tập các Vuơng hầu, văn võ.

 

          Tình thế đã muôn đường khẩn cấp,

          Vua bèn cho triệu tập tham mưu,

          Triều đình văn võ vương hầu,

1440. Cuối thu hội tại thủy đầu Bình-Than (176).

 

          Khắp văn võ hoang mang sợ hãi,

          Người bàn nên mở ải nạp lương,

          Kẻ rằng nên biết tư lường,

1444. Hiến dâng quý vật liệu đường hoãn binh.

 

          Riêng đứng trước tình hình nguy biến

          Có hai người quyết chiến chủ trương:

          Một là Hưng-Ðạo Ðại Vương,

1448. Hai là người chốn thảo đường, Khánh Dư (177).

 

          Lúc ấy giận mình chưa đủ tuổi

          Ðược họp bàn nghị hội kháng Nguyên,

          Có người anh dũng thiếu niên

1452. Tên Trần Quốc Toản xuất tiền mộ quân ...

 

          Vua đã quyết liều thân cự giặc

          Song còn e xã tắc suy vi,

          Ngài bèn thân đứng chỉ huy

1456. Truyền cho thủy lục hội về sông Thao.

 

          Hai mươi vạn binh trao Tiết-chế

          Phận nước nhà định vị từ đây,

          Tướng tài mấy bậc xưa nay

1460. Hùng uy Hưng-Ðạo đã dầy sử xanh.

 

          Cuộc tập trận lưu danh thiên cổ,

          Ðông Bộ Ðầu sóng vỗ quân reo,

          Trùng trùng nước bạc buồm kiêu

1464. Giáo gươm sáng quắc, ráng chiều điểm son.

 

          Trời Thăng-Long khói đùn mây thấp,

          Ðường Lạng-sơn dồn dập vó câu,

          Nam-Quan từ ải địa đầu

1468. Ðến miền Thanh, Nghệ trước sau rộn ràng.

 

          Trần Bình Trọng Bình-Than đóng ải,

          Cửa Vân-Ðồn thủy trại Khánh Dư,

          Ðại quân đóng ở Trung du,

1472. Xây đồn Vạn-Kiếp tiến thu kíp thời.

 

 

 * Hội nghị Diên Hồng:

 Triệu tập các bô lão khắp trong nước.


          Tết Giáp-Thân (dl.1284) mờ trời gió cát,

          Ðại quân Nguyên đồng loạt tiến công,

          Bộ từ Hồ-Quảng đột xông,

1476. Thủy quân xuất phát từ vùng Quảng-Châu.

 

          Trước tình thế hai đầu thọ địch

          Hưng-Ðạo Vương thống lĩnh ba quân;

          Riêng còn ngại nỗi toàn dân

1480. Ðồng tâm hiệp lực chung phần nước non.

 

          Từ sơn cốc, hương thôn, bộ thuỷ

          Những bạc đầu trực chỉ Thăng-Long,

          Ðáp lời dự hội Diên-Hồng,

1484. Trước bàn quốc sự sau chung chuyện nhà.

 

          Ngoài ải Bắc tin về dồn dập,

          Cõi Nam thuỳ khẩn cấp quân đi;

          "Sơn hà xã tắc lâm nguy,

1488. "Hoà thì nước mất, chiến thì thân vong!"

 

          Khắp bô lão một lòng xin đánh,

          Khắp làng thôn một lệnh kháng Nguyên,

          Vừa khi tin ở Bắc biên

1492. Thoát Hoan quân đã đóng miền Nam-Quan.

 

          Sai A-Lý chiêu an trá thuyết

          Dụ mượn đường sang diệt Chiêm vương,

          Sự thành tất có tuyên dương,

1496. Nhược bằng chống lại miếu đường nát tan!

 

  * Các mặt trận kháng Nguyên:

 

          Trần Quốc-Tuấn căm gan đuổi sứ,

          Chia quân ra trấn thủ địa đầu,

          Khả-Li cùng ải Lộc-Châu,

1500. Các vùng hiểm địa yết hầu Lạng-Sơn.

 

          Bộ binh giặc hai đường bôn tập,

          Ðông đạo vào Khưu-Cấp, Kỳ-Lừa;

          Khưu-Ôn, tây đạo tràn qua;

1504. Ðại quân nguyên soái chính là Thoát Hoan.

 

          Lúc ấy đã đánh tan Khả-Lợi,

          Quân Thoát Hoan tràn tới Nữ-Nhi,

          Nội-Bàng thất thủ tức thì,

1508. Quân Trần đại bại rút về Chi-Lăng.

 

          Thuỷ quân Nguyên tiến sang Chiêm quốc,

          Cốt đánh theo chiến lược gọng kìm,

          Chiến thuyền đan chặt như nêm,

1512. Toa Ðô tướng giặc tương truyền lược thao.

 

          Trần Quang Khải kéo vào xứ Nghệ,

          Khơi chiến hào phòng vệ mặt Nam.

          Bấy giờ tình thế bất kham,

1516. Quân Trần đã bỏ cửa thềm Lạng-Sơn.

 

          Bộ quân lui về đồn Vạn-Kiếp,

          Cùng thuỷ quân đóng miệt Bái-Tân (178).

