Đại Tướng Cao Văn Viên
Việt Nam
Văn Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa
Quốc Gia Việt Nam (14/6/1949 - 26/10/1955) Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về
chính thể tại miền Nam Việt Nam. Để xem
bài viết về tổ chức nước Việt Nam, xem tổ
chức nước Việt Nam.
Quốc gia Việt Nam (tiếng Pháp: l’État du Viêt Nam) là một chính phủ thuộc Liên hiệp Pháp, cai quản về mặt danh nghĩa lãnh thổ miền Nam Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa năm 1948 và 1955. Về mặt hình thức, quốc gia này gần như là một quốc gia quân chủ lập hiến với Quốc trưởng là Cựu hoàng Bảo Đại. Từ năm 1954, theo thỏa thuận của Hiệp định Genève 1954, chính quyền và các lực lượng quân sự của Quốc gia Việt Nam tập kết và được trao quyền kiểm soát vùng lãnh thổ Nam Việt Nam. Sau một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1955, thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam là Ngô Đình Diệm đã tuyên bố phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và thành lập một quốc gia mới với chế độ cộng hòa dưới tên gọi Việt Nam Cộng hòa.
Lịch sửSau khi tái chiếm Đông Dương bằng vũ lực năm 1945, người Pháp đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của Việt Nam, mà lực lượng mạnh nhất là Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo và được các nước phương Tây cho là thân với cộng sản. Sau khi chiến dịch Léa năm 1947, được thiết kế đặc biệt để bắt Hồ Chí Minh và lãnh đạo Việt Minh, không đạt được mục tiêu chính, không đủ lực để tiếp tục tấn công, Pháp tìm cách xây dựng một chính quyền bản xứ người Việt để làm đối trọng với Việt Minh, và để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để Pháp có thể tiếp tục đứng chân tại Đông Dương[2]. Tháng 3 năm 1948, Bảo Đại và Mặt trận Dân tộc Thống nhất gặp nhau tại Hương Cảng và đồng ý thành lập chính phủ lâm thời do Nguyễn Văn Xuân đứng đầu. Tháng 6, tại cuộc họp tại Vịnh Hạ Long, Pháp và Bảo Đại đạt được sự đồng thuận về việc thành lập Quốc gia Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc độc lập và thống nhất của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, mặc dù nghĩa chính xác của từ "độc lập" và các quyền hạn cụ thể của chính phủ mới vẫn chưa được xác định. Chính phủ hoạt động dưới một hiến chương lâm thời, chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ và bản "Thanh niên Hành Khúc" với lời nhạc mới làm quốc ca.[3] Tháng 1 năm 1949, cuối cùng Pháp cũng thỏa hiệp trước yêu cầu của Bảo Đại rằng Nam Kỳ phải nằm trong Quốc gia Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Tuy nhiên, chính quyền Quốc gia Việt Nam non trẻ rất yếu ớt do các quyền quan trọng về quân sự, tài chính và ngoại giao đều do người Pháp nắm giữ và quyền hành cao nhất trên thực tế là Cao ủy Pháp. Quân độiQuân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập nhưng được huấn luyện kém và không có sĩ quan chỉ huy cấp cao người Việt[4] . Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính mới tuyển mộ được vào các quân đoàn Viễn chinh của chính Pháp, tại đó, người chỉ huy là các sĩ quan Pháp.[5] Ngày 12 Tháng Giêng, 1955 tướng Agostini mới trao quyền chỉ huy cho tướng Lê Văn Tỵ.[6] Ngoại giaoChiếu theo Điều II trong Hiệp ước Elysée thì Quốc gia Việt Nam có quyền trao đổi đại sứ với các nước khác nhưng Tổng thống Pháp, nhân danh chủ tịch Liên hiệp Pháp có quyền phê chuẩn hay không chấp nhận. Tính đến đầu năm 1950 thì có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt Nam.[7] Hoa kỳ và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland công nhận chính quyền Quốc gia Việt Nam ngày 7 Tháng Hai năm 1950. Donald Heath được cử làm đại sứ Mỹ đầu tiên sang nhận nhiệm sở ở Sài Gòn. [8] Một thành tựu ngoại giao của Quốc gia Việt Nam là việc thâu hồi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ tay Nhật Bản vừa mới thất trận tại Hội nghị San Francisco Tháng Chín năm 1951.[9] Vấn đề chủ quyền và vai trò của PhápTháng Ba năm 1954 Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Bửu Lộc đại diện mở cuộc điều đình với Pháp về chủ quyền của Việt Nam đòi hỏi Pháp phải ký hai hiệp ước riêng. Hiệp ước thứ nhất công nhận sự độc lập trọn vẹn của Quốc gia Việt Nam. Hiệp ước thứ hai sẽ minh định quan hệ giữa Việt Nam và Pháp.[10] Trong khi đó chiến trận ở Đông Dương càng tăng cường độ. Sự thất trận của Pháp tại Điện Biên Phủ vào Tháng Năm càng làm tình hình thêm thúc bách. Vào cuối Tháng Tư, 1954 thì Hiệp định Genève bắt đầu và kéo dài đến khi ký xong ngày 21 Tháng Bảy, 1954. Đây là hiệp ước có sự tham dự 9 phái đoàn của Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia để tái thiết hòa bình ở Đông Dương, trong đó có một số phái đoàn chỉ tham dự mà không ký vào hiệp ước. Hiệp ước bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp trên bán đảo Đông Dương, công nhận nền độc lập của các quốc gia bản xứ, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Ngoài ra Pháp còn ký riêng với Quốc gia Việt Nam một hiệp ước ngày 4 Tháng Sáu giữa Thủ tướng Joseph Laniel và Thủ tướng Bửu Lộc công nhận nền độc lập hoàn toàn của Quốc gia Việt Nam.[11] Theo Hiệp ước Genève 1954, lãnh thổ nước Việt Nam bị tạm chia làm hai vùng kiểm soát, lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự. Miền Bắc do lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát, miền Nam do lực lượng Liên hiệp Pháp, trong đó có Quốc gia Việt Nam kiểm soát, sau một thời gian, theo điều khoản của Hiệp định Genève, quân đội Pháp rút dần về nước. Hiệp ước cũng quy định 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và Liên hiệp Pháp hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền. Tuy người Pháp công nhận nền độc lập của Quốc gia Việt Nam họ chỉ miễn cưỡng bàn giao các cơ sở hành chánh như cố ý làm suy yếu chính thể mới, nhất là sau khi Quốc trưởng Bảo Đại chọn Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, một người không có thiện cảm với Pháp. Trong khi đó Pháp tiếp tục chi viện cho nhóm Bình Xuyên và hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cho đến năm 1955 mới thôi. Ba nhóm này có khoảng 20.000 quân kiểm soát một vùng rộng lớn; quân Cao Đài chủ yếu ở miền Đông Nam phần, quân Hòa Hảo ở miền Tây còn Bình Xuyên chiếm cứ Sài Gòn-Chợ Lớn. Khi không còn chi viện của Pháp nữa, các môn phái quay sang làm áp lực và tranh chấp với chính phủ Quốc gia. Xung đột giữa Chính phủ và Bình Xuyên cùng giáo pháiNgày 1 Tháng Giêng Ngô Đình Diệm ký nghị định hủy bỏ những sòng bài Kim Chung (khu cầu Muối) và Đại Thế Giới (Grande Monde) ở Chợ Lớn. Xóm Bình Khang mại dâm cũng bị dẹp, chấm dứt những nguồn tài chánh lớn này của Bình Xuyên. Nhóm này cùng với lực lượng Cao Đài và Hòa Hảo lập Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia vào Tháng Ba với sự ủng hộ ngầm của Pháp nhằm lật đổ thủ tướng Ngô Đình Diệm. Do là trước năm 1955, Pháp chi viện cho hai giáo phái 5 triệu đồng mỗi tháng[12] nhưng từ khi Thủ tướng Diệm không chịu giải ngân số tiền cho các môn phái này nữa kể từ trung tuần Tháng Hai, 1955 thì ba lực lượng trên chống đối ra mặt. Bình Xuyên còn vận động quốc trưởng Bảo Đại làm áp lực với thủ tướng vì sòng bài đã cung cấp lợi tức cho Bảo Đại một triệu đồng mỗi ngày (trị giá 28.500 Mỹ kim theo hối xuất đương thời).[13] Ngày 21 Tháng Ba, 1955 Mặt trận gửi tối hậu thư cho thủ tướng đòi quyền tham chính. Thủ tướng phải gọi tướng Đỗ Cao Trí về để chống lại công an cảnh sát do Bình Xuyên chỉ huy. Bình Xuyên phản công, pháo kích vào Dinh Độc lập ngày 28 Tháng Ba. Sau đó lại có tin Bảo Đại đòi Ngô Đình Diệm sang Pháp trình diện bên Pháp để giải quyết các tranh chấp. Thủ tướng liền cho triệu tập một số đoàn thể chính trị và nhân sĩ vào Dinh Độc lập hội kiến và tham khảo tìm cách đối phó với tình trạng ngày thêm xáo trộn. Nhóm này liền liên kết lập ra Ủy ban Cách mạng Quốc gia và trình lên ba kiến nghị cũng vào ngày 29 Tháng Tư, 1955:
Năm 1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý thắng lợi, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng hoà. Đây là nền Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam và chính thể Quốc gia Việt Nam bị giải tán. Các đời thủ tướngQuốc gia Việt Nam theo hình thức quân chủ lập hiến với nguyên thủ là Quốc trưởng Bảo Đại. Về mặt hành pháp có chức vụ Thủ tướng, được chỉ định bởi Quốc trưởng và chịu trách nhiệm trước Quốc trưởng. Xem thêm Tổ Chức Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam
Ngày 16 Tháng Sáu năm 1954 Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng trong khi ở Genève các phe tham chiến đang thương thuyết tìm một giải pháp cho cuộc chiến ở Đông Dương. Sang đầu Tháng Bảy danh sách Nội các như sau
Chú thích
Tham khảo
Xem thêm
Việt Nam Cộng Hoà (26/10/1955 - 30/4/1975) Việt Nam Cộng hòa
(1955–1975) là một
cựu quốc gia được thành lập từ Quốc
gia Việt Nam (1949–1955), có chủ quyền
lãnh thổ chính thức ở miền
Nam Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng
hòa sụp đổ sau khi đầu hàng lực lượng Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
và Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa vào
ngày 30 tháng 4 năm
1975
Tên gọiTên gọi chính thức của quốc gia này trong tiếng Việt là "Việt Nam Cộng hòa". Một số người cũng dùng "Nam Việt Nam" làm tên gọi không chính thức cho quốc gia này. Ngoài ra từ "Quốc gia" cũng là từ thông dụng để chỉ về tên gọi của quốc gia này, đặc biệt là trong các khẩu hiện về việc chiêu hồi. Lịch sửĐệ nhất Cộng hòa 1955-1963Sau Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, nước Việt Nam Cộng hòa được thành lập, thủ đô là thành phố Sài Gòn và ngày 26 tháng 10 trở thành ngày Quốc khánh của Đệ nhất Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và được Mỹ giúp đỡ, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền đi theo chủ nghĩa Cần lao Nhân vị. Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng hòa đã có một số thành tựu: xã hội ổn định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế... Tuy nhiên, chính quyền Ngô Đình Diệm bị xem là chính phủ độc tài gia đình trị, dần dần có nhiều mâu thuẫn nội bộ. Từ năm 1955 và đặc biệt là từ 1959, cùng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ (do lo ngại ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản), chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách đàn áp cộng sản, tố cộng diệt cộng trên toàn bộ Nam Việt Nam, dựa theo Luật 10-59 (đạo luật nhằm trừng trị các hành động phá hoại an ninh quốc gia, mạng sống và tài sản của nhân dân, và quy định việc thiết lập các phiên tòa quân sự đặc biệt).[1] Phong trào Đồng khởi năm 1960 (do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo) và cuộc đảo chính hụt năm 1961 là những đòn giáng mạnh vào chế độ. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc cấm treo cờ Phật giáo ở Huế đã gây ra phản ứng mạnh mẽ từ các Phật tử, dẫn đến các hoạt động đàn áp Phật giáo của chính quyền. Việc Thượng toạ Thích Quảng Đức tự thiêu giữa đường phố Sài Gòn cùng những phát biểu của bà Ngô Đình Nhu (tức dân biểu Trần Lệ Xuân) làm chế độ Ngô Đình Diệm bị báo chí phương Tây đả kích kịch liệt và mất hết mọi sự ủng hộ từ phương Tây. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, nền Đệ nhất Cộng hòa bị lật đổ bởi một nhóm quân nhân dưới sự chỉ huy của một số tướng lĩnh (trong đó có tướng Dương Văn Minh); về sau, ngày này được xem là ngày Quốc khánh của Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn đều bị giết. Theo như hồi ký của bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Robert McNamara, chính CIA đã hậu thuẫn cho việc lật đổ này và McNamara xem đó là một sai lầm nghiêm trọng mà Hoa Kỳ mắc phải. Tuy nhiên việc sát hại không phải là chủ trương của Hoa Kỳ. Kể từ đây, sự phụ thuộc của Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ của Hoa Kỳ, về tài chính cũng như về quân sự, cũng như sự can thiệp của tòa đại sứ Mỹ vào công việc nội bộ về chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng hòa ngày càng lên cao. Thời kỳ quân quản 1963-1967Tiếp sau đó là giai đoạn khủng hoảng lãnh đạo chính trị ở miền Nam bởi một loạt đảo chính liên tiếp cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu thiết lập nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Trong thời gian 20 tháng miền Nam phải chứng kiến hơn 10 biến cố chính trị (chỉnh lý 1964 của tướng Nguyễn Khánh; thành lập Tam đầu chế; phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu; chính phủ dân sự Trần Văn Hương lên rồi đổ; chính phủ dân sự Phan Huy Quát lên rồi đổ; đảo chánh hụt ngày 13 tháng 9, 1964 của tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát; đảo chánh hụt ngày 20 tháng 2, 1965 của đại tá Phạm Ngọc Thảo). Phe quân đội lần lượt truất phế nhau cùng những chính phủ dân sự được dựng lên rồi phải rút lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, các khối Phật giáo và Công giáo nhiều lần xuống đường biểu tình làm áp lực. Về mặt pháp lý bản Hiến pháp năm 1956 bị vô hiệu hóa. Thay vào đó là một loạt hiến chương có tính cách tạm thời như:[2]
Về mặt quân sự, Việt Nam Cộng hòa cùng với các đồng minh tiếp tục chiến đấu chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do Liên Xô, Trung Quốc và khối xã hội chủ nghĩa hậu thuẫn trong Chiến tranh Việt Nam.
Đệ nhị Cộng hòa 1967-1975Tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành tuyên bố mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 13 tháng 9. Theo đó 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần và đến 1 tháng 4 năm 1967 thì ra tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Hiến pháp này là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30 tháng 4 năm 1975[3]. Cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội diễn ra ngày 3 tháng 9 năm 1967 với 11 liên danh tranh cử trong đó có những ứng cử viên như chính trị gia kỳ cựu như Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương. Trong số hơn sáu triệu cử tri thì năm triệu người đi bầu, tức tỷ lệ 80%. Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 35% số phiếu. Về nhì là luật sư Trương Đình Dzu với 17%.[4] Tháng 6 năm 1969, trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã diễn ra Đại hội đại biểu quốc dân và thành lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch và Hội đồng Cố vấn do Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Năm 1971 là cuộc Tổng Tuyển cử thứ nhì của nền Đệ nhị Cộng hòa. Kỳ này Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách dễ dàng vì không có đối phương ra tranh cử. Sự việc này xảy ra nhiều người cho là do điều luật mới thông qua ngày 3 Tháng Sáu năm 1971 nhằm hạn chế khả năng ứng cử viên đối lập. Theo đó thì ứng cử viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hay nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của các thành viên trong hội đồng tỉnh.[5] Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì lý do điều luật trên phải rút tên. Vào năm 1973, sau Hiệp định Paris (được thảo luận giữa bốn bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa), quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam. Bị mất viện trợ về tài lực và quân sự từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa không thể tự đứng vững được. Năm 1975, sau khi thất thủ Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột), trước sự tấn công mãnh liệt của Quân Giải phóng, cộng thêm các sai lầm chiến lược, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng tan rã, mất quyền kiểm soát lãnh thổ. Nhiều tướng lãnh cao cấp Việt Nam Cộng hòa đã tự ý rời bỏ hàng ngũ. Tổng thống Dương Văn Minh, người được đề cử chức vụ này vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, đã ra lệnh đầu hàng vô điều kiện trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thay thế chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý miền Nam Việt Nam. Chính phủ mới này nằm dưới sự chỉ đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến khi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được thành lập, sáp nhập hai chính phủ, vào ngày 2 tháng 7 năm 1976. Tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa thời Đệ nhị Cộng hòaHiến pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa rất hoàn chỉnh, theo mô hình của nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa đã thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến. Lập phápQuyền lập pháp thuộc về Quốc hội với Hạ nghị viện (159 thành viên được gọi là dân biểu với nhiệm kỳ 4 năm) và Thượng nghị viện (60 thành viên được gọi là nghị sĩ, nhiệm kỳ 6 năm). Thượng viện được bầu theo liên danh. Một liên danh có thể có ứng cử viên từ nhiều vùng khác nhau nhưng chung một liên danh. Hạ viện thì chọn theo số phiếu từng địa phương căn cứ trên dân số. Tính đến năm 1974 thì mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.[6] Trong 159 ghế Hạ viện thì có 6 ghế dành riêng cho người Việt gốc Miên, 6 ghế cho người Thượng, 2 ghế cho người thiểu số di cư từ thượng du miền Bắc, và 2 ghế cho người Chàm.[7] Quốc hội có những quyền hạn sau:
Ở tỉnh có Hội đồng Lập pháp cấp tỉnh, thành viên gọi là dân biểu. Hành phápTổng thốngTổng thống là người nắm quyền hành pháp, do dân bầu lên với nhiệm kỳ 4 năm và có những quyền hạn sau:
Sau vụ tu chính hiến pháp Tháng Giêng năm 1974 thì nhiệm kỳ tổng thống đổi từ 4 thành 5 năm. Ngoài ra tổng thống và phó tổng thống được phép tái đắc cử 2 lần thay vì 1 lần.[8] Phó Tổng thốngPhó Tổng thống có những nhiệm vụ sau:
Phó Tổng thống không được kiêm nhiệm một chức vụ nào trong Chính phủ. Chính quyền Trung ươngThủ tướng điều khiển Chính phủ và các cơ cấu hành chính quốc gia. Thủ tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chính sách quốc gia trước Tổng thống. Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm. Chính quyền Trung ương được tổ chức thành 19 Bộ:
Ngoài ra còn có 3 Quốc vụ khanh:
Đứng đầu các Bộ là các Tổng trưởng hoặc Bộ trưởng. Các Tổng trưởng và Bộ trưởng là các thành viên của Chính phủ, thành viên của Hội đồng Nội các (Hội đồng Tổng trưởng). Các Tổng trưởng, Bộ trưởng do Thủ tướng đề cử lên Tổng thống, Tổng thống bổ nhiệm. Thủ tướng và các thành viên Chính phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc hội hoặc của các Uỷ ban để trình bày và giải quyết về các vấn đề liên quan đến chính sách quốc gia và sự thi hành các chính sách quốc gia do Tổng thống hoạch định. Chính quyền địa phương
Tư phápLuật phápLuật pháp Việt Nam Cộng hòa được xây dựng căn cứ theo Bộ Hoàng Việt Hộ luật (1936-39) do triều đình Huế ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ Dân luật (1883) áp dụng ở Nam Kỳ. Hình luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật (1933), Tố tụng tu chính của Trung Kỳ (1935) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải (1912). Di sản luật pháp từ thời Pháp thuộc dần được thống nhất thành một bộ luật cho toàn quốc năm 1972 với tên Bộ Hình luật Việt Nam.[9] Cơ quan Tư pháp Trung ươngTối cao Pháp viện gồm 9 thẩm phán, do Quốc hội tuyển chọn và Tổng thống bổ nhiệm trên danh sách do Tối cao Pháp viện và Bộ Tư pháp lập ra. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tối cao Pháp viện là 6 năm. Tối cao Pháp viện có những quyền hạn sau đây:
Những quyết định của Tối cao Pháp viện tuyên bố một đạo luật không hợp hiến hoặc giải tán một chính đảng phải được 3/4 tổng số thẩm phán tán thành. Ở cấp Trung ương, ngoài Tối cao Pháp viện còn có Đặc biệt Pháp viện và Giám sát viện. Đặc biệt Pháp viện gồm có Chủ tịch Tối cao Pháp viện và 10 dân biểu, nghị sĩ, có thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ trưởng, thẩm phán Tối cao Pháp viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác. Giám sát viện (tiếng Anh: Inspectorate General) gồm từ 9-18 giám sát viện, 1/3 do Quốc hội, 1/3 do Tổng thống và 1/3 do Tối cao Pháp viện chỉ định. Giám sát viện có thẩm quyền:
Cơ quan Tư pháp địa phươngỞ địa phương, có các toà án thường (gồm các toà Thượng thẩm, toà Đại hình, toà Sơ thẩm, tòa Hòa giải, toà Vi cảnh) và các toà án đặc biệt (gồm các toà Hành chính, toà Lao động, toà án Điền địa, toà án Thiếu nhi (thành lập năm 1958), toà án Cấp dưỡng, toà án Sắc tộc, toà án Quân sự đặc biệt - trong đó có các toà án Quân sự tại mặt trận). Cấp thấp nhất là Tòa Vi cảnh, ở nông thôn có khi do quận trưởng chủ tọa. Cao hơn thì có hệ thống Tòa Sơ thẩm có một chánh thẩm và ba phụ thẩm. Tòa Thượng thẩm thời Đệ nhất Cộng hòa có hai sở, một ở Sài Gòn, một ở Huế. Mỗi phiên tòa này có ba thẩm án ngồi xử án.[10] Các đơn vị hành chính cấp tỉnhĐầu năm 1956, thành lập thêm các tỉnh Tam Cần (9/2/1956), Mộc Hóa (17/2/1956), Phong Thạnh (17/2/1956), Cà Mau (9/3/1956). Theo sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì Nam phần (tức Nam Bộ) gồm 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn. Như vậy, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Đồng Nai Thượng, Phước Long (tên cũ: Bà Rá), Bình Long (tên cũ: Hớn Quản), Long Khánh (tên cũ: Xuân Lộc), Biên Hòa, Bình Tuy, Phước Tuy (tên cũ: Bà Rịa-Vũng Tàu), Bình Dương (tên cũ: Thủ Dầu Một), Tây Ninh, Gia Định, Long An (gộp Chợ Lớn và Tân An), Kiến Tường (tên cũ: Mộc Hóa), Kiến Phong (tên cũ: Phong Thạnh), Định Tường (gộp Mỹ Tho và Gò Công), Kiến Hòa (tên cũ: Bến Tre), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (tên cũ: Trà Vinh), An Giang (gộp Long Xuyên và Châu Đốc), Phong Dinh (tên cũ: Cần Thơ), Kiên Giang (gộp Rạch Giá và Hà Tiên), Ba Xuyên (gộp Bạc Liêu và Sóc Trăng), An Xuyên (tên cũ: Cà Mau), Côn Sơn và Đô thành Sài Gòn. Ngày 19/5/1958, lập 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức từ tỉnh Đồng Nai Thượng. Ngày 23/1/1959, lập 2 tỉnh Quảng Đức và Phước Thành. Ngày 21/1/1961, lập tỉnh Chương Thiện. Năm 1962, lập 2 tỉnh Quảng Tín (31/7/1962) và Phú Bổn (1/9/1962). Năm 1963, lập 2 tỉnh Hậu Nghĩa (15/10/1963) và Gò Công (20/12/1963). Ngày 8/9/1964, lập 2 tỉnh Châu Đốc và Bạc Liêu. Năm 1965, bỏ 2 tỉnh Côn Sơn (21/4/1965) và Phước Thành (6/7/1965). Ngày 24/9/1966, lập tỉnh Sa Đéc. Từ đó cho đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn: Quảng Trị | Thừa Thiên | Quảng Nam | Quảng Tín | Quảng Ngãi | Kon Tum | Bình Định | Pleiku | Darlac | Phú Yên | Phú Bổn | Khánh Hòa | | Ninh Thuận | Tuyên Đức | Quảng Đức | Bình Thuận | Lâm Đồng | Phước Long | Bình Long | Bình Tuy | Long Khánh | Bình Dương | Tây Ninh | Phước Tuy | Biên Hòa | Hậu Nghĩa | Gia Định | Long An | Kiến Tường | Gò Công | Định Tường | Kiến Phong | Châu Đốc | Kiến Hòa | Vĩnh Long | Sa Đéc | An Giang | Kiên Giang | Vĩnh Bình | Phong Dinh | Ba Xuyên | Chương Thiện | Bạc Liêu | An Xuyên. Đơn vị đông dân nhất là Đô thành Sài Gòn; ít dân nhất là tỉnh Quảng Đức.[11] Đứng đầu tỉnh là tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm và báo cáo lên thủ tướng và bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trách nhiệm của tỉnh trưởng gồm soạn ngân sách, điều hành lực lượng Nhân dân Tự vệ, giữ gìn an ninh trật tự và kiểm soát việc hành chánh.[12] Các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnhBốn mươi bốn tỉnh của Việt Nam Cộng hòa được chia thành 241 quận[13] sau tăng lên 247 quận.[14] Quận trưởng do tỉnh trưởng đề cử và thủ tướng bổ nhiệm. Dưới quận là xã và thôn. Toàn quốc có 2.589 xã.[15] Tính đến năm 1974 thì chính phủ kiểm soát 2.159 xã.[16] Ngoài Đô thành Sài Gòn ra còn có 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá.[17] Dưới xã là thôn ấp, tổng cộng có hơn 15.000 đơn vị.[18] Cấp tổng bị loại bỏ dần kể từ năm 1962. Việc cai trị ở cấp xã trước kia tự trị thì năm 1956 thời Đệ nhất Cộng hòa hội đồng xã phải do tỉnh trưởng bổ nhiệm.[19] Sang thời Đệ nhị Cộng hòa thì việc điều hành ở cấp xã trả lại cho địa phương. Hội đồng xã do cư dân 18 tuổi trở lên bầu ra. Những xã dưới 2.000 dân thì bầu ra hội đồng 6 người. Xã trên 10.000 dân thì được bầu 12 người.[20] Các quân khuVề mặt quân sự, năm 1961 thành lập các vùng chiến thuật, đến tháng 7, 1970 đổi tên là Quân khu. Lúc đầu có 3 vùng chiến thuật được đánh số 1, 2, 3, đến năm 1964 lập thêm vùng chiến thuật 4. Mỗi vùng chiến thuật do 1 quân đoàn phụ trách. Dưới vùng chiến thuật là các khu chiến thuật do 1 sư đoàn phụ trách. Bộ tư lệnh quân đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh vùng chiến thuật, còn Bộ tư lệnh sư đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh khu chiến thuật. Các vùng chiến thuật có địa giới như sau:
Khi 4 vùng chiến thuật chuyển thành 4 Quân khu, thì bỏ cấp khu chiến thuật. Quân khu 1 gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Quân khu 2 với diện tích 78.841 km vuông, chiếm gần phân nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa nhưng chỉ có gần 3 triệu dân sinh sống trong 12 tỉnh. Quân khu 3 có thêm tỉnh Gia Định và Biệt khu Thủ đô (do Quân khu Thủ đô đổi thành), tổng cộng 11 tỉnh. Quân khu 4 có 16 tỉnh. Các thị xã về mặt quân sự là các tiểu khu, còn các quận là các chi khu. Quân lựcQuân lực Việt Nam Cộng Hòa là lực lượng quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Thành lập từ năm 1955 với nòng cốt là lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chủ yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Ngày truyền thống (còn gọi là ngày Quân lực) là ngày 19 tháng 6. Quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hùng hậu với sức cơ động cao và hoả lực mạnh, được sự hỗ trợ tích cực của Mỹ, và các đồng minh, để chống lại những người Cộng sản miền Nam, vốn được sự hậu thuẫn của miền Bắc. Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn bị gọi là "quân đội Sài Gòn" hay "quân ngụy" theo cách gọi của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đương thời. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng là lực lượng chính trong cuộc đảo chính 1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và tham chính trong chính quyền cho đến ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là một quân đội hiện đại, tốn kém, đòi hỏi kinh phí hoạt động gần 3 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa không thể cáng đáng được kinh phí này, nên Việt Nam Cộng hòa đã gần như phải dựa hoàn toàn vào viện trợ kinh tế của Mỹ để có thể thực hiện phòng thủ quốc gia. Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế lâm vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không còn đủ kinh phí hoạt động, tình trạng thiếu đạn dược, vũ khí, xăng dầu đã dẫn đến hỏa lực yếu và giảm tính cơ động. [21] Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, lực lượng quân đội này đã tan rã. Ngoại giaoTính đến năm 1974 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập bang giao với 86 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức. Lập trường ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa là không chấp nhận bang giao với chính phủ nào muốn công nhận chính phủ của Mặt trận Giải phóng miền Nam.[22] Bắt đầu từ năm 1964 một số đồng minh của Việt Nam Cộng hòa ngoài viện trợ tài lực hoặc nhân lực còn trực tiếp tham chiến như Hoa Kỳ (1964), Nam Hàn (03.1965), Úc (06.1965), New Zealand (07.1965), Thái Lan (02.1966), và Philippines (10.1966). Nhóm này mang tên "The Free World Military Assistance Forces". Lực lượng quân sự của các đồng minh dần dần rút đi vào năm 1972-73 với Hòa đàm Paris đang diễn tiến và rồi kết thúc.[23] Việt Nam Cộng hòa là thành viên trong một số tổ chức quốc tế như Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), Ủy ban Kinh tế của Liên hiệp quốc về Á châu và Viễn Đông ECAFE, Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực FAO (1950); Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA (1957); Tổ chức Hàng không Dân sự Quốc tế ICAO (1954); Hiệp hội Phát triển Quốc tế IDA; Tổ chức Lao động Quốc tế ILO (1950); Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF (1956)[24]; Liên hiệp Viễn thông Quốc tế ITU (1951); Tổ chức Giáo dục, Khoa học, và Văn hóa Liên hiệp quốc UNESCO (1951); Quỹ Thiếu nhi Liên hiệp quốc UNICEF, Liên hiệp Bưu chính Quốc tế UPU (1951); Tổ chức Y tế Quốc tế WHO (1950); Tổ chức Khí tượng Thế giới WMO (1955).[25] Kinh tếNền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là một nền kinh tế thị trường, đang phát triển, và mở cửa. Mức độ tự do của nền kinh tế khá cao trong những năm 1963 đến 1973. Tuy nhiên, phát triển kinh tế vẫn được triển khai dựa trên các kế hoạch kinh tế 5 năm hoặc kế hoạch bốn năm. Nền kinh tế ổn định trong gần 10 năm đầu tiên, sau đó do tác động của chiến tranh leo thang trở nên mất ổn định với những đặc trưng như tốc độ tăng trưởng kinh tế không đều, tỷ lệ lạm phát cao, thâm hụt ngân sách nhà nước và thâm hụt thương mại. Chính quyền đã phải tiến hành cải cách ruộng đất tới hai lần. Mỹ đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam Cộng hòa thông qua viện trợ kinh tế cũng như hỗ trợ kỹ thuật. Văn hóaVào thời Đệ nhị Cộng hòa những ngày nghỉ chính thức cho các công sở gồm có:
Ngoài ra còn có những ngày lễ cổ truyền tính theo âm lịch như ngày Thích Ca thành đạo (8 Tháng Chạp), Tết Ta (1-7 Tháng Giêng, nghỉ chỉ ba ngày mồng 1 đến mồng 3), Giỗ Tổ Hùng Vương (10 Tháng Ba), Phật đản (rằm Tháng Tư) (công nhận năm 1958)[26], Vu-lan (rằm Tháng Bảy), và tết Trung thu (rằm Tháng Tám).[27] Một thành tựu văn hóa tại Miền Nam là ngành tân nhạc với khoảng 10.000 bản nhạc ra đời trong khoảng thời gian 1945-75. Đại đa số những bản nhạc này sau năm 1975 đều bị chính quyền mới cấm lưu hành.[28] Giáo dụcTrước năm 1954, ở miền Nam có một chi nhánh của Viện Đại học Hà Nội (tiếng Pháp: Université de Hà Nội) đặt tại Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, chi nhánh này cùng với một bộ phận của Viện Đại học Hà Nội chuyển từ miến Bắc vào trở thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam. Vào năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam trở thành Viện Đại học Sài Gòn theo sau việc thành lập Viện Đại học Huế.[29] Đến năm 1973, Viện Đại học Sài Gòn đã đứng vào hàng quốc tế. Sau này các bác sĩ Việt Nam di tản sang Mỹ, chỉ cần một hai năm đào tạo lại và học thêm tiếng Anh là hành nghề được ngay[30]. Ngoài Viện Đại học Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa còn có các viện đại học khác như Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Viện Đại học Hòa Hảo, Viện Đại học Cao Đài, v.v... Năm 1973, tổng số sinh viên đại học lên tới 98.832 người so với chỉ 2.900 người vào năm 1955. Số học sinh trung học trong cùng năm ấy là trên một triệu so với 43.000; và học sinh tiểu học, trên ba triệu so với 401.000. Ngoài ra còn các trường đại học cộng đồng (trường đại học hệ hai năm), trường huấn nghiệp và các chương trình công nghệ.[30] Các trường đại học cộng đồng được thiết lập từ năm 1970 trở đi, đặt cơ sở ở Định Tường, Nha Trang, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vĩnh Long...[29] Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Điều này ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó được ghi lại trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967.[29] Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và rằng "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[31] Hạ tầng cơ sởMột kết quả tốt của chiến tranh là mang tới cho Miền Nam một hạ tầng cơ sở khá tốt, giúp phát triển kinh tế lâu dài dù việc xây dựng hạ tầng là rất tốn kém và mất thời gian. Giao thông đường hàng khôngNgoài những phi trường lớn như Tân Sơn Nhất, Cam Ranh, , Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Biên Hòa có thể tiếp nhận phản lực đủ loại còn có những phi trường nhỏ ở Đà Lạt, Huế, Kontum, Phú Quốc. Pleiku, Rạch Giá, và Qui Nhơn. Cộng thêm vào là khoảng 100 sân bay tý hon, rải rác khắp nơi, rất tiện cho việc liên lạc giữa các địa phương[32]. Giao thông đường thủy và đường bộMiền Nam có tới 4.780 cây số sông, rạch (3.000 dặm Anh). Hải cảng lớn gồm Sài Gòn, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Rạch Giá. Còn đường xá có tới 21.000 km đường trong đó gần 9.500 km là đường nhựa, đi được quanh năm. Cầu các loại qua sông tới gần 4.000 cây rất nhiều cầu đã bị hư hỏng do chiến tranh, nhưng sửa chữa lại thì cũng nhanh. Có gần 170.000 xe tải và trên 51.000 xe hành khách lưu thông trên hệ thống đó. Đường sắtTính đến năm 1971-1972 thì Việt Nam Cộng hòa có 1.240 km đường sắt nhưng vì chiến cuộc và an ninh nên chỉ có 57% sử dụng được. Dù vậy, tổng lượng hành khách và hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt tăng dần:[33]
Hệ thống viễn thông và thông tinTính đến năm 1970 Miền Nam có 20.000 điện thoại đăng ký.[34] Hệ thống phát thanh quốc gia Việt Nam, tức đài radio mang tên Vô tuyến Việt Nam (VTVN) vào giữa thập niên 1960 bao gồm đài trung ương ở Sài Gòn và tám đài khu vực phát sóng từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Ban Mê Thuột, Nha Trang, Đà Lạt, và Cần Thơ. Ngoài ra có những đài địa phương ở những tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Long An, Kiến Tường, và Định Tường.[35] Đến năm 1972 thì có tổng cộng 49 đài phát thanh và 5 đài truyền hình đặt ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang và Cần Thơ. Truyền hình bắt đầu ngày 7 Tháng Hai 1966, lúc đầu chỉ phát hình một giờ mỗi ngày.[36] Sau vào đầu thập niên 1970 thời lượng phát hình của Đài Truyền hình Việt Nam là sáu giờ mỗi ngày vào buổi chiều. 80% dân chúng ở Miền Nam có thể bắt sóng xem được.[37] Nhật báo trong nước có 48 tờ nhật báo phát hành, đại đa số băng tiếng Việt nhưng cũng có nhật báo bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa, và tiếng Miên. Tính trung bình cho mỗi 1.000 người thì có 51 ấn bản báo chí.[38] Điện lựcNăng suất điện lực tăng từ 117 MW (1968) lên 278 MW vào năm 1971.[39] Xem thêmChú thích
Tham khảo
Xem thêm
Liên kết ngoài
Nguồn: http://vi.wikipedia.org
|
Mục lục |
Đụng độ giữa Quân lực Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Bình Xuyên bắt đầu từ đầu năm 1955 trong những trận xung đột võ trang dữ dội ngay giữa Sài Gòn ngay từ khi Ngô Đình Diệm còn là thủ tướng. Chính những tranh chấp giữa chính phủ và các nhóm quân giáo phái là một động lực khai sinh nền Đệ nhất Cộng hòa.
