Năm Thứ 4890

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
Hoành Linh Đỗ Mậu



  1. LỜI GIỚI THIỆU


  2. ẤN BẢN ĐIỆN TỬ - NĂM 2007

    Đầu Xuân năm 2007, được biết Nhà Xuất bản Văn Nghệ đă tiêu thụ hết đợt phát hành cuối cùng của Hồi kư Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, và không có ư định tái bản tác phẩm nầy nữa trong một tương lai gần, chúng tôi, một nhóm thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, đă liên lạc với gia đ́nh của tác giả để xin tái bản tác phẩm nầy dưới dạng điện tử. Và đă được gia đ́nh tác giả chấp thuận với một số yêu cầu về tác quyền và biên tập.

    Về nội dung, không có một thay đổi nào trong Ấn bản Điện tử (so với ấn bản giấy 1993) ngoại trừ thêm một số h́nh ảnh của tác giả; và ở Phụ Lục E, 10 Bài Đọc Thêm, chúng tôi thêm một lá thư của tướng Dương Văn Minh và một bài viết về Tướng Tŕnh Minh Thế để làm sáng tỏ một số bí ẩn lịch sử được nhắc đến trong Hồi kư.

    Về h́nh thức, có ba thay đổi trong quá tŕnh cập nhật lại tác phẩm nầy:

    (a)*** Sửa lại các lổi chính tả và đánh máy. Với tổng số lượng gần 750,000 từ của toàn bộ tác phẩm, đây là một nỗ lực liên tục nhưng chắc vẫn c̣n khiếm khuyết ngay cả trong ấn bản điện tử nầy.

    (b)** Sửa và thêm các đại danh từ (cụ, ông, bác, anh, ...) và những chức vụ (phó tổng thống, thiếu tá, giáo sư, nhà văn, ...) trước tên riêng của các nhân vật. Tùy ngữ cảnh và bối cảnh của mỗi t́nh huống, chúng tôi chọn đại danh từ/chức vụ nào mà chúng tôi nghĩ rằng phù hợp nhất. Mặt khác, có một số nhỏ đại danh từ và chức vụ không cần thiết, th́ chúng tôi cũng đă quyết định bỏ đi.*

    (c)*** Ba từ “Công giáo”, “Kitô giáo” và “Thiên Chúa giáo” đă là một vấn nạn khó tạo được sự đồng thuận trong cách sử dụng. Do đó, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, trên nền không-thời-gian lịch sử mà Hồi kư chủ yếu được xây dựng (là chế độ Ngô Đ́nh Diệm), chúng tôi quyết định thống nhất hầu hết các từ nầy thành từ “Công giáo” như chính những giáo hữu Việt Nam, trong giai đọan đó cũng như kể cả bây giờ, đă gọi Công giáo La Mă (Roman Catholic).

    Có hai lư do khiến chúng tôi lấy quyết định tái bản tác phẩm Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi nầy của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu dưới dạng điện tử:*

    ·******* Thứ nhất là v́ nhu cầu t́m đọc tài liệu về chủ đề nầy không những đă không giảm bớt mà thậm chí c̣n gia tăng. Hơn 40 năm sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, hơn 20 năm sau khi tác phẩm nầy ra đời, và sau hơn 20.000 ấn bản (dự đoán) được phổ biến cả ở trong lẫn ngoài nước, giai đoạn lịch sử 1954-1975 tại miền Nam Việt Nam (và những nhân vật lịch sử quan hệ đến nó) vẫn là đề tài được nhiều người quan tâm muốn t́m hiểu. Để xem rút ra được những bài học ǵ cho bây giờ và mai sau trên quê hương Việt Nam.***

    *·******* Và thứ nh́ là với những thành quả ngoạn mục của cuộc cách mạng Tin học, tri thức không c̣n bị phong tỏa, lại càng không trở thành sản phẩm độc quyền của một giai tầng nào nữa. Do đó, sản phẩm trí tuệ cần được xuất hiện dưới dạng điện tử để dễ dàng vượt mọi biên giới thiên nhiên, rào cản hành chánh và giới hạn tiền bạc, ngơ hầu có thể bay vào không gian cyberspace mà đến với người đọc khắp địa cầu.

    Nhóm Thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, khi hoàn thành ấn bản nầy, chỉ nhắm đáp ứng hai nhu cầu nói trên. Và đóng góp phần ḿnh vào việc thực hiện tâm nguyện của tác giả đă được trang trải đầy ắp trong tác phẩm nầy.

    *Hoa Kỳ - Thu* 2007


    Nhóm Thân hữu trách nhiệm Ấn bản Điện tử VNMLQHT-2007

    * * **
    LỜI GIỚI THIỆU
    ẤN BẢN THỨ BA - NĂM 1993

    *
    ***** Tập Hồi kư chính trị Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu tiên vào mùa thu năm 1986 tại miền Nam California, Hoa Kỳ.

    ****** Từ đó đến nay, tác phẩm này đă được tái bản một lần (1987) và in lại tám lần. Như vậy, bản mà quư bạn đọc cầm trên tay hôm nay (1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ là lần biên tập thứ ba và là lần in lại thứ chín (Third Edition, Ninth Printing).

    ****** anban1986.jpg***************anban1993.jpg
    ************ Ấn bản 1986*********************** * Ấn bản 1993
    *

    Đó là không kể hai ấn bản mà tác giả hoàn toàn không biết đến quá tŕnh h́nh thành của chúng. Bản thứ nhất in tại Úc Châu vào khoảng năm 1990 với một h́nh b́a khác hẳn. Và bản thứ nh́ in tại Việt Nam, không những khác b́a, nội dung bị biến cải, mà ngay cả tên sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200 ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản 117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu với nguyên bản, tác giả cho chúng tôi biết rằng ấn bản này đă bị bỏ bớt gần một phần tư nội dung, thay đổi một số danh xưng và bớt nhiều đoạn; nhưng nói chung, phần Sử luận và các luận điểm chính trị của ông, về căn bản, vẫn được giữ lại gần nguyên vẹn.

    anban1991.jpg*** * *anban1995.jpg*** ** anban2001.jpg

    * Ấn bản 1991*************Ấn bản 1995************ Ấn bản 2001
    *
    ****
    Lẽ dĩ nhiên, tác giả đă không biết ǵ hết về sự ra đời của ấn bản này, lại càng không liên lạc được v́ hoàn cảnh lịch sử và chính trị oái oăm của đất nước, để phản đối việc làm vừa vi phạm tác quyền vừa vi phạm sự trung thực toàn vẹn của một sản phẩm trí tuệ.
    Bảy năm đă trôi qua kể từ khi ấn bản đầu tiên ra đời.

    Đă có rất nhiều, quá nhiều là khác, thảo luận và bút chiến về tác phẩm, và nhiều khi, về từng chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên. Cho đến thời điểm này, vẫn c̣n xuất hiện trên báo chí hải ngoại những bài viết đề cập đến tác phẩm hoặc tác giả. Đặc biệt đă có 13 cuốn sách của những người viết đứng từ những vị trí khác nhau, nh́n từ những góc độ khác nhau, và mang những tâm chất khác nhau, nhưng tất cả đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay tác giả.

    Trong lúc có hai người viết nêu đích danh tác giả trên b́a sách để “trực thoại” (Linh mục Vũ Đ́nh Hoạt và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức) th́ cũng có những cuốn đào sâu các luận đề mà tác giả viết chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia Tô Thực Dân Sử Liệu của ông Chu Văn Tŕnh). Trong lúc có người viết lúc chống lúc thuận với tác giả (ông Nguyễn Trân) th́ cũng có người cung cấp thêm những dữ kiện và luận cứ mới làm mạnh thêm những luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn Long Thành Nam, Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn). Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm The Bright Shining Light của Neil Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ Les Missionnaires et La Politique Coloniale Francaise au Vietnam của ông Cao Huy Thuần lần đầu tiên được Đại học Yale xuất bản tại Hoa Kỳ (1990)… Tất cả chỉ làm cho tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi trở thành một hiện tượng độc đáo trong lịch sử các tác phẩm nghiên cứu của Việt Nam. Và hơn thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy rằng tác phẩm đă đề cập đúng những vấn đề căn bản, có thực, và có tác động sâu sắc đến nhiều người Việt Nam, đến chính t́nh Việt Nam không những chỉ trong quá khứ mà c̣n cả trong tương lai nữa.

    Trong lần tái bản này, phương pháp luận căn bản của tập Hồi kư là thông qua các biến cố lịch sử (mà tác giả đă sống và/hoặc nghiên cứu) để giải thích những lực nào đă tác động lên sự vận hành của lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, vẫn không thay đổi. Nói rơ hơn, bản chất cuộc chiến và các lực lượng tham chiến trên quê hương ta suốt mấy chục năm trời vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên lư chỉ đạo làm nền tảng sử luận cho tác giả là đă phi dân tộc th́ thế nào cũng phản dân tộc vẫn chảy xuyên suốt tác phẩm.