          Hay tin Hưng-Ðạo triệt quân

1520. Nhân Tông thân đến ân cần hỏi han :

 

          "Thế giặc mạnh muôn vàn khó cự,

          Nếu đánh không khỏi sự thiệt thân;

          Hay là cứu lấy muôn dân,

1524. Ðầu hàng giặc dữ, đành phần kẻ trên ?"

 

          Hưng Ðạo Vương nghe liền khảng khái:

          "Bệ hạ vì nhân ái thương dân,

          Dẫu rằng xã tắc thứ phần,

1528. Ví không đất nước, nhân quần còn chi !"

 

          "Nếu Bệ hạ muốn đi hàng giặc

          Xin đầu tôi hãy chặt trước tiên !"

          Nghe lời trung liệt mới yên,

1532. Nhân Tông trở xuống khoái thuyền về kinh.

 

          Khắp đất nước triều đình điều động

          Bỏ vườn không nhà trống tàn hoang;

          Truyền từ quân đội, dân gian

1536. Ðánh thua bỏ trốn, không hàng giặc Nguyên.

 

* Hội nghị Vạn-Kiếp:

 Hội nghị quân sự, triệu tập võ quan các cấp.


           Sau mặt trận Bắc biên thất thủ,

          Bổ sung thêm hàng ngũ ba quân,

          Vẫn hai mươi vạn giáp nhân,

1540. Lấy từ các lộ xa gần Ðông Nam (179).

 

          Hội Vạn-Kiếp luận bàn chiến sách,

          Cốt thấm nhuần kế hoạch dụng binh,

          Lấy đoản trận chống trường chinh,

1544. Ðem sức châu chấu mà rình đá xe.

 

          Hưng-Ðạo lại khắp bề tướng sĩ

          Ban hịch truyền lời lẽ thiết tha (180),

          Cùng đem "Yếu Lược Binh Thư" (181)

1548. Ân cần chỉ dẫn, trao cho ngẫm nghiền.

 

 * Quân Mông Cổ tổng tấn công:

 

          Ngày Mồng sáu tháng Giêng Ất-Dậu (dl.1285)

          Ô Mã Nhi dẫn đạo tiền quân,

          Ðánh vào Vạn-Kiếp bất thần,

1552. Chiếm núi Phả-Lại đã gần tuyến trong.

 

          Tuyến phòng ngự Bắc-Ðông tan vỡ,

          Thế giặc như thác đổ ghềnh cao;

          Mặt từ duyên hải đánh vào,

1556. Lạng-Sơn kéo xuống ào ào tiến quân.

 

          Vua Nhân-Tông đích thân đốc chiến,

          Giặc tràn vào như kiến càng đông,

          Bên ta mười vạn đột xông

1560. Cản không nổi sức tấn công tràn bờ.

 

          Mạn Kinh-Bắc mịt mờ lửa khói,

          Huyện Gia-Lâm gạch ngói tan tành,

          Nhị Hà quân giặc tung hoành,

1564. Ðông-Bộ-Ðầu mất, kinh thành lâm nguy.

 

          Ðại quân ta rút về Nam ngạn,

          Lập tuyến phòng ngự, án Thăng-Long

          Thoát Hoan hạ lệnh tấn công,

1568. Ðạn thù dầy đặc khói sông Nhị Hà.

 

          Trận đại pháo quân nhà tan vỡ,

          Bắc cầu phao giặc đổ qua sông,

          Phá thuyền, áp đảo Thăng-Long,

1572. Quân Trần thua phải xuôi dòng tháo lui.

 

          Nhân Tông mới chọn người đi sứ,

          Ðỗ Khắc Chung được cử sang thù,

          Trước là hoãn chiến tạm tu,

1576. Sau là dò xét thực hư địch tình.

 

          Ô Mã Nhi bất bình vấn nạt

          Chuyện quân ta "Thát Ðát" khắc tay;

          Khắc Chung ứng khẩu đáp ngay :

1580. "Phải đâu Hàn-Tín mà bầy đánh Yên !

 

          "... Kẻ hiền tướng càng nên chính trực,

          Trước hiếu hoà, binh lực là sau;

          Còn như ỷ mạnh bức nhau

1584. Dù cho muông thú dễ đâu chịu hèn !".

 

          Nhi lại dụ vua nên hàng giặc,

          Ðể đại quân phương Bắc tràn qua;

          Khắc Chung cứng cỏi chẳng vừa

1588. Ðành thì một trận, hơn thua chắc gì !

 

          Nay tình thế lâm nguy khó liệu,

          Vua lại sai Nguyễn Hiệu trở qua,

          Thoát Hoan nào chịu nghị hòa,

1592. Truyền quân vượt giải Hồng-Hà tiến sang.

 

          Thăng-Long mất kinh hoàng cả nước,

          Ngày mười ba còn thuộc tháng Giêng;

          Tính ra mới tám ngày liền

1596. Từ khi quân giặc đánh miền Trung-Châu.

 

 * Mặt trận Ðông-Nam :

 

          Càng rõ địch mưu sâu tốc chiến,

          Hưng-Ðạo càng cương kiện chủ trương,

          Lui chủ lực xuống Thiên-Trường,

1600. Phò hai vua tới Hải-Dương tuyến đầu.

 

          Lại bố trí trước sau các ngả,

          Vùng Nghệ-An, Thanh-Hoá biên khu

          Do Trần Quang Khải Thái-sư,

1604. Hợp cùng Kiện, Tắc (182) ngăn ngừa mặt Nam.

 

          Mặt Nam, Mông chia làm hai cánh,

          Bộ từ Chiêm : Bố-Chánh chiến trường

          Toa-Ðô, Cổ-Ðới tiên phương,

1608. Hậu quân tiếp đến Ðại-vương Giảo-Kỳ.

 

          Ngoài biển : Ô Mã Nhi kịp tới,

          Hợp bộ binh, thuỷ đội tấn công.

