Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Vạch Áo Cho Mọi Người Cùng Xem
Phan Thanh Tâm
 

LGT: Ông Phan Thanh Tâm, tác giả bài này, là cháu năm đời của cụ Phan Thanh Giản.Trước 1975, ông làm ở Việt Tấn Xã, Sài Gòn. Sau 75, ông vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ 13 người từ năm 1976. Lưu lạc một tháng trời giáp một vòng bờ biển các nước Đông Nam Á, đâu đâu ông cũng bị người ta đẩy trở lui ra biển cả. Chặng cuối cùng là đảo Palawan, Phi Luật Tân, thuyền được nhận trở lại vào bờ, nhờ sự can thiệp của một ông cố đạo người Ý đang coi một họ đạo tại đảo này. Ông là một trong nhũng «thuyền nhân» đầu tiên được đặt chân lên đảo nói trên. Bài này viết cách đây 6 năm rồi, với một phong thái thẳng thắn, nhưng ôn hoà, về một vấn đề tự-bản khá gay gắt. Tác giả sẵn lòng cho phép đăng lại để độc giả có dịp chia sẻ những suy nghĩ với ông. 



Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại và nhất định không có chuyện vạch aó cho mọi người cùng
xem. Đó là phương châm của phe ta. Tại sao vậy? Tự cho là thuộc dòng giống con rồng
cháu tiên, và có quá khứ hơn bốn ngàn năm văn hiến nên người mình lúc nào cũng tốt,
cũng bảnh, cũng anh hùng, xuất chúng. Hễ nói tới người ngoại quốc thì xách mé, trịch
thượng; gọi họ bắng thằng, bắng con. Còn nước VN phải là minh châu trời đông, là bó
đuốc soi đường. Tuy nhiên gần đây, có dư luận lên tiếng là phải xét lại cái ý tưởng tự
tôn, tự đại, ngông cuồng đó. Họ cho rằng cứ hót ca, nâng bi dân tộc mình một cách lộ
liễu như vậy hoài thì ta sẽ mãi mãi ngất ngư như con gà mắc dây thun. Chắc hằn phải
có vấn đề, có trục trặc đâu đó vì tài khôn như vậy mà chưa ra cái con gì cả trong khi
các nước lân bang ở Đông Nam Á nay đã là con cọp, con beo, con sư tử rồi. 
 
Cái hay ở chỗ, người tạo ra dư luận là một nhà thơ hồi nhỏ ở Sài Gòn, du học ở Nhật;
năm 1966, định cư ở Pháp; năm 1996, trong khi sang Tàu, vớ đựơc một cuốn sách khiến
ông  “thích  thú  quá  cơ”  và  ông  nghĩ  rằng  “bất  cứ  người  VN  nào  khác  đọc  được,  bảo
đảm cũng sẽ thích thú”' như ông. Ông tin rằng quyển sách sẽ “giúp nhìn lại mà đánh
giá bản thân, dân tộc và văn hoá của mình trong giai đoạn hiện nay”. Vì thiện ý, ông bỏ
công ra dịch và mong có nhiều người đọc. Nhà xuất bản Chân Mây Cuối Trời phát hành
bản dịch lần đầu tiên tại Paris năm 1998. Cuốn sách được đón tiếp nồng hậu. Giới báo
chí  đua  nhau  nói  về  nó.  Nhà  xuất  bản  Văn  Nghệ  ở  quận  Cam,  thủ  đô  người  tị  nạn,
hưởng ứng in lại; quyển sách được coi là bán chạy trong năm 1999. 
 