    Tuy nhiên, trong lần tái bản thứ ba này có một số thay đổi sau đây:

    Về h́nh thức, số lỗi chính tả và ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngă) được giảm thiểu tối đa. Một số rất ít tên người, tên địa phương và ngày tháng cũng đă được cập nhật lại. Đặc biệt, so với lần trước, ấn bản này tuy có dài thêm khoảng 15 phần trăm (nâng tổng số lên hơn 750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo lời yêu cầu của tác giả, lại được rút ngắn c̣n 80 phần trăm (1089 trang) nhờ cách ḍng (interline spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá thành đến mức thấp nhất.

    Việc sử dụng hai nhu liệu tin học VNI và Ventura để tŕnh bày sách đă giúp cho ấn bản này đồng dạng hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc hơn các ấn bản trước.
    Về nội dung, một số luận cứ và chứng liệu lịch sử mới đă được thêm vào, đặc biệt về quá tŕnh du nhập Công giáo vào Việt Nam, về những bí ẩn mới trong cuộc Cách mạng 1-11-63, về cuộc vận động cho Dân chủ của Phật giáo tại miền Trung năm 1966, về vai tṛ của Vatican trong những ngày cuối cùng của miền Nam vào năm 1975... để nhân đó, tác giả trả lời một số xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm. Cũng thêm vào trong ấn bản này là một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu đọc thêm của những nhân chứng lịch sử và một số h́nh ảnh của các khuôn mặt quan trọng đă hiện diện trong tác phẩm.
    Nhân dịp này, tác giả có nhờ chúng tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến cụ Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự Chiêu, Trung tướng Vĩnh Lộc, bác sĩ Vơ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm Phú Xuân đă tận t́nh góp ư sửa lời để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
    Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, khi quyết định xuất bản và phát hành tác phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại chủ trương của ḿnh: cung cấp cho độc giả trong và ngoài nước những tác phẩm giá trị, những công t́nh trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng góp vào gia tài Văn hoá của dân tộc.
    Ngoài ra, riêng với tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện có những tranh luận sôi nổi xung quanh tác phẩm, và trước nhu cầu t́m đọc nguyên bản của nhiều độc giả đă từng đọc “ấn bản trong nước”, chúng tôi tự thấy có bổn phận phải nỗ lực hoàn thành việc xuất bản và phát hành tác phẩm này, với ước mong cống hiến cho những đồng bào c̣n quan tâm đến vận mệnh quê hương một cách nh́n mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta đă đối trị và có thể sẽ c̣n phải đối diện trong tương lai.

    ************** Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1993
    ************** Nhà Xuất Bản VĂN NGHỆ


  3. bia.jpg
    *
    LỜI GIỚI THIỆU
    ẤN BẢN ĐIỆN TỬ - NĂM 2007

    Đầu Xuân năm 2007, được biết Nhà Xuất bản Văn Nghệ đă tiêu thụ hết đợt phát hành cuối cùng của Hồi kư Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, và không có ư định tái bản tác phẩm nầy nữa trong một tương lai gần, chúng tôi, một nhóm thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, đă liên lạc với gia đ́nh của tác giả để xin tái bản tác phẩm nầy dưới dạng điện tử. Và đă được gia đ́nh tác giả chấp thuận với một số yêu cầu về tác quyền và biên tập.

    Về nội dung, không có một thay đổi nào trong Ấn bản Điện tử (so với ấn bản giấy 1993) ngoại trừ thêm một số h́nh ảnh của tác giả; và ở Phụ Lục E, 10 Bài Đọc Thêm, chúng tôi thêm một lá thư của tướng Dương Văn Minh và một bài viết về Tướng Tŕnh Minh Thế để làm sáng tỏ một số bí ẩn lịch sử được nhắc đến trong Hồi kư.

    Về h́nh thức, có ba thay đổi trong quá tŕnh cập nhật lại tác phẩm nầy:

    (a)*** Sửa lại các lổi chính tả và đánh máy. Với tổng số lượng gần 750,000 từ của toàn bộ tác phẩm, đây là một nỗ lực liên tục nhưng chắc vẫn c̣n khiếm khuyết ngay cả trong ấn bản điện tử nầy.

    (b)** Sửa và thêm các đại danh từ (cụ, ông, bác, anh, ...) và những chức vụ (phó tổng thống, thiếu tá, giáo sư, nhà văn, ...) trước tên riêng của các nhân vật. Tùy ngữ cảnh và bối cảnh của mỗi t́nh huống, chúng tôi chọn đại danh từ/chức vụ nào mà chúng tôi nghĩ rằng phù hợp nhất. Mặt khác, có một số nhỏ đại danh từ và chức vụ không cần thiết, th́ chúng tôi cũng đă quyết định bỏ đi.*

    (c)*** Ba từ “Công giáo”, “Kitô giáo” và “Thiên Chúa giáo” đă là một vấn nạn khó tạo được sự đồng thuận trong cách sử dụng. Do đó, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, trên nền không-thời-gian lịch sử mà Hồi kư chủ yếu được xây dựng (là chế độ Ngô Đ́nh Diệm), chúng tôi quyết định thống nhất hầu hết các từ nầy thành từ “Công giáo” như chính những giáo hữu Việt Nam, trong giai đọan đó cũng như kể cả bây giờ, đă gọi Công giáo La Mă (Roman Catholic).

    Có hai lư do khiến chúng tôi lấy quyết định tái bản tác phẩm Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi nầy của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu dưới dạng điện tử:*

    ·******* Thứ nhất là v́ nhu cầu t́m đọc tài liệu về chủ đề nầy không những đă không giảm bớt mà thậm chí c̣n gia tăng. Hơn 40 năm sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, hơn 20 năm sau khi tác phẩm nầy ra đời, và sau hơn 20.000 ấn bản (dự đoán) được phổ biến cả ở trong lẫn ngoài nước, giai đoạn lịch sử 1954-1975 tại miền Nam Việt Nam (và những nhân vật lịch sử quan hệ đến nó) vẫn là đề tài được nhiều người quan tâm muốn t́m hiểu. Để xem rút ra được những bài học ǵ cho bây giờ và mai sau trên quê hương Việt Nam.***

    *·******* Và thứ nh́ là với những thành quả ngoạn mục của cuộc cách mạng Tin học, tri thức không c̣n bị phong tỏa, lại càng không trở thành sản phẩm độc quyền của một giai tầng nào nữa. Do đó, sản phẩm trí tuệ cần được xuất hiện dưới dạng điện tử để dễ dàng vượt mọi biên giới thiên nhiên, rào cản hành chánh và giới hạn tiền bạc, ngơ hầu có thể bay vào không gian cyberspace mà đến với người đọc khắp địa cầu.

    Nhóm Thân hữu của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, khi hoàn thành ấn bản nầy, chỉ nhắm đáp ứng hai nhu cầu nói trên. Và đóng góp phần ḿnh vào việc thực hiện tâm nguyện của tác giả đă được trang trải đầy ắp trong tác phẩm nầy.

    *Hoa Kỳ - Thu* 2007


    Nhóm Thân hữu trách nhiệm Ấn bản Điện tử VNMLQHT-2007

    * * **
    LỜI GIỚI THIỆU
    ẤN BẢN THỨ BA - NĂM 1993

    *
    ***** Tập Hồi kư chính trị Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu tiên vào mùa thu năm 1986 tại miền Nam California, Hoa Kỳ.

    ****** Từ đó đến nay, tác phẩm này đă được tái bản một lần (1987) và in lại tám lần. Như vậy, bản mà quư bạn đọc cầm trên tay hôm nay (1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ là lần biên tập thứ ba và là lần in lại thứ chín (Third Edition, Ninth Printing).

    ****** anban1986.jpg***************anban1993.jpg
    ************ Ấn bản 1986*********************** * Ấn bản 1993
    *

    Đó là không kể hai ấn bản mà tác giả hoàn toàn không biết đến quá tŕnh h́nh thành của chúng. Bản thứ nhất in tại Úc Châu vào khoảng năm 1990 với một h́nh b́a khác hẳn. Và bản thứ nh́ in tại Việt Nam, không những khác b́a, nội dung bị biến cải, mà ngay cả tên sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200 ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản 117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu với nguyên bản, tác giả cho chúng tôi biết rằng ấn bản này đă bị bỏ bớt gần một phần tư nội dung, thay đổi một số danh xưng và bớt nhiều đoạn; nhưng nói chung, phần Sử luận và các luận điểm chính trị của ông, về căn bản, vẫn được giữ lại gần nguyên vẹn.

    anban1991.jpg*** * *anban1995.jpg*** ** anban2001.jpg

    * Ấn bản 1991*************Ấn bản 1995************ Ấn bản 2001
    *
    ****
    Lẽ dĩ nhiên, tác giả đă không biết ǵ hết về sự ra đời của ấn bản này, lại càng không liên lạc được v́ hoàn cảnh lịch sử và chính trị oái oăm của đất nước, để phản đối việc làm vừa vi phạm tác quyền vừa vi phạm sự trung thực toàn vẹn của một sản phẩm trí tuệ.
    Bảy năm đă trôi qua kể từ khi ấn bản đầu tiên ra đời.