          Máu xương rải khắp ruộng đồng;

1612. Nghệ-An thất thủ, xứ trong còn gì !

 

          Bọn Kiện, Tắc đã thì vô dụng,

          Tướng Ðinh Xa, Tất Dũng tử thương;

          Màn trời chiếu đất phơi sương,

1616. Quân thua tướng bại trăm đường thảm thê !

 

          Ðại Hoàng Giang, nói về mặt Bắc,

          Thủy đội Trần vừa giặc đánh tan,

          Vua tôi đang nhặt quân tàn,

1620. Văn hầu Chiêu, Nghĩa (183) đã hàng địch quân.

 

          Trở về bến Phú-Tân Thanh-Hoá,

          Giảo-Kỳ sai Kiện phá quân nhà,

          Vừa khi Quang Khải rút ra

1624. Quân Trần tan vỡ máu hoà đỏ sông !

 

          Trước tình thế vô cùng đen tối,

          Vua sai đưa Quốc muội cho Hoan (184).

          Thương thay lá ngọc cành vàng

1628. Ðành đem đổi lấy một trang sử hùng !

 

          Nghĩa làm dân gánh chung nam nữ,

          Gương anh hùng ví thử mấy ai,

          Kìa như Bình Trọng tướng tài,

1632. Thà làm trung quỷ hơn loài gian vương (185) .

 

          Chín tháng Ba bọn Ðường Cổ Ðới

          Ðem chu sư  (186) săn đuổi hai vua.

          Ngự thuyền khôn giấu mẹo lừa,

1636. Mắt tai ưng khuyển nào chừa áo nhung.

 

          Nguồn Tam-Trĩ (187) sông cùng bể cạn,

          Thuỷ-Trú thôn lánh nạn hai vua,

          Theo đường Nam-Triệu (188) bến xưa

1640. Vượt ra cửa biển chạy đùa xứ Thanh.

 

          Giữa tháng Ba bọn Trần Ích-Tắc

          Ðem toàn gia theo giặc lập công;

          Vốn dòng con thứ Thái-Tông

1644. Vì chưng vinh hiển tư thông giặc thù (189) .

 

          Cảnh quốc phá kể từ Thanh, Nghệ

          Ðến Trung châu kiệt quệ xác xơ,

          Khắp nơi đồn ải quân thù,

1648. Cờ bay rợp đất, chu sư kín dòng.

 

          Phường cơm áo thay lòng đổi dạ,

          Bậc trung lương vất vả lo toan;

          Vua tôi lòng những ngổn ngang

1652. Bơ phờ nhìn ngọn chỉ màng treo chuông.

 

          Riêng Hưng-Ðạo Ðại-Vương sau trước,

          Trong nguy cơ chẳng bước sờn lòng,

          Vào ra vững tựa như đồng,

1656. Ðiều binh khiển tướng phản công chờ giờ ...

 

* Quân Trần tổng phản công :

 

          Trời vào tiết tháng Tư sang hạ,

          Ve giục sầu ra rả thê lương,

          Quân Nguyên quen ở Bắc phương,

1660. Bắt đầu chạm với chiến trường nhiệt lưu.

 

          Mưa từng trận tiêu điều ngọn cỏ,

          Nắng từng cơn cháy vỡ thịt da,

          Mình đồng dầu cũng người ta,

1664. Ốm đau, dịch tễ chết là biết bao.

 

          Quân dân ta bắt đầu phản kích,

          Ðánh vào lòng quân địch ly hương,

          Nơi thì bám chặt chiến trường,

1668. Nơi thì đón giặc, phá lương, đốt thuyền.

 

 * Trận Hàm Tử:

Trần Nhật Duật thắng Toa Ðô.

 

          Mặt trận Nam quân Nguyên bế tắc,

          Toan đánh ra mạn Bắc hợp binh;

          Vượt không nổi tuyến cản nghinh,

1672. Toa-Ðô, Ô-Mã giương mành vượt khơi.

 

          Trần Quang Khải tức thời cấp báo

          Giặc Nguyên theo thủy đạo kéo lên.

          Vua sai thu thập chiến thuyền,

1676. Cử Trần Nhật Duật toàn quyền phản công.

 

          Duật dàn trận bến sông Hàm-Tử,

          Lại chia quân án ngữ ngoài khơi,

          Quốc Toản, Nguyễn Khoái đồng thời

1680. Chặn vùng Tây-Kết là nơi giang đầu.

 

          Chờ quân giặc vào sâu trận tuyến,

          Thuỷ quân ta toàn diện tấn công.