Nhà  báo  Lê  Đình  Điểu,  trước  khi  qua  đời,  trong  lúc  nằm  trên  giường  bệnh,  viết  bài
điểm sách đăng trên Thế Kỷ 21 số tháng 04/1999: “Đọc Người Trung Hoa Xấu Xí của
Bá Dương", người VN nào cũng liên tưởng đến việc đây là chuyện của mình. Có lẽ chỉ
thay cái tựa là Người Việt Nam Xấu Xí cuốn sách cũng vẫn có ý nghĩa. Phải chăng đó
là lý do nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ bỏ thì giờ, công sức ra dịch cuốn sách sang Việt Ngữ?
Trả  lời  câu  hỏi  của  nhà  phê  bình  văn  học  Đặng  Tiến,  đăng  trong  Việt  Mercury,  dịch

giả, tên thật là Nguyễn Khôi Minh, sinh năm 1945 tại Hà Bắc nói sự đời là thuốc đắng
đả tật; có chướng tai cũng phải lên tiếng. Ông tâm sự: «không đọc quyển sách này có
khi  đở  phải  nghĩ  ngơị  lôi  thôi;  còn  chẳng  may đọc  cò  thể  sẽ  bị  đau  khổ  nhiều  hơn  là
thích thú». 
 
Trong  bàì  phỏng  vấn  hồi  tháng  10/1999,  khi  đề  cập  về  những  cuốn  sách  như  Người
Việt  Đáng  Yêu,  Người  Việt  Cao  Quý  ,  dịch  giả,  đã  có  bảy  tập  thơ  xuất  bàn  ờ  ngoại
quốc  từ  năm  1968,  cho  biết:  «Đó  là  chuyện  ngược  đời.  Ở  những  nước  tiên  tiến  giàu
mạnh, chưa có nước nào bốc thơm dân tộc mình một cách lố bịch như thế cả. Người
Mỹ,  người  Nhật,  người  Pháp,  người  Đại  Hàn  đều  chỉ  có  những  sách  nói  lên  khuyết
điểm, những cái tồi dở của dân tộc, đất nước mình. Bây giờ đến lượt người Trung Hoa.
Cuốn Người Trung Hoa Xấu Xí xuất bản ban đầu ở Đài Loan; sau đó được tái bản ở
lục địa. Họ đã biết nghĩ, tuy là môt nước lớn, văn hoá lâu đời, nhưng nếu cứ mãi ra rả
về những cái vĩ đại thì theo nhá báo Bá Dương, tác giả cuốn sách, Trung Hoa sẽ đi đến
chỗ diệt vong mà thôi». 
 
Nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ, trong phần lời người dịch viết, ngay sau khi từ Trung Hoa về
đến VN, ông đã đưa bản sao cho một ngươi bạn ở Hà Nội và cổ võ người này dịch ra
tiếng  Việt. Nước  Trung  Hoa  Cọng  Sản  đã  chấp  nhận  cuốn sách.  Người Âu  Mỹ  cũng
thế, thì không có lý do gì người VN lại không thề được đọc nó, cho dù không phải đề
học hỏi, mà có thể vì hiếu kỳ, tin tức về một nước láng giềng. Ông đã hy vọng cuốn
sách sẽ xuất hiện tại VN; nhưng cho đến nay, người trong nước vẫn chưa được đọc.
Theo dịch giả, cuốn sách sẽ rất có ích cho tất cả các cộng đồng có liên quan it nhiều
đến văn hoá Trung Hoa. Chủ đích của tác giả Bá Dương là nếu muốn phục hưng dân
tộc, phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, sai trái của mình. 

Đọc người rồi ngẫm đến ta
Tác giả Bá Dương, là nhà báo, nhà văn, nhà thơ và là sử gia, sinh năm 1920, chạy sang
Đài Loan năm 1949, ở tù 10 năm vì các bài viết bị xem là phạm thượng. Ra tù ông đi
diễn  thuyết  về  hiện  tượng  Người  Trung  Hoa  Xấu  Xí.  Cuốn  sách  gồm  những  bài  nói
chuyện của ông và của những người tranh luận với ông. Có người cho rằng nếu không
đọc  được  sách  của  Bá  Dương  là  một  sự  thiệt  thòi  lớn.  Sách  hấp  dẫn  hơn  chuyện
chưởng của Kim Dung vì nó khiến thiên hạ phải đọc người rồi ngẫm đến ta. Thấy sao
nó giống dữ vậy. Giống dễ sợ. Theo ông, văn hoá Trung Hoa đã biến thành một đầm
nước  chết,  càng  lâu  càng  thối,  thành  một  vại  tương  rồi.  Đăc  tính  rõ  nhất  của  người
Trung  Hoa  là  dơ  bẩn,  hỗn  loạn,  ồn  ào.  Có  nhiều  nơi,  nếu  người  Trung  Hoa  đến  ở  là những người khác dọn đi. 
 