    Đă có rất nhiều, quá nhiều là khác, thảo luận và bút chiến về tác phẩm, và nhiều khi, về từng chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên. Cho đến thời điểm này, vẫn c̣n xuất hiện trên báo chí hải ngoại những bài viết đề cập đến tác phẩm hoặc tác giả. Đặc biệt đă có 13 cuốn sách của những người viết đứng từ những vị trí khác nhau, nh́n từ những góc độ khác nhau, và mang những tâm chất khác nhau, nhưng tất cả đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay tác giả.

    Trong lúc có hai người viết nêu đích danh tác giả trên b́a sách để “trực thoại” (Linh mục Vũ Đ́nh Hoạt và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức) th́ cũng có những cuốn đào sâu các luận đề mà tác giả viết chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia Tô Thực Dân Sử Liệu của ông Chu Văn Tŕnh). Trong lúc có người viết lúc chống lúc thuận với tác giả (ông Nguyễn Trân) th́ cũng có người cung cấp thêm những dữ kiện và luận cứ mới làm mạnh thêm những luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn Long Thành Nam, Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn). Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm The Bright Shining Light của Neil Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ Les Missionnaires et La Politique Coloniale Francaise au Vietnam của ông Cao Huy Thuần lần đầu tiên được Đại học Yale xuất bản tại Hoa Kỳ (1990)… Tất cả chỉ làm cho tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi trở thành một hiện tượng độc đáo trong lịch sử các tác phẩm nghiên cứu của Việt Nam. Và hơn thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy rằng tác phẩm đă đề cập đúng những vấn đề căn bản, có thực, và có tác động sâu sắc đến nhiều người Việt Nam, đến chính t́nh Việt Nam không những chỉ trong quá khứ mà c̣n cả trong tương lai nữa.

    Trong lần tái bản này, phương pháp luận căn bản của tập Hồi kư là thông qua các biến cố lịch sử (mà tác giả đă sống và/hoặc nghiên cứu) để giải thích những lực nào đă tác động lên sự vận hành của lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, vẫn không thay đổi. Nói rơ hơn, bản chất cuộc chiến và các lực lượng tham chiến trên quê hương ta suốt mấy chục năm trời vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên lư chỉ đạo làm nền tảng sử luận cho tác giả là đă phi dân tộc th́ thế nào cũng phản dân tộc vẫn chảy xuyên suốt tác phẩm.

    Tuy nhiên, trong lần tái bản thứ ba này có một số thay đổi sau đây:

    Về h́nh thức, số lỗi chính tả và ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngă) được giảm thiểu tối đa. Một số rất ít tên người, tên địa phương và ngày tháng cũng đă được cập nhật lại. Đặc biệt, so với lần trước, ấn bản này tuy có dài thêm khoảng 15 phần trăm (nâng tổng số lên hơn 750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo lời yêu cầu của tác giả, lại được rút ngắn c̣n 80 phần trăm (1089 trang) nhờ cách ḍng (interline spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá thành đến mức thấp nhất.

    Việc sử dụng hai nhu liệu tin học VNI và Ventura để tŕnh bày sách đă giúp cho ấn bản này đồng dạng hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc hơn các ấn bản trước.
    Về nội dung, một số luận cứ và chứng liệu lịch sử mới đă được thêm vào, đặc biệt về quá tŕnh du nhập Công giáo vào Việt Nam, về những bí ẩn mới trong cuộc Cách mạng 1-11-63, về cuộc vận động cho Dân chủ của Phật giáo tại miền Trung năm 1966, về vai tṛ của Vatican trong những ngày cuối cùng của miền Nam vào năm 1975... để nhân đó, tác giả trả lời một số xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm. Cũng thêm vào trong ấn bản này là một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu đọc thêm của những nhân chứng lịch sử và một số h́nh ảnh của các khuôn mặt quan trọng đă hiện diện trong tác phẩm.
    Nhân dịp này, tác giả có nhờ chúng tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến cụ Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự Chiêu, Trung tướng Vĩnh Lộc, bác sĩ Vơ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm Phú Xuân đă tận t́nh góp ư sửa lời để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
    Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, khi quyết định xuất bản và phát hành tác phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại chủ trương của ḿnh: cung cấp cho độc giả trong và ngoài nước những tác phẩm giá trị, những công t́nh trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng góp vào gia tài Văn hoá của dân tộc.
    Ngoài ra, riêng với tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện có những tranh luận sôi nổi xung quanh tác phẩm, và trước nhu cầu t́m đọc nguyên bản của nhiều độc giả đă từng đọc “ấn bản trong nước”, chúng tôi tự thấy có bổn phận phải nỗ lực hoàn thành việc xuất bản và phát hành tác phẩm này, với ước mong cống hiến cho những đồng bào c̣n quan tâm đến vận mệnh quê hương một cách nh́n mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta đă đối trị và có thể sẽ c̣n phải đối diện trong tương lai.

    ************** Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1993
    ************** Nhà Xuất Bản VĂN NGHỆ

    Trả lời với
                                              trích dẫn

    VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi - Hoành Linh Đỗ Mậu (Tiếp theo)