          Quân reo rền trận trống đồng,

1684. Ngàn lau bạt vía, núi sông giật mình.

 

          Quân Toa-Ðô hải trình mỏi mệt,

          Gặp quân Trần liều chết phản công;

          Tòng chinh thêm tướng Triệu Trung (190)

1688. Vốn người nước Tống theo cùng đánh Nguyên.

 

          Giặc hoảng hốt lui thuyền tháo chạy,

          Kéo binh thua lau sậy náu nương,

          Ðóng quân ở bãi Thiên-Trường,

1692. Trong ngoài nay đã tuyệt đường giao liên.

 

          Trần Nhật Duật báo tin thắng trận,

          Hưng-Ðạo Vương quyết đánh Thăng-Long.

          Xẩy vừa nhẹ gánh xứ trong,

1696. Thượng tướng Quang-Khải lập công xin về.

 

          Lúc ấy đã yên bề Hoan, Ái,

          Trường-Yên vua vừa lại thắng to,

          Quân Nam được lệnh cuốn cờ,

1700. Âm thầm thẳng nẻo kinh đô bôn trình.

 
 

* Trận Chương-Dương:

Trần Quang-Khải khôi phục Thăng-Long.

         

          Trần Quang-Khải hội binh các lộ,

          Chia hai đường thuỷ bộ tiến lên,

          Trần Thông, Khả Lập, Nguyễn Truyền

1704. Cùng Phạm Ngũ-Lão chiến thuyền vượt khơi.

 

          Chủ lực giặc giữ nơi hiểm yếu,

          Quân Thoát Hoan đóng nẻo Thăng-Long,

          Chương-Dương thuỷ cứ lập xong

1708. Lẫy lừng chế ngự toàn vùng Trung Châu.

 

          Thuyền ta vượt thủy lưu duyên hải,

          Nhập cửa ngòi sông Cái mù sương,

          Tiến vào đến tận Chương-Dương

1712. Bất thần thuỷ trại đối phương đánh tràn.

 

          Thuỷ lực giặc kinh hoàng tan vỡ,

          Thủy quân ta đổ bộ đuổi theo,

          Thăng-Long tràn tới chiến hào,

1716. Quân reo, trống thét, lửa gào hờn oan.

 

          Quân bộ chiến Thoát Hoan xung trận,

          Viện quân ta các trấn bổ vây,

          Bốn bề trống thúc chiêng lay,

1720. Càng cao tổn thất càng dầy giáo gươm.

 

          Hoan rút chạy theo đường Kinh-Bắc,

          Quang-Khải ban lệnh nhập Thăng-Long.

          Quân dân siết nỗi tủi mừng,

1724. Chiến bào tạm trút rượu hồng thưởng thơ (191).

 
 

* Trận Tây-Kết :

Giết Toa-Ðô, bắt 5 vạn quân Nguyên.

 

          Tin thắng trận đến bờ Thanh, Nghệ

          Vua tướng Trần vui vẻ hàn huyên,

          Mang quân về đóng Trường-Yên

1728. Phòng khi tiếp ứng khắp miền Trung Châu.

 

          Lại kể truyện trận đầu tan vỡ,

          Toa-Ðô lui đóng ở Thiên-Trường,

          Sửa thuyền, chuẩn bị binh lương,

1732. Ðánh lên Thiên-Mạc tìm đường hội quân.

 

          Giặc chưa biết Thoát Hoan chủ lực

          Ðã lui về Kinh-Bắc náu nương.

          Ðánh không vào được Chương-Dương

1736. Ðô về Tây-Kết tính đường thoát thân.

 

          Trần Hưng Ðạo chia quân vây trại,

          Hai tướng quân Duật, Khải chỉ huy,

          Chiến trường lồng lộng trùng vi,

1740. Chim kia khó thoát dễ gì trạch lươn.

 

          Gươm đè sóng chỉ đường Tây-Kết,

          Hưng-Ðạo Vương lẫm liệt uy nghi,

          Hô quân xung trận nhất tề,

1744. Dưới thuyền, trên bộ, hai bề giáp công.

 

          Ðô khiếp vía băng đồng trốn chạy,

          Bỗng gặp đâu một dẫy núi cao;

          Còn chưa biết địa phương nào

1748. Quân mai phục đã ào ào tên bay.

 

          Bọc da ngựa thương thay danh tướng !

          Phơi chiến hào vất vưởng bại quân !

          Toa-Ðô đầu đã lìa thân (192),

1752. Lưu Khuê, Ô Mã nhanh chân chạy dài.

 

          Tàn quân giặc bôn lai Thanh-Hoá,

          Hai vua theo khắp ngả truy lùng,

          Mã-Nhi đến bước đường cùng,

1756. Ðành nương thuyền nhỏ mà dung thân hèn ! (193)

 

          Năm vạn mạng bon chen sĩ tốt,

          Mẻ lưới đầy hao hụt cũng đang.

          Hung tin đến bến Ðại-Mang

1760. Tổng Quản Trương-Hiến ra hàng tướng ta.

 
 

* Trận Vạn-Kiếp :

Ðánh tan chủ lực giặc, kết thúc chiến trường.