Bất kỳ ở chân trời góc biển nào hễ có người Trung Hoa là có cắn xé nhau. Mỗi người
Trung Hoa đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên chỉ cần thổi
một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Nhưng nếu ba
người  Trung  Hoa  họp  lại  với  nhau,  ba  con  rồng  này  lại  biến  thành  một  con  heo,  một
con giòi. Người Trung Hoa vĩnh viễn không đoàn kết được. Mỗi người lại còn có đầy
đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tai sao họ lại không đoàn kết. Bất cứ xã hội
người Hoa nào it nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Họ
chưa biết tầm quan trọng của sự hợp tác; nhưng họ có thể viết ngay cho anh xem một
quyển  sách  nói  tại  sao  cần  phải  đoàn  kết,  hay  ho  đến  Thượng  Đế  cũng  có  thể  khóc
được. Những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra
nơi  chúng  ta  một  hành  vi  đặc  thù  khác:  chết  cũng  không  chịu  nhận  lỗi.  Họ  thích  nói
khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Hễ cứ có dính đến lập trường
chính trị hay tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định. 
 
Người  Trung  Hoa  sống  tại  Mỹ  cũng  vậy,  nào  cánh  tả,  cánh  hưũ,  trung  lập,  độc  lập,
thiên tả, trung, trung thiên hưũ, hưũ thiên trung vân vân và vân vân, chẳng biết đường
nào mà mò. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cựu thù như nó giết bố mình. Thật
không hiểu là thứ dân tộc gì? Đối xử với người Trung Hoa tệ hại nhất không phải là
người  nước  ngoài,  mà  chính  là  ngươi  Trung  Hoa  với  nhau.  Bán  rẻ,  hăm  doạ  người
Trung  Hoa  lại  không  phải  là  người  Mỹ  mà  là  người  Hoa.  Người  Tây  Phương  có  thể
đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Hoa đã đánh nhau rồi thì
cưù hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đơi cũng chưa hết. Sống trường kỳ
trong  cái  hũ  tương  lâu  ngày  quá  tự  nhiên  sinh  ra  thói  cẩu  thả.  Một  mặt  tự  đại  khoe
khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ; không có can đảm dám khen người khác, chỉ có dũng
khí  dùng  để  đả  kích  kẻ  khác;  chửi  bới  sau  lưng;  yêu  thì  sợ  chúng  cười,  ghét  thì  sợ
chúng  thù.  Họ  vĩnh  viễn  không  thể  nào  so  sánh  được  với  người  Do  Thái,  chỉ  cần  so
sánh  với  người  Nhật,  ngươi  Đại  Hàn  là  cũng  thấy  bị  thua  tới  cả  trăm  nghìn  năm  ánh
sáng rồi. 
 
Người  Hoa  sợ  sệt  đủ  mọi  thứ  trên  đờì.  Cái  não  trạng  hãi  sợ  này  đã  nuôi  dưỡng  bao
nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan không
bao  giờ  bị  tiêu  diệt,  và  đã  biến  dân  tộc  Trung  Hoa  thành  một  dân  tộc  hèn  mọn.  Sức
tưởng tượng, óc suy xét, tư tưởng của giới trí thức bị bóp chết, xơ cứng. Trong 4000
năm, từ Khổng Tử trở đi, không còn có một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái hũ tương
văn hoá, cái hũ tương thối làm cho người Trung Hoa xấu xí, không thể dùng tư tưởng
của mình giải quyết, phải bắt chước, phải dùng cái tư tưởng của kẻ khác; lớn lên trong
tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác
an  toàn,  lúc  nào  cũng  hoảng  hốt,  lo  âu.  Trung  Hoa  diện  tích  rộng  thế,  lâu  đời  thế  mà người  Hoa  lại  có  một  tâm  địa  thật  hẹp  hòi,  không  muốn  ai  hơn  mình.  Phải  chăng
Thượng Đế đã phú cho chúng ta có một nội tâm xấu xa? 