    ************************* *********** *QUẢNG B̀NH
    ************************* ** QUÊ HƯƠNG ĐỊNH MỆNH

    *
    Trong suốt quá tŕnh lịch sử cận đại của nước ta, trên cả ba miền đất nước mà đặc biệt tại miền Trung, khi nói đến cái “ḷ” cách mạng hay cái “nôi” văn học là phải nói đến hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía Bắc Đèo Ngang, và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi ở phía Nam Đèo Hải Vân. Những bậc hào kiệt tài danh đứng đầu ngọn sóng cách mạng hoặc làm đẹp cho nền thi văn đất nước như các cụ Phan Bội Châu, Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đều xuất thân từ vùng đất Nghệ-Tĩnh; c̣n những tên tuổi của các cụ Phan Chu Trinh, Trần Cao Vân, Trần Quư Cáp th́ lại vươn lên từ vùng đất Nam-Ngăi, nơi được mang danh là đất của “Ngũ Phụng Tề Phi” (năm con phượng cùng bay) nhờ kỳ thi Hội năm Mậu Tuất (1898), ba tiến sĩ và hai phó bảng trong số mười tám vị chiếm bảng vàng đều xuất thân từ tỉnh Quảng Nam, cho nên vua Thành Thái mới ban cho năm vị tân khoa bốn chữ “Ngũ Phụng Tề Phi” vang rền đất nước.
    Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngăi, dưới thời Pháp thuộc, cũng chính là vùng đất bất khuất, tiếp nối truyền thống cách mạng chống ngoại xâm của cha ông, vùng lên đối kháng chính quyền bảo hộ Pháp mà điển h́nh là các cuộc đấu tranh của Văn Thân và Cần Vương, là phong trào chống thuế ở Nam-Ngăi, là phong trào Sô-Viết ở Nghệ-Tĩnh. Các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và một số các lănh tụ khác của đảng Cộng Sản Việt Nam, cũng xuất thân từ ḷ luyện thép này.
    Bên cạnh vóc dáng và khí thế lẫy lừng của bốn tỉnh kể trên, B́nh-Trị-Thiên là ba tỉnh nằm giữa hai ngọn đèo lớn đó của miền Trung, v́ quen nhọc nhằn chống lại thiên nhiên hà khắc, lại vốn làm cái đ̣n gánh chính trị oằn vai v́ sức nặng cách mạng của bốn tỉnh tiếp giáp nên cũng đă cưu mang trong sức sống tất cả cái hào hùng và oan nghiệt của lịch sử. Tỉnh Quảng B́nh, tuy là một tỉnh nhỏ về cả hai phương diện dân số lẫn diện tích, nhưng nhờ vậy lại chiếm địa vị của một vùng đất quê hương nổi tiếng địa linh nhân kiệt.
    Từ đời Hùng Vương, Quảng B́nh đă là một trong mười lăm bộ của nước Văn Lang, có tên là Việt Thường với thủ đô là Phong Châu[1]. V́ là tỉnh cực Nam tiếp giáp với biên giới Chiêm Thành nên suốt một thời gian dài trong quá tŕnh dựng nước và mở nước, Quảng B́nh đă là chiến địa khốc liệt và dai dẳng, lắm phen thay ngôi đổi chủ giữa hai dân tộc Chiêm-Việt. Cho đến năm 1069, khi vua Lư Thánh Tông xuất quân đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ và sát nhập ba châu Địa-Lư, Ma-Linh, và Bố-Chính th́ Quảng B́nh (và phần đất phía Bắc tỉnh Quảng Trị) mới hoàn toàn thuộc về lănh thổ nước Việt Nam và thuộc về chủ quyền dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ.*
    Tuy là một tỉnh nhỏ, dù bề dài 110 cây số, và bề ngang, chỗ hẹp nhất, chỉ vào khoảng 45 cây số, quanh năm ách nước tai trời, lưng dựa vào Trường Sơn huyền bí, mặt nh́n về biển Đông thét gào, đất cày lên không sỏi th́ đá, nhưng tạo hóa lại đền bù cho Quảng B́nh nhiều danh lam thắng cảnh để tô điểm cho thêm thanh kỳ, mỹ tú mà nhiều tỉnh khác không có. Lũy Thầy, Đèo Ngang, sông Linh Giang, động Phong Nha… không những là kỳ tích của thiên nhiên mà c̣n là những địa danh ghi đậm những biến cố hào hùng trong lịch sử nước nhà.
    Đèo Ngang nằm trên một rặng núi bắt nguồn từ dăy Trường Sơn, vươn ra biển Nam Hải như một bức trường thành hùng vĩ nên có lẽ v́ thế mà rặng núi này được gọi là Hoành Sơn. Sử chép rằng chúa Nguyễn Hoàng thời Lê Mạt trước khi vào trấn nhậm Đàng Trong, có cho người đến thỉnh ư cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ nh́n thấy một đàn kiến đang ḅ trên ḥn giả sơn trước sân nhà, bèn nói Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân (núi Hoành một dăy, vạn đời dung thân). Câu chuyện thuộc về dă sử không rơ thực hư, nhưng kể từ năm 1558, khi chúa Trịnh cho Nguyễn Hoàng vào Nam trấn nhậm cho đến khi nhà Nguyễn lập quốc xưng vương vào năm 1802, rồi kéo dài cho đến năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị trao quyền lại cho ông Hồ Chí Minh, tổng cộng gần 400 năm kể cũng là vạn đại lắm rồi.
    Cảnh vật Đèo Ngang như là nơi tao ngộ của trời mây non nước, đất đá cỏ cây, lại có ải-quan trơ gan cùng ngày tháng, có Cổ Lũy pha đậm nét rêu phong, cảnh trí vừa hùng vĩ, vừa nên thơ dễ làm động ḷng khách du quan mỗi khi đi qua Đèo. Vua Lê Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… những thi hào tên tuổi của Việt Nam dừng chân trên đỉnh đèo, động ḷng hoài cảm trước cảnh vật giao ḥa đă để lại những vần thơ láng lai t́nh non nước. Người Việt Nam không mấy ai không biết bài thơ hoài cảm Qua Đèo Ngang tức cảnh của Bà Huyện Thanh Quan:
    *********** Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
    *********** Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
    *********** Lom khom dưới núi tiều vài chú,
    *********** Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
    *********** Nhớ nước đau ḷng con quốc-quốc,
    *********** Thương nhà mỏi miệng cái gia-gia.
    *********** Dừng chân đứng lại trời non nước,
    *********** Một mảnh t́nh riêng ta với ta.
    Cách Đèo Ngang 15 cây số về phía Nam có con sông Gianh mà ḷng sông vừa sâu lượng nước lại vừa chảy mạnh. Sông Gianh bắt nguồn từ núi rừng Trường Sơn hiểm trở, bạt núi xuyên ngàn tạo ra nhiều thác lắm ghềnh và đổ ̣a ra biển Đông, cắt đôi đất nước thành hai miền riêng biệt. Bề ngang rộng lớn của ḍng sông và thế chảy mănh liệt của ḍng nước biến sông Gianh thành một trở lực thiên nhiên hữu ích cho các nhà quân sự muốn tạo ra một thế bố pḥng vững chắc vào cái thời mà vũ khí và các phương tiện vận tải c̣n giới hạn.
    Cửa sông Gianh nước chảy xiết, khó bắc cầu, thuyền bè qua lại khó khăn nguy hiểm nên dân gian mới ví von:
    *********** Bao giờ nước cạn Đồng Nai,
    *********** Sông Gianh bớt chảy mới phai lời nguyền.
    Tuy cửa sông Gianh hiểm trở nhưng đây cũng lại là nơi phong cảnh hữu t́nh, nên thơ với tiếng gió thổi lộng qua hàng dương liễu vi vu trỗi lên những bản nhạc du dương trầm hùng, với những cánh buồm nâu trở về bến cũ khi bóng xế chiều tà, với tiếng sóng dạt dào theo con nước thuỷ triều lên xuống. Khách lữ hành mỏi mệt sau những chặng đường dài trên con đường thiên lư, đến cửa sông Gianh dừng chân nghỉ lại trong những ngôi quán tranh của dân xóm Thanh Hà, phía hữu ngạn sông Gianh, nếm mùi hải vị, uống chén chè tươi, ngắm nh́n bức tranh thiên tạo, hưởng làn gió mát trước khi tiếp tục cuộc hành tŕnh ngược Bắc xuôi Nam.
    Rời sông Gianh, theo phương Nam mà đi gần 30 cây số nữa, khách lữ hành sẽ gặp Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng B́nh, có Động Hải, có sông Nhật Lệ, có cổng B́nh Quan, có cổ lũy Phú Ninh, có những tiền đồn của Lũy Thầy, những di tích c̣n sót lại của thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