Nguyên là quân giáo phái vì đã có sẵn lực lượng võ trang nên không chịu nhượng quyền cho chính phủ trung ương. Những lực lượng võ trang này còn được sự hậu thuẫn của người Pháp, chưa thật lòng trao quyền lại cho chính phủ Quốc gia Việt Nam.[1] Vào Tháng Hai năm 1955 khi Pháp ngưng mọi chi viện cho lực lượng quân sự của hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo thì hai nhóm này đòi chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải chi viện. Ngô Đình Diệm từ chối.[2] Quân đội Cao Đài và Hòa Hảo từ đó liên kết với nhóm Bình Xuyên, vốn có lập trường chống lại chính phủ, lập ra Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia. Tổ chức này đòi quyền tham chính, ra tối hậu thư ngày 21 Tháng Ba ép thủ tướng Ngô Đình Diệm phải thay đổi nội các trong vòng năm ngày, tức là trước ngày 26 tháng 3. Đại diện Cao Đài là Phạm Công Tắc; đại diện Hòa Hảo là Lê Quang Vinh, Lâm Thành Nguyên và Trần Văn Soái; và đại diện Bình Xuyên là Lê Văn Viễn cùng ký tên. Cũng vào Tháng 3, quân Bình Xuyên tấn công Bộ Tổng tham mưu rồi pháo kích Dinh Độc Lập. Quân chính phủ phản công bằng cách vây đánh Tổng nha Cảnh sát trên đại lộ Trần Hưng Đạo (Galliéni cũ) do Lại Văn Sang, người của Bình Xuyên cầm đầu lực lượng Công an Xung phong. Thủ tướng Ngô Đình Diệm phải cho triệu hồi Đại tá Dương Văn Minh về Sài Gòn để chỉ huy quân đội chống lại quân ly khai.
Ngày 26 tháng 4 năm 1955, Ngô Đình Diệm ra lệnh cách chức Lại Văn Sang và cử Đinh Ngọc Lễ vào thay thế nhưng Sang không tuân. Sang đòi phải có lệnh của Bảo Đại mới tuân thủ. Quân Bình Xuyên lại mở cuộc tấn công vào thành Cộng Hòa trưa ngày 27 và kêu gọi Quốc trưởng Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại ra lệnh đòi Ngô Đình Diệm sang Pháp hội kiến nhưng bị thủ tướng bác bỏ. Rạng ngày 30 tháng 4 sau một cuộc giao tranh lớn gây hỏa hoạn khiến 20.000 người phải sơ tán thì chính phủ kiểm soát được các cửa ngỏ vào đô thành như cầu Chữ Y và cầu Tân Thuận, Khánh Hội khiến quân Bình Xuyên phải triệt thoái khỏi Sài Gòn, Chợ Lớn. Tổng kết bên Việt Nam Cộng hòa có 150 lính bị thương, hơn 20 tử vong; bên Bình Xuyên chết 100 người, 400 bị thương.[3] Sang tháng 5 thì nhóm chỉ huy Bình Xuyên gồm hai anh em Lại Hữu Tài, Lại Văn Sang và Lê Văn Viễn (thường gọi là Bảy Viễn) phải rút về Rừng Sát vì bị tướng Trình Minh Thế truy nã gắt gao[4]. Đến cuối năm 1955 sau Chiến dịch Hoàng Diệu thì lực lượng Bình Xuyên hoàn toàn tan rã[5]. Bảy Viễn chạy thoát được sang Campuchia rồi lưu vong sang Pháp[6].
Cũng năm 1955 chính phủ mở cuộc càn quét dẹp lực lượng vũ trang Hòa Hảo trong Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng đánh vào Cái Vồn và Thốt Nốt. Ngày 5 tháng 6, chỉ huy lực lượng Hòa Hảo là tướng Nguyễn Giác Ngộ ra đầu hàng nhưng Lê Quang Vinh (tục danh Ba Cụt) thì cầm cự đến 1956 mới bị bắt ở Chắc Cà Đao và đem xử tử[7]. Trần Văn Soái (Năm Lửa) phải bỏ chạy sang Campuchia. Từ đó lực lượng võ trang Hòa Hảo mới tan hẳn[8].
Đối với quân đội Cao Đài do hai tướng Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương chỉ huy thì lực lượng này gia nhập Hội đồng Cách mạng ủng hộ thủ tướng Ngô Đình Diệm vào Tháng Tư nên không có cuộc đụng độ giữa chính phủ và lực lượng Cao Đài. Riêng Hộ pháp Phạm Công Tắc phải lưu vong sang Cao Miên.
Cuộc bỏ phiếu diễn ra vào ngày 23 Tháng Mười 1955 với tổng số gần 6 triệu lá phiếu.
Lựa chọn | Số phiếu |
---|---|
Đồng ý truất Bảo Đại | 5.721.735 |
Chống việc truất phế | 63.017 |
Phiếu hỏng | 44.105 |
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đạt tỷ số tuyệt đối so với Quốc trưởng Bảo Đại nhưng cuộc trưng cầu dân ý xét ra có những sắp xếp gian lận.
Sau khi Bảo Đại bị truất, Ngô Đình Diệm tuyên bố "Quốc gia Việt Nam là một nước Cộng hòa" ngày 26 Tháng Mười 1955. Sang Tháng Mười Một thì một Ủy ban Thảo hiến gồm 11 người bắt đầu việc sơ thảo một hiến pháp cho quốc gia mới.[10]
Để có cơ sở pháp lý, Ngô Đình Diệm xúc tiến nhóm họp Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này được bầu ra vào ngày 4 tháng 3 và khai mạc ngày 17 Tháng Tư năm 1956 gồm 123 dân biểu để giúp soạn hiến pháp mới. Chủ tịch Quốc hội là Nguyễn Phương Thiệp.[11] Tỷ số cử tri đầu phiếu là khoảng 80% với 405 ứng cử viên tham gia[12]. Sau mấy lần thương nghị giữa Quốc hội và Tổng thống, bản hiến pháp đó được thông qua vào Tháng Bảy và ban hành ngày 26 tháng 10 năm 1956. Ngày đó được nền Đệ nhất Cộng hòa nhận là ngày "Quốc khánh".
Đứng đầu ngành hành pháp là tổng thống với nhiệm kỳ 5 năm. Ứng cử viên được ra tranh cử ba nhiệm kỳ liên tiếp.
Lập pháp có Quốc hội chỉ có một viện duy nhất gồm 123 dân biểu với nhiệm kỳ ba năm chọn theo từng đơn vị bầu cử.
Dân biểu và tổng thống được chọn bằng cách đầu phiếu kín và trực tiếp.[13] Trương Vĩnh Lễ được bầu làm Chủ tịch Quốc hội[14] còn Vũ Quốc Thông làm Phó Chủ tịch[15] và Nguyễn Phương Thiệp làm Tổng Thơ ký.[16]
Phong trào Cách mạng Quốc gia chiếm 66 ghế, cộng thêm những đảng thân chính phủ thì khối này chiếm 101 ghế.[17]
Đảng phái | Số ghế |
---|---|
Phong trào Cách mạng Quốc gia | 66 |
Tập đoàn Công dân Vụ | 18 |
Đảng Công nhân | 10 |
Phong trào Tranh thủ Tự do | 7 |
Đảng Dân chủ Xã hội (đối lập) | 2 |
Đảng Đại Việt (đối lập) | 1 |
Độc lập (không liên kết) | 19 |
Quốc hội nhóm họp tổng cộng ba khóa gồm đợt tuyển cử năm 1956, 1959, và 1963. Dân biểu đắc cử niên khóa 1963 chưa kịp chấp chính thì xảy ra cuộc đảo chánh Tháng Mười Một và sau đó bị bãi nhiệm bởi nhóm tướng lãnh.[19]
Ngành tư pháp có Viện Bảo hiến để cân nhấc và duyệt xét những luật lệ ban hành để phù hợp với Hiến pháp.
Ngay sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, lực lượng quân sự Pháp rút về phía nam vĩ tuyến 17 với tổng số lên đến 36.000 quân. Tuy đã nhìn nhận nền độc lập của Quốc gia Việt Nam, người Pháp vẫn nắm quyền ngoại giao và quốc phòng. Chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm liền xúc tiến việc bàn giao thu hồi các cơ sở công cộng từ tay Cao ủy Pháp Paul Ely. Tháng Giêng, 1955 chính phủ nhận quyền quản lý thương cảng Sài Gòn. Cũng vào Tháng Giêng thì tướng Agostini trao quyền chỉ huy quân đội Quốc gia Việt Nam cho tướng Lê Văn Tỵ.[20] Ngày 28 Tháng Tư năm 1956 Quân Pháp hoàn toàn triệt thoái khỏi Việt Nam.[21]
Từ tháng 6 năm 1955 Ngô Đình Diệm đã yêu cầu giải thể Bộ Liên hiệp vì địa vị của Bộ này bị coi là lỗi thời khi Quốc gia Việt Nam đã giành độc lập. Sau đó chính phủ quyết định không gửi phái đoàn sang tham dự Nghị viện của Liên hiệp Pháp nữa. Đến tháng 1 năm 1956 thì Ngô Đình Diệm đòi Quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam sau khi khám phá ra người Pháp đã ủng hộ lực lượng Bình Xuyên chống lại chính phủ. Ngoại trưởng Pháp Christian Pineau nhượng bộ và lực lượng Pháp hoàn toàn triệt thoái khỏi Việt Nam vào năm 1956[22].
Tính đến năm 1960 thì 55 quốc gia công nhận chính phủ Việt Nam Cộng hòa[23].
Chính phủ Đệ nhất Cộng hòa đề ra ba ưu tiên kinh tế[24]:
Đường sắt Xuyên Đông Dương đã làm xong từ năm 1936 nhưng đến thập niên 1950 thì đoạn đường phía nam vĩ tuyến 17, khoảng 1/3 đã bị hư hại vì chiến tranh, không sử dụng được.[25] Còn lại là hai khúc từ Đông Hà vào Đà Nẵng và từ Sài Gòn ra Ninh Hòa. Việc tái thiết kéo dài bốn năm cho đến năm 1959 thì xe lửa mới chạy được suốt từ Sài Gòn ra Đông Hà, lần đầu tiên sau 12 năm gián đoạn.[26] Số liệu năm 1959 cho biết hệ thống đường sắt chuyên chở 2.658.000 lượt khách và 440.000 tấn hàng hóa. Số lượng sau đó giảm nhiều vì tình hình an ninh.[27]
Năm 1960 xây thêm đoạn đường sắt từ Chiêm Sơn đến An Hòa, mở rộng dự án phát triển khu kỹ nghệ hóa chất và điện lực An Hòa ở Quảng Nam.[28]
Về mặt đường bộ thì chính phủ xúc tiến việc khai thông xa lộ Biên Hòa và tái thiết Quốc lộ 19 nối liền duyên hải Miền Trung và Cao nguyên Trung phần.
Ngoài nỗ lực tái định cư gần một triệu đồng bào di cư từ miền Bắc chính phủ còn đẩy mạnh chính sách mở rộng đất canh tác chủ yếu chú trọng đến Cao nguyên Trung phần và khu vực Phước Long với 90 trung tâm phát triển ruộng đất được thành lập nhằm đưa dân từ miền duyên hải lên lập nghiệp[29]. Từ năm 1957 đến 1961, chính phủ báo cáo đã định cư 210.000 người từ miền xuôi lên và khai hoang 89.000 hecta đất rừng.[30] Bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến đứng đầu Phủ Tổng ủy Dinh điền trông coi việc định cư.[31]
Cao su tiếp tục là lâm sản chính, bao phủ 100.000 hecta, đạt sản lượng 77.000 tấn vào năm 1960.[32] Trong khi đó nông sản chính là lúa gạo tăng mạnh từ 2,6 triệu tấn năm 1954 chỉ trong năm năm đạt 5 tấn vào năm 1959.[33] Số lượng gạo xuất cảng năm 1959 là 340.000 tấn nhưng sau đó rút xuống 323.000 tấn (1963) rồi 49.000 tấn (1964)[34] vì tình hình chiến tranh. Khi nền Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ thì miền Nam Việt Nam cũng bước sang giai đoạn phải nhập cảng gạo bắt đầu từ năm 1964.[35]
Cũng trong phạm vi cải cách nông thôn, chính phủ đưa ra chương trình "Khu Trù mật" bắt đầu từ năm 1959. Sau năm 1960 khi Đảng Cộng sản Việt Nam phát động chiến tranh du kích nhằm lật đổ chính phủ thì chương trình "Ấp chiến lược" được chính thức áp dụng thay thế "Khu trù mật" kể từ 3 Tháng Hai năm 1962 nhằm thích ứng với tình hình chiến tranh và cô lập quân cộng sản.[36]
Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phàn lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề[37] liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn v.v. được ban hành vào Tháng Chín năm 1956 mặc dù đã làm xáo trộn kinh tế.[38] Ngoài ra còn có lệnh trục xuất người Hoa nếu họ không chịu nhập Việt tịch. Tính đến năm 1961 thì trong số 1.000.000 Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn 2.000 giữ Hoa tịch.[39]
Ở Quảng Nam, chính phủ cho khai thác mỏ than Nông Sơn, đạt 57,813 tấn than năm 1960.[40]
Ngày 1 Tháng Giêng năm 1955 Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, chính thức phát hành tiền tệ riêng, một biểu tượng của quốc gia độc lập. Trong thời kỳ 1955-62, có 16 loại tiền, chia làm ba kỳ, mệnh giá tiền giấy từ 1 đồng đến 500 đồng.[41] Cũng trong thời gian đó Việt Nam Cộng hòa xúc tiến rút khỏi cộng đồng tiền tệ phụ thuộc vào đồng franc (zone franc). Giai đoạn này đến năm 1959 thì hoàn tất.[42] Viện Hối đoái giữ vai trò quy định hối xuất giữa đồng bạc Việt Nam và các ngoại tệ.
Giá trị đồng tiền Việt Nam Cộng hòa sau đó gắn liền với đồng Mỹ kim với tỷ giá chính thức 35:1, tức la một đồng có giá trị USD 0,02857.
Ngay trong những năm tháng đầu tiên, chính phủ cho lập Bộ Thông tin và Thanh niên, thay thế Bộ Thông tin và Chiến tranh tâm lý để quảng bố đường lối của chính phủ ở trong nước. Về mặt văn hoá, chính phủ chủ trương dùng tiếng Việt trong tất cả các bảng hiệu ngoài đường phố và nhất là trong trường học, bất kể công hay tư lập, thay vì trước kia những trường của cộng đồng người Hoa hoàn toàn không dạy tiếng Việt. Những sinh ngữ khác bị liệt là ngoại ngữ theo giáo trình.
Cũng trong chiều hướng này ngoài phong trào đòi ngoại kiều, nhất là Hoa kiều, nhập Việt tịch, Tháng Tư năm 1957 thì Chính phủ xét rằng tất cả thẻ lý lịch ngoại quốc trở thành vô hiệu[43] khiến bất cứ ai ngụ cư cũng phải chọn nhập tịch hoặc bỏ quyền lưu trú dài hạn ở Việt Nam.
Để đẩy mạnh tinh thần tự cường, bắt đầu từ năm 1955 ngày lễ Hai Bà Trưng được công nhận là một ngày lễ chính thức của quốc gia, thường có diễn hành rước voi từ Công trường Lam Sơn trước Quốc hội đến Dinh Độc Lập.[44] Ngày 11 Tháng Ba, 1962 thì Chính phủ cho khánh thành tượng đài Hai Bà Trưng ở Công trường Mê Linh, Sài Gòn do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu và điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế tạc hình để vinh danh Hai Bà.[45] Những ngày lễ khác là ngày quốc khánh, kỷ niệm ngày ban hành Hiến pháp vào 26 Tháng Mười 1956.[46] Ba ngày 26, 27, 28 tổ chức đốt pháo. Ngoài ra thông tư Phủ Tổng thống cũng cho biết tổng thống sẽ mặc quốc phục gồm áo dài màu lam và khăn xếp màu đen vào những ngày đại lễ.[47]
Năm 1957 thì hoàn tất Thư viện Quốc gia và Trung tâm Văn hóa ở Sài Gòn với dung tích chứa một triệu cuốn sách. Trung tâm văn hóa có ba thính đường: 1000, 500 và 200 chỗ ngồi. Việc xây cất cơ sở này được đề cao mặc dù ngân sách eo hẹp.[48] Cũng năm đó khánh thành Viện Đại học Huế, trường đại học thứ nhì của Việt Nam Cộng hòa.[49]
Chính phủ cũng đẩy mạnh giáo dục ở trình độ đại học. Tổng số sinh viên đại học đạt 11.708 người vào niên khóa 1960-61. Ở Huế thì mở thêm Đại học Y khoa do chính phủ Canada trợ giúp qua Chương trình Colombo. Ở Sài Gòn thì lập phân khoa Dược khoa thuộc Viện Đại học Sài Gòn.[50]
Thời Đệ nhất Cộng hòa cũng đề ra một số đạo luật khá đặc biệt, trong đó đáng ghi nhận nhất là Luật Bảo vệ Gia đình và Luật Bảo vệ Luân lý. Luật Bảo vệ Gia đình do dân biểu Trần Lệ Xuân đề xướng được ban hành Tháng Năm, 1958. Theo đó thì vợ chồng khi đã lập hôn thú thì hôn nhân đó không thể bị hủy bỏ trừ khi chính tổng thống cứu xét và cho phép. Vì vậy, luật này người dân thường gọi là "luật cấm ly dị".[51]
Luật Bảo vệ Luân lý ban hành Tháng Sáu, 1962 cấm một số việc như chọi gà, đánh bạc, đấu quyền Anh, ngừa thai, phá thai, nghề mại dâm và cả khiêu vũ. Điều cấm khiêu vũ gây nhiều chú ý vì luật không phân biệt người ngoại quốc hay người Việt và được báo chí Tây phương loan tải rộng rãi nên còn được giới bình dân gọi là "luật cấm nhảy đầm".[52] Dù vậy màu sắc xã hội thời kỳ này rất đa dạng với nhiều ấn phẩm diễn đạt nhiều luồng tư tưởng văn hóa như các tạp chí Sáng tạo, Văn hóa Ngày Nay, Bách khoa, Hiện đại, Nhân loại và Văn học. Các tờ báo Chính luận, Tự do, Ngôn luận, Sống, và Xây dựng thì chú trọng đến những tin chính trị và thời sự. [53]
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Đảng Cần lao Nhân vị do Ngô Đình Nhu chủ trương chiếm ưu thế trên chính trường.
Cùng với đảng Cần lao Nhân vị là tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia dùng để điều khiển nhiều đoàn thể khác như Liên đoàn Công chức Cách mạng Quốc gia. Trần Chánh Thành nguyên là Quốc vụ Khanh được bổ làm Bộ trưởng Thông tin và Thanh niên, kiêm lãnh tụ Phong trào Cách mạng Quốc gia. Năm 1958 thì thành lập Đoàn Thanh niên Cách mạng hay còn gọi là Thanh niên Cộng hòa để đào tạo nhân sự thêm sâu rộng, nhất là ở các vùng nông thôn. Hội đoàn này tính đến năm 1960 đã đào tạo hơn 116.000 thành viên hoạt động ở miền quê.[54] Thủ lãnh là Ngô Đình Nhu. Đối với phụ nữ thì có Phong trào Phụ nữ Liên đới cũng thành lập từ năm 1958 để vận động phái nữ. Thủ lãnh là Trần Lệ Xuân. Tính đến năm 1955 thì Đảng Cần lao có 10.000 đảng viên. Bốn năm sau thì con số đảng viên tăng lên thành 1.500.000.[55]
Chính phủ còn có những biện pháp cản trở và cấm đoán hoạt động của các đảng phái đối lập. Bắt đầu từ Tháng Bảy năm 1956 Bí thư Đảng Xã hội bị bắt giam. Nguyễn Thành Danh (bí thư Việt Nam Phục quốc Hội) cùng Trung úy Nguyễn Văn Phước, Trần Văn Ân, Nguyễn Hữu Than cũng bị kết tội thông đồng với lực lượng chống chính phủ.[56] Mật khu Đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng từ Quảng Trị xuống Phú Yên đều bị giải tán và nhân sự bị bắt giữ.[57] Xứ trưởng Trung Việt của Đảng Đại Việt là Hà Thúc Ký bị giam. Một số như Nguyễn Tôn Hoàn phải lưu vong.[58]
Một cáo buộc về chính quyền Đệ nhất Cộng hòa là việc dung túng và trao quyền cho những người trong gia đình mà không có cơ chế gì để kiểm soát họ. Hậu quả là quyền lực tập trung vào một gia đình duy nhất, nhất là những nhân vật không có chức vị chính thức gì cả mà nắm nhiều quyền trong chính phủ. Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn là hai người giữ vai trò chủ chốt tuy không có địa vị nào căn cứ theo Hiến pháp hiện hành lúc bấy giờ.
Chiếu theo Hiến pháp 1955 thì cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức lần thứ nhì năm 1959 với 441 ứng cử viên đua nhau 123 ghế. Khối ủng hộ chính phủ chiếm 79% số phiếu và 89 ghế. Những khu vực thiếu an ninh nhất lại là những vùng ủng hộ chính phủ nhiệt thành nhất với 84% số phiếu trong khi Đô thành Sài Gòn tỷ số ủng hộ chính phủ rút xuống còn 42%.[59] Một số sự kiện bất thường phải kể vụ ứng cử viên bác sĩ Phan Quang Đán, lãnh tụ khối Dân chủ và chủ nhiệm báo Thời luận. Ông đắc cử ở khu 2 Sài Gòn với 35.000 phiếu, đánh bại ứng cử viên của đảng Cần lao nhưng bị tòa kết tội hối lộ nên bị loại, không được nhậm chức.[60].
Tháng Tư năm 1961 Việt Nam Cộng hòa mở cuộc bầu cử tổng thống. Ba ứng cử viên chính nhập cuộc là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đình Quát, và Hồ Nhựt Tân. Kết quả với 75% cử tri đi bầu là liên danh Ngô Đình Diệm-Nguyễn Ngọc Thơ tái đắc cử với 88% số phiếu; liên danh Hồ Nhựt Tân-Nguyễn Thế Truyền 7%; và Nguyễn Đình Quát-Nguyễn Thành Phương 4%.[61]
Cuộc bầu cử Quôc hội khóa thứ III được tổ chứ vào ngày 27 Tháng Chín năm 1963 trong tình hình sôi động giữa chính phủ và khối Phật giáo. Trước đó ba tháng thượng tọa Thích Quảng Đức đã tự thiêu đế phản đối chính sách bất bình đẳng đối với Phật giáo. Trong số 6.809.078 cử tri toàn quốc thì 6.329.831 người đi bầu, tức là hơn 92%. Kỳ bầu cử đó Trần Lệ Xuân đại diện khu 4 tỉnh Long An tái đắc cử với 47.406 lá phiếu. Ngô Đình Nhu đại diện khu 1 tỉnh Khánh Hòa cũng tái đắc cử với 53.879 lá phiếu.[62] Quốc hội khóa này chưa kịp nhậm chức thì cuộc đảo chánh lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm xảy ra.
Chính phủ cũng phát động chiến dịch Tố cộng và Diệt cộng từ mùa hè năm 1955[63]. Thành phần Việt Minh không tập kết ra Bắc bị đưa ra trước công chúng và bắt tự kiểm điểm để khước từ chủ nghĩa Cộng sản. Chiếu theo Điều 7 của Hiến pháp 1956 thì "những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp" nên chính phủ càng dựa vào đó bắt giam những người tình nghi là Việt Minh hoặc hợp tác với cộng sản.[64] Đạo luật 10/59 ban hành Tháng Năm, 1959 tăng mức hình phạt cho những ai liên hệ đến chủ nghĩa Cộng sản và mở thêm một hệ thống Tòa án Quân sự Lưu động để xử bị cáo.[65] Trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1960 thì có 48,250 người bị bắt giam vì tội danh "cộng sản".[66]
Cũng trong thời kỳ đó bạo động khủng bố gia tăng với lực lượng Cộng sản sát hại nhiều giới chức địa phương. Năm 1959 có 193 vụ ám sát và đến năm 1960 đã tăng lên hơn 1.400 nạn nhân, biến vùng nông thôn miền Nam thành nơi nguy hiểm khó lường.[67]
Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ngô Đình Diệm tuyên bố ngày 6 Tháng Bảy, 1955 trên đài phát thanh không chấp nhận Tổng Tuyển cử vì Quốc gia Việt Nam đã không ký vào Hiệp định Genève nên không bị ràng buộc bởi điều lệ trong Hiệp định.[68] Hơn nữa hiệp ước ngày 4 Tháng Sáu năm 1954—hơn một tháng trước Hiệp định Genève — giữa Thủ tướng Pháp Joseph Laniel và Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Bửu Lộc đã công nhận sự độc lập hoàn toàn của chính phủ Việt Nam nên không thể buộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa thi hành những điều mà Quốc gia Việt Nam không ký sau khi đã được toàn quyền ứng xử.[69] Lý do khác nữa mà Việt Nam Cộng hòa không tổ chức Tổng Tuyển cử theo chính phủ Đệ nhất Cộng hòa là cuộc bầu cử sẽ không chính đáng vì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tự do chính trị.[70]
Dầu vậy ngày 20 Tháng Bảy, 1955 Phạm Văn Đồng gửi văn thư kêu gọi hiệp thương và phái Văn Tiến Dũng vào Sài Gòn để đàm phán. Phái đoàn tạm lưu tại Khách sạn Majestic nhưng bị Hội đồng Nhân dân Cách mạng tổ chức biểu tình chống đối phái đoàn dữ dội; khách sạn bị bao vây và phóng hỏa khiến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến (International Control Commission, ICC) phải can thiệp để phái đoàn bay về Bắc an toàn.[71] Việc hiệp thương với miền Bắc từ đó chấm dứt.
Sau năm 1960 khi chiến cuộc bắt đầu giữa chính phủ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam thì quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa càng thêm khó khăn. Đến năm 1962 thì Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến với hai phái đoàn Ấn Độ và Canada báo cáo rằng xung đột võ trang ở miền Nam do các lực lượng gửi vào từ Miền Bắc đã vi phạm những điều cơ bản trong Hiệp định Genève khiến tình hình khó vãn hồi hòa bình giữa hai phe. Họ kêu gọi cơ quan thẩm quyền quốc tế can thiệp. Riêng phái đoàn Ba Lan bỏ phiếu chống và báo cáo rằng phong trào chống chính phủ là ở miền Nam vì chính sách thanh trừng Cộng sản của Việt Nam Cộng hòa.[72]
Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam (1967-1975) là chính thể dân sự của Việt Nam Cộng hòa bắt đầu với bản Hiến pháp Tháng Tư năm 1967. Cuộc bầu cử Tháng Chín năm 1967 tạo cơ sở cho chính phủ dân sự chấp chính. Ngày 1 Tháng Mười Một năm 1967 là ngày chính thức thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa.
Đệ nhị Cộng hòa chấm dứt khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Mục lục |
Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa tiếp thu chính quyền từ Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do các tướng lãnh Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu điều hành trong thời kỳ quân quản giữa nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.
Chiếu theo Hiến pháp thì lập pháp có Quốc hội lưỡng viện: Thượng viện có 30-60 nghị sĩ nhiệm kỳ sáu năm bầu theo liên danh lấy toàn quốc làm đơn vị độc nhất. Hạ viện có 100 đến 200 dân biểu nhiệm kỳ bốn năm bầu theo cá nhân căn cứ theo từng tỉnh.[1] Chiếu theo Hiến pháp thì Hạ viện phải có 6 ghế dành cho người Việt gốc Miên, 6 người Thượng, 2 người Chàm, và 2 người thuộc dân tộc thiểu số miền núi Bắc Việt di cư vào Nam.[2]
Khóa đầu tiên Thượng viện năm 1967-1973 có sáu liên danh; mỗi liên danh là mười người, tổng cộng là 60 nghị sĩ. Nguyễn Văn Huyền được bầu làm Chủ tịch Thượng viện.[1]
Khóa đầu tiên Hạ viện năm 1967-1971 có 137 dân biểu; Nguyễn Bá Lương trúng tuyển làm Chủ tịch Hạ viện.[1] Năm 1971 số dân biểu tăng lên thành 159; mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.[3] Trong Quốc hội vào thời điểm năm 1974 thì Thượng viện có 41 nghị sĩ thân chính phủ, 19 nghị sĩ đối lập; Hạ viện có 84 dân biểu thân chính phủ, 59 đối lập và 16 độc lập.[4]
Hành pháp bầu theo liên danh hai người với nhiệm kỳ bốn năm, một người làm tổng thống và người kia phó tổng thống. Trong cuộc bầu cử năm 1967 liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 34,8% số phiếu.[5] Tuy nhiên nếu tính riêng Thủ đô Sài Gòn thì liên danh Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền nhiều phiếu nhất (151.102). Nhì là Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ (148.933) rồi Trương Đình Dzu-Trần Văn Chiêu (83.374).[6] Tổng thống chỉ định thủ tướng và thủ tướng đệ trình danh sách nội các để điều hành chính phủ. Nội các đầu tiên do Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc nhậm chức ngày 9 Tháng Mười Một 1967.