 

          Tin bại trận bay qua Kinh-Bắc

          Khiến Thoát Hoan thất sắc kinh hoàng,

          Vừa lui quân tới Bắc-Giang

1764. Truy binh nào đã rộn ràng sau lưng.

 

          Quân thám mã hãi hùng cấp báo

          Rõ tướng kỳ "Hưng-Ðạo Ðại-Vương";

          Thoát-Hoan thôi đã cuống cuồng,

1768. Chạy ra Vạn-Kiếp tìm đường cao bay...

 

          Nguyên, Vương đã bố bầy chu đáo

          Truyền đạo quân Ngũ-Lão kéo đi,

          Lại sai hai tướng Nghiễn, Uy (194)

1772. Ðiểm quân ba vạn tiến về Quảng-Yên.

 

          Sai chẹn lối quân Nguyên rút chạy,

          Mai phục trong các bãi sậy lau,

          Lại truyền các lộ trước sau

1776. Ðón tàn quân giặc, chặn cầu, ngăn sông.

 

          Quân Hoan cố băng đồng xuống biển,

          Bị phục quân loạn tiễn thảm thương,

          Nửa phần phơi xác chiến trường,

1780. Hậu quân tháo chạy ngược đường Tư-Minh.

 

          Liều thân cản truy binh tràn tới,

          Tướng Lý Hằng hậu đội trúng tên.

          Sa cơ chết tại trận tiền,

1784. Bên ta thiệt mất tướng quân Trần Thiều.

 

          Hàng ngũ giặc tiêu điều tán loạn,

          Lý Quán gom năm vạn tàn binh;

          A, Phàn hai tướng liều mình

1788. Ðưa Hoan về ngả Tư-Minh đất nhà.

 

          Lại gặp phải binh ta Uy, Nghiễn

          Lý Quán trong loạn tiễn mạng vong.

          Thoát Hoan chui trốn ống đồng,

1792. Tàn binh liều chết đột xông về Tầu.


* Cuộc tấn công lần thứ ba của quân Mông Cổ (1287-1288)

 

          Tin chiến bại ngang đầu sét đánh

          Khiến Nguyên vương nổi trận lôi đình,

          Truyền đem bọn tướng Nam chinh

1796. Lôi ra chém chẳng vị tình thân sơ.

 

          Triều thần những phân bua tha thiết

          Mới chuyển lòng, tội chết tạm dung

          Hầu cho chuộc tội lập công

1800. Bao nhiêu bại tướng tạm mong sống còn.

 

          Lúc ấy bởi bồn chồn phục hận,

          Nguyên chủ ngưng việc đánh Phù-Tang;

          Truyền cho ba tỉnh : Hoài Giang,

1804. Giang Tây, Hồ Quảng sẵn sàng động binh (195).

 

          Truyền thuỷ lục tận tình thao luyện,

          Ðịnh sang đông tử chiến phục thù,

          Lại truyền các tỉnh biên khu

1808. Khâm, Liêm chuẩn bị trùng tu mở đàng.

 

          Tin chiến sự bay sang phòng tuyến,

          Lại một phen rung chuyển Thăng-Long;

          Dẫu cho dạ sắt gan đồng

1812. Hai vua không khỏi động lòng lo âu.

 

          Bèn thỉnh Quốc-Tuấn vào vấn kế;

          Vương tâu trình sự thể trước sau:

          Giặc dù quyết trả thù sâu

1816. Cái gương Toa, Lý dễ nào đã quên.

 

          Nay quân ta kinh rèn chinh chiến,

          Lại toàn dân nguy biến rõ thông,

          Ngoài trong, trên dưới một lòng,

1820. Giặc kia mạnh mấy phá không khó gì.

 

          Bèn ban lệnh truyền đi khắp nước

          Quân dân theo chiến lược sẵn sàng,

          Chiến thuyền, võ khí, quân trang

1824. Rèn binh nung chí quật cường kháng Nguyên.

 

          Xuân Ðinh-Hợi (dl.1287) từ miền Hồ-Bắc

          Thoát-Hoan đưa Ích-Tắc hồi hương,

          Phong làm Ðại-Việt Quốc-Vương,

1828. Quân ba mươi vạn lên đường tòng chinh.

 

          Ngoài hàng ngũ hùng binh Mông-Cổ,

          Còn Hán binh Bắc thổ lược thao,

          Vân-Nam binh, mới tuyển vào,

1832. Lê binh, thuỷ trận khác nào kình nghê.

 

          Hàng dũng tướng thêm bề uy mãnh

          Ái-Lỗ làm Hành-tỉnh Hữu thừa,

          Bình-chương Lỗ-Xích (196) nào vừa,

1836. Bằng Phi (197), Trương Ngọc, ... có thua oai hùm.

 

          Quân Thoát Hoan Liêm, Khâm tiến phát,

          Ðến Tư-Minh đã sát biên thuỳ,

          Tiên phong Trương Ngọc, Lưu Khuê

1840. Binh hùng hai vạn, thuyền bè năm trăm.

 

          Hai vạn quân sơn thâm, lộ dịch

          Theo Bằng-Phi, Lỗ-Xích kéo đi;

          Hải thuyền: Phàn Tiếp, Mã-Nhi,

1844. Tướng Trương Văn Hổ lo bề vận lương.

 

          Mặt Vân-Nam do đường thuỷ lộ

          Quân Hữu thừa Ái-Lỗ tiến sang

          Vào sâu đến Ðại Tam Giang (198)

1848. Mới dừng quân giữa chiến tràng giao phong.

 

          Phía Nam quân bố phòng phân tán,

          Tuyến Lạng-Sơn ba vạn tinh binh,

          Tướng quân Duật, Khoái xuất chinh,

1852. Lập đồn chặn ngõ Tư-Minh đón thù.

 

          Trần Quốc-Toản trấn khu Thanh, Nghệ,

          Cùng Phụ-Trần (199) bảo vệ tuyến Nam.