    Tiếp tục đi về phía Nam, băng qua sông Nhật Lệ, khách lữ hành sẽ t́m thấy những kiến trúc rêu phong vốn là vết tích của Lũy Thầy, c̣n được gọi là Trường Thành Định Bắc. Lũy Thầy, chiến lũy vững vàng đă từng chận đứng rất nhiều chiến dịch Nam tiến của quân chúa Trịnh, được xây từ năm 1629 do sáng kiến chiến lược của vị quân sư tài ba và đầy mưu lược của nhà Nguyễn là ông Đào Duy Từ. Ông vốn xuất thân từ một gia đ́nh làm nghề hát xướng, cái nghề mà xă hội phong kiến ngày xưa thường khinh bỉ gọi là “xướng ca vô loại”. Thủa thiếu thời, có lúc ông phải đi ăn xin từ làng này qua làng khác và rất nhiều lần phải chăn trâu cho các nhà phú hộ để đổi lấy bát cơm thừa. Trong hoàn cảnh khốn cùng đó, tương lai lại c̣n bị chận đứng bởi bức thành giai cấp cổ tục, ông vẫn quyết tâm sôi kinh nấu sử một ḿnh để trau dồi trí đức và sau này trở thành một bậc hiền tài mưu cao chí lớn được chúa Nguyễn Phúc Nguyên và các quan xem như bậc thầy.
    Lũy Thầy dài ba trăm trượng, chạy từ chân núi Đầu Mâu, phía Tây huyện Lệ Thủy, đến cửa sông Nhật Lệ thuộc phủ Quảng Ninh, đă là chiến lũy chận đứng được nhiều cuộc tấn công của quân Đàng Ngoài. V́ thế mới có lời truyền tụng:
    *********** Khôn ngoan qua cửa sông La,
    *********** Dù ai có cánh khó qua Lũy Thầy.
    Ngoài những cảnh trí non nước đă được nhắc nhở nhiều trong sử sách ngàn đời của dân tộc Việt, Quảng B́nh c̣n có nhiều phong cảnh đem tự hào cho dân chúng địa phương. Cách tỉnh lỵ Đồng Hới 17 cây số về phía Tây Nam, có động Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, một thắng cảnh vô cùng kỳ vĩ. Muốn vào động phải đi bằng thuyền, phải có đuốc dẫn đường; trong động có suối nước xanh màu ngọc bích, có thạch nhũ nhô ra như những bàn tay Phật, có những kiến trúc thiên nhiên như những toà lâu đài tráng lệ huy hoàng, lại có những sân khấu do thợ Trời sắp đặt với phong cảnh trang trí, đào kép múa may thật diễm ảo thần tiên. Những giọt nước từ nhũ đá rơi xuống suối nằm sâu trong ḷng động tạo thành những điệu nhạc trầm buồn và mỗi khi nước chao động đập vào ghềnh đá th́ có tiếng âm vang như tiếng chuông chùa. Theo dân chúng địa phương th́ những tiếng chuông chùa này chỉ ngân lên vào đêm Rằm và đêm mồng Một âm lịch mà thôi.
    Trời trên ṿm động có những đám mây ngũ sắc từ chóp núi Trường Sơn tụ lại làm cho cảnh vật Phong Nha thêm huyền ảo, thanh kỳ khiến khách du quan tưởng ḿnh như lạc đến chốn Bồng Lai Tiên Cảnh.
    Cụ Chu Mạnh Trinh cho rằng động Hương Sơn ở Hà Tây là Nam Thiên đệ nhất Động, c̣n học giả Thái Văn Kiểm (từng sống lâu năm và từng nghiên cứu về địa lư dân t́nh tỉnh Quảng B́nh và miền Trung) th́ lại cho rằng Phong Nha là “Đệ Nhất Kỳ Quan” của nước Việt Nam. Theo ông Thái Văn Kiểm th́ ông Barton, nhà chiêm tinh học người Anh, cho biết động Phong Nha không kém ǵ động Padirac của Pháp hay Cuevas del Drach ở Mallorque của xứ Tây Ban Nha[2]. Chỉ tiếc rằng động Phong Nha, một kỳ quan của đất nước quê hương, mà chỉ có người Âu Châu thăm viếng nhiều c̣n người Việt Nam chưa mấy ai lui tới chỉ v́ giao thông trắc trở, v́ chiến tranh cản ngăn.
    Nếu động Phong Nha đă tô điểm cho huyện Bố Trạch thành một vùng giang sơn cẩm tú th́ núi Đầu Mâu và đầm Hạc Hải ở Lệ Thủy và Quảng Ninh lại là nơi tụ hội của khí thiêng sông núi hun đúc nhân tài tỉnh Quảng B́nh. Núi Đầu Mâu cao vút, quanh năm mây mù bao phủ đầu non, h́nh chóp núi nhọn như ng̣i bút, c̣n đầm Hạc Hải h́nh thể như cái nghiên mực có lạch riêng cho thuyền bè qua lại, phía Đông Nam bao bọc bởi những động cát chập chùng, phía Tây Bắc có vách núi Trường Sơn làm thành quách. Cảnh vật Đầu Mâu và Hạc Hải trông giống như ng̣i bút và đĩa nghiên cho nên tiền nhân mới gọi Đầu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên, làm biểu tượng cho nền văn học tỉnh Quảng B́nh. Quanh Đầu Mâu và Hạc Hải có nhiều động, nhiều hang thiêng liêng, thần bí khác, đặc biệt là động Chấn Linh được tiền nhân ca ngợi là chốn đào nguyên hạ giới, người trần tục không nên lui tới: Động môn vô tỏa thực, tục khách bất tàng lai [3].
    Quảng B́nh, quê hương tôi, c̣n rất nhiều sơn kỳ, thủy tú. Có lẽ v́ tạo hóa đặc biệt ân thưởng để đền bù cho một vùng đất vốn không được ưu đăi về mặt kinh tế như các vùng khác của đất nước, lại gặp quá nhiều đau khổ v́ ách nước tai trời, v́ chinh chiến triền miên theo dọc chiều dài lịch sử. Trong thời xa xưa, Quảng B́nh liên tiếp đă là băi chiến trường của hai quốc gia Chiêm-Việt; đến đời nhà Lê, Quảng B́nh lại đắm ch́m trong can qua v́ cuộc phân tranh của hai nhà Trịnh-Nguyễn. Trong thời Pháp thuộc, vùng Tuyên Hoá phía Tây Quảng B́nh là chiến khu của vua Hàm Nghi, vùng tả hữu ngạn sông Gianh trở thành chiến địa giữa nghĩa quân Cần vương và quân đội viễn chinh của thực dân, giữa người Lương chống Pháp và người Giáo theo Pháp. Thời chiến tranh Pháp-Việt, 1945-1954, vùng Bắc Quảng B́nh là biên giới của hai phe lâm chiến, nhiều trận giao phong ác liệt đă xảy ra nơi vùng tiền tuyến của hai bên. Thời chiến tranh Nam Bắc Quốc Cộng (1954-1975) Quảng B́nh là tuyến đầu của quân đội miền Bắc, được sử dụng như một căn cứ tiền phương với nhiệm vụ t́nh báo, tồn trữ quân nhu, quân cụ và là xuất phát điểm của những chiến dịch xâm nhập hay tấn công quân đội miền Nam, nên đất và dân Quảng B́nh đă phải hứng chịu nhiều trận mưa bom hăi hùng, bất tận của không quân Mỹ-Việt.
    Ông bà xưa thường nói người khôn của khó. Câu nói đó áp dụng đúng cho trường hợp nhân dân Quảng B́nh. Dân Quảng B́nh nghèo khó, dân Quảng B́nh gặp tai ương triền miên, nhưng người Quảng B́nh lại thông minh, khí phách, can trường và nhất là dám sống chết cho lư tưởng.
    Tuy Quảng B́nh không có những nhân vật nổi tiếng về văn học và cách mạng như các danh sĩ Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngăi, nhưng số người đỗ đạt khoa giáp lại rất nhiều, đặc biệt là tại hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh. Quảng Trạch có bốn đại xă văn học là SƠN (Lệ Sơn), HÀ (La Hà), CẢNH (Cảnh Dương), THỔ (Thổ Ngọa). Quảng Ninh có bốn đại xă là VĂN (Văn La), VƠ (Vơ Xá), CỔ (Cổ Liễu), KIM (Kim Nại). Tên của tám xă góp lại thành hai vế của một câu đối là Sơn Hà Cảnh Thổ đối với Văn Vơ Cổ Kim, đă đem lại danh dự cho dân chúng Quảng B́nh. Ngoài hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh, huyện Lệ Thủy cũng là một quê hương có nhiều nhân tài khoa hoạn, nhiều tiến sĩ, phó bảng. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết từ đời nhà Lê cho đến đời nhà Nguyễn, Quảng B́nh có rất nhiều người đỗ đạt và làm quan phục vụ cho dân, cho nước mà toàn là những người nổi tiếng về khí tiết, đức độ, liêm chính, tài năng, mưu lược. Có những nhân vật đức độ được ca ngợi là Phật sống, là Bồ Tát, có những nhân vật văn vơ vẹn toàn, có những người đa mưu túc trí được so sánh với Khổng Minh, với Lưu Bá Ôn, những nhân tài đời Hán, đời Minh bên Trung Quốc. Có những người chỉ xuất thân từ hàng sĩ tốt, nhờ tài thao lược, nhờ dũng khí, can trường làm nên đến Đô Thống, Quận Công. Quảng B́nh tỉnh nhỏ, người thưa mà lại có nhiều vị khoa giáp, tài đức, học hành toàn vẹn được nhiều đời Vua mời vào cung giữ chức “Phụ Đạo”, làm thầy dạy học cho các Hoàng Tử, Hoàng Đệ như Nguyễn Đăng Tuấn, Ngô Đ́nh Giỏi, Vũ Xuân Cẩn, Nguyễn Hàm Ninh. Có người như Nguyễn Tử Kính làm quân sư cho vua Lê đánh đuổi giặc Tàu, như Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân lănh đạo nghĩa quân Cần Vương, pḥ vua Hàm Nghi đánh Pháp. Có người như Nguyễn Hàm Ninh (bạn tri kỷ của Cao Bá Quát) nửa đường công danh không muốn tiếp tục vào ḷn ra cúi, cởi áo từ quan về nhà sống cuộc đời thanh bần. Lại có người như tiến sĩ Phạm Phi Diệu đỗ đạt rồi mà không màng lợi danh, chỉ muốn sống cuộc đời ẩn dật vui với non nước, cỏ cây chốn thôn dă bần hàn:
    *********** Bảng chiếu dương Ngô mai bạch tuyết,
    *********** Tâm lao hậu bỉ Thảo, Huyền nhân.
    Ư muốn nói là thi đỗ rồi chỉ muốn bồi dưỡng tâm hồn cho trắng như tuyết, cho sạch như mai, không nhọc ḷng làm kẻ viết kinh Huyền, kinh Thảo[4].
    Đến thời cận đại, khi nền giáo dục Tây phương theo chân quân xâm lăng tràn vào bờ cơi để đánh bật tận gốc rễ nền giáo dục Nho Hán và thay vào đấy bằng một nền giáo dục gọi là Tây học th́ Quảng B́nh, trong cơn chuyển đổi ngặt nghèo, cũng sản xuất ra được những nhân vật tiếng tăm lẫy lừng như gịng họ Ngô Đ́nh chẳng hạn, gịng họ đă có người làm đến Tổng Đốc Thượng Thư dưới thời bảo hộ Pháp, có người làm đến Tổng thống, Tổng giám mục dưới thời ảnh hưởng Mỹ. Cũng trong thời kỳ này, khi chiến tranh bao phủ non sông và bao nhiều người con yêu của tổ quốc đều chọn binh nghiệp làm lẽ sống th́ Quảng B́nh cũng có người làm đến Đại tướng hay Bộ trưởng như ông Vơ Nguyên Giáp chẳng hạn, tạo ra những chiến công hiển hách trong quân sử nước nhà. Quảng B́nh cũng c̣n nằm trong bộ phận đại quần chúng để cung cấp cho dân tộc những nghệ sĩ biết rung động với thiên nhiên và thời đại, những kỹ thuật gia biết vận dụng năng lực sáng tạo để khắc phục khó khăn.
    Lật trang sử cũ, ta thấy Quảng B́nh quả thật là quê hương địa linh nhân kiệt, vùng đất vốn chật hẹp, nghèo nàn mà núi sông lại hùng vĩ, phong cảnh lại hữu t́nh, sản xuất không biết bao nhiêu là văn tài, vơ tướng, hào kiệt, trượng phu, tô điểm vàng son cho lịch sử nước nhà. Nhưng rồi như cổ nhân đă dạy dân có vận, nước có tuần, đến giữa thế kỷ 20, chính những người con dân Quảng B́nh lại là những người chủ trương gây cảnh huynh đệ tương tàn, chiến tranh suốt 30 năm trời, quê hương núi xương sông máu, mà tiêu biểu rơ ràng nhất là hai nhân vật Ngô Đ́nh Diệm và Vơ Nguyên Giáp.
    Ư nghĩa lịch sử đích thực của cuộc chiến tranh đó nh́n bằng con mắt của 50 triệu người dân Việt và đặt nó nằm trong ḍng sinh mệnh gần 5000 năm ngút ngàn của tổ quốc Việt Nam th́ chỉ là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. V́ dù có nhân danh bất kỳ một chủ nghĩa nào (Cộng sản hay Tư bản), dù có biện minh bằng một nguyên ủy nào (Giải phóng hay Tự do), th́ rơ ràng chính máu xương của người Việt đă đổ ra, chính người Việt này đă giết người Việt kia không bằng sự tỉnh táo và tự do của một con người Việt b́nh thường mà ước vọng về cuộc sống th́ thật là giản dị. Người Việt đă không phát kiến ra những hệ ư thức để mâu thuẫn nhau, lại càng không phát minh ra những vũ khí để tiêu diệt nhau. Đi t́m nguồn gốc lịch sử sâu xa của cuộc chiến Quốc Cộng là phải đi xa hơn nữa vào chiều dài của lịch sử, kể từ lúc ngọn gió dữ phương Tây quái ác cuộn vào đất nước làm bật tung cây cổ thụ văn hóa của dân tộc, cây cổ thụ đă được vun trồng bởi Quốc Tổ Hùng Vương, và được tưới bằng máu của biết bao anh hùng liệt nữ trải dài gần 5000 năm văn hiến, và cây cổ thụ đă một thời xanh tốt vững chăi bằng đất lành khí mát của nền Tam giáo đồng nguyên.
    Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được phép anh rể là Trịnh Kiểm vào Nam trấn nhậm, ông ra đi mang theo cái mộng trả thù cho cha anh và cái chí mưu bá đồ vương, anh hùng một cơi. Ông lập nên nghiệp Chúa ở Đàng Trong, mở mang bờ cơi đến tận Châu Đốc, Hà Tiên, xây dựng một giang sơn riêng biệt quyết chí đương đầu với chúa Trịnh ở phương Bắc. Từ đó Việt Nam bị chia đôi bằng ḍng sông Gianh của tỉnh Quảng B́nh và dân tộc Việt Nam phải chịu hai hệ thống cai trị. Tất nhiên cuộc Nam Bắc phân tranh đă phải xảy ra giữa hai họ Trịnh Nguyễn, với hệ quả tất yếu là cuộc nội chiến giữa Nguyễn Gia Long và Nguyễn Tây Sơn, kéo dài cho đến năm 1802 khi Gia Long thống nhất đất nước mới chấm dứt. Trong giai đoạn này, từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, dân tộc Việt đă phải gánh chịu cảnh cốt nhục tương tàn trên 200 năm trời.
    Gia Long chấm dứt 200 năm nội chiến và thống nhất sơn hà phần lớn nhờ vào sức mạnh của vũ khí Tây phương qua sự vận động của các giáo sĩ Kitô giáo. Cho nên nội chiến chấm dứt rồi, sơn hà thống nhất rồi mà dân ta vẫn chưa được hưởng thái b́nh an lạc v́ các giáo sĩ Kitô giáo, khi đến Việt Nam, không phải chỉ có một mục đích rao giảng tin mừng của Thiên Chúa mà c̣n có một mục đích xâm thực văn hóa nữa. Mục đích xâm thực này phù hợp hoàn toàn với mục đích chiếm đất giành dân của chính quyền thực dân Pháp để cấu kết với nhau trở thành một chiêu bài mà họ gọi là “nhiệm vụ khai hóa” (mission civilisatrice).
    Cho nên Phong kiến không tự nó đẻ ra được Cộng sản trong trường hợp nước ta mà chính Thực dân đă đẻ ra Cộng sản. Và sau này, cũng chính hai sản phẩm này của nền văn minh Tây phương là Thực dân và Cộng sản đă thôi thúc dân ta rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn.
    V́ vậy, bất hạnh thay cho dân tộc Việt, đúng 25 năm trước cuộc Nam tiến của Nguyễn Hoàng, vào năm 1533 thời vua Lê Trang Tôn, các giáo sĩ Kitô giáo Tây phương đă đi đường biển lẻn vào nước ta để giảng đạo. Nếu hoạt động của các giáo sĩ Tây phương chỉ cốt để truyền giáo mà thôi, như Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Hà Đông năm 580 để truyền bá đạo Phật chẳng hạn, th́ có lẽ không có cái hậu quả 30 năm chiến tranh Quốc Cộng 1945-1975 sau này. Khốn nỗi họ lợi dụng việc truyền giáo, toa rập với các lực lượng Thực dân và Đế quốc phương Tây, để mưu đồ thôn tính Việt Nam. Không những họ đă làm đảo lộn cương thường đạo lư, tập tục cổ truyền của nền văn hóa dân tộc, mà họ c̣n gây căm thù chia rẽ giữa người Việt với người Việt, họ xây dựng một đạo quân thứ 5 bản xứ làm đội quân mai phục đưa đường dẫn lối cho quân đội Pháp sau này. Đây không phải là một biệt lệ cho trường hợp Việt Nam mà là một chính sách toàn cầu của đạo Công giáo La Mă được Toà thánh Vatican thực hiện một cách hiệu quả đến mức giáo hoàng John Paul II ngày nay phải đi nhận tội và xin lỗi ở khắp nơi từ Nam Mỹ đến Phi Châu.
    Dưới thời chúa Nguyễn Ánh, giám mục Pigneau de Béhaine đă cùng với Hoàng tử Cảnh, con trai đầu ḷng của Nguyễn Ánh, đến Pháp bệ kiến vua Louis 16 để xin viện trợ và kư hiệp ước Versailles, hiệp ước đầu tiên bán nước Việt Nam cho Pháp. Hiệp ước Versailles tuy không được áp dụng, nhưng từ đó và nhờ đó, Pigneau de Béhaine, các giáo sĩ và các sĩ quan hiếu động, nhiều tham vọng của Pháp đă khai thác cơ hội để thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Với những mưu đồ đen tối, với những thủ đoạn xảo quyệt, họ đă thúc đẩy được chính phủ Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam, đặt nền đô hộ gần suốt 100 năm trời.
    Trong tác phẩm nghiên cứu lịch sử nổi tiếng Việt Nam Pháp Thuộc Sử (in lại tại Mỹ gần đây), giáo sư Phan Khoang đă đưa ra những sử liệu rất rơ ràng về vai tṛ của các giáo sĩ Kitô giáo.