Thành phần chính phủ 1967-1968 | |
---|---|
Chức vụ | Tên |
Thủ tướng | Luật sư Nguyễn Văn Lộc |
Tổng trưởng Ngoại giao | Bác sĩ Trần Văn Đỗ |
Tổng trưởng Quốc phòng | Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ |
Tổng trưởng Nội vụ | Trung tướng Linh Quang Viên |
Tổng trưởng Xây dựng Nông thôn | Trung tướng Nguyễn Đức Thắng |
Tổng trưởng Tài chánh | Lưu Văn Tính |
Tổng trưởng Kinh tế | Trương Thái Tôn |
Tổng trưởng Văn hóa Giáo dục | Giáo sư Tăng Kim Đông |
Tổng trưởng Canh nông và Điền địa | Tôn Thất Trình |
Tổng trưởng Chiêu hồi | Nguyễn Xuân Phong |
Tổng trưởng Giao thông và Vận tải | Lương Thế Siêu |
Tổng trưởng Công chánh | Bửu Đôn |
Tổng trưởng Y tế | Bác sĩ Trần Lữ Y |
Tổng trưởng Xã hội và Tỵ nạn | Bác sĩ Nguyễn Phúc Quế |
Tổng trưởng Cựu Chiến binh | Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng |
Tổng trưởng Lao động | Giáo sư Phó Bá Long |
Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc | Paul Nur |
Tồng trưởng Tư pháp | Huỳnh Đức Bửu |
Sau Sự kiện Tết Mậu Thân, Thủ tướng Nguyễn văn Lộc bị chỉ trích và ép từ nhiệm. Người được bổ lên thay là Thủ tướng Trần Văn Hương, nhậm chức ngày 28 Tháng Năm 1968 nhưng đến 1 Tháng Chín 1969 thì nội các của ông bị giải tán.[7] Nội các thứ ba là của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm điều khiển chính phủ gần sáu năm (1969-75) cho gần đến khi nền Đệ nhị Cộng hòa chấm dứt.
Thành phần chính phủ 1969-1975 | |
---|---|
Chức vụ | Tên |
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ |
Đại tướng Trần Thiện Khiêm |
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục |
Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên |
Tổng trưởng Ngoại giao | Dược sĩ Trần Văn Lắm |
Tổng trưởng Quốc phòng | Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ |
Tổng trưởng Thông tin | Luật sư Ngô Khắc Tỉnh |
Tổng trưởng Xây dựng Nông thôn | Thiếu tướng Trần Thanh Phong |
Tổng trưởng Tài chánh | Nguyễn Bích Huệ |
Tổng trưởng Kinh tế | Phạm Kim Ngọc |
Tổng trưởng Văn hóa Giáo dục | Giáo sư Tăng Kim Đông |
Tổng trưởng Cải cách Canh nông và Ngư nghiệp | Cao Văn Thân |
Tổng trưởng Chiêu hồi | Bác sĩ Hồ Văn Châm |
Tổng trưởng Giao thông | Trần Văn Viễn |
Tổng trưởng Công chánh | Dương Kích Nhưỡng |
Tổng trưởng Y tế | Bác sĩ Trần Minh Tùng |
Tổng trưởng Xã hội | Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu |
Tổng trưởng Cựu Chiến binh | Thiếu tướng Phạm Văn Đổng |
Tổng trưởng Lao động | Đàm Sĩ Hiến |
Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc | Paul Nur |
Tồng trưởng Tư pháp | Luật sư Lê Văn Thu |
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử trong cuộc bầu cử ngày 3 Tháng Mười năm 1971 trong liên danh với Trần Văn Hương.
Đứng đầu gành tư pháp là Tối cao Pháp viện nhóm họp lần đầu ngày 22 Tháng Mười 1968 gồm có 9 thẩm phán với nhiệm kỳ sáu năm do Công tố Viện và Luật sư Đoàn đề cử và Quốc hội bổ nhiệm.[8]
Nhiệm kỳ I, (1968-1974), thẩm phán Trần Minh Tiết được bầu làm Chủ tịch. Nối tiếp là thẩm phán Trần Văn Linh làm chủ tịch Nhiệm kỳ II (1974-1975).[9]
Ngoài ra còn có Giám sát Viện quy định trong Hiến pháp với 18 giám sát viên coi việc kiểm tra kế toán các cơ quan chính phủ và điều tra những nghi án tham nhũng, lạm quyền, hoặc biển thủ công quỹ.[10]
Việt Nam Cộng hòa được chia thành 44 tỉnh, 237 quận, và sáu thị trấn tự trị (Đô thành Sài Gòn, Vũng Tàu, Đà Lạt, Cam Ranh, Đà Nẵng, Huế),[10] sau tăng thành 11 thị trấn (thêm Rạch Giá, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, Biên Hòa). Việc điều hành còn bị chi phối bởi quân lực với toàn quốc chia thành bốn quân khu.
Cấp tỉnh thì có Hội đồng Tỉnh và Tỉnh trưởng đứng đầu. Tỉnh trưởng do Tổng thống bổ nhiệm trong khi hội đồng tỉnh thì do dân bầu lên.[11] Tỉnh trưởng chịu trách nhiệm tài chánh và hành chánh trong tỉnh cùng báo cáo về phủ Thủ tướng và Bộ Nội vụ. Tỉnh trưởng còn có nhiệm vụ chỉ huy lực lượng Nhân dân Tự vệ.[12]
Ở cấp quận thì có quận trưởng, thường là một quân nhân do tỉnh trưởng đề cử và Bộ Nội vụ bổ nhiệm. Công việc chính của quận trưởng là trông coi vấn đề an ninh và điều hành những dịch vụ như y tế, nông nghiệp, công chánh và thống kê. Quận trưởng còn có quyền xử kiện trong những vụ án tiểu hình.[13]
Làng xã có Hội đồng Xã quản trị. Thôn làng ít hơn 2.000 người thì bầu hội đồng 6 thành viên trong khi thôn làng hơn 10.000 dân thì có thể lập hội đồng 12 người.[14] Hội đồng xã tự bầu lên xã trưởng. Hội đồng họp mỗi tháng một lần để xét chủ yếu về ngân sách và những đồ án xây dựng. Bắt đầu từ năm 1969 thì xã trưởng quản lý cả những cán sự phát triển nông thôn.[15]
Tính đến năm 1970 thì chính trường Miền Nam có chín chính đảng hoạt động chính thức. Đó là:[16]
Trong những thành tích của nền Đệ nhị Cộng hòa là việc xây dựng Thư viện Quốc gia ở địa điểm quây bởi bốn con đường Gia Long, Công lý, Nguyễn Trung Trực và Lê Thánh Tôn. Địa điểm này thời Pháp thuộc là Khám lớn, địa chỉ là số 69 đường Gia Long (sau năm 1975 là đường Lý Tự Trọng) khởi xây Tháng Chạp năm 1968 và khánh thành ngày 23 Tháng Chạp năm 1971 dưới sự chủ tọa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tòa nhà mới cao 14 tầng với dung tích lưu trữ một triệu cuốn sách.[17]
Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa lập bang giao với 86 quốc gia trên thế giới với địa vị chính quyền pháp lý của miền Nam và thêm sáu quốc gia khác nhìn nhận Việt Nam Cộng hòa chính quyền hiện hữu (de facto). Trong trường hợp quốc gia nào công nhận chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam thì quan hệ bị Việt Nam Cộng hòa cắt đứt[18] như trường hợp Indonesia vào năm 1964.[19].
Hoa Kỳ là một đồng minh tối quan trọng đối với chính phủ Đệ nhị Cộng hòa vì là nguồn viện trợ quân sự lớn cũng như sự giúp đỡ kinh tế. Nguồn tài trợ của Hoa Kỳ tăng đáng kể nếu lấy năm 1966 làm mốc giữa thời kỳ trước và sau khi thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa.
Năm |
Tổng viện trợ triệu USD |
Bình quân đầu người USD |
Bình quân đầu người Đồng |
Năm |
Tổng viện trợ triệu USD |
Bình quân đầu người USD |
Bình quân đầu người Đồng |
1955 | 322,4 | 28,03 | 981,22 | 1966 | 793,9 | 47,47 | 4.936,95 |
1956 | 210,0 | 16,33 | 571,54 | 1967 | 666,6 | 38,85 | 4.195,33 |
1957 | 282,2 | 21,38 | 748,43 | 1968 | 651,1 | 36,89 | 4.352,96 |
1958 | 189,0 | 14,04 | 491,35 | 1969 | 560,5 | 30,97 | 3.654,09 |
1959 | 207,4 | 15,01 | 525,44 | 1970 | 655,4 | 33,63 | 3.968,45 |
1960 | 181,8 | 12,92 | 542,17 | 1971 | 778,0 | 38,71 | 4.567,36 |
1961 | 152,0 | 10,45 | 365,71 | 1972 | 587,7 | 28,46 | 10.131,78 |
1962 | 156,0 | 10,45 | 627,05 | 1973 | 531,2 | 25,06 | 12.377,96 |
1963 | 195,9 | 12,74 | 764,39 | 1974 | 657,4 | 30,16 | 19.088,72 |
1964 | 230,6 | 14,62 | 876,97 | 1975 | 240,9 | 10,43 | -- |
1965 | 290,3 | 17,81 | 1.068,65 |
Trong cuộc chiến chính phủ Đệ nhị Cộng hòa ngoài việc phải đối đầu quân sự với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn phải giải quyết việc định cư dân tỵ nạn phải sơ tán vì tình hình an ninh. Riêng vào năm 1972 có 758.000 dân phải bỏ nhà cửa chạy loạn.[20]
Chính phủ còn đề ra cuộc cải cách điền địa với chương trình Người cày có ruộng, được Quốc hội thông qua vào đầu năm 1970. Trong thời gian bốn năm, 750.000 hộ nông dân (khoảng năm triệu dân) được phát hơn một triệu hecta đất.[21]
Vào đầu năm 1975 dưới áp lực quân sự và tình hình ngày càng nguy biến, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm từ chức ngày 3 Tháng Tư. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề cử Nguyễn Bá Cẩn, lúc bấy giờ là Chủ tịch Hạ viện Quốc hội, đứng ra lập Nội các mới hầu mở rộng cho các giới tham chính. Mãi đến ngày 14 Nguyễn Bá Cẩn mới đệ trình danh sách tân Nội các với danh xưng "Chính phủ Đoàn kết Quốc gia" để thay thế nhân sự. Nội các này chỉ tồn tại được 10 ngày thì Thủ tướng Cẩn từ chức ngày 23 Tháng Tư.
Thành phần chính phủ 14-23 Tháng Tư 1975 | |
---|---|
Chức vụ | Tên |
Thủ tướng | Dân biểu Nguyễn Bá Cẩn |
Phó Thủ tướng đặc trách Tổng Thanh tra kiêm Tổng trưởng Quốc phòng |
Trung tướng Trần Văn Đôn |
Phó Thủ tướng phụ trách Cứu trợ và Định cư |
kỹ sư Dương Kích Nhưỡng |
Phó Thủ tướng đặc trách Sản xuất kiêm Tổng trưởng Canh nông và Kỹ nghệ |
tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo |
Quốc vụ khanh đặc trách Hòa đàm | Nguyễn Xuân Phong |
Quốc vụ khanh | giáo sư Phạm Thái |
Quốc vụ khanh | luật sư Lê Trọng Quát |
Tổng trưởng Ngoại giao | luật sư Vương Văn Bắc |
Tổng trưởng Tư pháp | nghị sĩ Ngô Khắc Tỉnh |
Tổng trưởng Nội vụ | Bửu Viên |
Tổng trưởng Kinh tế | Nguyễn Văn Diệp |
Tổng trưởng Kế hoạch | tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng |
Tổng trưởng Thông tin và Chiêu Hồi | Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp |
Tổng trưởng Y tế | Nghị sĩ Tôn Thất Niệm |
Tổng trưởng Cựu Chiến binh | Thẩm phán Huỳnh Đức Bửu |
Tổng trưởng Lao động | dân biểu Vũ Công |
Tổng trưởng Xã hội | Trần Văn Mãi |
Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc | Nay Luett |
Trước đó ngày 21 Tháng Tư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhóm họp các nhân vật chấp chính tại Dinh Độc lập và tuyên bố từ chức và giao quyền lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương theo Hiến pháp quy định. Buổi lễ được truyền thanh và truyền hình trực tiếp lúc 19 giờ 40 phút.[22] Cố gắng lúc bấy giờ là để tìm cách hòa hoãn với phe Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vì đối phương không chấp nhận thương thuyết với chính phủ của Tổng thống Thiệu.
Ngày gởi: 05/05/2010 bởi ovv
Trong loạt bài viết về cuộc triệt
thoái khỏi Cao nguyên trong
tháng 3/1975, được phổ biến trên
Việt Báo cách đây hai năm,
chúng tôi có trình
bày sơ lược về một số cuộc họp đặc biệt
của Hội đồng An ninh Quốc gia do Tổng thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa để duyệt xét
tình hình chiến sự. Thể theo lời
yêu cầu của đông đảo bạn đọc, VB xin
giới thiệu bài viết trình
bày chi tiết về hai cuộc họp lịch sử di-n
ra trong tháng 3/1975, một cuộc họp tại
Dinh Ðộc Lập vào ngày 11/3
và cuộc họp mang tích cách
quyết định chiến trường Quân khu 2 tổ chức
tại Cam Ranh ngày 14/3. Phần này
được biên soạn dựa theo loạt bài
của cựu đại tướng Cao Văn Viên viết cho
Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa
Kỳ (nguyên bản bằng tiếng Anh, do dịch giả
Duy Nguyên chuyển sang tiếng Việt),
có đối chiếu với các bản tin chiến
sự của Tổng cục Chiến tranh Chính trị
QL.VNCH phổ biến cho báo chí,
và hồi ký của cựu trung tướng Trần
Văn Ðôn.
* Cuộc họp ngày 11/3/1975 tại Dinh Ðộc Lập
Một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng Ba, 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn Quang, phụ tá An ninh của Tổng thống đến dinh Ðộc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà phê xong, các nhân viên phục dịch đi hết, Tổng thống Thiệu lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình hình quân sự ở mỗi nơị Sau đó, Tổng thống Thiệu nói thật rằng “tính ra thực lực của chúng ta thì không thể nào giữ hết nổi lãnh thổ như ý chúng ta được”. Vì vậy chúng ta cần phối trí lực lượng lại để phòng thủ những nơi nào đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo vệ những nơi nào hiểm yếu.
Nhắc lại chuyện này, đại tướng Viên đã ghi lại trong hồi ký như sau: Kết luận này làm chúng tôi ngạc nhiên vì nói như vậy tức là ông đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường như ông chưa muốn công bố quyết định này nên tỏ ý rằng chỉ cho ba chúng tôi tham dự bữa ăn sáng này biết trước. Tổng thống Thiệu đã vạch ra một bản đồ ghi những vị trí quan trọng. Ða số các vị trí này đều nằm quanh Quân khu 3 và 4 cùng với hải phận của hai quân khu này. Chỉ một vài nơi quan trọng mà hiện lúc ấy đang bị Cộng sản chiếm và như vậy Quân đội VNCH phải ra sức tái chiếm lấy bằng mọi giá. Sau cùng, lãnh thổ mà Quân đội VNCH sẽ giữ gồm những nơi vựa lúa, đồn điền cao su, khu kỹ nghệ, v.v. Chính phủ cần giữ những nơi trù phú và đông dân đó. Thêm nữa, ngoài thềm lục địa vừa mới khám phá có dầu, và chính phủ xem đó là những vùng yết hầu bất khả xâm phạm, nơi cần giữ vững nhất là Sài Gòn, các tỉnh phụ cận và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Theo lời đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu đã thao thao bất tuyệt về kế hoạch tái phối trí vùng địa lý chánh trị, nhưng khi đề cập đến Quân khu 1 và Quân khu 2 thì Tổng thống Thiệu không còn vẻ khẳng khái. Còn Cao nguyên Trung phần thì ông vừa nói, vừa dùng tay chỉ vào khu vực Ban Mê Thuột, quan niệm rằng đó là nơi quan trọng hơn Pleiku và Kontum gộp lại vì vị trí kinh tế và dân số. Những tỉnh dọc duyên hải Quân khu 2 cũng quan trọng không kém vì các tỉnh này có thềm lục địa nhiều tiềm năng khai thác. Còn đối với Quân khu 1 thì ông chủ trương giữ vững những gì giữ được. Tại đây, ông phác họa một kế hoạch nhiều giai đoạn đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần để rút xuống phía Nam. Ông nói: Nếu chúng ta đủ sức, hì sẽ giữ đến Huế hay Ðà Nẵng. Nếu không thì rút về và giữ từ Chu Lai hoặc từ Tuy Hòa trở vào. Ông nhấn mạnh làm như vậy chúng ta mới tái phối trí được khả năng mình, giữ vững được các yếu điểm của lãnh thổ một cách hữu hiệu và mới có cơ may phát triển đất nước giàu mạnh được.
Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu nói hết ý định của mình, và cũng kể như quyết định quan trọng. Thế nhưng dụng ý của toàn bộ kế hoạch thì chưa rõ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra nhiều vấn đề, nhất là về phương diện quân sự. Với tư cách một Tổng tham mưu trưởng, cố vấn quân sự cho Tổng thống, đại tướng Viên cảm thấy có bổn phận phải lên tiếng. Sau đây là ý kiến của đại tướng Viên trình bày tại buổi họp: Tôi (đại tướng Viên) nói rằng khi tái phối trí thì quả thật có hiệu quả phòng thủ tuy hệ quả của nó không thể tránh khỏi, và tôi cũng đã từng nghĩ đến tình trạng này từ lâụ Tuy nhiên tôi chưa nói ra vì chưa phải lúc. Trước hết, tái phối trí là trái với chủ trương duy trì chính sách quốc gia, và thứ hai tôi đưa ra đề nghị đó thì có thể bị nghĩ là có óc chủ bại. Duy có điều tôi nhấn mệnh đến một sự tái phối trí lúc này đã quá tr- và không chắc thành công được. Ngoài ra tôi không cho rằng quyết định này của Tổng thống sẽ loại trừ được bất cứ chỉ trích có lợi nào. Dù sao, với tư cách tổng tư lệnh Quân đội, Tổng thống có toàn quyền và trách nhiệm để đưa ra mọi quyết định ứng phó với cuộc chiến. Chắc ông đã nắm vững những gì ông đang làm chứ.
Nhận xét tổng quát về quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đại tướng Viên viết: Cho dù quyết định này có đi sai chính sách quốc gia hiện hành đến cách mấy, bản thân quyết định đó vẫn hợp lý mà một nhà lãnh đạo có thể làm được. Ðã hai năm kể từ ngày Hiệp định Ba Lê được ký kết, tình hình cứ suy sụp đến mức báo động. Chỉ có thể phê bình Tổng thống là ở điểm tại sao ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra quyết định. Trong cuộc họp, ông không hề giải thích hay có hướng dẫn nào về những bước cần thiết khi ông quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực tế bên ngoài đưa tới.
* Cuộc họp ngày 14/3/1975 quyết định tình hình chiến trường
Cũng theo hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, hai ngày sau cuộc họp lịch sử tại Dinh Ðộc Lập (ngày 11/3/1975), Tổng thống VNCH Nguy-n Văn Thiệu muốn lên thăm tướng Phạm Văn Phú ngay tại bộ tư lệnh Quân đoàn 2 ở Pleikụ Nhưng lúc đó, Ban Mê Thuột đang bị Cộng quân vây hãm, còn Pleiku thì bị áp lực địch vì hỏa lực pháo binh của địch cứ nã vào thị xã từng hồi. Do đó Tổng thống Thiệu không thể đến được. Lo lắng cho sự an toàn của Tổng thống, thiếu tướng Phú đề nghị họp tại một địa điểm khác. Sau một hồi bàn bạc, Tổng thống Thiệu quyết định họp tại Cam Ranh. Buổi họp di-n ra ngày thứ Sáu, 14 tháng 3/1975.
Ðịa điểm họp này là một tòa nhà nằm vắt vẻo trên đỉnh đồi. Ðó là nơi mà vào năm 1966 binh sĩ Hoa Kỳ cấp tốc xây dựng để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Johnson khi ông ghé thăm lực lượng Hoa Kỳ tại Cam Ranh. Cùng đi với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra Cam Ranh có Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn Quang.
* Diễn tiến cuộc họp lịch sử
Mở đầu cuộc họp là phần trình bày của thiếu tướng Phú. Với tư cách là tư lệnh Quân đoàn 2 & Quân khu 2, tướng Phú thuyết trình về tình hình bạn và địch trong khu vực trách nhiệm của mình. Phần thuyết trình chấm dứt, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh.
Quay sang đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Ðại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Ðộng Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972. Theo lời đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì.
* Kế hoạch rút quân khỏi Cao nguyên
Một lần nữa, cũng như lần ăn sáng trước tại Dinh Ðộc Lập, Tổng thống Thiệu đứng bên tấm bản đồ Việt Nam Cộng Hòa, còn thiếu tướng Phú nhìn chăm chú. Tổng thống Thiệu vừa chỉ, vừa nói, giải thích những điểm trọng yếu mà tướng Phú có nhiệm vụ phải bảo vệ. Theo Tổng thống Thiệu, vì lý do dân số và địa lý, Ban Mê Thuột lúc nào cũng quan trọng hơn cả Pleiku và Kontum cộng lại. Vì vậy bây giờ Quân đoàn 2 phải dùng lực lượng cơ hữu của mình chiếm lại thị xã Ban Mê Thuột bằng mọi giá, và như thế phải triệt thoái lực lượng tại Pleiku và Kontum.
Sau đó, Tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú là sẽ bố trí lực lượng ra sao để chiếm lại và đường nào sẽ dùng để chuyển quân đến Ban Mê Thuột. Tướng Phú đã trình bày rằng Quốc lộ 19 chạy từ Pleiku về hướng Ðông ra đến biển thì không thể dùng được, đại đơn vị còn đầy đủ quân số và khả năng chiến đấu tốt là Sư đoàn 22 Bộ binh đã không khai thông được đoạn đường tại Bình Khệ Quốc lộ 14 nối liền Ban Mê Thuột và Pleiku theo trục Nam-Bắc cũng bị cắt tại Thuận Mẫn, phía bắc thị xã Ban Mê Thuột.
Tướng Phú nhận định rằng có thể giải tỏa đường này nhưng rất khó khăn vì làm như vậy địch quân sẽ biết có quân cứu viện. Vì vậy, theo tướng Phú cho rằng ông muốn sử dụng con đường liên tỉnh lộ 7B. Ðây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Ðường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến.
* Lộ trình rút quân và những bài học từ cuộc chiến Ðông Dương
Theo phân tích của đại tướng Viên, ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùng được, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào. Tuy nhiên, có một điều biết chắc là cầu bắc qua sông Ba về phía Nam của Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thể sửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì những năm trước, lực lượng Ðại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc. Thế nhưng tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo lộ trình này. Giải thích về sự chọn lựa này, tướng Phú nói yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế. Tướng Phú chỉ yêu cầu bộ Tổng Tham Mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôị Với quyền hạn của một tổng tham mưu trưởng, đại tướng Viên chấp thuận ngay lời yêu cầu của tướng Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của tướng Phú, đại tướng Viên cho rằng “đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 260 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó”.
Trong phần thảo luận, với tư cách tổng tham mưu trưởng, tướng Viên đã nhắc nhở tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc cho tướng Phú về hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Ðông Khê, dọc theo Quốc lộ Thuộc Ðịa số 4. Về địa thế và con đường mà thiếu tướng Phú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/1954, Lực lượng cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Pháp tại Ðông Dương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Ðeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo tướng Viên, đó là “những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở của vùng Cao nguyên là vậy.”
Vương Hồng Anh tổng hợp
Những
Ngày Cuối VNCH 1
Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975″, nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo. Riêng trong bài về mặt trận Ban Mê Thuột, một số sự kiện được biên soạn dựa theo hồi ký của Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, nhật ký hành quân của Thiếu tá Phạm Văn Huấn, Sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2.
Tưởng
Niệm
30
Tháng 4/1975: Mặt Trận Ban Mê Thuột
Ngày 10-3-1975
Vương Hồng Anh
*Cao nguyên ngày N-1
Ngày N-1 của mặt trận Cao nguyên là ngày 9 tháng 3/1975, ngày Cộng quân gia tăng áp lực khi mở trận tấn công đánh chiếm quận lỵ Đức Lập(tỉnh Quảng Đức). Từ diễn biến này, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 &Quân khu 2, đã bay đến Ban Mê Thuột để thị sát tình hình và họp với Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh (lúcbấy giờ là Tư lệnh Mặt trận Nam Pleiku), các Tỉnh trưởng/Tiểu khutrưởng Darlac và Quảng Đức. Cuộc họp diễn ra tại Trung tâm Hành quân bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, kéo dài từ 12 giờ trưa đến 5giờ chiều.
Sau khi nghe Trung tâm Hành quân trình bày tình hình ở Đức Lập, Thiếu tướng Phú quay sang Đại tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnhtrưởng/Tiểu khu trưởng Quảng Đức, cho những chỉ thị cần thiết, và ra lệnh cho vị tỉnh trưởng này bay về ngay tỉnh lỵ để đôn đốc chỉ huy các đơn vị chuẩn bị đối phó với tình hình mới. Thiếu tướng Phú nói với Tỉnh trưởng Quảng Đức rằngtrong trường hợp Quảng Đức bị tấn công, ngoài Liên đoàn 24 Biệt động quân đang tăng phái cho tỉnh này, ông sẽ tăng cường thêm quân để chận địch. Ông nhấn mạnh với Đại tá Nghìn: “Lệnh Tổng thống phải giữ Quảng Đức bằng mọi giá.”
Đại tá Nghìn vừa rời phòng họp, Thiếu tướng Phú ra lệnh cho Thiếu tá Nguyễn Văn Hóa, sĩ quan tùy viên , lo chuẩn bị bản đồ các mặt trận để ông họp tiếp tại văn phòng Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh với Chuẩn tướng Trường và Đại tá Vũ ThếQuang,Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, Đại tá Nguyễn TrọngLuật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac. Trong cuộc họp, Thiếu tướng Phú đã hỏi Chuẩn tướng Trường là nhận định thế nào về tin tức tình báo cho rằng sư đoàn F 10 CSBV đã về Quảng Đức, và trong trườnghợp như thế, có nên rút bớt lực lượng Sư đoàn 23 Bộ binh đang hành quân tại Pleiku về tăng cường cho mặt trận ở Quảng Đức và Ban Mê Thuột không? Chuẩn tướng Trường đã trình với Thiếu tướng Phú rằng có thể có một phần của 2 sư đoàn F-10 và sư đoàn 320CSBV đã về hoạt động tại hai tỉnh này, nhưng Tướng Trường không tin rằng toàn bộ sư đoàn F10 đã di chuyển về Quảng Đức. Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh nhận định rằng có khả năng là sư đoàn CSBV này sẽ để lại 1 hoặc 2 trung đoàn để phối hợp với sư đoàn 968 CSBV từ Lào xâm nhập qua để mở mặt trận tại Nam Pleiku.
Sau lời trình bày của Chuẩn tướng Trường, Đại tá Luật báo cho Thiếu tướng Phú biết là cách đây hai ngày trung đội Thám báo Tiểu khu Darlac đã phục kích bắt được 2 tù binh CSBV tại một ấp Thượng cách tỉnh lỵ 10 km, trong đó có 1 sĩ quan bị thương. Cả hai tù binh khai là thuộc bộ phần tiền thám của sư đoàn 320 CSBV. Viên sĩ quan tù binh CSBV tiết lộ là sư đoàn 320 CSBV được lệnh chuẩnbị tấn công Ban Mê Thuột. Theo đề nghị của Đại tá Luật, Thiếu tướng Phú đã cho gọi Trưởng phòng 2 Tiểu khu Darlac trình bày chi tiết về cung từ của hai tù binh.
Trước những báo cáo của Tiểu khu Dralac, sau một lúc suy nghĩ để lượng định tình hình, Thiếu tướng Phú ra lệnh cho Chuẩn tướng Trường bay về Pleiku trước để phối trí lực lượng tại đây, chuẩn bị lực lượng tiếp ứng cho Quảng Đức khi tỉnh này bị tấn công. Từ 4 giờ đến 5giờ chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú họp tiếp với Đại táQuang,được chỉ định làm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột, và Đại tá Luật về kế hoạch bảo vệ tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Trong giờ cuối cùnghọp với tướng Phú, Đại tá Vũ Thế Quang đã trình bày sự phối trílực lượng như sau:
-Phòng thủ phía Bắc: Trung tâm
huấn luyện Sư đoàn 23 Bộ binh.
-Phòng thủ phía Đông: Bộ chỉ huy
chi khu Ban Mê Thuột và đơn vịĐịa phương
quân thống thuộc chi khu.
-Lực lượng phía Tây-khu vực trọng yếu
và nguy hiểm nhất có hậu cứcủa tiểu
đoàn của Thiết đoàn 3 Thiết kỵ và
kho đạn Mai Hắc Đế.Ngoài ra, doanh trại
các tiểu đoàn Pháo binh,
Công binh, Truyền tin thống thuộc Sư đoàn
23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận
dụngquân số tại hàng để tổ chức
phòng ngự trong phạm vi trách nhiệm.Lực
lượng trừ bị cho thị xã Ban Mê Thuột
là lực lượng Trung đoàn53 Bộ binh (trung
đoàn trừ, chỉ có 2 tiểu đoàn),
án ngữ tại phitrường Phụng Dực. Riêng về
trách nhiệm của Tiểu khu Darlac, Đại tá
Nguyễn Trọng Luật đã cho điều động Tiểu
đoàn 204 Địa phương quân đang đóng
tại Ban Don về thị xã. Việc di chuyển
không phảidễ dàng vì phải trưng
dụng tất cả các quân xa trong toàn
thị xã Ban Mê Thuột mới đủ quân xa
để vận chuyển cả một tiểu đoàn.
* 2 giờ sáng ngày 10/3/1975: Mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ
Đúng 2 giờ sáng ngày 10
tháng Ba/1975, Cộng quân khai hỏa
tấncông vào Ban Mê Thuột. Tiếng
pháo kích rền vang trong thị xã
này đến 4 giờ sáng. Sau đó, Cộng
quân đã sử dụng chiến thuật tiền
pháo hậu xung tấn công chiếm kho đạn Mai
Hắc Đế ở phía Tây. Đơn vị trú
phòng đã chống trả mãnh liệt
và bảo vệ được kho đạn. Về phíaBắc,
Đài Truyền tin của Không quân cũng
bị tấn công. Đến 7 giờsáng Cộng
quân ngưng pháo kích vào
thị xã nhưng đã điều động bộ binh
và thiết giáp tiến vào thị
xã và khai triển lực lượng xungquanh
nhà thờ thị xã.
Để tiện phối hợp trong việc chỉ huy, Đại tá
Nguyễn Trọng Luật đã xin Thiếu tướng Phạm Văn
Phú cho ông được qua ở chung với Đại
táVũ Thế Quang. Đề nghị của Đại tá Luật
được tướng Phú chấp thuận.Sự lo ngại của Đại
tá Quang và Đại tá Luật là
chiến xa Cộng quân đã lọt vào thị
xã. Từng là Tư lệnh 1 Lữ đoàn Kỵ
binh, Đại tá Luật thấy rõ hỏa lực tấn
công của địch một khi có thiết
giáp tham chiến. Tuy nhiên cả Đại
tá Quang và Đại tá Luật vẫn hy
vọng ở sự yểm trợ của Không quân VNCH khi
trên bầu trời Ban Mê Thuột đã xuất
hiện những phi cơ L 19 và các phản lực
cơ chiến đấu. Tinh thần của quân sĩ trú
phòng lên cao. Các đoàn
chiến xa của Cộngquân từ hướng bắc tiến về
phía Nam đã bị các đơn vị Địa
phương quân của Tiểu khu Darlac đánh chận
lại.
Cộng quân thay đổi chiến thuật tấn công:
Trưa ngày 10/3/1975, đối phương đã
pháo kích dồn dập vào bộ chỉ huy
tiểu khu và một số vị trí trọng yếu
trong thị xã, trong đó có cả bản
doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Hệ thống
truyền tin tại bộ chỉ huy Tiểu khu bị trúng đạn
pháo, hư hại nặng. Trước tình
hình đó, Thiếu tá Hy, trưởng
phòng 3 Tiểu khu, xin Đại tá Luật cho di
chuyển bộ tham mưu ra khỏi vị trí. 13 giờ 30,
Thiếu tá Hy báo cáo Cộng
quân tập trung pháo binh bắn vào
doanh trại bộ chỉ huy, sau đó chiến xa
và bộ binh Cộng quân tràn
vào hệ thống phòng thủ. 2 giờ chiều
cùng ngày, Cộng quân tràn
ngập vào doanh trại này. Đại tá
Nguyễn Trọng Luật liền khẩn báo cho Thiếu tướng
Phạm Văn Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực
thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động
quân xuống Ban Mê Thuột để tái
chiếm doanh trại bộ chỉ huy Tiểu khu. Đúng 17
giờ, đoàn trực thăng đã đến gần thị
xã nhưng không đáp xuống được
vì hỏa lực phòng không của Cộng
quân.