          Các miền thuỷ khẩu, duyên giang

1856. Ðều chia quân đóng sẵn sàng giao tranh.

 

          Hưng-Ðạo Vương đóng thành Vạn-Kiếp

          Tiện điều quân ứng tiếp mọi nơi.

          Vừa khi tin trận cấp thời

1860. Quân ta chạm địch bên ngoài Vạn-Ninh (200).

 

          Tướng Trần Ða thua binh thất thế,

          Ô Mã-Nhi vượt bể tiến nhanh,

          Lương thuyền chậm chạp hải hành

1864. Trương Văn Hổ phải án binh giữa dòng.

 

          Bộ binh giặc tấn công tỉnh Lạng,

          Trịnh Bằng-Phi đánh xuống Lộc-Châu;

          Ðại quân Hoan vượt tuyến đầu,

1868. Tràn qua Khả-Lợi vào sâu chiến trường.

 

          Thấy thế giặc bốn phương vây bủa,

          Hưng-Ðạo về giữ cửa Ðại-Than,

          Dựa vào Vạn-Kiếp dàn quân,

1872. Thoát Hoan tràn tới đích thân công thành.

 

          Liền Phả-Lại, Chí-Linh hỗn loạn,

          Quân Bằng-Phi hai vạn tràn vào;

          Mã-Nhi thời ngả Lục-Ðầu (201)

1876. Cùng A-Bát-Xích vào sâu sông Hồng.

 

          Quân Phàn-Tiếp tấn công tỉnh Bắc,

          Ta chống không nổi giặc phải lui.

          Bắc-Ðông mặt trận vỡ rồi,

1880. Ðồng bằng sông Nhị nay nơi chiến trường.

 

          Lại nói bọn gian vương Ích-Tắc

          Theo gót thù lưu lạc Tư-Minh;

          Gian thần Lê Tắc thân chinh

1884. Dẫn Hầu Sư-Ðạt mang binh kéo về.

 

          Chúng vượt nẻo sơn khê biên ải,

          Phá Nội-Bàng tiến tới Bằng giang;

          Năm ngàn binh mã tràn sang,

1888. Ta dàn cung thủ chận ngang thủy đầu.

 

          Làn tên độc đan mau tựa bấc,

          Ngọn lửa thù vây chặt dường nêm;

          Giao tranh cho đến nửa đêm

1892. Giặc thua, Sư-Ðạt trúng tên lìa đời.

 

          Bọn Lê Tắc sáu mươi người ngựa

          Chạy thâu đêm xấp ngửa đảo điên.

          Mờ sương tới ải Châu-Chiên

1896. Mới hay về đến đất Nguyên sống còn.

 

          Dời ải Bắc Lạng-sơn chốn cũ,

          Trở về miền châu thổ sông Hồng;

          ... Tiến vào sông Cái mênh mông

1900. Quân A-Bát-Xích tấn công bến Hàm.

 

          Hàm-Tử mất mặt Nam trống trải,

          Phòng tuyến Ðông triệt thoái còn chăng!

          Quân Hoan tràn ngập đồng bằng,

1904. Trùng trùng vây hãm thành Thăng bốn bề.

 

          Hai tướng giặc Mã-Nhi, Bát -Xích

          Hội chiến thuyền tấn kích Thăng-Long.

          Quân ta đón giặc giao phong,

1908. Hai vua tạm lánh vào vùng Hà-Nam.

 

          Giặc Ô-Mã như sam bám chặt,

          Quyết cùng đường đuổi bắt vua ta.

          Ngự thuyền rong ruổi đã xa,

1912. Mã-Nhi nổi giận quật nhà Chiêu-Lăng (202).

 
 

* Quân Trần phản công.

 

          Xuân Mậu-Tí (dl.1288)  muộn màng khói Tết,

          Hoan rút về Vạn-Kiếp dưỡng quân.

          Giặc lui ta lại tiến dần,

1916. Việt quân lại đánh, vua Trần lại ra.

 

          Cửa Ðại-Bàng binh ta thắng lớn,

          Thu chiến thuyền vây khổn quân Nguyên,

          Trời chiều rực ánh thiên nhiên,

1920. Mây pha sắc máu, nước nghiêng dáng buồm.

 

* Trận Vân-Ðồn:

 Trần Khánh Dư phá lương giặc.