    “Nói về nước Pháp th́ sau cuộc chiến tranh bảy năm, đă mất nhiều thuộc địa, ở Ấn Độ chỉ c̣n năm nơi thương phụ, vậy muốn khôi phục thế lực ở Á Đông, người Pháp phải gắng kiếm thêm đất đai ở bên này mới được.
    Một giáo sĩ Pháp sẽ t́m cơ hội can thiệp vào nước Việt Nam và đặt viên đá đầu tiên cho cuộc xâm nhập nước ḿnh” (trang 32).
    và cũng trong cuốn Sử đó, ông đă đi vào chi tiết rơ hơn:
    “Những người đề xướng đầu tiên cuộc chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan hải quân của hạm đội Pháp ở biển Trung Quốc như các ông Cécille, Rocquemaurel, Fourichon, Jaurès Maison-Neuve, mấy đại diện ngoại giao kế nhau ở Toà lănh sự Pháp ở Macao như các ông Forth Rouen, De Courcy, Bourboulon; các ông ấy đă nhiều lần đề nghị với chánh phủ đem quân can thiệp ở nước Nam.
    Nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để làm cho chánh phủ Pháp quyết định là các Giáo sĩ, nhất là giáo sĩ Huc, Giám mục Retord, Giáo sĩ Libois và Giám mục Pellerin.
    Giáo sĩ Huc trước đă dâng vua Napoléon III một kế hoạch thành lập một công ty để lo việc chinh phục và khai thác các xứ Cao Ly, Đà Nẵng, Madagascar; năm 1857 lại dâng một bức thư nhắc lại Pháp-Nam hiệp ước 1857 và sự cần thiết phải thiết lập gấp một căn cứ ở nước Nam. Chính lá thư ấy đă làm cho chánh phủ vua Napoléon III quyết định đặt một ủy ban để Nghiên Cứu vấn đề Nước Nam (Commission de la Cochinchine), trong ủy ban ấy, Giáo sĩ Huc đă tỏ bày ư kiến. Sau khi dâng bức thư kia, Giáo sĩ Huc được vua vời đến diện yết, và Giáo sĩ đă làm cho vua tin tưởng ở lời nói ḿnh.
    Giám mục Pellerin th́ trong các năm 1851, 1855 đă xin chánh phủ Pháp giúp đỡ các giáo sĩ, giáo đồ đương bị bạc đăi và giết hại. Như ta đă thấy, năm 1856, Giám mục lén đến Đà Nẵng, gặp thuyền trưởng tàu Capricieuse.
    Nhân đó, Giám mục có dự cuộc thương thuyết của Montigny và các quan ta, rồi về Pháp bày tỏ trước công chúng những cảnh tượng bi thảm mà Giáo hội ở nước Nam đă phải trải qua. Giám mục có ra trước Ũy ban Nước Nam, được diện yết vua Napoléon III nhiều lần và dâng lên vua hai tờ điều trần dài.” (trang 115-117)
    Hai tờ điều trần mở đầu cho tàu chiến súng đạn Pháp xâm lăng nước ta.
    Tuy nhiên âm mưu xâm chiếm Việt Nam thật ra đă có từ thời giáo sĩ Alexandre de Rhodes kể từ khi ông ta đến Việt Nam (1624), nghĩa là hơn 200 năm trước.
    Ánh sáng của sự thật càng ngày càng được chiếu rọi vào hồ sơ mật trong các văn khố của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và đă cho phép các sử gia xác định âm mưu thôn tính Việt Nam của Thiên Chúa giáo vốn có từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes chứ không phải dưới thời Pigneau de Béhaine và Nguyễn Ánh, như một số người chưa chịu nghiên cứu kỹ vẫn bị nhầm lẫn.
    Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm 1624 và vĩnh viễn rời Việt Nam năm 1645. Thời gian ở Việt Nam ông viết rất nhiều sách giúp người Âu Châu t́m hiểu t́nh h́nh chính trị, địa h́nh, địa vật, sông núi, sản phẩm, tài nguyên, v.v… của xứ Việt Nam. Ông cũng hoàn bị công tŕnh của các Giáo sĩ Bồ Đào Nha trưóc đó, dựa vào chữ La tinh mà chế ra chữ Quốc ngữ, để trước hết là cho giáo dân dễ học Kinh thánh và dễ dàng giao thiệp với những thừa sai ngoại quốc. Nhiều lần ông đă bị chúa Trịnh đuổi đi, nhưng từ Áo Môn, năm 1640 ông t́m cách trở lại Việt Nam để hoạt động cho đến năm 1645:
    Năm đó, cấp trên bảo ông trở về Âu châu để xin viện trợ vật chất và tuyển người truyền giáo mới. Ông đến La Mă năm 1649 đúng lúc Toà thánh cố tách rời việc truyền giáo tại châu Á ra khỏi quyền hành thế tục của Bồ Đào Nha. Ông tŕnh bày trước Hiệp Hội Truyền Giáo “Congrégations Propaganda Fide”, kế hoạch thiết lập tại Việt Nam một giáo đoàn thoát khỏi sự bảo trợ của Bồ Đào Nha. Được Giáo hoàng hân hạnh tiếp nhận. Vị tu sĩ ḍng Tên xứ Avignon được lựa chọn trong mục đích đó, Alexandre de Rhodes bèn quay về Pháp.
    Ông viết: “Tôi tin rằng Pháp, v́ là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn thể phương Đông. Cũng như ở đó tôi sẽ có cách có nhiều Giám mục vốn là các Cha và các Thầy của chúng ta ở trong nhà thờ. Tôi rời La Mă ngày 11-9-1652 với ư định đó.
    Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp một nhóm linh mục trẻ liền quyết tâm biến việc đào tạo này thành sự vụ riêng của Pháp (affaire Francaise). Đó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển cả. Được Hoàng hậu Pháp và một nhân vật cao cấp ủng hộ, kế hoạch bị Bồ Đào Nha tấn công mạnh mẽ, họ viện dẫn sự bảo trợ hoàn toàn mà năm 1493 Giáo hoàng Alexandre Borgia đă giao cho họ. Alexandre de Rhodes chết năm 1660 khi chưa thấy được kế hoạch của ḿnh thực hiện, nhưng cố gắng của ông đă thành tựu. Năm 1658 La Mă bổ nhiệm hai vị đại diện Tông Toà người Pháp là Francois Pallu (1626-1684) và Lambert De la Motte (1637-1693) đại diện trực tiếp Giáo hoàng… Lịch Sử của Hội này (Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp) sẽ gắn liền chặt chẽ với lịch sử chiếm đóng của Pháp tại Việt Nam (La Société des Missions Etrangères fut alors créée dont l’histoire allait être intimement liée avec celle de l’implantation francaise au Vietnam). (Xem Đạo Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần, bản Việt văn trang 47, 48, bản Pháp văn trang 9, 10).
    Giáo sư sử học Joseph Buttinger trong Vietnam a Political History (trang 63, 64) cũng có những nhận định như của tiến sĩ Cao Huy Thuần, được tạm dịch ra như dưới đây:
    Công cuộc phát triển đạo Thiên Chúa tại Đông Dương trở thành công tác đặc biệt của một tổ chức Pháp được gọi là Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Society of Foreign Mission) thành lập năm 1664 tại Paris. Tổ chức này đi song hành với Công ty Đông Ấn Pháp do các giáo sĩ Paris, Rouen thành lập. Ông viết:
    “Các tổ chức song hành “thương măi-tôn giáo đó” mở một trang sử khó quên cho nền thực dân Tây phương (A memorable chapter in the history of Western Colonialism) được thành lập vào khoảng 1650. Người Pháp mở một trung tâm thương măi Pháp Việt ở Hà Nội nhưng những người cư ngụ trong trung tâm đó là những giáo sĩ cải trang thành thương nhân người Pháp. Có vài dịch vụ trao đổi hàng hóa nhưng mục đích chính là để che đậy công tác bí mật nhằm tổ chức người cải đạo (Some trade was made but it served mainly as a cover for clandestine proselytizing).
    “…Pallu và De la Motte cố gắng tiếp tục công việc của Rhodes đă bỏ dở mặc dù bị các chính phủ Đàng trong và Đàng ngoài cấm giáo sĩ ngoại quốc xâm nhập vào Việt Nam. Họ chiến đấu bằng sự cải trang thành thương nhân để lo chuyện thương măi, nhưng khi các dịch vụ thương măi bị đ́nh trệ th́ số phận của họ lại phải tuỳ thuộc vào sự hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. (“Vietnam a Political History”, Joseph Buttinger trang 64)
    Buttinger c̣n viết:
    “Đặc biệt Pallu là một nhà kế hoạch chính trị, thường đi xa hơn các chỉ thị của cấp trên. Có thể gọi ông ta là người sáng chế mô thức thuộc địa trong đường lối chính trị tại Paris với phương sách “đă rồi” (accomplished facts). Ngoài những công việc đă thực hiện tại Á Châu trong khuôn khổ của Hội truyền Giáo mới thành lập, Francois Pallu c̣n lo việc tại Pháp, hợp tác với chính phủ khuếch trương ảnh hưởng Pháp tại Viễn Đông.