Cuối cùng, vào lúc 18 giờ, Bộ Tư
lịnh QĐ 2 quyết định thay đổi vị trí bãi
đổ quân. Liên đoàn 21 BiệtĐộng
Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ huy Chi
khi Buôn Hô rồi từ đó di chuyển
bằng đường bộ tiến vào thị xã Ban
Mê Thuột.
Về trận chiến quanh thị xã Ban Mê Thuột, sau những trận tấn công cường tập vào một số vị trí trong yếu quanh vòng đai Ban Mê Thuột trong sáng ngày 10/3/1975, CQ đã điều động một trung đoàn mở cuộc tấn công lần thứ 2 vào kho đạn Mai Hắc Đế,một căn cứ được xem là tiền đồn của thị xã Ban Mê Thuột, có 1 diện tích rất rộng với hệ thống tuần tiểu bên ngoài dài hơn 15 km. CQ đã chiếm trại, nhưng bị tổn thất nặng trước tinh thần chiến đấu quyết tử của lực lượng trú phòng. Sau đó CQ đã tung lực lượng chiếm các doanh trại gần đó như Tiểu đoàn 23 truyền tin, Trungtâm huấn luyện Địa phương quân, Đơn vị hành chánh tài chánh…
Tại phi trường Phụng Dực, ngay từ ngày 10/3/1975, CSBV đã điềuđộng 2 Trung đoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến xa tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 53 Bộ binh. Đây là trung đoàn tăng phái cho Quảng Đức vừa được điều động về BanMê Thuột, do phải bố trí một thành phần phòng thủ chận địch ở Thuận Mẫn (Đông Bắc Ban Mê Thuột), nên Trung đoàn chỉ còn lại 2 tiểu đoàn. Bị tổn thất nặng trong các trận kịch chiến với CQ tại Quảng Đức, nên tổng quân số của hai tiểu đoàn chỉ còn hơn 600 chiến binh. Rạng sáng ngày 11/3/1975, Cộng quân đã mở đầu đợt tấn công thứ hai vào phi trường Phụng Dực bằng những trận những đợt pháo kích dồn dập, sau đó, thiết giáp và bộ binh CQ ồ ạt xông lên. Lực lượng phòng ngự của Trungđoàn 53 Bộ binh đã bình tỉnh chống trả, chận đứng được các đợt xung phong của địch quân. Các khẩu độipháo binh 105 của lực lượng trú phòng đã bắn trực xạ vào các chiến xa T 54 của địch quân.
Theo báo cáo sơ khởi của các cánh quân bảo vệ Ban Mê Thuột thì tính đến 6 giờ chiều ngày 10/1975, CQ đã bị loại ra ngoài vòng chiến khoảng 300 cán binh CSBV, 12 chiến xa T-54 Cộng quân bị bắn cháy. (V)
14-3-1975:
Tổng Thống Thiệu Quyết Định Bỏ Cao Nguyên
Vương Hồng Anh
*Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH khỏi Cao nguyên
Sau cuộc họp với Hội đồng AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực lượng trong tình hình mới, sáng ngày 14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên và Khánh Hòa) để táiphối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
Khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ nào, Tướng Phú đã trình bày với Tổng thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao nguyên đã bị Cộng quân cắt đứt,chỉ còn liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh lộ 7B đã không được sự đồng ý của Đại tướng Viên vì ông cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số mà không rõ tình hình an ninh là một việc “quásức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Tướng Viên cũng không tìm ra được một con đường nào khác nên kế hoạch của tướng Phú đã đượcchấp thuận.
* Một chi tiết đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc quân rút, Địa phương quân ở lại…
Trên đường trở lại Pleiku, Tướng Phú đã tâm sự với thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân đoàn 2, là trong buổi họpông đã khẩn khoản xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị của ông đã không được chấp thuận. Một chitiết đặc biệt đã được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng. Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân là phải triệt thoái.
Trước quyết định của Tổng thống Thiệu, Tướng Phú đã lo lắng vàhỏi lại: Thưa Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đình anh em binhsĩ? Tổng thống Thiệu trả lời: Thì cho thằng Cộng sản số dân dó.Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc…mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều quâtrên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987, dòng thứ 1 đến dòng thứ 6, trang 86).
Về phần Đại tướng Cao Văn Viên, khi về đến Sài Gòn, ông đã chomời Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 bộ Tổng Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng phòng này về các chi tiết đã được bàntrong buổi họp tại Cam Ranh. Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc. Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm gì hết, kể cả việc tái phối trí các đơn vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.
Vào thời gian này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ còn 1 tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5 Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M 48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của Không quân và Lục quân vớikhoảng 20 ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng Phú là làm sao đưa hết được các đơn vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.
* Cuộc họp của Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:
Theo lời ban tham mưu của Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hànhquân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
Kế hoạch cuộc chuyển quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái từKontum và Pleiku về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 B. Đại tá Lê Khắc Lýđược giao trách nhiệm điều động bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ. Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám sát của chuẩn tướng Trần Văn Cẩm.
Theo kế hoạch do Tướng Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là hai Liên đoàn Biệtđộng quân và 1 đơn vị thiết giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku vào ngày 19/3/1975.
Do cuộc chuyển quân rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16 tháng 3/1975.
Sau khi họp với các đơn vị trưởng, sáng
ngày 15 tháng 3, Thiếutướng Phú
cùng với một số sĩ quan được chọn lựa trong ban
thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ
tư lệnh Quân đoàn ở đây. Cũng trong
ngày này, Chuẩn tướng Cẩm và
vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy Hòa
để chuẩn bị đón đoàn quân di
chuyển từ Pleiku về. Cũngtrong ngày này,
đã có một số quân xa bắt đầu rời
Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như đã
trình bày ở trên, từ khi có
cuộc tái phối tríđược nêu ra trong
cuộc họp cho đến khi bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến
hành một cách bí mật, không
một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho
các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và
Pleiku biết.
Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được
biết trước, còntỉnh trưởng Kontum thì
đến phút chót mới biết được và
ông đã tháptùng theo
đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị
CQ bắn chết.
Ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như đã trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến thì tin này được dân chúng biết. Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…
Ngày
16-3-1975: Quân Đoàn 2 Triệt
Thoái Khỏi Cao Nguyên
Vương Hồng Anh
* Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm
Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của
Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Ngày 16/3/1975, thi hành quân
lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã
ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày
14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh
Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã
cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng
Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku
và Kontum của Cao nguyên Trung phần.
Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn
Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ
huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2,
được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các
đơn vị triệt thoái.
(Trước đó, vào sáng ngày
15 tháng 3, Thiếu tướng Phú
cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay
về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh
Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở
đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn
tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành
quân Tư lệnh Quân đoàn 2
và vài sĩ quan thân cận bay đi
Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn
quân triệt thoái từ Pleiku và
Kontum về) .
Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.
Sau thành phần đi đầu, lịch triệt
thoái của các ngày kế tiếp như
sau: vào ngày 17-3. các đơn vị
Công binh, Pháo binh còn lại
cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di
chuyển vào ngày 17/3/1975 và
cũng do Thiết giáp tháp tùng
bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân
đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của
Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng
khoảng 200 quân nhân của Trung
đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và
cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ.
Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm
có Biệt động quân và đơn vị
thiết giáp cuối cùng.
Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ
Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc lộ 14 để
đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7
cách thị xãPleiku khoảng 33 km đường
chim bay về phía Nam, từ giao lộ này
đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc
theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam,
xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy
Hòa.
* Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên
phân tích về liên tỉnh lộ 7B
và cuộc rút quân của
Quân đoàn 2.
Trong
phần trình bày về cuộc họp tại Cam
Ranh, VB đã lược trình về quyết định
của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân
lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt
thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao
nguyên. Sau đây là những ghi nhận
chi tiết về quân lệnh này.
Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là “quá sức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
Nhận định về địa hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc.
Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế.
Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng
tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua
sông mà thôi. Với quyền hạn của
một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp
thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng
Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu
và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng
Phú, Đại tướng Viên cho rằng “đưa một
lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ
quân cụ, quân xa và nhiều thứ
khác trên một đoạn đường dài hơn
250 cây số qua núi cao và rừng
già trên vùng Cao nguyên
mà không biết tình hình
an ninh con đường đó ra sao quả là một
việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được
yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng
di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉ
huy sáng suốt thì lúc
nào cũng phải có sự cẩn trọng trước
tình trạng là địch đang có mặt
hầu như cùng khắp tại khu vực đó”.
Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là “những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy”.
Về tình hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.
Theo lời Đại tướng Viên thì vào
giờ phút nghiêm trọng như vậy mà
Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng
viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi
như vậy là để cho mọi người cùng hiểu
thực trạng của quân đội như thế nào,
và biết được bước kế tiếp ông phải
làm gì.Khi cuộc họp chấm dứt,
thì Tướng Phú xin riêng với Tổng
thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông
xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại
tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động
quân Quân khu 2. Kể lại sự việc
này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau:
“Tôi không quen thân với Đại
tá Tất nhưng được nghe ông là
người có khả năng, nhưng làm tư lệnh
chiến trường thì không có bằng
chứng nào chứng minh ông ta có
khả năng. Tôi liền phản đối ngay và
nói rằng khi nào tái phối
trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống
Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói
có lý nên không đồng
ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng
Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối
cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng
ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá
Phạm Duy Tất.
NGÀY19-3-1975:
TT
Thiệu
Họp
Bàn
Kế
Hoạch
Giữ
Đà
Nẵng
Vương Hồng Anh
* Cuộc họp mật ngày 19 tháng
3/1975 bàn về số phận 5 tỉnh miền Trung
thuộc Quân khu 1.
Sau 2 cuộc họp mật của Hội đồng An ninh Quốc gia tại
Dinh Độc Lập vào các ngày 11
và 13 tháng 3/1975, vào
ngày 19 tháng 3/1975, Tổng thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu lại mở cuộc họp đặc biệt để duyệt
xét tình hình Quân khu 1.
Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, ngoài các
nhân vật đã tham dự hai cuộc họp trước
(Tổng thống Thiệu, Thủ tướng Khiêm, Đại tướng
Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang),
còn có Phó Tổng thống Trần Văn
Hương tham dự. Trung tướng Ngô Quang Trưởng,
Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1,
cũng được gọi về Sài Gòn để dự cuộc
họp này.
Theo lệnh của Tổng thống được chuyển đến Tư lệnh
Quân đoàn 1 trước đó, Tướng
Trưởng trình bày về kế hoạch
rút quân của Quân khu 1 tập trung
về Đà Nẵng để bảo vệ thành phố trọng
yếu này. Theo ghi nhận của Tướng Viên,
kế hoạch của Tướng Trưởng rất chu đáo
và được tiến hành theo hai phương
cách: phương cách thứ nhất sử dụng
Quốc lộ 1. Theo đó thì có lực
lượng VNCH từ Huế và từ Chu Lai cùng
một lúc rút về Đà Nẵng. Phương
cách thứ hai: nếu địch cắt Quốc lộ 1
thì sẽ rút quân về tập trung tại
ba nơi khác nhau: Huế, Đà Nẵng, Chu
Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ
là nơi tập trung tạm thời để sau đó
các đơn vị được hải vận về Đà Nẵng,
kết thúc cuộc bố trí giữ Đà
Nẵng. Như vậy, Đà Nẵng sẽ trở thành ốc
đảo trong lòng địch để cố thủ bằng 4 sư
đoàn (Sư đoàn 1, 2, 3 Bộ binh, Sư
đoàn Thủy quân Lục chiến) và 4
liên đoàn Biệt động quân.
Sáu giờ chiều ngày 19 tháng Ba,
Trung tướng Trưởng trở lại Đà Nẵng. Khi phi
cơ ông vừa hạ cánh, thì
ông nhận được báo cáo khẩn cấp
của Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh
phó Quân đoàn 1, gọi từ bộ Tư
lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 ở Huế
vào. Tướng Thi báo rằng đại bác
130 ly của địch đang nã vào bản doanh
của ông và CQ đang tung đợt tấn
công quy mô lớn bằng xe tăng để
tìm cách vượt qua vòng đai
phòng thủ của lực lượng VNCH tại sông
Thạch Hãn.
* Đại tướng Cao Văn Viên phân
tích các quyết định của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu về vận mệnh VNCH
Trước khi đưa ra những quyết định trong cuộc họp
ngày 19 tháng 3/1975, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã 2 lần họp mật với Hội
đồng An ninh Quốc gia để duyệt xét về
tình hình tại Cao nguyên
và miền Trung. Sau đây là những
ghi nhận và phân tích của Đại
tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng
Quân lực VNCH về những cuộc họp này.
Theo lời của Đại tướng Viên, một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng Ba, 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Phụ tá An ninh của Tổng thống, đến dinh Độc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà phê xong, các nhân viên phục dịch đi hết, Tổng thống đã lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình hình quân sự ở mỗi nơi. Sau đó, Tổng thống nói thật rằng “tính ra thực lực của chúng ta thì không thể nào giữ hết nổi lãnh thổ như ý chúng ta được. Vì vậy chúng ta cần phối trí lực lượng lại để phòng thủ những nơi nào đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo vệ những nơi nào hiểm yếu.”
Nhắc lại quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, Đại tướng Viên đã ghi lại trong
hồi ký như sau: “Kết luận này
làm chúng tôi ngạc nhiên
vì nói như vậy tức là ông
đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường như
ông chưa muốn công bố quyết định
này nên tỏ ý rằng chỉ cho ba
chúng tôi tham dự bữa ăn sáng
này biết trước. Tổng thống Thiệu đã
vạch ra một bản đồ ghi những vị trí quan
trọng. Đa số các vị trí này đều
nằm quanh Quân khu 3 và 4 cùng
với hải phận của hai quân khu này. Chỉ
một vài nơi quan trọng mà hiện
lúc ấy đang bị Cộng sản chiếm và như
vậy Quân đội VNCH phải ra sức tái chiếm
lấy bằng mọi giá. Sau cùng,
lãnh thổ mà Quân đội VNCH sẽ giữ
gồm những nơi vựa lúa, đồn điền cao su, khu
kỹ nghệ, v.v. Chính phủ cần giữ những nơi
trù phú và đông dân
đó. Thêm nữa, ngoài thềm lục địa
vừa mới khám phá có dầu,
và chính phủ xem đó là
những vùng yết hầu bất khả xâm phạm,
nơi cần giữ vững nhất là Sài
Gòn, các tỉnh phụ cận và
vùng châu thổ sông Cửu Long.”
Tổng thống Thiệu đã nói nhiều về kế
hoạch tái phối trí vùng địa
lý chánh trị, nhưng khi đề cập đến
Quân khu 1 và Quân khu 2
thì Tổng thống không còn vẻ
khẳng khái. Còn Cao nguyên Trung
phần thì Tổng thống vừa nói, vừa
dùng tay chỉ vào khu vực Ban Mê
Thuột, quan niệm rằng đó là nơi quan
trọng hơn Pleiku và Kontum gộp lại vì
vị trí kinh tế và dân số. Những
tỉnh dọc duyên hải Quân khu 2 cũng quan
trọng không kém vì các
tỉnh này có thềm lục địa nhiều tiềm
năng khai thác. Còn đối với Quân
khu 1 thì ông chủ trương giữ vững những
gì giữ được. Tại đây, Tổng thống
phác họa một kế hoạch nhiều giai đoạn
đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần để
rút xuống phía Nam. Tổng thống
nói: “Nếu chúng ta đủ sức, thì
sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không
thì rút về và giữ từ Chu Lai
hoặc từ Tuy Hòa trở vào.” Tổng thống
nhấn mệnh: “Làm như vậy chúng ta mới
tái phối trí được khả năng
mình, giữ vững được các yếu điểm của
lãnh thổ một cách hữu hiệu và
mới có cơ may phát triển đất nước
giàu mạnh được.” Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu
nói hết ý định của mình,
và cũng kể như quyết định quan trọng. Thế
nhưng dụng ý của toàn bộ kế hoạch
thì chưa rõ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra
nhiều vấn đề, nhất là về phương diện
quân sự.
Với tư cách một Tổng Tham mưu trưởng, Đại
tướng Viên cảm thấy có bổn phận phải
lên tiếng. Sau đây là ý
kiến của Đại tướng Viên: “Tôi (Đại
tướng Viên) nói rằng khi tái
phối trí thì quả thật có hiệu
quả phòng thủ tuy hệ quả của nó
không thể tránh khỏi, và
tôi cũng đã từng nghĩ đến tình
trạng này từ lâu. Tuy nhiên
tôi chưa nói ra vì chưa phải
lúc. Trước hết, tái phối trí
là trái với chủ trương duy
trì chính sách Quốc gia,
và thứ hai tôi đưa ra đề nghị
đó thì có thể bị nghĩ
là có óc chủ bại. Duy
có điều tôi nhấn mệnh đến một sự
tái phối trí lúc này
đã quá trễ và không
chắc thành công được. Ngoài ra
tôi không cho rằng quyết định
này của Tổng thống sẽ loại trừ được bất cứ
chỉ trích không có lợi
nào. Dù sao, với tư cách Tổng
tư lệnh Quân đội, Tổng thống có
toàn quyền và trách nhiệm để
đưa ra mọi quyết định ứng phó với cuộc
chiến. Chắc ông đã nắm vững những
gì ông đang làm chứ.”
Nhận xét về quyết định của Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, Đại tướng Viên phân
tích: “Cho dù quyết định
này có đi sai chính
sách Quốc gia hiện hành đến
cách mấy, bản thân quyết định
đó vẫn hợp lý mà một
nhà lãnh đạo có thể
làm được. Đã hai năm kể từ
ngày Hiệp định Ba Lê được ký
kết, tình hình cứ suy sụp đến mức
báo động. Chỉ có thể phê
bình Tổng thống là ở điểm tại sao
ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra
quyết định. Trong cuộc họp, ông không
hề giải thích hay có hướng dẫn
nào về những bước cần thiết khi ông
quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực
tế bên ngoài đưa tới.”
Cũng theo lời Đại tướng Viên, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, ngày 13 tháng 3/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chủ tọa một cuộc họp tại Dinh Độc Lập để duyệt xét kế hoạch tái phối trí lực lượng tại Quân khu 1. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 & Quân khu 1, được gọi về Sài Gòn để tham dự cuộc họp này.Trong buổi họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phân tích tình hình chung của đất nước, nêu ra những khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu nguồn quân viện. Tổng thống không hy vọng Không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng Hòa bị tổng tấn công. Tổng thống nhấn mệnh rằng trước tình hình như vậy thì chỉ còn một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại Quân khu 1, khu vực trù phú cần phải giữ là Đà Nẵng. Chi tiết mà Đại tướng Viên nêu ra khác với lời kể của Trung tướng Trưởng với báo chí (sau 1975) như sau: trong cuộc họp ngày 13/3/1975, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng rút toàn bộ Quân đoàn 1 khỏi Quân khu 1 và rút về Phú Yên, VNCH thu gọn từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Đại tướng Viên cho biết: sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống,Trung tướng Trưởng trở về Đà Nẵng ngay trong ngày. Suốt trong 6 ngày tiếp theo, dù tình hình Quân khu 1 trở nên rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Trưởng vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi suy nghĩ và phân tích tình hình, Tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt trình bày ý kiến với Đại tướngViên nhờ xin với Tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận. Được sự đồng ý của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững. Thế nhưng chiều hôm đó, khi trở lại Đà Nẵng, Tướng Trưởng nhận được mật lệnh do Đại tướng Viên ký thừa lệnh Tổng thống là phải bỏ Huế.
NGÀY
23-3-1975: Quốc Lộ 1 Đoạn Huế-Đà Nẵng Bị
Cắt Đứt
Vương Hồng Anh
* Cộng quân cắt đứt Quốc lộ 1, đoạn đường từ
Huế đi Đà Nẵng.
Ngày 23 tháng 3/1975, tình
hình tại chiến trường Thừa Thiên trở
nên nghiêm trọng sau những trận tấn
công của Cộng quân trong 2 ngày
21 và 22 trên Quốc lộ 1, đoạn đường
Huế-Đà Nẵng đi ngang địa phận Quận Phú
Lộc, quận ở cực Nam Thừa Thiên, gồm những
xã có địahình dọc theo Quốc lộ
1. Kịch chiến đã diễn ra giữa Cộng quân
và Trung đoàn 1/Sư đoàn 1 Bộ
binh được tăng cường Liên đoàn 15 Biệt
động quân. Khi trận chiến vừa xảy ra, lực
lượng Bộ binh và Biệt động quân nỗ lực
giải tỏa áp lực của địch quân. Với sự
yểm trợ tối đa của Pháo binh và
Không quân VNCH, các đơn vị Cộng
quân bị đẩy lùi ra khỏi một số vị
trí trong một thời gian ngắn, sau đó
Cộng quân lại tăng cường lực lượng và
tổ chức các đợt tấn công cường tập
vào vị trí của Trung đoàn 1 Bộ
binh và Liên đoàn 15 Biệt động
quân.. Đến 2 giờ chiều, Liên đoàn
15 Biệt động quân và Trung đoàn
1 Bộ binh đã phải rút lui để bảo
toàn lực lượng.
Ngày 23 tháng 3/1975, Sư đoàn 1 Bộ binh điều động lực lượng phản công nhưng Cộng quân đã lập các chốt chận tại Đá Bạc, và bám giữ các vị trí trọng yếu trên Quốc lộ 1, để cắt đứt trục lộ vận chuyển của các đơn vị VNCH từ Huế vào Đà Nẵng.
Cũng trong ngày 23 tháng 3/1975, CQ đã pháo kích vào một số vị trí trong thành phố Huế và vòng đai phụ cận. Các đợt pháo kích tiếp diễn suốt ngày nhưng không có hiệu quả, các quả pháo không rơi trúng vào các vị trí quân sự. Tuy nhiên, tinh thần dân chúng càng hốt hoảng hơn và thành phố Huế bắt đầu hỗn loạn.
* Tư lệnh Quân đoàn
1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng duyệt
xét tình hình Huế
Trong ngày 23/3/1975, theo ghi nhận của Đại
tướng Cao Văn Viên, trước tình
hình chiến sự diễn biến bất ngờ, và
Quốc lộ 1 không thể khai thông được,
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1 cho lệnh
rút lực lượng VNCH tại chiến trường Thừa
Thiên về lập phòng tuyến tạm thời tại
Huế. Cũng trong ngày này, tàu
Hải quân được tăng cường để đón
dân tị nạn cùng thân nhân
gia đình binh sĩ vào Đà Nẵng.
Chiều 23 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư lệnh Quânđoàn 1, gọi
Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn
1 Bộ binh, vào Đà Nẳng để duyệt
xét lại tình hình phòng
thủ Huế. Tướng Điềm đã báo cho Trung
tướng Trưởng biết là Sư đoàn 1 Bộ binh
đang đối đầu với 3 sư đoàn chủ lực và
1 sư đoàn pháo của Cộng quân.
*Từ phòng tuyến Thạch Hãn đến
phòng tuyến Huế.
Như đã trình bày, suốt
đêm 19 và rạng sáng ngày
20 tháng 3/1975, tất cả lực lượng
phòng thủ dọc theo bờ nam sông Thạch
Hãn (tỉnh Quảng Trị) kể cả Liên
đoàn Địa phương quân, 1 tiểu
đoàn Biệt độn quân và vài
chi đoàn Thiết giáp đã
rút về phòng ngự phía Nam
sông Mỹ Chánh. Về phòng tuyến
Thạch Hãn, trong hơn hai năm, kể từ khi
có Hiệp định ngưng bắn Paris ký
ngày 27/1/1973, sông Thạch Hãn
được xem như là “ranh giới” của lực lượng
quân sự hai bên. Tại đây,
có trạm hoạt động của Ủy hội Quốc tế
và là nơi được chọn để trao đổi
tù binh.
Trước khi Cộng quân tấn công
phòng tuyến Thạch Hãn, vào 6
giờ chiều ngày 19/3/1975, Trung tướng Trưởng
từ Sài Gòn trở lại Đà Nẵng sau
cuộc họp tại Dinh Độc Lập. Khi phi cơ chở ông
vừa hạ cánh, thì ông nhận được
báo cáo khẩn cấp của Trung tướng
Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân
đoàn 1, gọi từ Bộ Tư lệnh Tiền phương
Quân đoàn 1 ở Huế vào. Trung
tướng Thi báo rằng đại bác 130 ly của
địch đang pháo kích vào bản
doanh của ông và CQ đang tung đợt tấn
công quy mô lớn bằng xe tăng để
tìm cách vượt qua vòng đai
phòng thủ của lực lượng VNCH tại sông
Thạch Hãn. Nhận được khẩn báo của
Trung tướng Thi, Trung tướng Trưởng liền báo
cáo cho Đại tướng Viên và
yêu cầu cho Quân đoàn 1 được giữ
lại Lữ đoàn 1 Dù, đang có mặt
tại Đà Nẵng chuẩn bị về Sài
Gòn. Đại tướng Viên báo lại cho
Tổng thống Thiệu. Là Tổng tư lệnh tối cao của
Quân lực VNCH, Tổng thống Thiệu chấp thuận
yêu cầu này với điều kiện: Lữ
đoàn Dù được ở lại nhưng Quân
đoàn 1 không được sử dụng để tung
vào chiến trận. Theo phân tích
của Đại tướng Viên, thì khi quyết định
cho Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ở lại Đà
Nẵng, Tổng thống Thiệu muốn tạo niềm tin cho
dân chúng và giữ vững tinh thần
chiến đấu của các đơn vị khác.(Trong
phiên họp tại Dinh Độc Lập vào
ngày 13/3/1975, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho
Trung tướng Trưởng phải bỏ Huế. Trước đó
vào ngày 12/3/1975, theo kế hoạch mới
của Trung tướng Trưởng, Sư đoàn Thủy
quân Lục chiến đang hoạt động tại phía
Đông Quảng Trị sẽ thay Sư đoànNhảy
Dù làm lực lượng phản ứng cấp thời tại
Vùng 1. Liên đoàn 14 Biệt động
quân được điều động ra Quảng Trị chuẩn bị thay
dần Thủy quân Lục chiến).
Sáng ngày 20 tháng 3/1975, Trung tướng Trưởng bay ra Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến cách Mỹ Chánh, thị trấn ở phía Nam tỉnh Quảng Trị, khoảng 8 km. Tại đây Trung tướng Trưởng đã gặp các chỉ huy của các đơn vị trong khu vực, cùng họ duyệt lại tình hình và bàn kế hoạch phòng thủ Hue, theo quân lệnh mới nhất của Tổng thống Thiệu là phải phòng thủ Huế với bất cứ giá nào, khác với chỉ thị trước đó một ngày là phải bỏ Huế.
Trước ngày 21//3/1975, tình hình tại khu vực phía Nam sông Mỹ Chánh và khu vực phụ cận Huế chưa đến nổi quá xấu. Các đơn vị chủ lực quân và diện địa vẫn còn nguyên vẹn, kỷ luật nghiêm minh và tinh thần chiến đấu cao. Việc mất Quảng Trị tuy có ảnh hưởng phần nào nhưng không làm cho tinh thần quân sĩ nao núng. Dù sao thì dân chúng đã bỏ đi trước đó do đó không gây trở ngại cho các đơn vị khi giao tranh với Cộng quân. Hơn nữa với 1 Lữ đoàn Thủy quân lục ứng chiến tại phía Nam sông Mỹ Chánh và 2 Lữ đoàn Thủy quân lục chiến đang là lực lượng tổng trừ bị tại Đà Nẵng thì Quân khu 1 vẫn có các lực lượng nòng cốt để tăng viện khi chiến trường sôi động. Sau buổi họp, các cấp chỉ huy đều bày tỏ sự quyết tâm giữ vững Huế.
Trên đường trở về Đà Nẵng, Tướng Trưởng đã ghé vào bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn 1 tại Mang Cá, Huế. Sau đó, ông cùng Tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, đi một vòng thanh tra các hệ thống phòng thủ trong thành phố Huế. Tinh thần tướng Trưởng lúc đó rất phấn chấn vì sự bố phòng bảo vệ Huế rất vững vàng. Đến 1 giờ 30 trưa, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn và được đài Huế tiếp vận. Ông hứa với dân chúng, đặc biệt với dân chúng trong thành phố Huế, rằng quân đội VNCH sẽ bảo vệ Huế bằng mọi giá. Sự việc Tổng thống Thiệu lên tiếng trên đài phát thanh là điều mà theo Tướng Trưởng nghĩ, tuy muộn màng, nhưng cũng rất cần thiết.
Đặt chân xuống Đà Nẵng vào chiều tối, Trung tướng Ngô Quang Trưởng nhận được một công điện ghi “Mật”. Đây là lệnh của Tổng thống VNCH do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển đến. Theo phân tích của Đại tướng Cao Văn Viên, thì ngược với những gì đã tuyên bố trên Đài phát thanh, nay Tổng thống cho vị Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 được “tự do hành động”. Vì không thể nào phòng thủ nổi ba căn cứ Huế, Đà Nẵng, Chu Lai cùng một lúc, nên Tổng thống khuyên Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 tuỳ nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà Nẵng mà thôi.
NGÀY
25-3-1975:
Lực Lượng Quân Khu 1 Rút Khỏi
Huế
Vương Hồng Anh
* Diễn tiến về kế hoạch rút
quân khỏi Huế ngày 25 tháng
3/1975.
Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên,
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, vào
ngày 25 tháng 3/1975, tất cả
các lực lượng của Quân đoàn
1/Quân khu 1 đều tập trung tại ba địa điểm:
Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phiá Bắc
thành phố Huế và phiá Nam Chu
Lai. Nhận định về cuộc rút quân của
Quân đoàn 1/Quân khu 1, Đại tướng
Viên ghi nhận rằng “hành trình
cuộc rút về ba địa điểm này vô
cùng gian khổ và đắt giá. Phần
lớn binh sĩ đều rã rời. Đã bao
lâu nay, họ chiến đấu hết trận này đến
trận khác, hết năm này đến năm
khác, nhưng chưa bao giờ họ cảm thấy nản
lòng bằng giờ phút ấy. Hy vọng
có bàn tay nào đó
giúp đỡ để họ đánh chiếm lại những
vùng đất bị lọt vào tay địch, để đủ
sức đương cự với kẻ thù nay đã tan
biến như chuyện đời xưa.”
Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên,
trong giờ phút nản lòng đó,
thì một bức điện khác cũng của Tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gửi đi cho Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1 , trong
đó, Tổng thống chỉ thị lực lượng tại 3 nơi
tập trung này phải rút về Đà
Nẵng để tổ chức phòng thủ bảo vệ thành
phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị của Tổng
thống, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1 ra lệnh
cho Sư đoàn 1 Bộ binh và các
đơn vị khác tại Huế phải rút về
Đà Nẵng. Cùng lúc, Trung tướng
Trưởng cho Sư đoàn 22 Bộ binh cùng với
lực lượng Tiểu khu Quảng Ngãi, rút về
đảo Ré, nằm ngoài khơi cách Chu
Lai chừng 20 dặm.
Tại Huế, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh phòng ngự ở phía Bắc và khu vực cận sơn ở phía Đông thành phố Huế đã được lệnh rời bỏ phòng tuyến và chuyển quân về gần Huế để cùng với Bộ Tư lệnh và các đơn vị yểm trợ rút quânkhỏi chiến trường Trị Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ binhvà Biệt động quân đang án ngữ phòng tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải quân vào đón.
Theo kế hoạch tổng quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 doTrung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm tư lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân và lực lượng quân sự của hai tiểu khuThừa Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ chỉ huy Quân vận Quân khu1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị từ bờ ra tàu, Công binh sẽ lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua.
* Những biến cố xảy ra trong hành
trình rút quân.
Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế
Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân
Lục chiến, do lệnh rút quân quá
nhanh, các đơn vị không có thời
gian chuẩnbị nên kế hoạch rút
quân đã không thể thực hiện
đúng theo thờibiểu. Cũng theo lời Thiếu tướng
Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho
rút quân khỏi Thừa Thiên
và thành phố Huế thì Thủy
quân Lục chiến có Lữ đoàn 369
đang hoạt động tại chiến trường này. Bộ chỉ
huy Lữ đoàn 369 đóng tại căn cứ
Tân Mỹ ở cửa Thuận An, 2 tiểu đoàn đang
phòng thủ tại phòng tuyến An Lỗ,
cách trung tâm thành phố Huế
khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba đang
phòng thủ ở phía Bắc quận Hương Điền
và ở phía Nam của sông Mỹ
Chánh.
Trước tình hình đó, nhiều đơn vị đã tự tìm ra cách rút quân bằng phương tiện tự túc. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đã bị Cộng quân phục kích chận đánh và bị tổn thất nặng. Một số đại đội Thủy quân Lục chiến và bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 do Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà Nẵng.Trên đường đi, đoàn quân đã được LCU và tàu Hải quân vào đón.Trong khi đang đứng trên bờ để điều động quân sĩ lội ra tàu ơ ûngoài biển, Đại tá Lương đã bị thương ở chân.