 
Trên đây là những đoạn trích các ý tưởng trong sách của nhà báo Bá Dương. Ai cũng
biết, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hơn một ngàn năm bị đô hộ, lại sống sát nách
một kẻ như thế, chẳng lẽ ta gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn? Họ sao ta vậy hay ta
tệ  hơn  thì  chẳng  có  gì  lạ  cả.  Hơn  nữa,  mỗi  dân  tộc  có  mỗi  bệnh  trạng  xã  hội. Bệnh
trạng của ta cọng thêm bệnh trạng của anh bạn láng giềng thì chắc phải hết thuốc
chữa; hèn gì nước ta lúc nào cũng loay hoay như gà mắc đẻ, lệt bệt đi sau hửi đít
thiên hạ. Nếu văn hoá Trung Hoa đã biến thành một cái hũ tương thối thì văn hoá ta là
cái hũ gì? Hũ vàng hay là hũ mắm thối? Còn Người VN ra sao? Thử nhìn thoáng vào
gương xem. 
 
Mẫu người Việt Nam 

Trong  cuốn  Việt  Nam  Sử  Lược  của  Trần  Trọng  Kim  có  đoạn  tả  tính  tình  người  VN
trước năm 1930 như sau: Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người VN có cả các tính tốt và
các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người
sáng dạ, nhớ lâu, lấy sự nhân nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy
vậy cũng có hay tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường
thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hoà bình nhưng mà đi trận mạc thì cũng có can
đảm, biết giữ kỹ luật. Tâm điạ thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe
khoang, và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin
ma, tin quỷ, sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tin tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và
hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn. Đàn bà thì hay
làm lụng và hay đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ moi việc mà lại biết lấy
việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con,thường giữ được các đức tính
rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm. 

 
Với mẫu người nói trên và nếu cho rằng, văn hoá là sinh hoạt, ta không hiểu văn hoá ta
là văn hoá gì, lại có thể sinh ra một tay gian hùng nhưng rất thành công như Trần Thủ
Độ.  Việt  Nam  Sử  Lược  của  học  gỉả  Trần  Trọng  Kim  cho  biết,  vì  cốt  gây  dựng  cơ
nghiệp  cho  nhà  Trần,  dù  tàn  bạo  đến  đâu  Trần  Thủ  Độ  cũng  làm  cho  được.  Ông  đã
chôn sống cả giòng họ Lý. Trước đó, Trần Thủ Độ nói với vua Lý Huệ Tông, tuy đã bỏ
ngôi vua, xuất gia đi tu, môt câu để đời “nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái”. Trong khi đó,
Nguyễn Trãi, đại công thần của vua Lê Lợi, thảo ra Bình Ngô Đại Cáo, môt bản văn
chương giá trị, và là tác gỉả câu đầy tình người 'Thương người như thể thương thân',
trong tập Gia Huấn Ca, thì lại bị giết cả họ vì bị kết tội là dùng người thiếp đẹp và giỏi
thơ, Nguyễn Thị Lộ, để mưu hại nhà vua. 
 
Trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, tác giả Hoàng văn Chí cho biết, vào những
năm  1954 và 1956, khi  Cộng Sản Việt Nam đem chiến thuật «Cải  Cách Ruộng Đất»
của Mao Trạch Đông, áp dụng tại Bắc Việt, mới thấy người mình sao lại có đầu óc nô
lệ  dữ  vậy.  Đúng  như  cụ  Trần  Trọng  Kim  phê  bình:  «Từ  tư  tưởng  cho  chí  công  việc
làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không
bắt  chước  được  là  dở».  Mà  theo  Bá  Dương,  Trung  Hoa  hiện  tại  còn  là  một  nước  dã
man nguyên thuỷ, thì việc Cộng Sản Việt Nam đưa ra phương châm: “thà sai hơn là bỏ
sót” trong khi phát động chiến dịch long trời lở đất nói trên cũng là điều hiển nhiên thôi.
Ở các nước văn minh thì khác. Nguyên tắc luật pháp của CSVN là: thà bắt lầm hơn
tha lầm. 
 