 

          Giặc càng đánh binh lương càng cạn,

          Nuôi sao ba mươi vạn miệng công;

          Cướp dân thì cũng như không,

1924. Vườn hoang, nhà vắng, ruộng đồng xác xơ.

 

          Thuyền Trương Hổ càng chờ càng bặt,

          Bụng ba quân càng thắt càng đau;

          Xông pha khói sóng bạc đầu,

1928. Mã-Nhi đành vượt biển sâu đi tìm.

 

          Trần Khánh-Dư hay tin nghênh cản,

          Ô Mã Nhi phá trận vượt qua;

          Vân-Ðồn giặc đã đi xa,

1932. Thượng-hoàng triệu Khánh-Dư về Thăng-Long.

 

          Dư xin nán lập công chuộc tội,

          Tính lương thuyền tất phải đến sau;

          Quả nhiên vài bữa không lâu

1936. Mã-Nhi quay mở đường vào cửa sông.

 

          Dư để giặc ung dung vượt sóng,

          Lặng lẽ chia quân đóng Lục đầu;

          Thuyền lương chậm chạp tới sau

1940. Tiến vào cửa Lục, chìm sâu lửa hồng !

 

          Trương Văn Hổ Quảng-đông thoát chạy,

          Trần Khánh Dư thu lấy binh lương,

          Mang tin thắng trận lên đường;

1944. Vua truyền xá tội tuyên dương công đầu.

 

          Cùng Hưng-Ðạo mưu sâu định kế

          Thượng hoàng cho lệnh thả tù binh;

          Quân Hoan tin dữ cả kinh,

1948. Trận công lương ấy tan tành tặc tâm.

 
 

* Trận Bạch-Ðằng:

 Hưng-Ðạo đánh tan thuỷ lực giặc.

 

          Tình hình giặc đã lâm ngõ bí

          Ngày thiếu ăn đêm nghỉ không an,

          Kéo nhau cướp bóc xóm làng,

1952. Còn đâu hồn vía mà bàn quân mưu.

 

          Tổng-quản nọ đặt điều tạm rút,

          Thủy tướng kia bàn đốt chiến thuyền,

          Om xòm tả hữu can khuyên,

1956. Càng nghe thôi lại càng thêm rối mù.

 

          Thoát Hoan mới truyền cho tướng sĩ

          Tập trung quân chuẩn bị chiến hồi;

          Ô, Phàn theo ngã biển khơi,

1960. Ðại quân vượt bộ mà rời nước Nam.

 

          Trần Hưng-Ðạo biết tâm ý giặc

          Bèn điều quân chặn khắp lối về,

          Bộ thì tận nẻo sơn khê,

1964. Thuỷ thì cửa biển bốn bề lưới giương.

 

          Lại theo kế Ngô Vương thuở trước,

          Ðóng cọc ngầm dưới nước Ðằng giang;

          Thuỷ triều đợi nước mênh mang

1968. Ta đem thuyền nhẹ đánh sang thượng nguồn.

 

          Khi triều xuống nước tuôn vội vã

          Ta lui thuyền tất tả về xuôi,

          Dụ cho thuyền giặc tới nơi

1972. Mới quay thuyền lại chết thôi đánh tràn...

 

          Vương theo kế mật bàn Nguyễn Khoái,

          Lại chia quân chặn ải Nội-Bàng,

          Rồi cùng chỉ xuống Hoá-giang

1976. Thề không tan giặc không màng về sông!

 

          Dòng Ðằng-giang mênh mông bát ngát,

          Chiến thuyền Nguyên san sát theo nhau;

          Vừa vào Chúc-Ðộng bến sâu,

1980. Quân ta vượt sóng bạc đầu tấn công.

 

          Lưu Khuê cậy quân đông thế mạnh,

          Tung thuyền ra vây đánh quân Trần;

          Tàn đêm lửa khói tan dần,

1984. Thuyền ta bỏ chạy mười phần còn ba.

 

          Quân Mã-Nhi tiến ra vừa lúc,

          Nguyễn Khoái tung toàn lực tấn công;

          Thuỷ triều lồng lộng dòng sông,

1988. Quân Trần quẫy sóng giữa vùng lửa thiêu.

 

          Chiến thuyền ta rút theo con nước,

          Ô Mã-Nhi toàn lực theo ngay;

          Năm xưa cũng ở chốn này

1992. Vạn quân Nam-Hán phơi thây còn truyền!

 

          Quân Nguyễn Khoái quay thuyền tử chiến

          Hưng-Ðạo Vương tiếp viện tăng cường,

          Hai vua vừa tới tiền phương,

1996. Ngũ-doanh-quân nhập chiến trường bổ vây.

 

          Quân tướng giặc hồn bay phách lạc,

          Chiến thuyền Nguyên lui nát tơi bời,

          Chật dòng thây đổ máu rơi,

2000. Thiên thu sóng vẫn ngậm lời thương tâm!

 

          Ta thu được bốn trăm thuyền giặc,

          Quân Ðỗ Hành  đuổi bắt tướng Nguyên

          Mã-Nhi, Phàn Tiếp lại thêm

2004. Tích Lệ, Cơ Ngọc dâng lên Thượng hoàng.

 

 * Truy kích Thoát Hoan:

 

          Nay lại kể cánh quân đường bộ,

          Nghe thuỷ quân đã vỡ tan tành,

          Thoát Hoan mặt xám mày xanh,

2008. Truyền quân nhổ trại khẩn hành tháo lui.

 

          Chẳng mấy bữa đến nơi biên ải,

          Vượt Nội-Bàng là tới Nữ-Nhi;

          Bỗng đâu đá chạy cát phi

2012. Ðại binh Ngũ-Lão đã thì bổ vây.