Một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến và một số đơn vị Bộ binh cũng rút theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền thì gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong khi phía bên kiasông đã bị Cộng quân chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt qua sông nhưng đã bị tử thương do đạn Cộng quân bắn sang. Theo ước tính của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, thì chỉ có một số nhỏ chiến binh Thủy Quân vào đến Đà Nẵng, số đông còn lại bị tử thương vì trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đã lập thành từng phân đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.
Về cuộc chuyển quân bằng hải vận, Đại tướng
Cao Văn Viên cho biết: trong ngày
rút quân, biển động mạnh nên
tàu Hãi quân đến trễ. Cầu phao
tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để
sử dụng. Đến trưa thì thủy triều lên
cao, không làm sao qua được. Cũng
vào thời gian đó, Cộng quân biết
có cuộc chuyển quân nên bắt đầu
tập trung hỏa lực pháo binh bắn dồn dập
vào các vị trí ẩn quân
tại cửa Tư Hiền cùng tại nhiều điểm hẹn để
tàu đến đón. Bộ Tư lệnh Tiền
phươngQuân đoàn 1 từ Mang Cá
chuyển về đặt tại căn cứ Tân Mỹ cũng bị
pháo kích nặng. Nhận định tổng
quát về cuộc rút quân khỏi Huế,
Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận rằng trong
cuộc hành trình triệt thoái
này, thì “kỷ luật không
còn duy trì nổi. Do đó, chỉ
có 1/3 số quân nhân về đến
Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà
Nẵng, thì họ tự động bỏ hàng ngũ đi
tìm gia đình và thân
nhân. Chỉ còn Thủy quân Lục chiến
là giữ được trọn vẹn tình
hình.”
Về đoàn quân của Sư đoàn 1 bộ
binh, các tiểu đoàn của các
Trung đoàn1,3, 51 và 54 Bộ binh
và các đơn vị thống thuộc như Thiết
giáp, Pháobinh, cũng lâm
vào tình cảnh như Lữ đoàn 369
TQLC. Một số được tàu Hải quân chở, một
số khác mở đường máu ven theo quốc lộ
1 và hoặc ven theo biển phần lớn đã hy
sinh ngay trên đường rút quân
* Sư đoàn 1 Bộ Binh vĩnh biệt chiến
trường Quảng Trị-Thưà Thiên.
Trở lại với tình hình Sư đoàn 1
Bộ binh, một trung tá trưởng phòng của
Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (không
muốn nêu tên) đã kể lại diễn tiến
những giờ phút cuối tại Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 1 Bộ binh ở trong căn cứ Giạ Lê.
Vị trung tá này nói ông
không thể nào quên được buổi họp
cuối cùng để nghe Chuẩn tướng Nguyễn Văn
Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, phổ biến
lệnh rút quân. Từ vị tư lệnh
phó, tham mưu trưởng cho các sĩ quan
trưởng phòng, trưởng ban tham mưu như chết
lặng khi nghe Thiếu tướng Điềm nói: Sư
đoàn 1 Bộ binh có lệnh phải rút
khỏi Huế. Và chỉ gần một giờ sau, cảnh tượng
đó cũng đã diễn ra tại các bộ
chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh,
Thiếtđoàn Kỵ binh và các tiểu
đoàn yểm trợ.
Là một đại đơn vị đầu lòng của
Quân lực VNCH, thành lập ngày 1
tháng 1/1955 trên sự qui hợp 3
Liên đoàn chiến thuật lưu động, Sư
đoàn 1 Bộ Binh với danh hiệu đầu tiên
là Sư đoàn 1 Dã chiến rồi
đổithành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959,
trong hơn 20 năm từ ngày thành lập cho
đến ngày được lệnh rút quân khỏi
chiến trường Trị Thiên,Sư đoàn 1 Bộ
binh là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên
mà tất cả quân nhân thuộc Sư
đoàn được mang giây biểu chương Bảo
Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20
năm trấn giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Hòa,
Sư đoàn 1 Bộ Binh là hình ảnh
của sự bảo bọc, gìn giữ Huế trong suốt những
năm dài lửa đạn.
NGÀY
26-3-1975:
Mỹ
Cử
Đặc
Sứ
Đến
SG
Quan
Sát
Tình
Hình
Vương Hồng Anh
*Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục
quân, Đặc sứ của Chính phủ Mỹ, đến
Sài Gòn họp bàn tình
hình chiến sự
Ngày 26 tháng 3/1975, sau khi lực
lượng VNCH triệt thoái khỏi Kontum, Pleiku,
Phú Bổn (Quân khu 2), các sư
đoàn chủ lực của CSBV gây áp lực
nặng quanh vòng đai Đà Nẵng,
các quận phía Tây tỉnh Quảng
Nam, và các tỉnh duyên hải của
Quân khu 2 (Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa). Cũng trong
ngày này, chính phủ Hoa Kỳ
đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu
trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để
tìm hiểu tình hình. Đại tướng
Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ
ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ
khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ,
Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc
nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội
Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng
Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ
huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).
Trước khi Đại tướng Weyand đến Việt Nam, vào cuối tháng 2/1975, ông Eric Von Marbod, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, đã đến Việt Nam. Lúc đó, CSBV chưa khởi động cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột. Trong thời gian viếng thăm VN, ông Marbod đã gặp và trao đổi ý kiến với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, về tình hình chiến sự. Trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Đại tướng Cao Văn Viên đã yêu cầu Bộ Quốc phòng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn bãi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand.
* Các cuộc tiếp xúc giữa Đại
tướng Weyand và Đại tướng Viên.
Trong thời gian Đại tướng Weyand thăm Việt Nam, Bộ
Tổng Tham mưu Quân lực VNCH đã
không có buổi thuyết trình
chính thức nào dành cho Đaị
tướng Weyand, nhưng giữa Đại tướng Weyand và
Đại tướng Viên đã có những cuộc
tiếp xúc bàn luận về tình
hình và trao đổi ý kiến về
tình hình chiến cuộc. Trong các
lần tiếp xúc, Đại tướng Cao Văn Viên
đã cho Đại tướng Weyand biết những khó
khăn mà Quân lực VNCH đang gặp phải
và chỉ yêu cầu một điều duy nhất: Xin
Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 để
đánh vào những nơi tập trung
quân và các căn cứ lộ
thiên mà Cộng quân vừa thiết lập.
Tướng Viên nói rằng nếu có được
B-52 thì sự tự tin và tinh thần chiến
đấu của quân sĩ sẽ được phục hồi nhanh
chóng.
Trước yêu cầu của Đaị tướng Cao Văn
Viên, tướng Weyand giải thích cho vị
Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH biết
là “bất cứ hình thức can thiệp mới
nào của Mỹ tại Việt Mam cũng đều phải được sự
chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ”, do đó
yêu cầu của Đại tướng Cao Văn Viên rất
ít hy vọng được chấp thuận.
* Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu và Đại tướng Weyand
Phái đoàn của Đại tướng Weyand sau
đó cùng với Đại sứ Hoa Kỳ đến thăm
chính thức Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại
Dinh Độc Lập. Trong khi trao đổi ý kiến với
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phái đoàn
Hoa Kỳ đưa ra các điểm chính sau
đây:
-Chính phủ VNCH nên giải thích
cho dân chúng biết tình
hình để người dân không
còn lo sợ bởi những tin đồn thất thiệt do
địch cố tình tung ra. Các nhà
lãnh đạo VNCH nên xuất hiện nhiều hơn
trên truyền hình cho dân
chúng biết mặt.
-Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH cần được trao
thêm nhiều quyền hạn hơn trước.
-Quân lực VNCH nên tìm một chiến
thắng, dù thật nhỏ, để tạo điều kiện cho
Chính phủ Hoa Kỳ xin Quốc hội duyệt
thêm 300 triệu đô quân viện bổ
sung. Theo nhận xét của Đại tướng Weyand, Sư
đoàn 5 CSBV tại vùng Mũi Két
là một mục tiêu tốt để Quân lực
VNCH tạo một chiến thắng “thật ngoạn mục”.
-Vấn đề di tản dân tị nạn nên được giải
quyết sớm. Nhất là phải chú tâm
đến các thân nhân gia đình
binh sĩ. Thành phần này cần sớm được
đưa ra khỏi vùng nào có nguy cơ
sẽ xảy ra chiến trận.
Tất cả những vấn đề liên quan chính phủ và dân chúng đều được thảo luận giữa Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn Hoa Kỳ. Theo lời kể của Đaị tướng Cao Văn Viên, vấn đề cho Bộ Tổng tham mưu có thêm quyền hạn không được bàn đến nữa vì đây là một vấn đề rất tế nhị và chỉ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới làm được điều đó nếu ông muốn.
Về đề nghị Quân lực VNCH phải tạo một chiến thắng, Đại tướng Cao Văn Viên hoàn toàn đồng ý nhưng ông nhận định rằng muốn làm cũng không làm được vì Bộ Tổng Tham mưu không còn lực lượng nào trong tay để tiêu diệt sư đoàn 5 CSBV, trong tình hình này, phải chờ một cơ hội thuận tiện mới có thể làm được.
Trong cuộc họp, Đaị tướng Cao Văn Viên nhắc lại yêu cầu của ông là xin Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 oanh tạc các nơi địch tập trung quân. Theo Đại tướng Viên, chỉ bằng cách đó mới có hiệu quả, mới làm cho tinh thần quân dân Việt Nam lên cao được. Tướng Viên cũng đã trình bày cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn Hoa Kỳ những nỗ lực của bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH trong hoàn cảnh không được sự yểm trợ hỏa lực của B-52. Suốt trong vài tháng cuối của cuộc chiến, Bộ Tổng Tham mưu QL.VNCH đã chỉ thị cho Không quân dùng phi cơ C-130 vận tải để thi hành nhiệm vụ yểm trợ chiến thuật, tăng cường hỏa lực.
Khi được sử dụng để thi hành nhiệm vụ chiến thuật, mỗi C-130 mang theo tám bánh thùng dùng đựng JP-4 chứa đầy dầu phế thải. Phi cơ bay trên độ cao từ 15 đến 20 ngàn feet. Mỗi lần phi cơ bay qua và bom nổ, binh sĩ dưới đất lấy làm vui mừng. Được hướng dẫn bằng vô tuyến từ dưới đất nên rất chính xác, mỗi đợt thả chỉ cách nhau 150 đến 450 mét.
Mỗi C-130 có thể chở đến 8 bành bom loại thùng GP 81-82 (tương đương với 250-500 cân anh) hay ba bành loại GP-117 (tương đương với 750 cân Anh. Binh sĩ đặt tên cho các phi vụ này là “tiểu B-52″ hay B-52 Việt Nam. Lần đầu tiên khi loại bom này được thả tại Tây Ninh, dân chúng tưởng đó là B-52 của Mỹ thả. Vậy là tin đồn Không quân Mỹ can thiệp yểm trợ Quân lực VNCH đã được loan đi thật nhanh.
Về việc di tản thân nhân gia đình binh sĩ rời những nơi có chiến trận, Đại tướng Viên cho rằng việc làm này thường có tác dụng ngược. Tướng Viên nêu ra nhận xét: nếu không có thân nhân tại đó, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sẽ giảm sút. Vị Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH nhắc đến một số kinh nghiệm trong quá khứ, nhất là kinh nghiệm của trận Mậu Thân 1968 và tại các tiền đồn xa xôi, vợ con binh sĩ là những người giúp tải đạn, tải thương và thậm chí sử dụng cả đại liên rất hữu hiệu.
Những đề nghị của Đại tướng Viên được
phái đoàn Hoa Kỳ ghi nhận, và
khi Đại tướng Weyand rời Việt Nam thì Cộng
quân đang bao vây phòng tuyến
Phan Rang và tấn công vào mặt
trận Long Khánh. Trong tình
hình chiến sự sôi động, nhiều giới chức
của VNCH hy vọng ở sự can thiệp của Không
quân Hoa Kỳ để chận đứng cuộc tấn công
lớn của Cộng quân, dù biết rằng
đó là một hy vọng vô cùng
mong manh.
30 NĂM
NHÌN LẠI, NGÀY 29-3-1975:
Quân Đoàn I Rời Đà Nẵng
Vương Hồng Anh
* Diễn tiến về cuộc triệt thoái lực
lượng Quân đoàn 1/Quân khu 1
khỏi Đà Nẵng
Sau 10 ngày trải qua nhiều diễn biến đột ngột
về chiến sự , với những cuộc triệt thoái lực
lượng tại 5 tỉnh để tập trung về Đà Nẵng,
đêm 28 rạng ngày 29 tháng
3/1975, toàn bộ lực lượng Quân
đoàn 1/Quân khu 1 được lệnh rút
khỏi Đà Nẵng , sau khi Trung tướng Ngô
Quang Trưởng báo cáo tình
hình Đà Nẵng cho Tổng thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn
Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực
VNCH. Cuộc triệt thoái bằng đường biển
đã diễn ra hỗn loạn do Cộng quân
đã pháo kích vào
bãi biển Đà Nẵng và các
vị trí tập trung các đơn vị triệt
thoái. Sau đây là diễn tiến cuộc
triệt thoái của lực lượng Quân
đoàn 1/Quân khu 1 khỏi Đà Nẵng
trong ngày 29/3/1975 theo ghi nhận của Đại
tướng Cao Văn Viên.
Hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên ghi rằng vào tối 28/3/1975, Cộng quân pháo kích vào phi trường Đà Nẵng, căn cứ Hải quân và nhiều vị trí quân sự khác. Tất cả các trái đạn pháo đều từ hướng thung lũng Phước Tường. Đại bác 175 mm của Quân đoàn 1 phản pháo và được phi cơ quan sát điều chỉnh tọa độ nhưng không có hiệu quả cao. Trung tướng Trưởng báo cáo tình hình cho Đại tướng Viên, và cũng gọi điện thoại tường trình cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và xin lệnh.
Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong cuộc nói chuyện này, Tổng thống không có lệnh nào dứt khoát. Tổng thống không cho Trung tướng Trưởng biết nên rút hay nên cố thủ. Tổng thống chỉ hỏi nếu di tản ngay thì có bao nhiêu người có thể đi an toàn. Đại tướng Viên nhận định rằng “rõ ràng Tổng thống không hài lòng với những diễn biến đang xảy ra. Cuộc di tản lần này không biết chừng lại trở thành một thảm kịch như đã xảy ra cho Quân đoàn 2 từ Cao nguyên xuống Nha Trang. Tổng thống không muốn ra lệnh thêm nưã để phải chịu thêm một nỗi đau thứ hai.”
Vừa khi cuộc nói chuyện chấm dứt, tất cả mọi liên lạc từ Quân khu 1 với Sài Gòn bị gián đoạn, vì đạn pháo kích của Cộng quân. Tình hình lúc bấy giờ trở nên tuyệt vọng, Trung tướng Trưởng cho lệnh rút quân khỏi Đà Nẵng. Vị Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 bàn với Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Vùng 1 duyên hải, và các vị Tư lệnh các đại đơn vị về kế hoạch di tản bằng cách cho quân nhân các đơn vị tập trung tại ba địa điểm: một tại cuối đèo Hải Vân, một tại chân núi Non Nước, và một tại cửa biển Hội An.
Vào rạng sáng ngày 29 /3/1975, sương mù trải dài suốt bờ biển. Tất cả tàu của Hải quân đã tập trung tại điểm hẹn nhưng thủy triều còn quá thấp nên tàu không thể cập sát được. Các quân nhân phải lội nước một khoảng xa mới lên tàu được. Việc việc đang diễn tiến thuận lợi đến nửa buổi thì Cộng quân bắt đầu pháo kích ra bãi biển, cuộc di tản trở nên mất trật tự khiến nhiều quân nhân chết đuối. Đại tướng Cao Văn Viên cho biết khi tàu rời điểm đón quân thì chỉ có 6,000 quân nhân Thủy quân Lục chiến và 4,000 quân nhân của Sư đoàn 3 và một vài đơn vị khác được lên tàu.
*Đêm cuối cùng của Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1
Ngô Quang Trưởng tại Đà Nẵng.
Theo nhật ký hành quân của Thiếu
tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ
binh kiêm Tư lệnh chiến trường Quảng Nam-
Đà Nẵng, và lời kể của một sĩ quan
Trưởng phòng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ
binh (không muốn nêu tên)
vào 7 giờ 30 tối ngày 28/3/1998, Trung
tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô
Quang Trưởng và vài sĩ quan tham mưu
Quân đoàn 1 đến Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 3 Bộ Binh tại căn cứ Hòa
Khánh. Ông bắt tay thật chặt từng sĩ
quan tham mưu Sư đoàn 3BB dàn
chào ông ở sân chờ bộ Tư lệnh.
Một vị trưởng phòng kể lại là Trung
tướng Trưởng đã nhìn thẳng vào
mặt từng người như muốn nói với họ một điều
gì đó. Không ai nghĩ rằng
đó là cái bắt tay vĩnh biệt của
vị Tư lệnh Quân đoàn.
Cũng theo nhật ký hành quân của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, thì trong nửa giờ họp riêng tại văn phòng tư lệnh Sư đoàn,Trung tướng Trưởng đã bàn với Tướng Hinh kế hoạch rút lui nếu áp lực Cộng quân quá mạnh. 8 giờ tối cùng ngày, Trung tướng Trưởng rời căn cứ Hòa Khánh và bay một vòng quan sát thành phố Đà Nẵng trong khi Cộng quân tiếp tục pháo kích vào thành phố.
9 giờ 30 tối, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng bay đến Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải và triệu tập một cuộc họp với các vị tư lệnh các đại đơn vị ngay tại văn phòng của Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (phó đề đốc: tương đương cấp chuẩn tướng). Tham dự cuộc họp có Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1; Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh; Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, và Phó đề đốc Hồ Văn KỳThoại. Trước khi bắt đầu cuộc họp, Tướng Trưởng gọi điện thoại xin quyết định của Đại tướng Viên và Tổng thống Thiệu. Các vị tướng ngồi chờ kết quả.
Theo lời kể của Thiếu tướng Bùi Thế Lân thì chỉ sau vài phút nói chuyện với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, đôi mắt Trung tướng Trưởng đỏ ngầu, khuôn mặt buồn bã. Rời điện thoại, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng tiến về các vi tướng đang chờ lệnh của ông và giọng nghẹn ngào: “Lệnh bỏ Đà Nẵng”.
* Tình hình phòng
tuyến Quảng Nam-Đà Nẵng trước ngày
29-3-1975
Trong 2 ngày 26/3 và 27/3, Cộng
quân mở các đợt pháo kích
vào các vị trí của một số đơn
vị thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh. Sáng
ngày 28 tháng 3/1975, Trung tướng
Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân
đoàn 1 và Quân khu 1, mở cuộc
họp khẩn với các đơn vị trưởng tại bộ Tư lệnh
Quân đoàn. Nhiều biện pháp được
đưa ra để vãn hồi trật tự và gấp
rút tái tổ chức các đơn vị
các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng
Tín rút về. Tất cả các
quân nhân từ những nơi khác về
Đà Nẵng trong những ngày trước cũng
được tập trung để bổ sung cho các đơn vị
trú phòng.
Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 3
Bộ Binh, Trung đoàn 56BB được lệnh rút
về tuyến vàng (Câu Lâu-Thu Bồn).
Cộng quân tung chiến xa đuổi theo, 1 chiếc M
113 của Thiết đoàn 11 bị bắn cháy. Tại
phòng tuyến Đại Lộc, Cộng quân
đã chiếm bộ chỉ huy Chi khu quận và
lập hệ thống công sự phòng thủ ở
đây. Trung đoàn 57BB được lệnh phải
triệt phá các chốt chận của Cộng
quân quanh quận lỵ. 1 giờ trưa, Bộ Chỉ huy
Tiểu khu Quảng Nam mất liên lạc với Bộ Tư lệnh
Sư đoàn 3. Theo lời Đại tá Phạm Văn
Chung, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng
Nam, thì trưa ngày 28/3/1975,
ông đã đến Duyên đoàn 15
Hải quân dùng tàu nhỏ đi quan
sát việc bố phòng quanh thị xã
Hội An. Sau đó ông liên lạc về Bộ
chỉ huy Tiểu khu thì không có ai
trả lời.
Cũng vào trưa ngày 28-3-1975, Cộng quân tung một tiểu đoàn thuộc B44 lập các chốt chận tại Thanh Quít, ngay sau đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB điều động 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 2 BB giải tỏa khu vực này, 2 tiểu đoàn còn lại và Bộ chỉ huy Trung đoàn 2BB phụ trách phòng ngự phòng tuyến Điện Bàn-Hội An. Đến chiều ngày 28/3/1975: ba tiểu đoàn của Liên đoàn 915 Địa phương quân do Trung tá Võ Vàng chỉ huy được điều động phòng thủ thị xã Hội An. Sau lưng của 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB, là các đồn Địa phương quân và Nghĩa quân thì đã bỏ ngỏ. Khoảng 2 giờ chiều, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 nhận được mật điện của Phòng 2 bộ Tổng Tham Mưu báo tin là Cộng quân sẽ tấn công vào Đà Nẵng vào khuya ngày 28 rạng ngày 29/3/1975.
Cùng với thông tin tình báo của Phòng 2, Bộ Tổng Tham Mưu cũng đưa ra thêm một lệnh nữa là Sư đoàn 1 Không quân phải đưa hết số trực thăng và phản lực của Sư đoàn vào căn cứ Không quân tại Phú Cát hoặc Phan Rang. Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng cho lệnh báo động đỏ, tất cả các đơn vị đều được đưa ngay đến vị trí phòng thủ. Để ổn định tình hình trật tự trong thành phố, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cử Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, làm quân trấn trưởng quân trấn Đà Nẵng. Các đại đội Quân Cảnh được điều động tuần tra quanh thị xã và kiểm soát quân nhân đi lẻ tẻ trên đường phố.
Đến tối 28/3/1975, theo nhật ký của Thiếu tướng Hinh, từ 7 giờ tối trở đi, Cộng quân đã kéo pháo 130 ly từ đèo Mũi Trâu để bắn vào phi trường, giờ G của trận chiến tại Đà Nẵng bắt đầu.
30 NĂM NHÌN LẠI, NGÀY 1/4/1975: Kịch Chiến Tại Phú Yên
Vương Hồng Anh
* Phòng tuyến của Quân
đoàn 2 tại tỉnh Phú Yên trước
ngày 1/4/1975
Sau khi VNCH triệt thoái khỏi Cao
Nguyên từ giữa tháng 3/1975, Cộng
quân gia tăng áp lực trên
các cụm tuyến phòng ngự của Sư
đoàn 22 Bộ Binh tại tỉnh Bình Định. Để
bảo toàn lực lượng, Sư đoàn 22 Bộ Binh
và các đơn vị đồn trú tại tỉnh
Bình Định rút khỏi Qui Nhơn cuối
tháng tháng 3/1975. Bấy giờ
vùng trách nhiệm Quân khu 2 chỉ
còn 4 tỉnh duyên hải: Phú
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận và một số khu vực thuộc hai
tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức đang
bị áp lực nặng của Cộng quân.
Để chỉ huy lực lượng Quân đoàn 2 tại mặt trận Phú Yên, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lập bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 2 tại Tuy Hòa và cử Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2, trực tiếp chỉ huy. Bộ chỉ huy này hình thành từ giữa tháng 3/1975 ngay sau khi bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku. Trước khi làm phụ tá cho Thiếu tướng Phú, Chuẩn tướng Cẩm là Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 thời kỳ Tướng Nguyễn Văn Toàn (thăng cấp Trung tướng 1/4/1974) làm Tư lệnh.
Tướng Trần Văn Cẩm nguyên là sĩ quan Pháo binh, từ năm 1966 đến 1969, là Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh. Ông được thăng cấp chuẩn tướng vào đầu tháng 11/1972 khi đang giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Trong năm 1973, Chuẩn tướng Cẩm được điều động về bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 để đảm trách chức vụ Tham mưu trưởng mà vị Tư lệnh Quân đoàn là Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn (thăng trung tướng tháng 4/1974). Tháng 11/1974, khi Thiếu tướng Phạm Văn Phú thay Trung tướng Nguyễn Văn Toàn thì Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm được bổ nhiệm chức Phụ tá Tư lệnh Quân đoàn.
* Phú Yên thất thủ, Chuẩn
tướng Trần Văn Cẩm bị địch quân bắt
Cùng lúc Sư đoàn 3 CSBV tấn
công Qui Nhơn và vùng phụ cận
thì tại tỉnh Phú Yên, từ
ngày 1/4/1975, Sư đoàn 320 CSBV tấn
công vào các quận của tỉnh
Phú Yên và một số vị trí
gần thị xã Tuy Hòa. Gần 7 giờ
sáng, Cộng quân pháo kích
vào thị xã, một số doanh trại trong
đó bộ chỉ huy Tiểu khu Phú Yên
là mục tiêu chính của
pháo Cộng quân.
7 giờ sáng cùng ngày, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Chỉ huy Bộ tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn 2 tại Tuy Hòa, đã gọi máy báo cáo tình hình cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú ở Nha Trang. Theo tường trình của Tướng Cẩm, Cộng quân pháo kích rất dữ dội, và bắt đầu tấn công cả 2 mặt vào thị xã. Doanh trại của bộ chỉ huy Tiểu khu Phú Yên, cũng là nơi trú đóng của bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 2, đã bị pháo kích nặng. Sau lần gọi này, Tướng Trần Văn Cẩm không còn liên lạc với Thiếu tướng Phú. Theo lời một số sĩ quan của Quân đoàn 2 có mặt tại Tuy Hòa lúc Cộng quân tấn công, sau khi báo cáo tình hình cho Tướng Phú, Tướng Cẩm cho lệnh rút ban tham mưu của ông ra khỏi doanh trại Tiểu khu, và ông đã sử dụng tần số không lục liên lạc với Không quân để yêu cầu cho trực thăng đến bốc ban tham mưu của ông, nhưng mọi sự liên lạc không có kết quả, sau đó ông đã bị Cộng quân bắt cùng với một số sĩ quan tham mưu. ( Sáng ngày 2/4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH nhận được báo cáo của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 tại Nha Trang về sự việc Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm được ghi nhận là mất tích)
Về tình hình bộ chỉ huy Tiểu khu Phú Yên và lực lượng Địa phương quân của tỉnh này, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, một số tiểu đoàn Địa phương quân của tỉnh này đã phải bỏ phòng tuyến tìm cách vào Nha Trang, vị tân tiểu khu trưởng kiêm tỉnh trưởng Phú Yên (một trung tá Biệt động quân nhận chức ngày 29/3/1975) được báo cáo là bị thương và mất tích. Chỉ có một số đại đội do các sĩ quan trẻ chỉ huy đã tiếp tục chiến đấu với Cộng quân suốt cả ngày 1/4/1975 và sau đó gần hết đạn đã phải rút khỏi vị trí phòng ngự để bảo toàn lực lượng. Họ đã bị Cộng quân bắt sau khi phân tán mỏng để tìm đường vào địa phận tỉnh Khánh Hòa. Về phía Cộng quân, ngay trong ngày 1/4/1975 đã có một số bộ phận lọt vào Tuy Hòa và rạng sáng ngày 2/4/1975, toàn thị xã này đã lọt vào tay Cộng quân.
*Trận chiến tại phòng tuyến
Đèo Cả
Tại phòng tuyến Đèo Cả, cách
Tuy Hòa khoảng 40 km về phía Nam, Một
tiểu đoàn Biệt động quân bị một trung
đoàn Cộng quân tấn công. Tiểu
đoàn đã chống trả quyết liệt và
đẩy lùi được nhiều đợt xung phong của Cộng
quân. Đến nửa đêm ngày 1 rạng
ngày 2 tháng 4/1975, Tiểu đoàn
Biệt động quân đã phải rút khỏi
phòng tuyến tiến về hướng Nha Trang. 7 giờ
sáng ngày 2/4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu
QL.VNCH được báo cáo là Cộng
quân đã chiếm tỉnh Phú
Yên. Cùng với thời gian Cộng quân
tấn công vào Bình Định và
Phú Yên, Cộng quân tung Sư
đoàn 7 CSBV tạo áp lực tại Tuyên
Đức. Tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng tỉnh
này được lệnh rút quân về hết
Nha Trang. Các trường quân sự tại
Đà Lạt cũng được lệnh rút khỏi
Đà Lạt vào những ngày cuối
tháng 3/1975.
* Phối trí lực lượng của Quân
đoàn 2/Quân khu 2 vào đầu
tháng 4/1975
Theo tài liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham
Mưu được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong
hồi ký, lực lượng phòng ngự thị
xã Tuy Hòa vào cuối
tháng 3/1975 chỉ có các tiểu
đoàn Địa phương quân của Tiểu khu
Phú Yên, và vùng phụ cận
chỉ còn một tiểu đoàn Biệt động
quân, một trong những đơn vị đã
có công lớn trong việc khai thông
lộ trình cuộc rút quân của
Quân đoàn 2 trên Liên tỉnh
lộ 7 B và hương lộ 436. Các đơn vị
còn lại của Quân đoàn 2 từ
Kontum và Pleiku rút về được đưa
vào Nha Trang theo kế hoạch tái phối
trí của Bộ Tổng Tham Mưu như sau:
-Binh sĩ thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh được
tái tập trung tại Động Ba Thìn
cách Cam Ranh 10 km về hướng Bắc. Bộ Tư lệnh
Sư đoàn 23 BB (do Đại tá Lê Hữu
Đức giữ chức quyền Tư lệnh thay thế Chuẩn tướng
Lê Trung Tường bị thương ngày
16/3/1975), có nhiệm vụ tổ chức lại đội ngũ
các đơn vị trực thuộc. Lực lượng Địa phương
quân và Nghĩa quân cơ hữu của
các Tiểu khu Pleiku, Kontum, Darlac đều tập
trung về hết Trung tâm huấn luyện Lam Sơn để
tái huấn luyện và làm lực lượng
bổ sung và cung cấp nhân lực.
-Các liên đoàn Biệt Động
Quân và các tiểu đoàn
Pháo binh được tập trung về trung tâm
huấn luyện của mỗi binh chủng tại Dục Mỹ,
cách Nha Trang khoảng 35 km. Các đơn
vị Thiết giáp được chuyển về tập trung tại
trường Thiết giáp ở Long Thành,
Biên Hòa. Tính đến cuối
tháng 3/1975, cuộc tái phối trí
đã tiến hành nhanh chóng, Sư
đoàn 23 BB hoàn tất được một trung
đoàn đầy đủ, Biệt Động Quân tái
tổ chức được 2 tiểu đoàn; Pháo binh
có 2 pháo đội 105 ly được huấn luyện
và nhận súng mới.
Tính đến cuối ngày 1/4/1975, khu vực trách nhiệm của Quân khu 2 (trước ngày Cộng quân tấn công vào Ban Mê Thuột 10/3/1975, quân khu này có 12 tỉnh) chỉ còn lại một phần tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Về quân số, ngoài Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đang bảo vệ phòng tuyến Khánh Dương, chỉ còn 1 trung đoàn Bộ binh và 2 tiểu đoàn Biệt động quân, 2 liên đoàn Địa phương quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và Bình Thuận cùng một số đại đội biệt lập còn khả năng tham chiến.
30 Năm
Nhìn Lại, 2/4/1975: Ngày Cuối
Cùng Của Tư Lệnh Quân Đoàn 2
Vương Hồng Anh
* Ngày cuối cùng trên chiến trường của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 Phạm Văn Phú
Ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu nhận được lệnh bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân khu 2 cho Quân đoàn 3/Quân khu 3. Đó cũng là ngày cuối cùng của Thiếu tướng Phạm Văn Phú trên chiến trường trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2. Những giờ cuối cùng của vị tướng này tại Nha Trang và tại Phan Thiết đầy bi tráng. Trong nhật ký hành quân mang sang Mỹ được và được phổ biến trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí-đã ghi lại một số sự kiện xảy ra cho vị tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 trong hai ngày 1 và 2/4/1975 với nội dung được tóm lược như sau:
5 giờ 50 chiều ngày 1/4/1975, Thiếu tướng
Phú vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 2
Không quân ở Nha Trang, nhưng vị Tư lệnh
Sư đoàn này đi vắng. Ông phải
ngồi ngồi đợi, 20 phút sau thì Chuẩn
Tướng Nguyễn Ngọc Oánh-chỉ huy trưởng Trung
tâm Huấn luyện Không quân
và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư
đoàn 2 Không quân, bước
vào. Lúc bấy giờ Tướng Phú ngồi
ở chiếc ghế sát bàn của Tư lệnh của Sư
đoàn 2 Không quân. Tướng Lượng
và Tướng Oánh thấy Tướng Phú
không chào hỏi và tới ngồi ở
bàn khác đối diện. Thấy thái độ
và cách xử sự khác thường của
vị Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân,
một trong 2 sư đoàn Không quân
thống thuộc quyền điều động của bộ tư lệnh
Quân đoàn 2, Tướng Phú hơi ngạc
nhiên nhưng rồi ông chợt hiểu. Ông
hỏi Chuẩn tướng Lượng:
-Có chuyện gì xảy ra?