Mặt khác, trên sân khấu chình trị nước ta có một “diễn viên kỳ tài”, chữ của nhà văn Vũ
Thư  Hiên  khi  nói  về  Hồ  Chí  Minh,  một  người  làm  cách  mạng  chuyên  nghiệp,  được
huấn luyện tại Nga, tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Ông tiến, ông thoái, khi hai bước,
khi  ba  bước,  khi  khóc,  khi  cười,  khi  ôm  hôn  thắm  thiết,  biến  ảo  khôn  lường.  Cả  thế
giới đều nghe danh ông. Cho đến nay chưa ai biết rõ «con đường bác đi». Theo giáo sư
Nga  Anatoli  Sokolov,  chuyên  viên  Liên  Sô  về  Việt  Nam  Học,  tại  Trung  Tâm  Nghiên
Cứu Đông Phương ở Mạc Tư Khoa, trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, ông có
trên 150 bí danh. Để cho «chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên
toàn  thế  giới»  ông  sẵn  sàng  mua  chiến  thắng  đó «dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường
Sơn» hay phải «đánh Mỹ đến người VN cuối cùng». Không hiểu khí thiêng sông núi
VN thế nào mà lại có thể sinh ra một con ngươi kỳ dị như vậy? Chính ông đã gây ra
bao cuộc bể dâu, chết chóc. 
 
Hồi thập niên 60, có bài Tâm Ca Số Năm của Phạm Duy mang tên Để Lại Cho Em nói
lên thực tế của đất nước: «Bây giờ chỉ còn là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi
bom  đạn.  Hận  thù  nhân  danh  chủ  nghĩa,  bạo  lực  vênh  vang  bề  thế»;  và  «Đường  về
tương lai nghẽn lối». Thế hệ đàn anh chỉ đề lại «những giả dối, đê hèn, và vụng dại».
Bài hát lưu hành ở miền Nam rồi rơi vào quên lãng, bị át bởi tiếng xe tăng, máy bay,
hoả tiển, AK, M16. Vũ khí này được cung cấp bởi các nước đồng minh của hai miền
Nam Bắc. Đó là hệ quả của việc tìm đường cứu nước của bậc tiền bối. Kẻ đi Tàu, đi
Nga, ngưòi đi Tây, đi Nhật, đi Mỹ. Ai cũng cho là thuốc mình mang về là thuốc tiên;
nhưng  vì  muốn  độc  quyền  trị  nước  nên  VN  thành  nơi  thử  lửa  cuộc  chiến  tranh  lạnh.
Nước ta hết nạn hủ nho, thì đến nạn hủ Marx, hủ Mao. «Tôi không có tư tưởng ngoài
tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê Nin ». Hồ Chí Minh đã khẳng định như thế (1). 
 
Trong  ba  mươi  năm  nội  chiến  từng  ngày,  nửa  nước  từ  con  sông  Bến  Hải  trở  ra  Bắc
theo  Nga,  theo  Tàu;  nửa  nước  phía  Nam  chống  lại  bằng  dựa  vào  Tây,  vào  Mỹ.  Cuối
cùng miền Nam sụm vì đỡ hoài thì ắt có ngày bị đánh gục. Lại nữa, Hoa K ỳ rút lời cam
kết, ngưng viện trợ. Chỉ nội hai tháng 03 và 04 năm 1975, cả một chế độ tan tành. Khôn
sống,  mống  chết. Tướng tá cao chạy xa bay, tìm đường thoát thân. Trong lúc trời

đất nổi cơn gió bụi mới thấy nhân tài, khôn lanh thì nhiều như lá mùa Thu, còn
tuấn kiệt thì như sao mai buổi sớm. Có bao nhiêu người đứng lại chịu chết, chịu tù,
chịu  nhục,  chịu  chia  sẻ  với  thuộc  cấp?  Anh  hùng  tất  phải  hiếm.  Điều  đó  dễ  hiểu.
Nhưng đâu rồi câu hát “Dân ta hằng anh dũng, dân ta vẫn oai hùng, dân ta dù nguy biến
không nao”? 
 