 

          Thấy chủ soái hồn bay phách tán,

          Tướng giặc là Trương Quán liều thân

          Dẫn binh bản bộ ba ngàn,

2016. Bỏ thây giải cứu Thoát Hoan vượt trùng.

 

          Thảm thay đã thế cùng lực kiệt,

          Từ Nội-Bàng tới miệt Bằng-giang

          Ðường đèo trăm dậm quan san

2020. Quân Trần như kiến chắn ngang lối về.

 

          Ngựa truy kích nghe bề dồn dập,

          Ải Nữ-Nhi, Khưu-Cấp còn xa;

          Rừng chiều nắng quái, mây pha

2024. lưng đèo, còn biết đâu là cố hương !

 

          A-Bát-Xích mở đường huyết lộ,

          Trương Ngọc mang bản bộ đột xung;

          Thương thay cũng bậc anh hùng,

2028. Mũi tên nào biết phân cùng lác lau!

 

          Ðường dịch lộ xác cao từng đống;

          Hoan tắt vùng sơn động trốn đi,

          Tùy tùng còn Trịnh Bằng-Phi

2032. Ðược người châu mục dẫn về Tư-Minh.

 

          Áo Lỗ-Xích một mình một ngựa

          Nhặt nhạnh thêm mấy đứa tàn binh,

          Cũng về tới được Yên-Kinh,

2036. Thảm thay giấc mộng viễn chinh kiêu hùng!

 

* Cuộc giải hoà với Nguyên triều.

 

          Non nước Việt lại bừng xuân mới,

          Khắp nơi nơi vui hội thái hoà,

          Mục đồng nối khúc âu ca,

2040. Ruộng xanh nắng nhuộm một và cánh chim.

 

          Nhìn sông núi càng thêm chan chứa,

          Xếp chiến bào nhớ thủa chuân chuyên,

          "Nhọc nhằn thạch mã hai phen,

2044. Ngàn năm non nước vững yên âu vàng" (203).

 

          Giặc Nguyên đã kinh hoàng vỡ mật,

          Song hận kia vị tất đã quên,

          Ta dù chinh chiến từng phen,

2048. Nỗi dân giặc giã triền miên ích gì.

 

          Cuộc hoà hoãn thôi thì liệu thế,

          Triều đình ta lấy lễ đãi thù,

          Cử quan là Ðỗ Thiên-Thu

2052. Mang đồ phương vật cống như thuở nào.

 

          Kịp lúc ấy Nguyên trào cũng nản,

          Việc binh đao ngao ngán đẩy đưa,

          Căm gan dù cái nhục thua

2056. Cũng đành nuốt hận mà mua cuộc hoà.

 

          Song vị lẽ quốc gia vương thể

          Ðòi Nhân Tông giữ lệ sang chầu,

          Phái Trương Lập-Ðạo đại triều

2060. Sang ta bàn định buộc điều ước trên.

 

          Biện cư tang vua liền phúc đáp

          Sai quan là Ðại-Pháp đi thay (204)

          Năm sau biện lễ vật đầy

2064. Tử-Kỳ vâng mệnh vua nay sang chầu ! (205)

 

          Nguyên nổi giận câu lưu sứ giả,

          Truyền tạm giam nơi ngả Giang-Lăng,

          Lại truyền chuẩn bị binh lương,

2068. Cử Lưu Quốc-Kiệt lên đường viễn chinh.

 

          Bãi Trường-Sa hội binh Nam Bắc;

          Bọn tớ thầy Ích-Tắc theo sau

          Lòng đang khấp khởi bỗng đâu

2072. Hốt Tất-Liệt đã vội chầu Diêm-Vương.

 

          Nguyên Thánh Tông ngai vàng kế nghiệp,

          Truyền khắp nơi bãi việc binh đao;

          Bắc Nam nối cuộc bang giao,

2076. Sứ ta cũng được hồi trào bình yên.

 

          Năm Kỷ-Sửu (dl.1289) vua truyền ân xá,

          Nguyễn Thịnh thân trao trả tù binh,

          Tích, Cơ... đưa tận biên đình,

2080. Phàn-Tiếp trả gói phù sinh tro tàn. (206)

 

          Ô Mã-Nhi bởi dân ta thán,

          Lại chuốc thù gây oán đã sâu

          Nên thuyền ra biển chưa lâu

2084. Sóng yên gió lặng bỗng đâu mà chìm! (207)

 

          Ðất bằng lẽ nào im sóng gió,

          Triều đình Nguyên phẫn nộ hỏi tra;

          Trần triều ngự bút đưa qua

2088. Gió kia mới lặng, sóng đà tạm yên.

 

          Lại xét cuộc kháng Nguyên gian khổ,

          Người công nhiều kẻ lỡ tội mang;

          Thượng hoàng đốt tráp biểu hàng (208)

2092. Mới bình công tội hai đàng phân minh.

 

          Từ đấy mối đao binh mới dứt,

          Thượng hoàng về ẩn dật an cư;

          Hạ tàn vui giấc thiên thu

2096. Bên người áo vải, bên hồ tịnh tâm.

Xem Tiếp  Nhà Trần



Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Truyện Sử
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ của Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt


Trang [ 1 ] [ 2 ][ 3 ]