Chuẩn tướng Lượng không trả lời, mặt lầm
lì. Còn Chuẩn Tướng Oánh, với
giọng từ tốn, lễ độ nói với Thiếu tướng
Phú:
-Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng tôi được
chỉ định làm Tư lệnh Mặt trận Nha Trang,
vì Quân đoàn 2 không
còn nữa. Tướng Phú mặt biến sắc, hỏi
dồn:
-Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?
Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm rãi
nói: Thưa Thiếu Tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham
mưu, của Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Tham mưu
trưởng Bộ Tổng Tham mưu) từ Sài Gòn.
Nghe Chuẩn tướng Oánh trình
bày, Thiếu tướng Phú cảm thấy danh dự
bị tổn thương, vì theo tổ chức quân
đội, người có quyền ra lệnh cho ông
là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham
mưu trưởng, còn Trung tướng Khuyên
là tham mưu trưởng, không có
quyền ra lệnh cho các tư lệnh Quân
đoàn, về vai vế và quyền hạn
thì Tư lệnh quân đoàn và
Tư lệnh quân chủng chỉ xếp sau Tổng tham mưu
trưởng.
18 giờ 40 TướngPhú dùng điện thoại
tại văn phòng Tướng Lượng để gọi về
Sài Gòn gặp Trung tướng Khuyên.
Ngay từ câu đầu tiên, Thiếu tướng
Phú đã hét lên trong ống
liên hợp:
-Trung tướng hỏi tôi đi đâu à?
Tôi bay chỉ huy.
Sau một hồi tranh cải, Thiếu tướng Phú
nói lớn:
-Tôi là Tư lệnh Quân đoàn.
Đi đâu, đó là quyền của
tôi. Trung tướng Thuần (Chỉ huy trưởng trường
Hạ sĩ quan) cùng đi trên máy bay
chỉ huy của tôi mấy tiếng đồng hồ, nhưng
tôi không cần Trung tướng phải tin.
Và tôi cũng không phải
trình Trung tướng.
19 giờ 45 phút cùng ngày, Thiếu
tướng Phú ra trực thăng bay về PhanRang. Khi
ông vừa ngồi lên xe Jeep để ra
bãi đậu trực thăng, thì một sự việc
bất ngờ xảy ra. Một xe chở đầy lính và
vũ khí phóng tới, một Thiếu tá
Không quân nhẩy xuống nói lớn:
-Tại sao, tại sao, các ông là
Tướng lại bỏ lính chạy. Ai phòng thủ
căn cứ này.
Khi đó, Thiếu tá Phạm Huấn cùng
đi với Thiếu tướng Phú, đã ngồi
đè lên người Thiếu tướng Phú,
và chĩa khẩu AR 18 về phía người sĩ
quan này và nói:”Anh
không được vô lễ, ông Tướng Tư
lệnh Quân đoàn không có
nhiệm vụ phải phòng thủ căn cứ Không
quân”. Cuối cùng thì mọi việc
êm xuôi, Thiếu tướng Phú hiểu
được sự phẫn nộ của vị sĩ quan Không
quân và những người lính đi
cùng.
* Quân đoàn 2 bàn giao phần
lãnh thổ còn lại cho Quân
đoàn 3.
Đêm 1 tháng 4/1975, Thiếu tướng
Phú nằm dưới chân núi,
trên một cái giường bố, tại ban chỉ huy
của một tiểu đoàn Địa phương quân Ninh
Thuận, phòng thủ căn cứ Phan Rang. 1 giờ 45
trưa ngày 2 tháng1/1975, Tướng
Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông
Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn
Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn
3, để thảo luận về việc bàn giao phần
lãnh thổ còn lại của Quân
đoàn 2 &Quân khu 2 được lệnh
sát nhập vào Quân đoàn 3.
Theo kế hoạch, Quân đoàn 3 chính
thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-Bình
Thuận từngày 3/4/1975. Vào giờ
này, Bộ Tham mưu của Tướng Phú chỉ
còn lại Thiếu tá Vinh, chánh
văn phòng; Thiếu tá Hóa
tùy viên, Thiếu tá Huấn, sĩ quan
báo chí và Đại tá
Lê Hữu Đức, Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23BB.
Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng
ngày, Thiếu tá Hóa trình
với Thiếu tướng Phú là trực thăng của
Thiếu tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu
tá Hóa vừa quay gót, Thiếu
tướng Phú rút khẩu súng ngắn ra
khỏi vỏ, nhưng tiếng hét thất thanh của Đại
tá Đức vang lên: “ThiếuTướng!”, ngay
sau đó, khẩu súng trên tay Tướng
Phú bị đại tá Đức gạt bắn xuống đất.
Tướng Phú không chết trong ngày
2 tháng4/1975, nhưng 28 ngày sau
ông đã tự sát tại Sài
Gòn.
* Cuộc hội ngộ cuối cùng của hai vị
Tư lệnh Quân đoàn
Cũng theo nhật ký của Thiếu tá Huấn,
trước đó vào 5 giờ chiều ngày
30 tháng 3/1975, Tướng Phú đã
bay ra Cam Ranh, để cùng với Phó Đề
đốc Hoàng Cơ Minh, Tư lệnh Hải quân
Vùng hai duyên hải, đi trên một
soái hạm chỉ huy ra vùng biển
ngoài Cam Ranh để đónTrung tướng
Trưởng đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404
từ Cam Ranh vào (Tướng Trưởng đã phải
bơi từ bờ để ra tàu hải quân đậu
ngoài biển). Trên tàu lúc
này có rất đông chiến binh Thủy
quân Lục chiến từ Quân khu 1 vào.
Tướng Phú và Phó Đề đốc Minh
phải khó lắm mới lách xuống được chỗ
Trung tướng Trưởng nằm dưỡng bệnh. Theo ghi nhận của
Thiếu tá Phạm Huấn, có mặt vào
giờ phút đó, thì lúc
này Trung tướng Trưởng thở thoi thóp
nhờ bình nước biển. Quanh Trung tướng Trưởng
co Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư
đoàn 1 Không quân
(ĐàNẵng), Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh
trưởng Thừa Thiên. Thiếu tướng Phú
ghé sát tai Trung tướng Trưởng hỏi hai
lần, nhưng sắc diện Trung tướng Trưởng không
thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng
Trưởng ngước nhìn lên. Đôi mắt
như muốn bật máu vì uất ức. Chi tiết
về cuộc gặp gở này cũng đã được Hải
quân Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, hạm
trưởng HQ404 kể lại trong một bài viết phổ
biến vào năm 1995. Có một điểm
khác biệt về mốc thời gian là
tài liệu của Trung tá Nhơn thì
lại ghi là cuộc gặp gở giữa Tướng Phú
và Tướng Trưởng diễn ra vào
tốingày 1/4/1975, (nhật ký của Thiếu
tá Huấn ghi là 5 giờ chiều30/3/1975,
như đã trình bày ở trên).
Trong khi đó theo lời kể của một số sĩ quan
đi theo Tướng Trưởng, HQ 404 rời Đà Nẵng
ngày29/3/1975 và đến chiều ngày
30/3/1975 thì đã vào
vùng biển ở ngoài Cam Ranh.
Theo lời của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm
trưởng HQ 404, tốingày 1/4/1975, Tướng
Phú đã đi tàu nhỏ cập
vào chiến hạm để lên tàu thăm
và nói chuyện với Tướng Trưởng.
Tình cờ khi vào phòng lấy hồ
sơ, Trung tá Nhơn đã nghe câu
nói của Thiếu tướng Phú: “Dù
sao đi nữa tôi cũng còn vài tiểu
khu ở đây với tôi chiến đấu”. Cũng cần
ghi nhận rằng Tướng Phú đã có
một thời gian làm việc chung với Tướng
Trưởng: năm 1967, khi còn là đại
tá, ông là Tư lệnh phó Sư
đoàn 1 Bộ binh do Tướng Trưởng làm tư
lệnh; năm 1972, khi Tướng Trưởng là Tư lệnh
Quân đoàn 1 thì Tướng Phú
là Tư lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quân
đoàn này). Cuộc gặp gỡ của hai vị tư
lệnh Quân đoàn diễn ra đúng10
phút. Sau đó, Thiếu tướng Phú
đứng nghiêm chào từ biệt Trung tướng
Trưởng. Rồi ông bước nhanh ra khỏi căn
phòng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi
tráng chờ đợi ông, người hùng
Điện Biên Phủ năm nào.
30 NĂM
NHÌN LẠI: Quân Đoàn 3 Giữ
Phòng Tuyến Phan Rang
Vương Hồng Anh
* Tổng lược tình hình 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2
trước khi Quân đoàn 3 thành lập phòng tuyến Phan Rang
Như đã trình bày, kể từ
ngày 10/3/1975, ngày Cộng quân
(CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị
xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc,
cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong
vòng 23 ngày, CQ đã chiếm
vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH
triệt thoái, theo trình tự sau
đây.
-Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đã chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đã mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này.
-Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu
Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương
quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng
chỉ huy đã triệt thoái về đến Phan
Rang vào 20 giờ tối ngày
29/3/1975.(Theo nhật ký hành
quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan
Báo chí của Tư lệnh Quân
đoàn 2 ghi theo báo cáo của
Trung tâm Hành quân Quân
đoàn 2 đặt tại Nha Trang thì diễn tiến
tình hình chiến sự tại Lâm Đồng
như sau:
“Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đã tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xã tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đã rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, thì ” không hề có vấn đề thị xã Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ý rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.)
- Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành
phố cuối cùng của Cao nguyên bị CQ
chiếm là tỉnh Tuyên Đức và
thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS
sát nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm
Đồng, thành phố Đà Lạt thành
tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt
là tỉnh lỵ của tỉnh này).
*Quân đoàn 3 phối trí lực
lượng giữ phòng tuyến Phan Rang
Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai
tỉn NinhThuận,Bình Thuận, thành lủy
cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham
Mưu Quân lực VNCH đã quyết định giao
cho Quân đoàn 3 lập tuyến phòng
thủ bảo vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ
huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đã chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn
Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 &
Quân Khu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử
làm Tư lệnh phó Quân đoàn
3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của
Quân đoàn này. Vào thời
gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy
trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đã từng
giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4 &
Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974
sau khi đã giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn
21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến
tháng 5/1972).
Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh
Thuận và Bình Thuận,theo kế hoạch của
bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của
bộ Tư lênh Quân đoàn 3 &
Quân khu 3, thì Bộ Tư lệnh Tiền phương
Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không
quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 6 Không quân mà Tư
lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.
Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng phòng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệphòng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài Gòn ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.
Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ
đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay
thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương
Quân đoàn 3 đã khởi sự phối
trí lực lượng để bảo vệ phòng tuyến
Phan Rang như sau.
Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11
Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và
các toán thám sát của
Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt
động tại hai khu vực Đông Bắc và
Tây Bắc thị xã Phan Rang. Lữ
đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù
là Đại tá Nguyễn Thu Lương.
Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù
nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù còn được tăng cường Tiểu
đoàn 5 Nhảy Dù (đã tham chiến
tại mặt trận Khánh Dương trong đội
hình của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù),
và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy
Dù.
* Tình hình Phan Rang trong
thượng tuần tháng 4/1975:
Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang
(tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh
này đã được vãn hồi ngay. Vị
Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu
trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975
được lệnh trở về tái lập việc phòng
thủ quanh thị xã và điều hành
công việc hành chínhtrong tỉnh.
Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân
và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ
còn một phần ba quân số tại
hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan
đã bỏ đơn vị vào Nam tìm gia
đình.
Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí phòng thủ gần thị xã, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ gìnan ninh tại thị xã và các vùng phụ cận. Lực lượng nòng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù. Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và tìnhhình tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.
* Phần bổ sung về cuộc hành
trình của Trung tướng Ngô Quang
Trưởng trên đường vào Nam
Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh
Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa thì một số tàu Hải
quân đang chở hàng ngàn
quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1
và một số tiểu đoàn của Sư đoàn
Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng
vào Nam. Như đã trình
bày, chỉ có một ít đơn vịcủa Sư
đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh
lên được tàu cùng với một sốsĩ
quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu
Hải quân HQ 404 vớt sau khi ông phải bơi
từ bờ.
Trong cuộc hải trình vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đã nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn vì HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, thì lúc đó tàu này dơ bẩn và hôi hám vì có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ý, Ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài Gòn là ông xin ở lại trên tàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận.
Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một mình Trung tướng Trưởng vào Sài Gòn. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi bãi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổ quân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến trình bày: “Lệnh Sài Gòn yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài Gòn. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rõ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài Gòn cho Thủy quân Lục chiến về Sài Gòn để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh thì tôi cũng xuống đây luôn.
Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài Gòn và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận”. Quân nhân Thủy quân Lục chiến đã xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đã có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào phòng của ông.
30 Năm
Nhìn Lại: Ngày 9/4/1975, Mặt Trận
Long Khánh Bùng Nổ
Vương Hồng Anh
*Tổng lược về trận chiến Long Khánh
ngày 9/4/1975
Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại
tướng Cao Văn Viên, sau khi đã điều
động 3 sư đoàn chính quy vào
mặt trận Long Khánh, ngày ngày
9 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực
lượng tiến chiếm một đoạn đường dài
trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật
tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc
lộ 1 và Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai
triển lực lượng tại khu vực nói trên,
rạng sángngày 9/4/1975, Cộng
quân đã pháo kích như mưa
vào Căn cứ Không quân Biên
Hòa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Căn
cứ Tiếp vận Long Bình.
Tại tỉnh lỵ Xuân Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng quân đã đồng loạt pháo kích khoảng vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay thị xã.
Cũng với trận tấn công vào vào
thời gian đó, CQ tấn công vào
khu vực ngã ba Dầu Giây. Kế hoạch của
Cộng quân là muốn chiếm Dầu Giây
để từ đây tấn công vào tuyến
phòng thủ của Trung đoàn 52 thuộc Sư
đoàn 18 Bộ binh.
Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận
các đợt tấn công của Cộng quân,
Không quân VNCH đã thựchiện nhiều
phi tuần oanh tạc vào các vị
trí đóng quân của
Cộngquân, tuy nhiên, các phi tuần
này đã gặp khó khăn do
màn lưới phòng không dày
dặc của các trung đoàn pháo
binh phòng không của Cộng quân
được bố trí quanh vòng đai
phòng tuyến của Sư đoàn 18Bộ binh.
*Lực lượng VNCH tại mặt trận Long Khánh
Về lực lượng tác chiến của Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi ký, thì tính đến sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị phòng ngự gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh. Các đơn vị này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318 và 322 được phối trí án ngữ quanh vòng đai thị xã Xuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh.
* Diễn tiến các trận giao tranh
trong ngày 9/4/1975.
Theo bản tin chiến sự do phát ngôn
viên Quân sự QL.VNCH phổ biến và
được báo Chính Luận số ra ngày
10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao
tranh tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975
được ghi nhận như sau.
Tại phòng tuyến quanh thị xã
Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh), 7
giờ 30 sáng, Cộng quân đã mở
nhiều đợt tấn công vào vị trí
phòng ngự của các chiến đoàn
316, 318 và 320. Tại trung tâm tỉnh lỵ
Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại
nhà thờ Chánh tòa và
giữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết
giáp có bộ binh tùng thiết tấn
công vào khu vực trung tâm tỉnh
lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch
quân ra khỏi thị xã, Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 3 đã điều động
thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở
nên dữ dội hơn.
Lực lượng tăng viện và trú phòng đã quyết chiến và đẩy lùi đượcc ác đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đã bị bắn cháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốt cầm cự của Cộng quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòa đã hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại các khu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mới tạm lắng sau khi lực lượng tăng viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân.
* Cuộc chuẩn bị của Cộng quân tại mặt
trận Long Khánh
Theo lời khai của 2 tù binh Cộng quân,
những binh sĩ này thuộc một trung đoàn
mới từ miền Bắc xâm nhập vào Nam từ đầu
năm 1975.Trước khi tấn công vào thị
xã Xuân Lộc, đơn vị của hai tù
binh này đã được tập dượt trước với sự
tham gia của một tiểu đoàn thiết giáp.
Theo tài liệu trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 (do tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, thì kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2 lần B 2 xin quân thì tôi (Lê Đức Thọ) vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước đó, anh em (CSBV) đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Ngoài ra địch còn chống cự như trận đánh vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV) không phải là ít, tôi có ý định toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV), tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ tình hình; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem (CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra.
Cũng theo tài liệu nói trên,
lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh trong
những ngày đầu là quân
đoàn 4 CSBV do tướng CSBV Hoàng Cầm
làm tư lệnh, chính uỷ là tướng
CSBV Hoàng Đình Hiệp. Các đại
đơn vị thống thuộc quân đoàn này
gồm có: sư đoàn 6 sư đoàn 7
và sư đoàn 341, sư đoàn
này vưà di chuyển từ Thanh Hóa
vào với thành phần Pháo binh cơ
hữu. (Tài liệu phổ biến trong hồi ký
của Đại tướng Cao Văn Viên có phần
khác biệt về danh hiệu các sư
đoàn CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3
và 341 là những đại đơn vị đầu
tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh,
sau đó được tăng cường thêm sư
đoàn 7 CSBV).
NGÀY
15/4/1975: Kịch Chiến Tại Mặt Trận Long
Khánh
Vương Hồng Anh
* Kịch chiến tại ngã ba Dầu
Giây, tỉnh Long Khánh
Tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây,
đến ngày 15/4/1975, trận chiến tại đây
bước vào ngày thứ 7. Lực lượng bảo vệ
phòng tuyến này là Trung
đoàn 52 Bộ binh với sự yểm trợ của Thiết
giáp và Pháo binh. Từ chiều
ngày 14/4/1975 đến sáng ngày
15/4/1975, các tiền đồn, công sự
phòng thủ của các tiểu đoàn
thuộc Trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về đến
ấp Phan Bội Châu đã bị Cộng quân
tràn ngập. Chiều ngày 15/4/1975, trận
chiến đã xảy ra quyết liệt ngay tại xã
Dầu Giây, ở ngã ba Quốc lộ 1 và
20, giữa lực lượng trú phòng và
2 sư đoàn chính quy và 1 trung
đoàn thiết giáp của Cộng quân.
Thế trận và tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch. Lực lượng trú phòng còn khoảng 2 ngàn quân sĩ (kể cả các tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu khu Long Khánh từ Định Quán rút về hợp cùng với các đơn vị Trung đoàn 52 Bộ binh), trong khi đó lực lượng củaCộng quân đông gấp 10 lần. Những người lính VNCH tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây đã phải chiến đấu với thế trận 1 chống 10. Trận chiến đã diễn khốc liệt ngay từ những phút đầu. Cộng quân pháo kích như mưa xuống các vị trí công sự của quân trú phòng, sau đó là đợt tấn công biển người.
Sau 3 giờ kịch chiến, Cộng quân đã tràn ngập chia cắt các lực lượng của quân lực VNCH án ngữ trên quốc lộ 1 và quốc lộ 20. Do trời tối, và 4 chiến xa M-48 của Lữ đoàn 3 Thiết kỵ bị trúng đạn Pháo của Cộng quân ngay từ đầu nên việc yểm trợ của Thiết giáp đã không thực hiện được. Khoảng 8 giờ tối ngày 15/4/1975 thì toàn phòng tuyến ngã ba Dầu Giây vị vỡ. Tất cả chiến xa và đại bác của quân trú phòng VNCH bị hủy diệt. Về lực lượng Bộ binh và Địa phương quân, chỉ còn khoảng 200 người rút về tuyến sau.
Chiếm được ngã ba Dầu Giây, 2 sư đoàn Cộng quân tiến về Xuân Lộc. Tuy nhiên đại quân của Cộng sản Bắc Việt đã không thể tiến ngay như Văn Tiến Dũng mong muốn, vì rằng ngay sau khi phòng tuyến Dầu Giây thất thủ, hai quả bom khổng lồ “Daisy Cutter” (do Mỹ cung cấp vào trung tuần tháng 4/1975) đã được Không quânVNCH thả xuống khu vực tập trung quân của Cộng quân, và một đoàn xe dài chở quân lính và đại bác Cộng quân trên quốc lộ 20. Theo các tài liệu tình báo, hơn 7 ngàn Cộng quân và hàng trăm vũ khí nặng, quân xa CSVN bị tiêu diệt bởi hai trái bom này.
Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ vào cuối tháng 2/1975, Đại tướng Cao Văn Viên đã yêu cầu Bộ Quốc phòng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn bãi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand. Vào giữa tháng 4/1975, ba trái chuyển đến trước và sau đó ba trái nữa chuyển đến chỉ hai ngày trước khi cuộc chiến kết thúc. Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn cho chuyên viên VN cách gắn ngòi nổ và cách gắn bom lên phi cơ. Thế nhưng chuyên viên Mỹ này không đến kịp. Trước tình hình khẩn cấp và vì mức độ nguy hiểm nếu tồn trữ thứ bom này tại Tân Sơn Nhất hay tại Long Bình nên Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư lệnh Không quân VNCH phải chọn một phi công VNCH kinh nghiệm để bay thả thử trái đầu tiên.
*Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt
trận Long Khánh
Như đã trình bày trong phần
trước, để tăng viện cho lực lượng phòng thủ
tại mặt trận Long Khánh, Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 3/Quân khu 3 đã
điều động Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, lực lượng
trừ bị cuối cùng, nhảy vào mặt trận
Xuân Lộc.
Theo kế hoạch, hai tiểu đoàn Nhảy Dù
được trực thăng vận xuống ấp Bảo Bình,
cách Xuân Lộc 5 km về hướng Nam. Theo
lệnh hành quân của Bộ Tư lệnh Chiến
trường Long Khánh, sau khi nhảy xuống ấp Bảo
Bình, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù mở
cuộc tấn công tái chiếm xã Bảo
Định, một xã nhỏ bé giữa rừng cao su,
cách ấp này 2 km về hướng Bắc. Tin từ
Trung tâm hành quân của bộ Tư
lệnh chiến trường Long Khánh cho biết
xã này đã bị một tiểu
đoàn Cộng quân chiếm giữ từ
ngày 10 tháng 4/1975 khi địch tung đợt
tấn công thứ hai vào khu vực quanh tỉnh
lỵ Long Khánh.
Tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được trực thăng vận xuống khu vườn cao su, cách xã Bảo Định 1 km về phía Bắc. Từ vị trí này tiểu đoàn được lệnh tiến đánh một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Theo sự phối nhiệm tác chiến, tiểu đoàn phải thanh toán thật nhanh mục tiêu nói trên để giải tỏa áp lực cho 1 tiểu đoàn Địa phương quân đang bị Cộng quân bao vây. Cùng thời gian này, tiểu đoàn thứ 4 được trực thăng vận xuống ngay trung tâm thị xã Xuân Lộc để đánh bật các đơn vị Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu, để bộ chỉ huy này có thể rút về phía sau, hoạt động chung với bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh. Cuộc tiến quân tái chiếm xã Bảo Định đã có những sự kiện bất ngờ, lạ lùng. Khi 2 đại đội đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Dù tiến đến gần trụ sở xã Bảo Định thì trời đã về chiều. Điều làm cho các đại đội trưởng ngạc nhiên là tại phòng Thông tin xã, giáo đường Bảo Định, cờ Việt Nam Cộng Hòa vẫn bay phất phới, trong khi cả xã im vắng, không một bóng người, một sinh vật nào ở ngoài đường.
Trung đội đi đầu của đại đội 2 được lệnh khai hỏa. Ngay khi đó, các loạt đạn từ bên trong bắn ra. Lại một bất ngờ nữa là tiếng súng từ trong xã bắn ra không phải là từ loại súng AK 47 của Cộng quân mà lại là tiếng súng M 16 và đại liên 30 của Quân lực VNCH. Vị tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 Dù cho lệnh các đại đội ngưng tấn công và bố trí chờ đợi. Vị tiểu đoàn trưởng gọi về Trung tâm Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh xin xác nhận lần chót về tình hình trước khi tiểu đoàn 9 Dù tấn công. Một sĩ quan có thẩm quyền của trung tâm hành quân quả quyết là xã Bảo Định đã bị Cộng quân chiếm trước đó vài ngày và yêu cầu tiểu đoàn 9 Dù thanh toán mục tiêu thật nhanh.
Khi tiểu đoàn Dù sắp tấn công thì chuông nhà thờ Bảo Định kéo lên, một sĩ quan Địa phương quân chạy ra hô lớn là lực lượng trong xã không phải là Việt Cộng. Thế là lệnh tấn công được hủy bỏ, các đại đội Dù tiến hành cuộc lục soát quanh khu vực đề phòng Cộng quân ẩn núp. Sau khi kiểm soát xã Bảo Định, các đơn vị Dù tiến nhanh về phía suối Gia Cốp, cũng nằm trong rừng cao su, gần vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ.
Lại thêm một bất ngờ là khi lực lượng Dù vừa rời khỏi xã Bảo Định khoảng 200 mét, khi đó trời đã tối, thì “đụng đầu” một tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân. Trận tao ngộ chiến diễn ra hơn một giờ trong rừng cao su, những người lính Nhảy Dù với kinh nghiệm đánh đêm và cận chiến đã tiêu diệt gần trọn cả tiểu đoàn này. Theo tài liệu tình báo, tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân từ Định Quán được lệnh băng rừng di chuyển theo tỉnh lộ 332, bọc xuống phía nam Xuân Lộc để chiếm đóng xã Bảo Định, sau đó sẽ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị của sư đoàn có bí số CT6 đang tập trung tại đồn điền Xuân Lộc. Tuy nhiên vừa đến gần xã Bảo Định thì tiểu đoàn Cộng quân đã bị Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù tiêu diệt.
Ngày
16/4/1975: Kịch Chiến Tại Phòng Tuyến
Phan Rang
Vương Hồng Anh
* Lược ghi tình hình chiến sự
tại phòng tuyến Phan Rang
Như đã trình bày, phòng
tuyến Phan Rang được tăng cường lực lượng với nỗ lực
chính là Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù và các toán
thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng
tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực
Đông Bắc và Tây Bắc thị xã
Phan Rang. Trước đó, vào ngày
4/4/1975, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn 3 được thành lập tại căn cứ
Không quân Phan Rang do Trung tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên Chỉ huy trưởng Trường
Bộ Binh, giữ chức Tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn 3. Với hệ thống chỉ huy mới, lực lượng
mới đến tăng cường, được sự yểm trợ hữu hiệu của
Không quân, tình hình an
ninh, trật tự tại Ninh Thuận-Bình Thuận được
vãn hồi nhanh chóng.
Trong tuần lễ đầu, chỉ có vài trận đụng độ nhỏ không đáng kể, chỉ có áp lực của sư đoàn 7 CSBV ở cạnh sườn Phan Thiết. Trong khi đó, tại Quân khu 3, áp lực của CQ đã gia tăng tại mặt trận Biên Hòa-Long Khánh. Trước tình hình đó, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, quyết định rút Lữ đoàn 2 Nhảy Dù từ Phan Rang về để củng cố lực lượng trừ bị phản ứng cấp thời. Thay thế cho Lữ đoàn 2 Dù và tăng cường lực lượng phòng thủ Bình Thuận là thành phần còn lại của Sư đoàn 2 BB được tái chính trang sau khi rút khỏi Quân khu 1 vào hai tuần trước đó, một liên đoàn Biệt động quân cũng vừa được củng cố cách đó ba ngày và một chi đoàn M-113 thuộc Quân đoàn 2 mới được tái thành lập.
Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên thì lực lượng Sư đoàn 2 BB được tái thành lập với 2 trung đoàn BB, 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 pháo đội 155 ly và chi đoàn M- 113. Việc chuyển quân ra thay thế vừa sắp hoàn tất thì chiến trận bùng nổ. Ngày 14 tháng 4/1975, Sư đoàn F-10 CSBV được tăng cường bởi các đơn vị của Sư đoàn 3 CSBV tấn công vào cụm vị trí của Thiết giáp và Pháo binh. Trước tình thế nguy kịch, Trung tướng Nghi yêu cầu giữ lại một tiểu đoàn Nhảy Dù đang chuẩn bị rút về để đối phó.
* Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn
Đôn thị sát mặt trận Phan Rang.
Ngày
15/4/1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn,
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng (nội các của Thủ tướng Nguyễn
Bá Cẩn) đã bay ra Phan Rang để thị
sát tình hình. Sau khi nghe
Trung tướng tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3, trình
bày về quân số, vũ khí và
thực trạng chiến trường, Tổng trưởng Quốc
phòng Trần Văn Đôn hứa là sẽ
tìm mọi cách để cung cấp các
loại vũ khí chiến lược như hỏa đạn CBU cho
lực lượng bảo vệ phòng tuyến Phan Rang. Sau
khi về đến Sài Gòn, cựu Trung tướng
Trần Văn Đôn cho mời Thiếu tướng Smith,
Tùy viên Quân sự tòa đại
sứ Mỹ, đến gặp ông tại văn phòng Tổng
trưởng Quốc phòng VNCH ở đường Gia Long.
Trong cuộc gặp này, cựu Trung tướng Trần Văn
Đôn đã yêu cầu Thiếu tướng Smith
cung cấp cho Bộ Quốc phòng VNCH những loại vũ
khí mà Quân lực VNCH đang cần
đến, trong đó có hỏa đạn CBU, ống
dòm và máy truyền tin cho
các đơn vị chiến đấu.
Trước yêu cầu của Bộ Quốc phòng VNCH, Thiếu tướng Smith cho biết hiện trong kho vũ khí của Hoa Kỳ không còn những loại này. Tướng Smith hứa sẽ hỏi lại Bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, vì vào thời gian này vũ khí và đạn dược đều nằm ở những tổng kho ngoài lãnh thổ Việt Nam. Rời Bộ Quốc phòng, Thiếu tướng Simth ghé qua Văn phòng của Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông báo cho Đại tướng Viên biết qua về nội dung cuộc gặp gỡ của ông với Tổng trưởng Quốc phòng VNCH. Thiếu tướng Smith nói với Đại tướng Viên: “Tôi được ông Tổng trưởng Quốc phòng mời đến, tưởng ông bàn chuyện di tản gia đình của ông, không ngờ ông bàn chuyện tiếp vận cho các đơn vị ngoài tiền tuyến. Lần đầu tiên, ông Tổng trưởng Quốc phòng bàn với tôi vấn đề đó từ mấy tháng nay”.
* Ngày 16-4-1975: trận chiến cuối
cùng tại phòng tuyến Phan Rang
Trong khi Bộ Quốc phòng VNCH đang tìm
cách để cung cấp các vũ khí tối
cần thiết cho các đơn vị tại chiến trường
thì tại mặt trận Phan Rang, ngày
16/4/1975, Cộng quân tung 2 sư đoàn tấn
công vào căn cứ Không quân
Phan Rang và trung tâm thị xã.
Phòng thủ vòng đai căn cứ Không
quân là 1 tiểu đoàn Nhảy
Dù và 1 tiểu đoàn Địa phương
quân. Tiểu đoàn Nhảy Dùø
này thuộc Lữ đoàn 2 Dù chuẩn bị
về Sài Gòn theo kế hoạch chuyển
quân của Bộ Tổng Tham mưu nhưng do tình
hình chiến sự rất nguy ngập, nên Trung
tướng Nghi đã xin giữ lại đơn vị này.
Bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù cũng
còn ở lại Phan Rang khi Cộng quân tấn
công vào thị xã này. Tại
Trung tâm thị xã, lực lượng
phòng thủ là một trung đoàn của
Sư đoàn 2 BB và một tiểu đoàn
Địa phương quân thuộc tiểu khu Ninh Thuận.
Hệ thống bảo vệ từ xa của phòng tuyến Phan
Rang do một liên đoàn Biệt động
quân, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1
chi đoàn M 113 phụ trách, đã bị
Cộng quân tấn công từ ngày 14
tháng 4/1975. Để dọn đường cho bộ binh tấn
công vào căn cứ Không quân
Phan Rang và trung tâm thị xã,
Cộng quân đã pháo liên tục
vào các vị trí phòng ngự
vòng quanh căn cứ Không quân,
đồng thời bắn phá dồn dập vào khu vực
phi cơ đậu và phi đạo để không cho phi
cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không
quân cất cánh. Cùng lúc
đó, Cộng quân tấn công mạnh
vào thị xã bằng ba hướng. Lúc
bấy giờ đại đa số cư dân Phan Rang đã
di tản vào Nam, thị xã chỉ còn
lại quân nhân, cảnh sát và
một số công chức. Lực lượng phòng thủ
thị xã chống trả quyết liệt, nhưng do Cộng
quân quá đông nên lần lượt
các tuyến phòng thủ trung tâm
đều bị chiếm. Cùng lúc đó, Cộng
quân tung một trung đoàn cắt đứt đường
giao thông trên Quốc lộ 1 ở khu vực
Cà Ná cách thị xã Phan
Rang khoảng 48 km về hướng Tây Nam cốt để chặn
đường rút quân của các đơn vị
VNCH.