Ngày  30/04/1975  là  ngày  phơi  bày  rõ  ràng  bộ  mặt  của  cấp  lãnh  đạo  hai  miền:  Miền
Nam  hèn  kém,  miền  Bắc  xảo  trá,  đê  tiện,  đầu  óc  nô  lệ.  Sau  khi  chiếm  Sài  Gòn,  nhà
cầm quyền Cộng Sản tìm cách tiêu diệt các thành phần tinh nhuệ bằng học tập cải tạo
và vơ vét, cướp bóc tài sản của miền Nam một cách có hệ thống bằng hai chữ quản lý.
Họ lại đốt sách báo và cấm lưu trữ các sản phẩm văn hoá cũ như thời Tần Thuỷ Hoàng.
Họ cố xoá bỏ căn cước của dân miền Nam. Dân miền này không thấy được giải phóng
mà  thấy  mình  là  dân  bị  trị,  bị  người  anh  em  làm  nhục,  trả  thù  vì  thế  mới  có  chuyện người  Việt  dù  chết  vẫn  tìm  cách  lao  đầu  ra  biển,  làm  mồi  cho  hải  tặc,  cho  sóng  dữ. Đến ngay «cả cái cột đèn nếu biết đi cũng còn muốn bỏ nước ra đi». Dân tộc VN, có quá khứ dài lâu; anh em như thể chân tay, sao lại không thể sống chung với nhau, mà
lại đi ra xứ người sống với thiên hạ? 
 
Con Rồng Cháu Tiên? 

Sau thế chiến thứ hai, chỉ trong vòng 20 năm, hai nước chiến bại, Đức và Nhật đã phục
hưng nhanh chóng, trở thành cường quốc kinh tế. Ông Bá Dương đã ví họ, “chẳng khác
nào, một anh khổng lồ ba đầu sáu tay, đùng một cái bị đánh gục xuống đất, một lúc sau
từ từ hồi tỉnh, đứng dậy phủi quần aó bước đi, vẫn đường đường là một hảo hán”. Còn
nước  ta,  Việt  Nam  là  một  nước  nghèo.  Đời  sống  nói  chung  so  với  các  nước  ở  Đông
Nam Á hãy còn thấp. Theo tin báo, nhà nước lại tăng cường tốc độ các bức tường lửa
để kiểm soát các ngươì vào Internet. Người dân chưa được tự do sử dụng máy in, một
phát minh từ thế kỷ 15 của ông Johann Gutenberg. Mọi ấn phẩm đều phải có giấy phép
của nhà cầm quyền. Ở thời đại tin học mà còn phải làm báo chui, báo lậu như tờ Thao
Thức của một số sinh viên thì phải kể là chuyện lạ bốn phương. 
 
Tháng  05/1999,  nhà  văn  Dương  Thu  Hương  ,  từ  trong  nước  đã  gửi  lén  ra  Hải  Ngoại
một đoản văn. Theo bà: “sau chiến tranh ngót một phần tư thế kỷ, trên dải đất này vẫn
chỉ nghe rõ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ bắc vào Nam, từ
nam ra Bắc” và «Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, khôn ngoan
hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát
hơn, dễ thoả hiệp hơn vơi sự nhục nhã, dễ cúi đầu hơn trước tội ác». Tại sao vậy? Ông
Nguyễn  Gia  Kiểng,  thuộc  nhóm  Thông  Luận  trong  bài  Vết  Thương  30/04/1999  cho
rằng: "Đó là vì dân tộc ta đã rã hàng, mỗi người tự thấy mình cô đơn, có muốn cũng
chẳng làm được gì. Đó cũng là vì đã quá chán đất nước, đã mệt mỏi, đã mất ý chí và
lòng tự hào. Đảng Cọng Sản VN không phải chỉ đánh gục phe quốc gia hay miền Nam.
Họ đã đánh gục được cả dân tộc VN. Chúng ta đã bị đả thương quá đau nên không thể
đứng dậy». 
 