* Ngày 16-4-1975: Phan Rang thất thủ
Không
còn lực lượng trừ bị để tăng viện cho
các tuyến phòng thủ, trong khi
đó căn cứ Không quân bị tấn
công dữ dội, nên sáng ngày
16 tháng 4/1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3
kiêm Tư lệnh mặt trận Phan Rang, họp khẩn cấp
với Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư
đoàn 6 Không quân, sư đoàn
đang phụ trách căn cứ Không quân
Phan Rang, và Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư
lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, để bàn kế
hoạch rút quân. Giải pháp
mà các vị tướng chọn lựa là
phân tán và rút theo
cá nhân.
Tình hình tại bộ Tư lệnh của Tướng Nghi vào lúc đó rất nguy kịch, do hệ thống truyền tin bị trúng đạn pháo kích của Cộng quân, nên Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 ở Phan Rang đã không còn liên lạc được với Bộ Tư lệnh chính của Quân đoàn 3/Quân khu 3 đóng tại Biên Hòa, cũng như Bộ Tổng tham mưu ở Sài Gòn. Đến trưa ngày 16/4/1975, thị xã Phan Rang bị Cộng quân chiếm.
Tại Bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến vòng đai phi trường, Trung tướng Nghi và Chuẩn tướng Sang cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú phòng tùy nghi phân tán. Riêng Chuẩn tướng Nhựt được trực thăng (dành riêng cho Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh) đáp xuống ngoài hàng rào phi trường Phan Rang bốc đưa ra biển. Trực thăng chở Tướng Nhựt gặp tàu Hải quân. Tướng Trần Văn Nhựt kể lại rằng từ trực thăng ông nhảy xuống biển và được chiến hạm HQ 3 vớt lên. Từ HQ3, Tướng Nhựt dùng máy truyền tin của Hải quân báo cáo về Sài Gòn là Phan Rang đã thất thủ.
Trở lại với tình hình tại căn cứ Không quân Phan Rang, sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh trại và hệ thống công sự phòng thủ trong căn cứ, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trong tình hình nguy kịch, Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã mở đường máu ra khỏi phi trường và “bắt tay” Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù ở ngoài.
Sau đó, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, đã liên lạc được với phi cơ quan sát, sĩ quan liên lạc của Sư đoàn Nhảy Dù trên phi cơ yêu cầu Đại tá Lương tìm bãi đáp để 25 trực thăng sẽ hạ cánh bốc quân đi. Vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù trình với Trung tướng Nghi đưa bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn và Sư đoàn 6 Không quân di chuyển đến bãi trống phía trái phi trường để lên chuyến trực thăng đầu, còn toàn bộ anh em Nhảy Dù sẽ di chuyển bộ đi về hướng núi Cà Núi để gặp một số đại đội Nhảy Dù bố phòng tại đây.
Theo tài liệu của cựu thiếu tá Nhảy Dù Trương Dưỡng, thì Trung tướng Nghi đã từ chối kế hoạch bảo vệ sự an toàn cho ông và các sĩ quan tham mưu của Quân đoàn tiền phương, ông nói với Đại tá Lương: “Báo cho đoàn trực thăng trở về túc trực, sáng mai sẽ tính. Bây giờ chúng ta tiếp tục di chuyển về Cá Ná lập phòng tuyến chận địch tại đó”. Nghe Trung tướng Nghi nói như vậy, Đại tá Lương đành cho lệnh bố trí chờ đêm tối băng đường ra khỏi vòng vây của Cộng quân. Về phần Trung tướng Nghi và Chuẩn tướng Sang, do từ chối kế hoạch đầy tình huynh đệ chi binh của Đại tá Lương, nên bị kẹt lại và cuối cùng đã bị CQ bắt.
Ngày
22/4/1975: Quân Đoàn 3 Lập
Phòng Tuyến Trảng Bom
Vương Hồng Anh
*Diễn tiến cuộc triệt thối của Lực lượng
VNCH khỏi Long Khánh
Sau hơn 10 ngày quyết chiến với 4 sư
đoàn Cộng quân, vào ngày
20 tháng 4/1975, toàn bộ lực lượng
VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc được
lệnh rút khỏi chiến trườngnày để về
Phước Tuy. Cuộc rút quân được diễn ra
từ chiều ngày 20 tháng 4/1975, đến
sáng ngày 22/4/1975, tất cả các
đơn vị đã có mặt tại các vị
trí mới do Bộ Tư lệnh Quân đoàn
3/Quân khu 3 phối trí.
Theo kế hoạch rút quân, lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc sẽ sử dụng liên tỉnh lộ 2 phía Nam Long Khánh, rút về Phước Tuy theo thứ tự: Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị trực thuộc. Bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh và các tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu này. Lữ đoàn 1 Dù và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.
Lộ trình rút quân là các cánh quân sẽ xuất phát từ Tân Phong, Long Giao, theo Liên tỉnh lộ 2 về Phước Tuy. Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục giao chiến và đánh bật Cộng quân ra khỏi các vị trí trọng điểm trong thị xã và là lực lượng hậu đoạn sẽ rút đi sau cùng. Các đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng Địa phương quân rút đi ngay trong buổi chiều. Cánh quân của Sư đoàn 18 BB rút đi tương đối an toàn. Còn cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh chỉ huy đã bị Cộng quân chận đánh. Gần tối 20/4/1975, khi Đại tá Phúc và bộ chỉ huy của ông đang di chuyển, một đơn vị Cộng quân từ trên một đồi cao sát với Liên tỉnh lộ 2, đã bắn nhiều loạt đạn B 40 và bích kích pháo xuống đoàn quân.
Là lực lượng đi đoạn hậu (rút quân sau cùng), các tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 Dù đã phải tử chiến với các trung đoạn Cộng quân trên đường lui binh. Do phải bảo mật cho cuộc rút quân, đồng thời để nghi binh, nên chỉ đến tối 20/4/1975, các tiểu đoàn Dù mới nhận được lệnh rời bỏ chiến tuyến. Tại khu vực Bảo Định, 7 giờ tốingày 20/4/1975, trong khi lực lượng Dù đang giao tranh quyết liệt với Cộng quân thì được lệnh rút quân. Các đơn vị phân thành 2 bộ phận: một bộ phận tiếp tục đánh chận Cộng quân cho bộ phận khác rút. Nói một cách khác, Lữ đoàn 1 Dù vừa đánh vừa tiến hành kế hoạch di chuyển quân về phòng tuyến mới. Lộ trình rút quân của Lữ đoàn Dù dài hơn 40 cây số đường rừng ven theo Liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Đức Thành, Long Lễ về Bà Rịa…
Trong cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc và khu vực phụ cận, các chiến sĩ Dù được lệnh mang theo tất cả cấp số đạn và lựu đạn, quân trang quân dụng. Nhưng có một điều đã làm xót xa các cấp chỉ huy và binh sĩ Dù, đó là những chiến sĩ Dù bị thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh rút quân đang chờ đợi tải thương. Với những người bị thương, nhưng còn tỉnh táo, còn có thể đi được thì từng tổ binh sĩ 4 người sẽ thay nhau dìu đi, còn với những chiến binh Dù bị trọng thương thì thật đau lòng. Trong một tình thế bất khả kháng, tất cả những người lính Dù đều khóc khi phải cố nén đau thương từ biệt những đồng đội của mình đang bị trọng thương ở các chiến hào.
Trước phút lên đường, nhiều người lính Nhảy Dù đã òa lên khóc lớn, ôm chầm lấy đồng đội, máu từ áo bạn thấm sang áo mình, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ phải để bạn bè bị thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường… Họ sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội, vuốt từng đôi mắt sau khi các quân y sĩ, y tá quân y đã chích cho thương binh những mủi thuốc an thần. Nón sắt của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối trên ba lô, súng cá nhân để bên cạnh. Như một thước phim bi tráng trong các tác phẩm điện ảnh về đề tài chiến tranh, những người lính Dù đứng nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn quân lên đường.
Đến 9 giờ tối ngày 20 tháng 4/1975, các tiểu đoàn Dù ra đến Quốc lộ 1. Tại đây, đông đảo dân chúng của các khu Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo An đã đứng sẵn ở hai bên đường và xin đi theo các chiến sĩ Dù để di tản. Cuộc hành trình gian khó bắt đầu…
*Những cảm tử quân trên đường
rút quân
Theo kế hoạch rút quân, ngoại trừ Tiểu
đoàn 3 Pháo binh Dù được di
chuyển trên đường lộ với sự bảo vệ an ninh lộ
trình của đại đội Trinh sát Dù,
các tiểu đoàn Dù đều phải băng
rừng mở đường di chuyển. 4 giờ sáng
ngày 21/4/1975, tại ấp Quí Cả, gần địa
giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy,
đoàn xe chở Tiểu đoàn 3 Pháo
binh Dù và Đại đội Trinh Sát
Dù bị 2 tiểu đoàn Cộng quân phục
kích. Pháo đội C và một trung
đội của đại đội Trinh Sát Dù bảo vệ
pháo đội này đã bị tổn thất, đa
số quân sĩ đều bị thương vong trước các
đợt tấn công biển người của Cộng quân.
Trên lộ trình triệt thối, đại đội đi
đầu của Tiểu đoàn 9 Dù đã đụng
độ nặng với Cộng quân tại thung lũng Yarai,
dưới chân núi Cam Tiên. Đại đội
này đã bị những “chốt” của Cộng
quân từ trên cao bắn xuống. Cuộc giao
tranh kéo dài nhiều giờ. Để diệt
các chốt của Cộng quân, các tốn
cảm tử Dù được thành lập ngay tại trận
địa với những quân nhân tình
nguyên. Những cảm tử quân này mặc
áo giáp, đeo súng phóng
hỏa tiển cá nhân M 72, lựu đạn,
bò đến các “chốt” Cộng quân ở
trên núi cao. Có nhiều tốn vừa
bò lên núi, đã bị cả chục
trái lựu đạn của địch từ trên cao
ném xuống.
Họ phải lách thật nhanh, nằm xuống, trước khi lựu đạn địch quân nổ, hoặc chụp lấy và mém trả lại. Trong trường hợp bắn M-72 nếu không có kết quả, họ phải thay đổi ngay vị trí để tránh sự bắn trả của Cộng quân.
Có những người lính Dù đã làm cho mọi người khâm phục về sự dũng cảm phi thường của họ. Chiếc bunker cuối cùng của Cộng quân trên núi Cam Tiên vô cùng kiên cố. Đó là hầm chỉ huy của một đơn vị CSBV. Hai cảm tư quân Dù đã bắn M72 vào bunker này nhưng vẫn không hạ được mục tiêu. Một đồng đội của họ từ lưng chừng núi đứng lên, để M 72 trên vai, bắn thẳng vào mục tiêu. Từng loạt đạncủa Cộng quân bắn trả tới tấp. Nhưng người xạ thủ gan dạ này vẫn đứng thẳng không chịu cúi xuống tiếp tục bắn: chiếc bunker chỉ huy và các ổ súng nặng của Cộng quân bị hủy diệt. Thanh tốn xong mục tiêu này, các đơn vị Dù tiếp tục cuộc hành trình gian khó tiến về Bà Rịa. (Phần này biên soạn theo tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, 1 nhà báo quân đội, và lời kể của một số nhân chứng)
* Tái phối trí tại
phòng tuyến mới: Trảng Bom-Long
Thành-Phước Tuy.
Ngày 22 tháng 4/1975, cuộc rút
quân hoàn tất. Sư đoàn 18 Bộ
binh sau khi về đến Long Lễ trong ngày
21/4/1975, đã được được Bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3 cho di chuyển nghỉ dưởng quân
hai ngày tại Long Bình, sau đó
các trung đoàn và đơn vị thuộc
dụng được điều động đi tăng cường phòng thủ
tuyến mặt Đông thủ đô Sài
Gòn, kéo dài từ Tổng kho Long
Bình đến Kho đạn Thành Tuy Hạ, tiếp
cận với lực lượng của các quân trường
như Trường Bộ Binh, Trường Thiết Giáp;
Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ
Phước Tuy, bảo vệ Quốc lộ 15 từ LongThành về
Bà Rịa, và là lực lượng tiếp
ứng cứu Vũng Tàu khi thành phố
này bị tấn công.
Với kế hoạch phối trí mới của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 để bảo vệ Sài Gòn, kể từ sáng 22/4/1975, phòng tuyến án ngữ phía Bắc và phía Đông của Quân đoàn 3 và Quân khu 3 được thành hình với liên tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại phòng tuyến này có Sư đoàn 18 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ (do Chuẩn tướng Trần Quang Khôi chỉ huy) và Lữ đoàn 468 Thủy quân Lục chiến. Trước đó, Lữ đoàn 147 và 258 Thủy quân lục chiến đã được tăng phái cho Quân đoàn 3 và là lực lượng bảo vệ phía Bắc của phi trường Biên Hòa.
Về lực lượng phòng thủ vòng đai xa
của Sài Gòn, tính đến
ngày 22 tháng 4/1975, có 3 sư
đoàn Bộ binh: Sư đoàn 18 BB do Tướng
Lê Minh Đảo chỉ huy; Sư đoàn 25 Bộ binh
do Tướng Lý Tòng Bá chỉ huy,
phụ tại phòng tuyến Tây Ninh, Hậu
Nghĩa, Long An; Sư đoàn 5 Bộ binh do Tướng
Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, phụ trách
phòng tuyến Bình Dương.
23/4/1975:
Các Cuộc Dàn Xếp Giải Quyết
Tình Hình VNCH
Vương Hồng Anh
* Cuộc họp tại Bộ Tổng Tham Mưu
Để ổn định tình thế, 6 giờ chiều ngày
23/4/1975, với chức danh là Tổng trưởng Quốc
phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn
đã họp các tướng lĩnh tại văn
phòng Tổng tham mưu trưởng. Tại buổi họp
này, cựu Tướng Đôn nói
“Dù có thương thuyết để đình
chiến, chúng ta cũng cố giữ những gì
chúng ta có”. Vị Tổng trưởng Quốc
phòng yêu cầu Đại tướng Viên,
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh
Quân đoàn 3 & Quân khu 3 sắp
xếp lại tuyến phòng thủ để bảo vệ Sài
Gòn và đoạn đường từ Sài
Gòn.Cũng tại cuộc họp này, Đại tướng
Viên đã báo cáo
tình hình chiến sự và khả năng
phòng ngự của Quân lực VNCH tại khu vực
vòng đai thủ đô Sài Gòn
và khu vực các tỉnh lân cận.
Tướng Viên cho biết lực lượng Cộng quanh chung
quanh Sài Gòn và Biên
Hòa đã lên đến 15 sư
đoàn, trong đó có 1 sư
đoàn pháo binh, nhiều lữ đoàn
thiết giáp và các đơn vị
phòng không sử dụng hỏa tiển SAM.
* Các cuộc dàn xếp về
nhân sự lãnh đạo VNCH trong những
ngày cuối của cuộc chiến
Cùng với những diễn biến dồn dập về
quân sự, những dị biệt và bất đồng về
vấn đề nhân sự lãnh đạo miền Nam cũng
đang được các nhà hoạt động
chính trị bàn thảo ráo riết,
trong đó có cả sự tham dự “nhiệt
tình” của Đại sứ quán Pháp.
Theo hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn
Đôn, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức,
Tòa Đại sứ Pháp đã nhảy
vào chính trường Việt Nam. Cố vấn
chính trị của sứ quán Pháp
là ông Brochand đã gặp cựu Trung
tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ
là Phó Thủ tướng kiêm Tổng
trưởng Quốc phòng của nội các do
ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ tướng.
Nhà ngoại giao này đã cho
Phó Thủ tướng Đôn biết sứ quán
Pháp có liên lạc với Hà
Nội và nhấn mạnh thêm: “Nếu có
thương thuyết thì Cộng sản chỉ thương thuyết
với ông Dương Văn Minh mà thôi”.
Ông Brochand cũng cho là ông Minh
cần sự hợp của Tướng Đôn.
Trước khi ra về, ông Brochard hỏi Phó
Thủ tướng Trần Văn Đôn: Ông Minh
có thể gọi điện thoại cho ông được
không? Tướng Đôn gật đầu. Mười
phút sau, ông Dương Văn Minh gọi điện
thoại cho Tướng Đôn và xin một cuộc
hẹn. Mười giờ tối ngày 22/4/1998, Tướng
Đôn gặp ông Minh. Tướng Đôn hỏi
ông Minh:
- Anh có thể thương thuyết với bên kia
được không?
- Được, nhưng phải thật lẹ, nếu không
chúng ta không có hy vọng.
Tướng Đôn cho rằng ông Minh biết Cộng sản Hà Nội đang chờ ông nắm quyền rồi sẽ thương thuyết. Ông Minh chưa tiếp xúc với Tổng thống Trần Văn Hương vì vị tân Tổng thống không thích ông Minh. Theo Tướng Đôn, việc này rất bất lợi nhất là sau khi VNCH bỏ Xuân Lộc. Ông Minh đề nghị Tướng Đôn đi gặp Đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương. Rời nhà ông Minh, ngay trong đêm 22/4/1975, Tướng Trần Văn Đôn đã đến nhà đại sứ Mỹ Martin dù đã gần 12 giờ khuya. Tướng Đôn kể lại khi ông vừa ngồi xuống trong phòng khách thì sĩ quan tùy viên của Đại sứ Hoa Kỳ đến nói nhỏ bên tai ông Martin. Vị đại sứ xin lỗi Tướng Đôn, bước vào phòng riêng, khi trở ra ông nói: Có một phi cơ xin phép đáp xuống phi trường Manila, vì bên đó Phi Luật Tân nghi trên phi cơ có Tổng thống Thiệu nên họ điện thoại hỏi thử có đúng không. Hỏi lại thì biết Tổng thống Thiệu còn ở trong Dinh Độc Lập.
Cựu Tướng Đôn xin lỗi ông Martin vì tình hình bắt buộc nên phải đến gặp vị đại sứ Hoa Kỳ trong giờ khuya. Sau đó, Tướng Đôn trao đổi với ông Marin về ý kiến của ông Dương Văn Minh và yêu cầu Đại sứ Martin đề nghị Tổng thống Trần Văn Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương thuyết với CSBV. Ông Martin hứa với Tướng Đôn là sẽ cố thuyết phục Tổng thống Hương. Bấy giờ là 1 giờ sáng ngày 23/4/1975…
Cũng theo tài liệu của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, để tìm một giải pháp ổn định trước những biến động thời cuộc, ngày 23 tháng 4/1975, một một số tướng lãnh và sĩ quan cao cấp do Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu, lúc bấy giờ đang giữ chức Tổng cục trưởng Quân Huấn; Trung tướng Vĩnh Lộc, nguyên Chỉ huy trưởng trường Cao Đẳng Quốc Phòng, hướng dẫn, đã đến tư dinh của Tướng Trần Văn Đôn. Phái đoàn này đề nghị Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc phòng chỉ định người thay thế Đại tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng tham mưu trưởng vì theo các vị này, Đại tướng Viên không còn thiết tha với quân đội nữa.
Trước đề nghị của một số tướng lãnh, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn nói: “Tình thế sắp thay đổi, tôi không cần chỉ định ai, tự nhiên cũng có người thay thế.” Khi đó, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị đề nghị: “Thôi Trung tướng làm Tổng trưởng Quốc phòng kiêm luôn Tổng Tham Mưu trưởng đi.” Cựu Trung tướng Đôn từ chối và nói: “Tôi đã về hưu lâu rồi, lâu nay không còn mặc quân phục nữa, nhưng nếu cần tôi cũng có thể đảm nhận vai trò Tổng Tham mưu trưởng lúc khó khăn này. Nhưng tôi thấy tình thế biến chuyển quá mau, chưa biết nó sẽ đi tới đâu.”
Tướng Trần Văn Đôn hỏi lại Trung tướng Trị: “Vậy thì ai có thể thay thế Đại tướng Viên?” Trung tướng Trị trả lời: “Trung tướng Nguyễn Đức Thắng, gần hai năm nay ông ấy không có làm việc.”
Theo lời cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi ký thì ông biết rõ khả năng của Trung tướng Thắng và đã gợi ý nhưng Tướng Thắng đã từ chối. Tướng Thắng xuất thân khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định-Thủ Đức năm 1952, là một trong bốn tiểu đoàn trưởng đầu tiên của binh chủng Pháo binh VNCH. Từ 1960-1969, ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng: đầu năm 1961, khi còn ở cấp trung tá, ông đã được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh và chỉ 1 tháng sau, được thăng cấp đại tá. Tháng 10/1961, ông bàn giao chức vụ nói trên cho Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1967 là Tổng Thống VNCH) và về làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh, cuối năm 1962, ông được điều động về Bộ Tổng Tham mưu, phụ trách về kế hoạch hành quân; được thăng Chuẩn tướng vào tháng 8 năm 1964, thăng Thiếu tướng tháng 11/1965 và giữ chức Tổng trưởng bộ Xây dựng Nông thôn trong nội các của Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ (từ 1965-1967), Tổng Tham mưu phó đặc trách Địa phương quân-Nghĩa quân (tháng 9 năm 1967); cuối tháng 1/1968 được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 4 & Quân khu 4 (năm 1968), thăng trung tướng vào tháng 5/1968, một tháng sau ông xin thôi giữ chức tư lệnh Quân đoàn, trở lại Bộ Tổng tham mưu giữ chức phụ tá Kế hoạch của Tổng Tham mưu trưởng (1969 đến 1972); năm 1973, ông xin nghỉ dài hạn không lương 5 năm để hoàn tất chương trình cử nhân và cao học toán (trước đó ông đã thi đổ một số chứng chỉ Toán của đại học Khoa học với hạng ưu).
Tại cuộc gặp gỡ nói trên, một số tướng
lãnh còn đề nghị với cựu Tướng
Đôn là nên bắt tất cả những người
Mỹ còn lại làm con tin để Mỹ tiếp tục
viện trợ giữ miền Nam. Tướng Đôn trả lời với
phái đoàn là chuyện đó
đã có tin đồn rồi, thế nào Mỹ
cũng biết và có kế hoạch đối
phó. Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ
đang chờ ở ngoài khơi sẽ đổ bộ với lực lượng
hùng hậu, chừng đó, theo Tướng
Đôn sẽ có đổ máu và
tình thế sẽ rối rắm nguy ngập hơn nữa. Cựu
Tướng Đôn cũng phân tích
là hơn một ngàn người Mỹ còn
lại ở Việt Nam muốn cùng với Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa để cùng chiến đấu
đồng thời thúc đẩy, xoay chuyển dư luận Mỹ
yểm trợ cho miền Nam. Cuối cùng cựu Trung
tướng Trần Văn Đôn khuyên mọi người
là cần phân biệt chính quyền Mỹ
và những người Mỹ ở Sài Gòn.
Ông nói rằng chính quyền Mỹ ở
Sài Gòn chỉ có ông đại sứ
đại diện mà thôi, bỏ rơi Việt Nam
là chính phủ Mỹ và Quốc hội Mỹ,
chứ không phải là những người Mỹ đang ở
Sài Gòn, nếu bắt một số người Mỹ ở
Sài Gòn làm con tin thì
tội nghiệp cho họ và chẳng có
ích lợi gì.
27-4-1975:
Quốc Hội Họp Khẩn Bầu Tân Tổng Thống VNCH
Vương Hồng Anh
*Quốc hội VNCH họp khẩn xét 2 đề
nghị của Tổng thống VNCH Trần Văn Hương về chức vụ
Tổng Thống và Thủ tướng VNCH
Sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần
Văn Hương đã mở cuộc họp đặc biệt tại tư dinh
với thành phần tham dự gồm các
ông: Trần Văn Linh, Chủ tịch Tối cao
Pháp viện; Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng
viện; Phạm Văn Út, Chủ tịch Hạ Viện; cựu
Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (Thủ tướng
Nguyễn Bá Cẩn đã từ chức từ
23-4-1975), và 1 phụ tá Tư pháp
của Tổng thống. Tại cuộc họp này, Tổng thống
Trần Văn Hương nhắc lại 2 biện pháp mà
ông đã đề nghị trong phiên họp
với Quốc hội ngày 26/4/1975:
Thứ 1: Giao cho Tổng thống đương nhiệm toàn
quyền chỉ định 1 Thủ tướng toàn quyền.
Thứ 2: Bầu ông Dương Văn Minh làm Tổng
thống.
Theo lời kể của Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, trong phiên họp sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương trình bày diễn tiến cuộc họp riêng với ông Dương Văn Minh, và cho biết “ông có mời ông Minh làm Thủ tướng toàn quyền nhưng ông Minh không nhận, mà yêu cầu ông phải từ chức, giao chức vụ Tổng thống cho ông Minh để ông Minh có toàn quyền nói chuyện với Việt Cộng”.
Chiều ngày 27 tháng 4/1975, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều Tướng lãnh trong Bộ Tổng Tham mưu và vị Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đến tham dự cuộc họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội. Phái đoàn của Tổng trưởng Quốc phòng đến trước, và khoảng 7 giờ 30 phút tối ngày này thì có 138 nghị sĩ, dân biểu hiện diện. Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn tóm tắt tình hình quân sự: Sài Gòn đang bị bao vây bởi 15 sư đoàn CSBV đặt dưới quyền của ba quân đoàn CSBV. Quốc lộ Sài Gòn-Vũng Tàu bị cắt đứt và CQ đang tiến về Long Bình. Đến 8 giờ 20 ngày 27 tháng 4/1975, Đại hội đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu (136 thuận-2 chống) chấp thuận trao chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh.
* Cuộc gặp gỡ giưã Tổng thống Trần
Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn Minh.
Như đã trình bày, sau khi Tổng
Thống Thiệu từ chức vào ngày
21/4/1975, Tòa Đại sứ Pháp đã
nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn
chính trị của sứ quán Pháp
là ông Brochand đã gặp Tướng
Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng. Ông Brochand đã cho Tướng
Đôn biết sứ quán Pháp có
liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh
rằng “Nếu có thương thuyết thì Cộng
sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh
mà thôi”. Ông Brochand cũng cho
là ông Dương Văn Minh cần sự hợp của
Tướng Trần Văn Đôn.
Theo sự sắp xếp trung gian của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1975, cựu Đại tướng Dương Văn Minh đã đến gặp Tổng Thống Trần Văn Hương tại tư dinh của Đại tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham mưu. Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Trung tướng Đôn cũng đến nhà Đại tướng Khiêm để tìm hiểu tình hình, ông đã gặp bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ tướng và Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của nội các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lý thường vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này, các nhân vật trên đã nói là cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh đã thất bại vì ông Minh từ chối ghế “Thủ tướng toàn quyền”.
Trước tình hình như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị cựu Trung tướng Đôn nên nhận chức vụ thủ tướng để thương thuyết. Cựu Tướng Đôn đã kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông Brochand là Pháp đã liên lạc với CS Hà Nội và phía CS chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi. Sau đó cựu Trung tướng Đôn đến thẳng Tòa Đại sứ Pháp. Các viên chức cao cấp sứ quán này lặp lại ý kiến trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến ngày Chủ nhật 27/4/1975, nếu không tiến triển gì thì CQ sẽ pháo kích vào Sài Gòn. Theo lời kể của cựu Trung tướng Đôn, sau khi nghe tin này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của Cộng quân bắn bừa bãi, nên ông hứa sẽ cố gắng dàn xếp để tìm một giải pháp tạm thời. Chiều hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho cựu Tướng Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định ông Nguyễn Ngọc Huy làm Thủ tướng. Theo Đại tướng Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để nên khó có thể hòa giải được. Cựu Trung tướng Đôn điện thoại báo cho cựu Đại tướng Minh, ông Minh mời cựu Trung tướng Đôn lại nhà để bàn tính tìm một giải pháp.
Lúc 5 giờ 45 ngày 24/4/1975, cựu Trung tướng Đôn vào Dinh Độc Lập thì gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với ông Nguyễn Xuân Phong, Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm, từ Pháp mới về. Vừa lúc đó, Đại sứ Martin từ trong văn phòng Tổng Thống Trần Văn Hương đi ra. Cựu Trung tướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải Tổng Thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay không. Nhưng ông Martin đã trả lời là không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra báo cho cựu Trung tướng Đôn biết là ông Hương sẽ chỉ định ông Huy làm thủ tướng. Đến lượt ông Huy vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên vào trình bày cho Tổng thống Hương tình hình quân sự: Cộng quân đang tiến sát vòng đai Sài Gòn, vũ khí, quân dụng, đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút… Nghe xong phần trình bày, Tổng Thống Hương nhìn Đại tướng Viên và nói: “Ông sẽ làm Tổng tư lệnh Quân đội”. Tổng Thống Hương nói tiếp rằng ông sẽ chia xẻ với số phận của anh em quân nhân trên các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng với anh em binh sĩ.
Trước khi rời Dinh Độc Lập, cựu Trung tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: “Cụ nghiên cứu lại, vì bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi”. 8 giờ tối hôm đó, cựu Trung tướng Đôn trở lại nhà ông Dương Văn Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ quán Pháp. Cựu Tướng Đôn giải thích với ông Dương Văn Minh: “Ông Hương vừa mới lên mà yêu cầu ông từ chức thì cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa còn Hiến pháp, còn Quốc hội.” Ý kiến của cựu Trung tướng Đôn chỉ có ông Huyền đồng ý, còn ông Minh và ông Mẫu thì cho rằng ông Hương trì hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận.
* TT Nguyễn Văn Thiệu gặp cựu Trung tướng
Trần Văn Đôn lần cuối cùng
8 giờ sáng ngày 25 tháng
4/1975, cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho cựu
Trung tướng Đôn ngỏ ý muốn gặp
ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, cựu TT
Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn ở trong dinh
này) để nhờ lấy giúp cho bạn của
ông một giấy chiếu khán đi ngoại quốc.
Khi cựu Trung tướng Đôn vào dinh Độc
Lập, cựu Tổng Thống Thiệu cho biết là
ông đã hiểu rõ diễn biến.
Câu chuyện nửa chừng thì cựu Tổng Thống
Thiệu điện thoại cho Tổng thống Hương và
nói: “Nếu ông Dương Văn Minh
không chịu làm Thủ tướng toàn
quyền thì cụ tìm một người khác
có thể thương thuyết với bên kia
và người đó theo tôi là
ông Đôn”.
Để điện thoại xuống, cựu Tổng Thống Thiệu nói với ông Đôn: “Theo tôi, ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận trách nhiệm này. Tôi đã nghĩ đến ông từ năm 1973. Tôi đã biết ông từng tiếp xúc nhiều giới chức…Ông có uy tín trong giới chính trị và quân đội. Nhưng tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết tôi đã mời ông làm Thủ tướng từ năm 1973 rồi. Nhưng ngày nay thì tôi đề nghị với ông Hương mời ông làm việc”.
Cựu Trung tướng Đôn hỏi lại cựu TT Thiệu:
“Ông có nghĩ là bây giờ
đã trễ không?” Ông Thiệu im lặng
không đáp. Trước khi từ giã, cựu
Trung tướng Đôn nhìn thẳng cựu TT
Thiệu, rồi nói: “Còn phần ông,
chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ
không muốn chuyện xảy ra như ông Diệm.
Xung quanh ông đang bỏ ông nhất
là khi nghe có tân thủ tướng
và chính phủ mới. Ông phải đi
cho nhanh. Nếu tôi làm Thủ tướng, nội
các của tôi cũng sẽ đòi bắt
ông và tôi làm theo.”
Từ biệt cựu TT Thiệu, cựu Trung tướng Đôn
ghé nhiều nơi để trao đổi ý kiến với
một số yếu nhân và sau đó trở về
nhà. Đến nhà, cựu Trung tướng
Đôn được biết cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại
cho ông mấy lần và có để lại số
điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại thì
cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giả với cựu
Tướng Đôn: “Chúc anh thành
công và cám ơn anh.” Cựu Tướng
Đôn nhắc lại những gì đã
nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và
nói: “Ông đừng quên những
gì tôi đã nói hồi
sáng, nghĩa là ông phải ra đi.”
Sau đó, cựu Tướng Đôn được báo
là người Mỹ đã giúp cựu Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm và cả gia đình hai
vị này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay
đặc biệt đến Đài Bắc, Thủ đô Đài
Loan.
Ngày
28/4/1975: Tướng Minh Nhận Chức Tổng Thống VNCH
Vương Hồng Anh
* Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao
quyền cho ông Dương Văn Minh
Trong
khi Cộng quân áp lực nặng quanh
vòng đai Thủ đô Sài Gòn,
thì một sự kiện trọng đại đã xảy ra
trong ngày 28/4/1975: Tổng thống Trần Văn
Hương từ chức, trao quyền nguyên thủ quốc gia
cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ
bàn giao diễn ra vào chiều ngày
28 tháng 4/1975. Trong buổi lễ này,
Quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, Tư
lệnh Không quân và Trung tướng
Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên
quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến
dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho
ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức,
Tổng thống Trần Văn Hương đã công bố
sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên
khỏi chức vụ Tổng tham mưu trưởng (theo nguyện vọng
của Đại tướng Viên). Sau nghi lễ nhận chức,
ông Dương Văn Minh đã giới thiệu
ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó
Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu làm
Thủ tướng.
* Tướng Trần Văn Đôn kể lại những
biến cố, sự kiện trong ngày 28/4/1975
Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn
ghi lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trong buổi
lễ bàn giao, ông Dương Văn Minh
đã “trầm tĩnh đọc bản tuyên bố đường
lối của mình là “sẽ chấm dứt chiến
tranh bằng cách thương thuyết và
hòa giải với Mặt trận Giải phóng miền
Nam”.
Vào 6 giờ chiều, cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra cổng. Nhà của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh Độc Lập nên chỉ vài phút sau ông đã về đến nhà, lại nghe “tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Trên dinh Độc Lập. Nưả giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ máy bay nhỏ dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Không quân thì được báo cáo có 3 phi cơ của Không quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và Việt Cộng đã sử dụng để bay vào Sài Gòn dội bom. Hai phản lực cơ F-5 của Không quân đã bay lên nghinh chiến đuổi 3 phi cơ này. (Tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên cho biết 3 phi cơ tham gia cuộc dội bom là phản lực cơ A-37 ).
Cũng theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, trước lễ bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều 28/4/1975, thì vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4, cựu Trung tướng Đôn đã đến văn phòng Tổng tham mưu trưởng như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo dõi tình hình quân sự. (Theo tài liệu ghi trong Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu , ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng phòng 4 Bộ Tổng Tham mưu).
Trong cuộc gặp nói trên, Tướng Viên nhắc với Tướng Đôn rằng Tổng thống Trần Văn Hương đã ký sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông yêu cầu Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc phòng, cử người thay thế. Ngay lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi cho Tướng Đôn, dặn ông cố gắng giữ Tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, đừng cho Tướng Viên đi.
Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc
phòng Trần Văn Đôn không biết xử
sự làm sao vì Tướng Viên
đã được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ
(sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương
công bố vào chiều ngày
28/4/1975). Tướng Đôn hỏi Tướng Viên:
-Nếu anh đi, thì theo anh ai sẽ thay thế được
?
Tướng Viên không trả lời thẳng mà
hỏi lại Tướng Đôn:
-Anh sẽ làm gì ?
Tướng Đôn trả lời:
-Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày
trước, ông Minh và ông Mẫu muốn
tôi tiếp tục giữ ghế Tổng trưởng Quốc
phòng nhưng tôi chưa trả lời, nay
ông Minh cho tôi biết Hà Nội
không muốn có người nào trong
nội các cũ ở lại trong nội các mới.”
Về lại văn phòng, Tướng Đôn nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đã ký cho phép Tướng Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần Văn Hương đã ký trước khi bàn giao chức vụ Tổng thống.
* Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân
lực VNCH vào những ngày cuối
tháng 4
Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH,
như đã trình bày, sau khi Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21
tháng 4/1975, và sau cuộc rút
quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn
Viên không còn thiết tha với chức
vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, trong
khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn Hương
lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên
làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ
quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng
mà Đại tướng Viên đã nắm giữ từ
tháng 10/1965. Thế nhưng, Đại tướng Cao Văn
Viên đã trình xin Tổng Thống
Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng
thống Trần Văn Hương không đồng ý
và yêu cầu Đại tướng Viên tiếp
tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng Thống Trần Hương
trao quyền cho ông Dương Văn Minh thì
Đại tướng Viên mới nhận được quyết định giải
nhiệm. Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn
Viên ghi trong hồi ký như sau: “Trước
khi Tổng Thống Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra
một sắc lệnh giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng
Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân
Tổng Thống (cựu Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn
người thay thế tôi, tôi đề nghị Tướng
Đồng Văn Khuyên, lúc ấy đang giữ chức
Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiêm Tổng cục
trưởng Tổng cục Tiếp vận”.
* Tình hình chiến sự trong
ngày ông Dương Văn Minh nhận chức
Tổng Thống
Tình hình chiến sự trong ngày
28/4/1975 ghi nhận nhiều diễn biến dồn dập. Cộng
quân đã tung thêm lực lượng
áp sát vòng đai
SàiGòn.Tại Bình Dương, sau khi
đã đưa một sư đoàn vào khu
Đông Nam và tấn công vào
các khu vực Phú Giáo, Tân
Uyên, Cổ Mi, Cộng quân đã điều
động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1
CSBV tiến sát đến các tuyến
phòng tuyến do các trung đoàn
7, 8, 9 của Sư đoàn 5 Bộ binh. Trong
các trận đánh tại BìnhDương
vào 10 ngày cuối của tháng
4/1975, nổi bật nhất là trận Bến Sắn giữa sư
đoàn 5 Bộ binh và 1 sư đoàn chủ
lực Quân đoàn 1 của Cộng quân.
Cộng quân muốn chiếm Bến Sắn để từ đó
chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương
và mặt tây của tỉnh Biên
Hòa nhưng đã bị sự kháng cự
mãnh liệt của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng
quân bị tổn thất nặng.
Cũng trong ngày 28/4/1975, Căn cứ Không
quân Biên Hòa bị pháo
kích dữ dội. Theo tài liệu của Đại
tướng Cao Văn Viên, tất cả các phi cơ
tại căn cứ này đều đã được dời qua phi
trường Tân Sơn Nhất hay xuống phi trường
Trà Nóc ở miền Tây. Sư
đoàn 3 Không quân bắt đầu
phá hủy những phương tiện còn lại
trong căn cứ Biên Hòa.
29/4/1975:
Tân Chính Phủ VNCH Đòi Mỹ
Rút Khỏi Việt Nam
Vương Hồng Anh
* Tân Thủ tướng Vũ Văn Mẫu nhận chức,
yêu cầu Mỹ rút khỏi VN
11 giờ 30 phút ngày 29/4/1975,
ông Vũ Văn Mẫu chính thức nhận chức Thủ
tướng. Do ông Nguyễn Bá Cẩn, Thủ tướng
do Tổng thống Thiệu bổ nhiệm đã rời Việt Nam,
nên Phó Thủ tướng Đôn thay mặt
nội các cũ ký biên bản
bàn giao với tân thủ tướng Vũ Văn Mẫu.
Diễn tiến lễ bàn giao này được cựu
Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại như sau:
10 giờ sáng ngày 29 tháng/4, cựu Tướng Trần Văn Đôn đến Phủ Thủ Tướng, đi đường Thống Nhất. Khi đi ngang Tòa Đại sứ Mỹ, ông thấy nhiều người vô ra tấp nập như thường ngày.
Nguyên Phó thủ tướng Trần Văn Đôn
đến Phủ Thú Tướng cùng với sĩ quan tuỳ
viên , nơi đây một số Tổng trưởng nội
các mới đã có mặt. Nội
các cũ thì có Phó thủ
tướng Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Nhưỡng…. . .
Một lúc sau, ông Châu, Bộ trưởng
Phủ Thủ tướng cho biết ông Mẫu muốn điện
đàm với Tướng Đôn. Ông Mẫu xin
lỗi đến trễ một giờ vì phải qua đài
phát thanh đọc lời tuyên bố quan trọng.
11 giờ 30 ông Châu cho biết ông
Thủ tướng đến, Tướng Đôn ra cầu thang
đón. Ông Mẫu đến đúng nghi lễ,
đi bằng xe Mercedes dành cho Thủ tướng,
có xe máy dầu hộ tống”.
Tướng Đôn mời ông Mẫu vào văn
phòng Thủ tướng và bắt đầu cuộc lễ.
Ông Mẫu ngồi bên tay mặt Tướng
Đôn. Ông Châu đưa biên bản
bàn giao để ký. Tướng Đôn
ký xong trao cho ông Mẫu ký,
nhưng ông Mẫu ký hoài mà
viết của ông ấy vẫn không ra mực
nên Tướng Đôn phải đưa viết của
ông cho ông Mẫu ký. Ai cũng im
lặng chờ đợi. Ký biên bản bàn
giao xong, Tướng Đôn nói vài lời
cầu chúc và ông Mẫu đáp
từ. Sau đó, ông Mẫu nói chuyện
với các Tổng trưởng:
-Tôi vưà lên Đài
phát thanh tuyên bố, yêu cầu Mỹ
rút khỏi Nam Việt Nam trong vòng 24
tiếng đồng hồ kể từ 5 giờ sáng nay(
29-4-1975)
Nghe ông Mẫu nói, Tướng Đôn dùng điện thoại màu xanh lá cây dành riêng cho Thủ tướng và Phó Thủ tướng để liên lạc với Tòa Đại sứ Mỹ. Có tiếng người bắt điện thoại, Tướng Đôn hỏi ngay: Chuyện gì đã xảy ra? Tôi vưà nghe ông Thủ tướng yêu cầu DAO (Cơ quan tùy viên Quân sự tại Đại sứ quán Mỹ) trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Phiá Đại sứ quán Mỹ trả lời:Không phải chỉ có DAO mà tất cả những người Mỹ sẽ rút. Nếu ông muốn đi thì lên Tòa Đại sứ Mỹ trước 2 giờ trưa này (ngày 29-4-1975)
*Tổng thống Dương Văn Minh cho Hải
quân toàn quyền hoạt động
Theo ghi nhận của cựu Tướng Trần Văn
Đôn ghi lại trong hồi ký, vào
sáng ngày 29/4/1975, Phó
Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư lệnh Hải quân
đến gặp Tổng thống Dương Văn Minh cho biết hiện
tình tàu bè đủ để chở
Chính phủ và binh sĩ xuống miền
Tây, nhưng ông Minh cho biết đang lo
thương thuyết. 5 giờ chiều cùng ngày,
Tổng thống Dương Văn Minh gọi phó Đô
Đốc Chung Tấn Cang đến gặp. Phó Đô Đốc
Cang cử Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy đi thay.
Tổng thống Dương Văn Minh nói với Phó
Đề Đốc Thủy: “Tôi trao cho Hải quân được
toàn quyền hoạt động.”
*Tình hình chiến sự trong
ngày 29/4/1975
Rạng sáng ngày 29 tháng 4/1975,
Bộ Tổng Tham mưu, Căn cứ Không quân
Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Hải quân tại
bến Bạch Đằng đã trở thành mục
tiêu của pháo binh Cộng quân.
Những đợt pháo kích liên tiếp
của Cộng quân đã rót vào
các vị trí trên. Ngay tại Bộ
Tổng tham mưu và bộ Tư lệnh Hải quân
chỉ bị thiệt hại nhẹ, nhưng căn cứ Tân Sơn
Nhất bị thiệt hại nặng nhất. Các bãi
phi cơ đậu, các ụ xăng dầu và
các trạm truyền tin đều bị đạn pháo
bắn trúng. Lửa cháy, đạn nổ khắp nơi.
Cộng quân bắt đầu tấn công bằng Bộ binh và Thiết giáp vào Sài Gòn bằng hai mũi: Phú Lâm và cầu Nhị Thiên Đường. Sau một đợt giao tranh, Cộng quân chiếm cầu Nhị Thiên Đường. Tại Phú Lâm, khu phát tuyến tại đây bị pháo kích nặng và bị tấn công. 9 giờ 30 ngày 29/4/1975, căn cứ Không quân bị pháo kích nặng. Nhiều phi cơ trong bãi đậu, kể cả những chiếc A 37 và đặc biệt có 4 chiếc C 130 có gắn bom sẵn, bị trúng đạn pháo kích và nổ tung. Lửa cháy cùng khắp, lan đi rất nhanh. Căn cứ Tân Sơn Nhất hoàn toàn bất khiển dụng và hỗn độn. Khoảng hơn 3 ngàn người đang chờ sau lưng cơ quan DAO (Phòng Tùy viên Quân sự Sứ quán Hoa Kỳ) từ ngày 28 tháng 4/1975 để chờ phi cơ đến đón đi, kinh hoảng bỏ chạy ra khỏi căn cứ. Đến 10 giờ thì hầu như bộ Tư lệnh Không quân không còn kiểm soát được quân sĩ thuộc quyền nữa. Trên trời, từng đoàn trực thăng của Mỹ vần vũ và bay lơ lửng trên các nóc cao ốc và trong cơ quan DAO để đón nhân viên Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ, khó phân biệt được trực thăng của Không quân Mỹ hay của Không quân VNCH.
Quanh vòng đai Sài Gòn, chiến trận khốc liệt đã diễn ra tại Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Biên Hòa. Tại Long An, các đơn vị Sư đoàn 22 Bộ binh đã giao chiến quyết liệt với hai trung đoàn Cộng quân muốn chọc thủng phòng tuyến thị xã Tân An. Sư đoàn 22 Bộ binh từ Quân khu 2 rút vào và được phối trí hoạt động tại khu vực này.
Tại mặt trận Củ chi, Hậu Nghĩa, 7 giờ sáng ngày 29/4/1975, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Hậu Nghĩa bị mất liên lạc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3. 10 giờ sáng cùng ngày, Quân đoàn 3/Quân khu 3 báo cáo về Bộ Tổng tham mưu là Tiểu khu Hậu Nghĩa thất thủ. Tại phòng tuyến Củ Chi của Sư đoàn 25 Bộ binh, Cộng quân tung 1 sư đoàn chính quy CSBV có 1 trung đoàn chiến xa yểm trợ tấn công ồ ạt vào các vị trí của quân trú phòng. Từ hầm chỉ huy, Chuẩn tướng Lý Tòng Bá trực tiếp điều động các tuyến chống trả các đợt xung phong biển người của địch quân và xin trực thăng chiến đấu yểm trợ. Quốc lộ 1 nối Sài Gòn với Củ Chi bị đắp mô, giao thông tắc nghẽn. Đêm 29/4/1975, bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh phải bỏ phòng tuyến Củ Chi rút về Hóc Môn.
Tại tuyến phòng thủ Trảng Bom do một đơn vị thuộc Sư đoàn 18 phụ trách, vào 7 giờ 30 sáng, nhiều vị trí bị Cộng quân chọc thủng và đến 10 giờ phòng tuyến này hoàn toàn bị Cộng quân tràn ngập. Một số đơn vị của Sư đoàn 18 rút về phía nam căn cứ Long Bình, Lữ đoàn 257 Thủy quân Lục chiến án ngữ mặt bắc Long Bình cũng bị tấn công. 11 giờ sáng ngày 29/4/1975, Cộng quân tấn công vào phòng tuyến nam Long Bình, Sư đoàn 18 Bộ binh đã đẩy lùi được nhiều đợt xung phong của các trung đoàn Cộng quân. Trong khi đó căn cứ Long Bình đã bị pháo kích liên tục. Tại căn cứ kho đạn Thành Tuy Hạ, nhiều vựa chứa đạn trong kho đã bị pháo kích và vòng đai phòng thủ kho đạn đã bị khoảng 2 tiểu đoàn Cộng quân bao vây.
Tại Bình Dương, căn cứ Lai Khê bị pháo kích dữ dội suốt đêm 28 và rạng ngày 29/4/1975. Quận lỵ Bến Cát bị một trung đoàn Cộng quân tấn công. Quốc lộ 13 bị cắt đứt tại đoạn giữa Phú Cường, tỉnh lỵ Bình Dương, và Lai Khê. Ngay trong sáng ngày 29 tháng 3/1975, nhiều biệt đội đặc công của Cộng quân đã lọt được vào Phú Cường và đóng chốt nhiều nơi trong thị xã.
Tại Biên Hòa, quận lỵ Tân Uyên bị tấn công ác liệt. Lực lượng Địa phương quân và Cảnh sát chiến đấu phòng thủ quân lỵ đã phải bỏ phòng tuyến, thị xã bỏ ngỏ. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, căn cứ Không quân Biên Hòa, và một số doanh trại quân đội gần Biên Hòa, dọc xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn cũng bị pháo kích.
Tại phía Tây Nam Sài Gòn, hai liên đoàn Biệt động quân bị tấn công vào giữa 0 giờ 30 giờ sáng ngày 29/4/1975 và bị tổn thất 50% quân số. Rạng sáng cùng ngày, quận lỵ Hóc Môn cũng bị tấn công, đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân bị thiệt hại nặng. Trung tâm Huấn luyện Quang Trung cũng bị tấn công và pháo kích từ 1 giờ sáng. Tại khu vực tiếp vận Hạnh Thông Tây bị Cộng quân tấn công.
Tại Vũng Tàu, ngay từ đêm 28/4/1975, Bộ Chỉ huy hành quân của Thiếu tướng Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh kiêm Tư lệnh mặt trận Vũng Tàu, đã phải làm việc tại duyên đoàn 33 Hải quân để điều động các cánh quân. 4 giờ sáng ngày 29/4/1975, Đại tá Lợi và Trung tá Nhã đến gặp Tướng Hinh trên một chiếc tàu nhỏ của Duyên đoàn 33 và cho biết tình hình tại Bộ Tổng Tham mưu. Theo hai vị sĩ quan này thì Đại tướng Viên và Chuẩn tướng Thọ, Trưởng phong 3 BTTM, đã ra đi từ chiều ngày 28/4/1975. Gần sáng, lại có thêm Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Tư lệnh Sư đoàn 3 Không quân và và đại tá cùng khoảng 60 sĩ quan, binh sĩ Không quân từ Biên Hòa về Vũng Tàu. Tướng Tính đã đến gặp Tướng Hinh tại Duyên đoàn 33. Chuẩn tướng Tính cho biết ngay trong chiều 28/4/1975, phi trường Biên Hòa đã được lệnh phá hủy các cơ sở. Lệnh này do Chuẩn tướng Bê, chỉ huy Tiếp vận Không quân trực tiếp ban hành mà không thông qua tư lệnh Sư đoàn 3 Không quân. Sáng ngày 29/4/1975, có thêm rất nhiều sĩ quan từ Sài Gòn ra Vũng Tàu.
30/4/1975: LỰC LƯỢNG VNCH TỬ CHIẾN TẠI THỦ ĐÔ
SÀI GÒN
Tử Thủ Sau
Lệnh Đầu Hàng: Giết 1,000 VC, Diệt 32 Xe
Tăng CS
Vương Hồng Anh
* Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại phòng tuyến Sài Gòn
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng… thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến… đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác… Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù… trước giờ G.
* Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối
cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các
vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu
Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng
Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975
cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng
3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu
trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu
kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào
lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung
tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệtkhu Thủ đô
cũng đã “chia tay” với các cộng sự
viên của mình từ sáng
ngày 29/4/1975. Để có tướng
lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng
thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng
lãnh và cựu tướng lãnh giữ
các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc
giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh,
Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974,
làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu
Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử
làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn
tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh
phó Quân khu 2,làm Tư lệnh
phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn
tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng
Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội
các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng
cụctrưởng Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm”.
* Trận chiến tại các cửa ngõ
vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối
29/4/1975, toàn bộ quân trú
phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25
Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn.
Riêng Chuẩn tướng Lý Tòng
Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một
Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay
nhau làm khinh binh với chiến thuật cá
nhân để thoát khỏi vòng
vây của Cộng quân. Cuối cùng vị
tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào
tay địch khi ông và người cận về gần
đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ
ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ
đô không còn quân trừ bị để
giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một
liên đoàn Biệt động quân đang
hành quân dọc theo quốc lộ 4
phía nam Bến Tranh đã được điều động
về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A
vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều
động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô.
Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần
Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực
lượng VNCH không thể phá vỡ được
các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị
Thiên Đường (khu vực này bị Cộng
quân chiếm từ rạng sáng ngày
29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì
kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo
kích nặng nề nên phát nổ nhiều
nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ
huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ
chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại
Cát Lái và bắn vào cầu
tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.
Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.
* Những trận đánh trước giờ G…
Từ
sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại
các mặt trận quanh Sài Gòn
và Biên Hòa, các đơn vị
của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ
đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù,
Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân… đều
đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng
chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư
lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm
Văn Phát từ sáng sớm đã
dùng trực thăng bay quan sát
tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư
lệnh ông gọi máy liên lạc với
Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của
Không quân vào lúc
đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần
cho các phi tuần khu trục liên tục oanh
kích Cộng quân đang chuyển quân
dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến
Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: “Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống”. Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: “Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?” Thiếu tá Tài trình bày: “Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định.” Tướng Minh trả lời: “Các em chuẩn bị bàn giao đi!”. Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: “Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không?”, Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống”. Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu.” Tướng Minh trả lời: “Tùy các anh em”.
Theo lời Thiếu tá Tài, sau
này, khi bị CQ giam trong trại tù,
ông đã găp trung tá Võ
Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên
đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung
tá Lan nói với Thiếu tá
Tài: “Lúc đó, moa đứng cạnh
ông tướng Minh, moa nghe toa nói
vào cứu Tổng thống”. Thiếu tá
Tài giải thích: “Tổng thống là
vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải
cứu ông ra để có người chỉ huy
Quân đội”.
Tài
Liệu Đặc Biệt: Mật Trình Của Tướng Weyand
& Tài Liệu Tướng Nguyễn Văn Hiếu
Vương Hồng Anh
*
Từ chuyến viếng thăm VN của Đại tướng Weyand, đến
cái chết bí ẩn của Thiếu tướng
Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó hành
quân Quân đoàn 3, ngày
8-4-1975.
Như đã trình bày, vào
tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975,
Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C.
Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến
Việt Nam để tìm hiểu tình hình.
Đại tướng Weyand là một vị tướng đã
từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức
vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa
Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc
nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội
Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng
Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ
huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).
Đại tướng Weyan đã thăm và tìm
hiểu tình hình VN từ ngày
28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ,
ông đã làm một phúc
trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về
tình hình VN và những đề nghị
khẩn cấp để cứu nguy VNCH.
Bốn ngày sau khi Đại tướng Weyand rời VN,
vào ngày 8 tháng 4/1975, trong
khi Cộng quân khai triển lực lượng để mở cuộc
tấn công vào Long Khánh,
thì tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ở
Biên Hòa, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu,
Tư lệnh phó Quân đoàn 3,
đã chết một cách bí ẩn ngay tại
văn phòng. Những người gần văn phòng
của Tướng Hiếu nghe 1 tiếng súng nổ, 1 đại
tá chạy qua thì thấy Tướng Hiếu nằm
bất động trên chiếc ghế bành bàn
giấy. Một giòng máu tươi chảy chan
hoà xuống mặt và ngực. Một viên
đạn đã xuyên qua trán đi thẳng
lên óc. Viên đạn này
còn trớn bay lên trần nhà, soi
thủng một lỗ.
*Tập tài liệu đặc biệt “Thiếu tướng
Nguyễn Văn Hiếu”, và những bí mật về
những phúc trình của Sứ quán
Mỹ tại Sài Gòn, và của Đặc sứ
Tổng thống Mỹ.
30 năm sau ngày VNCH bị bức tử, những
bí ẩn về cái chết của Tướng Nguyễn Văn
Hiếu, từng là Phụ tá Phó Tổng
tổng thống VNCH Trần Văn Hương đặc trách
bài trừ tham nhũng, cùng những
tài liệu mật về những phúc
trình của Đại sứ Bunker, của các tướng
lãnh Mỹ, đã được công bố qua tập
tài liệu: “Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một
viên ngọc quân sự ẩn tàng”,
dày 546 trang, khổ giấy lớn, do ông
Nguyễn Văn Tín, em ruột của Tướng Hiếu, sưu
tầm và biên soạn với tất cả tấm
lòng của một người em đối với người anh được
đồng đội vinh danh là “dũng tướng”. Tập
tài liệu vừa được phát hành
vào cuối tháng 4/1975. Theo ghi nhận
của một số cựu sĩ quan cao cấp và cựu
viên chức Chính phủ VNCH, đây
là tập tài liệu có giá
trị về phương diện lịch sử và chiến sử với
những bài viết, tài liệu về các
cuộc hành quân lớn trên chiến
trường VN, về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại VN, về
thực trạng chính trị xã hội VN,
thông qua đời binh nghiệp của Thiếu tướng
Nguyễn Văn Hiếu từ khi theo học khóa 3 sĩ
quan hiện dịch trường Võ bị Liên
quân Đà Lạt năm 1950 cho đến
tháng 4/1975 qua các chức vụ: sĩ quan
phòng 3 Bộ Tổng tham mưu, Trưởng phòng
Quân đoàn 1, Tham mưu trưởng Sư
đoàn 1 Bộ binh, Tham mưu trưởng Quân
đoàn 1, Quân đoàn 2, Tư lệnh Sư
đoàn 22, Tư lệnh 5 Bộ binh, Tư lệnh
phó Quân đoàn 1, Phụ tá
Phó Tổng thống đặc trách bài
trừ tham nhũng, và chức vụ cuối cùng
là Tư lệnh phó đặc trách
hành quân của Quân đoàn 3.
(Bạn đọc muốn mua tập tài liệu này,
xin liên lạc với Tin Nguyen, 1144 Simpson
Street, Bronx, NY 10459, điện thư: tinvnguyen@generalhieu.com)
*Báo cáo lượng định tình
hình VNCH của Đại tướng Weyand đệ
trình lên Tổng thống Ford
Trở lại chuyến thị sát tình
hình VN của Tướng Weyand, sau khi trở về Mỹ,
vị đại tướng này đã làm
phúc tình lên Tổng thống Ford.
Phúc trình này đã được
dịch và phổ biến trong tập tài liệu ”
Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu” (trang 315-328). Sau
đây là những điểm chính của bản
phúc trình mà Đại tướng Weyand
đệ trình lên Tổng thống.
-Phần mở đầu, Đại tướng Weyand viết như sau:
“Vâng theo chỉ thị của Tổng Thống, tôi
đã viếng thăm Nam Việt Nam trong thời gian từ
28/3 đến 4/4. Tôi đã hoàn tất
công việc lượng định tình hình
hiện tại đó, đã phân tách
Chính Phủ Cộng Hòa Việt Nam có
những dự tính nào để phản công
sự gây hấn từ phía Bắc Việt, đã
cam kết với Tổng Thống Thiệu sự hỗ trợ kiên
trì của Tổng Thống trong thời gian khủng
hoảng này, và đã kiểm điểm
các lựa chọn và các đường lối
hành động mà Hoa Kỳ có thể thi
hành để trợ giúp Nam Việt Nam.”
“Tình hình quân sự hiện tại đang
lâm vào tình trạng gây
cấn, và sự tồn tại của Nam Việt Nam trong tư
thế một quốc gia đứt đoạn tại các tỉnh
phía nam thật là mong manh.
Chính Phủ Nam VN đang bên bờ vực thẳm
của một sự thất bại quân sự hoàn
toàn. Tuy nhiên, Nam Việt Nam dự
tính tiếp tục chống cự với phương tiện
có trong tay, và, nếu được phép
dưỡng thở, có thể tái tạo khả năng
chiến đấu tùy thuộc vào sự yểm trợ
chiến cụ về phía Hoa Kỳ cho phép.
Tôi xác tín là
chúng ta có bổn phận phải hiến sự hỗ
trợ này cho họ.”
“Chúng ta đã tới Việt Nam, trước
tiên là để hỗ trợ nhân dân
Nam Việt Nam,-chứ không phải để đánh
bại Bắc Việt. Chúng ta đã chìa
bàn tay ra cho nhân dân Nam Việt
Nam, và họ đã nắm lấy bàn tay
ấy. Giờ đây họ cần tới bàn tay
đó hơn bao giờ hết. Bằng mọi giá
chúng ta đã trợ giúp cho 20
triệu người. Họ đã nói với cả thế giới
là họ lo sợ cho tính mạng của họ. Họ
là những người ưa chuộng các
giá trị trùng hợp với các
giá trị của các hệ thống không
cộng sản, họ tha thiết đeo đuổi cơ hội tiếp tục
phát triển một lối sống khác lối sống
của những người hiện sống dưới ách Bắc Việt.”
-Về phần viện trợ, Đại tướng Weyand ghi nhận
“Mức độ yểm trợ hiện tại của Hoa Kỳ bảo đảm cho sự thất bại của Chính Phủ Nam VN. Trong số 700 triệu mỹ kim cho tài khóa 1975, số còn lại 150 triệu mỹ kim có thể xử dụng trong một thời gian ngắn cho một cuộc tiếp tế qui mô; tuy nhiên, nếu muốn đạt được một cơ may thành công thật sự, cần có lập tức thêm 722 triệu mỹ kim để đưa Nam Việt Nam tới một thế phòng thủ tối thiểu chống lại sự xâm chiếm được Nga và Tàu hỗ trợ. Sự viện trợ bổ túc này của Hoa Kỳ hợp với tinh thần và ý định của Hiệp Định Ba Lê. Hiệp Định này vẫn là phương thức thực tiễn làm việc cho một sự thỏa hiệp ôn hòa tại Việt Nam.”
“Việc xử dụng hỏa lực không quân Hoa Kỳ
để tăng cường khả năng Nam Việt Nam chống lại sự
xâm chiếm của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ cả
trên hai bình diện chiến cụ và
tâm lý đối với Chính Phủ Nam VN
và đồng thời sẽ đem lại một thế trì
hoãn cần thiết trên chiến trường. Tuy
nhiên tôi nhìn nhận những phiền
phức khả quan về mặt pháp lý và
chính trị nếu thi hành chọn lựa
này.”
-Về kế hoạch di tản, Đại tướng Weyand đề nghị
“Xét về mặt biến chuyển nhanh chóng
của các biến cố, Tổng Thống cần phải quan
tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên
các lý do thận trọng, Hoa Kỳ phải
có ngay bây giờ một kế hoạch di tản đại
qui mô 6 ngàn kiều dân Mỹ
và hàng vạn người Nam Việt Nam
và Đệ Tam Quốc Gia mà chúng ta
có bổn phận phải bảo vệ. Bài học tại
Đà Nẵng cho thấy công việc di tản
này đòi hỏi tối thiểu một chiến
đoàn Hoa Kỳ của một sư đoàn tăng cường
yểm trợ bởi không lực tác chiến để dập
tan pháo binh và hỏa lực phòng
của Bắc Việt. Khi tình thế đòi hỏi,
một lời xác định công khai về
chính sách này phải được
công bố và Bắc Việt phải được cảnh
cáo một cách rõ ràng :
về ý định của Hoa Kỳ sẽ dùng tới vũ
lực để bảo toàn tính mạng của
các người được di tản. Hành
Pháp phải được Quốc Hội cho toàn quyền
xử dụng các hình phạt quân sự
chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công cuộc di
tản.”
“Thế giới đánh giá sự trung tín
của Hoa Kỳ trên tư cách một đồng minh
tại Việt Nam. Để duy trì sự tin tưởng
đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực
tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay
bây giờ.”
-Về vai trò và các lựa
chọn hành động của Hoa Kỳ, Đại tướng Weyand
đề nghị và phân tích như sau:
“Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không
làm, trong những ngày tới có lẽ
là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra
trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng
đối với điều gì Sàigòn hay
Hànội làm hay không làm.
Một mình Hoa Kỳ không thể cứu
vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể,
cho dù có vô tình đi nữa,
xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn.”
“Đề nghị cụ thể của tôi có thể được
phân thành hai loại. Có những
hành động ngắn hạn–một phần về mặt thể
lý nhưng chính yếu về mặt tâm
lý–cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam
và, nếu có thể, ép buộc
đình trệ hành động. Điều này
chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế
hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến,
có những hành động dài hạn, tuy
mang tính chất vật chất nhưng cũng có
khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần
thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy
vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc
Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn
là đầu hàng.”
“Điều kiện tiên quyết và cấp
bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng
hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm
quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến
khích Bắc Việt tiếp tục tấn công.
Chính cảm quan này đã khiến
Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái
khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ
liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan
này được cấu tạo bởi các hành
động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp
Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình
để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho
tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được
xuất ra–thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó
500 triệu mỹ kim còn lại bị từ khước
không được tháo khoán. Đối với
tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ
trình để duy trì khả năng tự vệ của
Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận–thanh thỏa
44 nhu cầu. Những hành động này
đã giúp khai sinh khủng hoảng tin
tưởng khiến Chính Phủ Nam VN dùng tới
biện pháp triệt thoái chiến lược.”
“Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của
quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của
Chính Phủ NVN ổn định tình thế,
và đem các nguồn lực quân sự
chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả
năng ổn định tình thế này tùy
thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục
hạ tầng giới quân nhân và
dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả,
và còn có thể chận đứng Bắc
Việt. Tuy đó là trách vụ
chính của Chính Phủ Việt Nam,
các hành động về phía Hoa Kỳ
mang tính chất quyết liệt trong việc
tái tạo niềm tin.”
“Hành động mà Hoa Kỳ có thể
làm để gây nên ấn tượng tức khắc
cho Việt Nam–Bắc lẫn Nam–là dùng
không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn
công hiện tại của Băc Quân. Cho
dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt
Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới
hạn, những tấn công này sẽ gây
tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt
về mặt nhân sự và quân cụ,
và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm
lý đối với các chiến binh xâm
lăng. Những tấn công không tập
này cũng sẽ khiến giới lãnh đạo
Hànội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ
mà hiện giờ họ không có, đến hậu
quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm
ngơ lời cam kết chính thức họ đã hứa
với Hoa Kỳ.”
“Giới lãnh đạo quân sự Nam Việt Nam
thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm
mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công
chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và
quan điểm này hợp lý về mặt quân
sự. Tôi ý thức đến các
khó khăn về mặt pháp lý
và chính trị gây nên bởi
việc thi hành biện pháp không
tập này.”
“Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải
làm là xác định cách
rõ ràng Hoa Kỳ quyết tâm ủng hộ
Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh
định tích cực của Tổng Thống và