Còn Hải Ngoại, được coi như là một VNCH nối dài thì thế nào? Tờ báo Hợp Lưu số 49
viết: «có nước nào trên thế giới chỉ bé tí bằng lỗ chân lông như Bolsa tiểu quốc, thế mà
cái gì cũng thặng dư lạm phát. Báo chí thì rợp trời kín đất như lá mùa Thu. Văn bút thì
chúng tôi có đến nhị vị chủ tịch (dù bây giờ chả còn ai trên thế giới công nhận, nhưng
mặc xác thế giới, chúng tôi cứ là văn bút, cứ là chủ tịch, làm gì nhau?), cộng đồng cũng
đương kim hai ngài Tổng Thống (dù thật thà mà nói, trông mặt các ngài, con nít sẽ khóc
thét như gặp ma, người lớn sẽ nôn nao ruột gan muốn ói), và chính phủ lưu vong cùng
đảng phái yêu nước, nói không phải khoe, trung bình mỗi tháng mọc thêm chừng mươi
cái, nhanh, nhiều như nấm dại mùa Đông». Sang đây, mất tất cả, thiên hạ mơ có quyền
lực, mong có cái danh. Ông nào cũng tự cho mình có sứ mệnh, như «ai bao năm từng lê
gót nơi quê người» của thuở nào. Vàng thau lẫn lộn, không biết đâu là thật, đâu là giả. 
 
Năm  1958  hai  tác  giả  William  J  Lederer  và  Eugene  Burdick  cho  phát  hành  cuốn  The
Ugly American (Người Mỹ Xấu Xí), nói về thói hư, vụng về, ngu dốt, tham nhũng, dốc
tướng, của các chính khách Mỹ. Cuốn sách gây xôn xao trong chính trường Hoa Kỳ, bán
rất  chạy.  Hơn  sáu  triệu  ấn  bản  được  bán  ra.  Tổng  Thống  Mỹ  Eisenhower  phải  cho
thành  lập  một  uỷ  ban  gồm  chín  nhân  vật  có  uy  tín  để  duyệt  xét  lại  các  chương  trình
viện trợ quân sự. Thượng Viện Hoa Kỳ cùng lập một nhóm nghiên cưú cuốn sách và
gửi cho mỗi Nghị sĩ mỗi người một cuốn. Ông Bá Dương viết, họ có năng lực sửa sai,
tự điều chỉnh mình. Thay vì lấy tay che đít, họ nói toáng lên cho mọi người biết “'tôi có
bệnh trĩ đây”. Họ có được cái trí tuệ dũng cảm, tìm cách sửa đổi và giải quyết một
cách thoả đáng những lỗi lầm. 
 
Nước Việt Nam cứ lẩn quẩn trong vòng chậm tiến, cũng «hoang mang lúng túng chẳng
kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ» là vì ta không biết mình biết ta. Ta cần có
một cuốn Người Việt Xấu Xí để «nôn ra được tất cả những thứ dơ bẩn trong ruột», rồi
tìm  ăn  những  thứ  có  chất  dinh  dưỡng  tốt,  giúp  ta  có  thể  tự  phản  tỉnh.  Bỏ  chuyện  tự kiêu hão, giấy rách giữ lấy lề hay đói cho sạch rách cho thơm, thẳng thắn nói lên những
tệ hại của dân tộc mình, để cùng nhau cải tiến. Trong thế kỷ và thiên niên kỷ mới, nhân
loại đang tiến nhanh tiến mạnh trong cuộc cách mạng truyền thông, chúng ta phải lẹ lẹ
lên. Chậm thì chết. Chúng ta hãy hè nhau vạch áo cho mọi người cùng xem, nếu không,
thay vì Con Rồng Cháu Tiên lại trở thành con khùng cháu điên mất. Phải không quý vị? 
 Phan Thanh Tâm 


Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Vạch Áo Cho Mọi Ngươì Cùng Xem
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
Phá tan giặc Cộng bằng Tâm lược
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.