    Như vậy chính Alexandre de Rhodes là người đầu tiên đă âm thầm hoạt động cho mưu đồ thực dân Pháp và lộ rơ vào năm 1649 khi được yết kiến Giáo Hoàng. Tuy nhiên, mưu đồ chưa thành h́nh th́ ông đă chết, sự nghiệp thực dân của ông ta được giáo sĩ Pallu tiếp nối.
    C̣n ông Yoshiharu Tsuboi, giáo sư đại học Đông Kinh xuất thân từ Đại học Paris, trong cuốn “L’Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine” (trang 31-57) đă viết như sau:
    “…Sau hết người ta đă thảo luận dài ḍng về những nguyên nhân của sự can thiệp và xâm chiếm thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, tác giả này th́ nhấn mạnh vào những nguyên nhân chính trị, tác giả khác lại chú ư tới những nguyên nhân kinh tế.
    Phần chúng tôi, chúng tôi muốn tập trung sự chú ư vào những người Pháp từng làm việc tại Việt Nam, qua đó và căn cứ vào quá tŕnh truyền thông những tin tức về mọi mặt có liên quan đến Việt Nam để đưa về Pháp. Làm thế nào để cho nổi rơ những nguồn thông tin từng thúc bách chính phủ Pháp phải can thiệp vào Việt Nam và chiếm lấy nước này làm thuộc địa (…de mettre en évidence les sources de renseignements qui ont déterminés l’intervention des gouvernements Francais au Vietnam et la colonisation de ce pays). Rút lại, tôi muốn đưa ra mấy yếu tố để trả lời một câu hỏi đơn giản song quan trọng: Tại sao không phải Anh Cát Lợi, Ḥa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mà chỉ có một ḿnh nước Pháp “gắn bó” với Việt Nam? Và mặt khác tại sao không phải Phi Luật Tân, Triều Tiên, Nhật Bản, Xiêm La mà chỉ có nước Việt Nam bị Pháp gắn bó?”
    Câu trả lời của vị giáo sư Nhật Bản là:
    Trong công cuộc “Phúc âm hóa” nước Việt Nam có một tổ chức và năm giáo sĩ người Pháp đă giữ một vai tṛ quan trọng: Hội Thừa Sai Paris và các giáo sĩ Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Pigneau de Béhaine, Francois Marie Pellerin và Paul Francois Puginier”.
    Như vậy là từ khi đến Việt Nam năm 1624, Alexandre de Rhodes đă nghiên cứu t́nh h́nh chính trị, kinh tế, địa dư nước Việt Nam, huấn luyện và tổ chức những tập đoàn tín đồ Thiên Chúa giáo bản xứ trung thành với Toà thánh Vatican rồi trở về Âu châu năm 1645 và qua năm 1646 tŕnh bày kế hoạch Phúc âm hóa Việt Nam với Giáo Hoàng và tŕnh bày kế hoạch thôn tính Việt Nam với chính phủ Pháp.
    Nói tóm lại, âm mưu thôn tính Việt Nam đă do các giáo sĩ sắp đặt từ 1649 (nếu không muốn nói là từ 1624) chứ không phải từ khi có cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ánh và Pigneau de Béhaine năm 1776 (hay 1777) như nhiều người đă vô t́nh hay cố ư bóp méo sự thật.
    Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam vốn hào hùng bất khuất, vốn có truyền thống chống ngoại xâm như một truyền thống dựng nước và giữ nước, đă từng ba lần chiến thắng quân Mông Cổ, th́ đời nào chịu làm thân nô lệ cho ngoại bang. Do đó, từ ngày Pháp đặt được nền đô hộ, truyền thống đề kháng chống ngoại xâm bùng lên và những cuộc nổi dậy chống đối đă liên tục xảy ra từ Bắc chí Nam để thể hiện quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp.
    Những cuộc nổi dậy lúc đầu chỉ do người Việt lănh đạo như phong trào Văn Thân, Cần Vương, như Việt Nam Quang Phục Hội,… nhưng đến thượng bán thế kỷ 20 th́ chủ nghĩa Mác-Lê âm thầm len lỏi vào Việt Nam, cho nên từ đó những cuộc nổi dậy chống đế quốc Pháp lại có thêm lực lượng của phong trào Cộng Sản quốc tế nữa.
    Trước đó, trong phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp (1885-1898), Nho giáo và Phật giáo đă là hai lực lượng yểm trợ chủ yếu. Giới tăng sĩ liên kết với các nho sĩ trung quân ái quốc phát động nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp và tay sai bản xứ. Điển h́nh là vụ tăng sĩ Vơ Trứ liên kết với nho sĩ Trần Cao Vân để thực hiện cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên (1898) mà Pháp và bọn tay sai đă gọi là “giặc thầy chùa”. Ở miền Bắc có tăng sĩ Vương Quốc Chính tổ chức “Hội Trương Chí” thiết lập một màng lưới tổ chức trong các ngôi chùa từ Nghệ An tới Bắc Ninh dấy động một phong trào nhân dân chống quân đội Pháp và chống văn hoá Pháp; ở miền Nam, nhiều tổ chức kháng Pháp như các tổ chức Nghĩa-Hoà, Thiên Địa Hội, Nhân Ḥa Đường,… kết hợp ḷng yêu nước với mẫu số chung tín ngưỡng Phật giáo qua các cơ sở quần chúng của Phật giáo Ḥa Hảo và Cao Đài để liên tục chống giặc Pháp xâm lăng [5].
    Đau đớn thay, trong lúc các lực lượng của nền Tam giáo tiếp tục hy sinh đấu tranh cho nền Độc Lập nước nhà th́ khối Công giáo vẫn cứ làm tay sai cho Thực dân Pháp. Bài “Hội hè của đồng bào Thiên Chúa giáo” (xem tác phẩm “Hội Hè Đ́nh Đám” của Toan Ánh và lời nhận xét của tạp chí Ánh Sáng Dân Tộc số 2 tháng 11 năm 1989) được trích đăng vào phần Phụ Lục cuốn sách này chứng minh một cách hùng hồn việc người Công giáo Việt Nam vẫn cứ ôm chặt chân người Pháp, vẫn coi nước Pháp là Mẫu quốc và vẫn vinh danh cố linh mục Trần Lục (Phát Diệm), kẻ đă làm tay sai đắc lực cho quân đội Pháp trong cuộc xâm lăng Việt Nam, đặc biệt là đă cùng với 5000 giáo dân giúp Pháp triệt phá chiến khu Ba Đ́nh của anh hùng Đinh Công Tráng.
    Trong khung cảnh đất nước lúc bấy giờ, và thể hiện rơ ràng trong đời sống ở thôn quê cũng như ở thị thành, ở trong chính quyền cũng như ở ngoài quần chúng, ba luồng ư thức đối nghịch nhau như nước với lửa, như đêm với ngày, chi phối toàn bộ sinh hoạt quốc gia Việt Nam là ư thức dân tộc nhân bản của nền Tam giáo, ư thức độc thần của Kitô giáo, và ư thức duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê. Thời đô hộ, những mâu thuẫn ư thức dưới h́nh thái văn hoá đó chỉ xảy ra ngấm ngầm giữa ba thành phần dân chúng nhưng chưa đến nỗi khốc liệt v́ lực lượng Công giáo Việt Nam vẫn c̣n nắm được ưu thế tuyệt đối nhờ có bộ máy quyền lực của thực dân che chở bảo vệ.
    Nhưng cuộc tranh chấp của ba luồng ư thức bổng bộc phát mănh liệt và trở thành một cuộc sống mái tay đôi sau Đệ Nhị Thế Chiến khi thế lực thực dân đế quốc bắt đầu suy yếu và khi nền móng của nền Tam Giáo bắt đầu lung lay.
    Thật vậy, trong cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất (1945-1954), Cộng Sản kiểm soát và điều động kháng chiến trong phong trào Việt Minh, hô hào toàn dân chống xâm lăng giành độc lập cho nước nhà và trở thành một lực lượng quần chúng lớn. C̣n thực dân Pháp th́ mượn chiêu bài chống Cộng để che dấu âm mưu tái chiếm Việt Nam bằng cách dựa vào một chút chính danh của hư vị triều đ́nh nhà Nguyễn và một chút chính nghĩa từ hậu thuẫn của hầu hết giáo dân Việt Nam để cũng trở thành một lực lượng (chính quyền) lớn. Riêng Phật giáo và những đại bộ phận khác của dân tộc, thế không thể dựa được vào ngoại bang, lực không kết tụ được thành sức mạnh, đành nằm trong cảnh trên đe dưới búa và chuyển địa bàn ư thức và ảnh hưởng vào nông thôn với ḷng hoài vọng về một ngày thành công của kháng chiến Việt Nam.
    Cho đến năm 1954, khi cả Việt Minh và Pháp đều kiệt quệ trên cả hai mặt quân sự lẫn chính trị sau trận đánh tại ḷng chảo Điện Biên Phủ và sau gần mười năm quần thảo, th́ Pháp muốn cầu hoà rút khỏi Đông Dương để giải quyết nội t́nh băng hoại của nền Đệ Tứ Cộng Ḥa, đồng thời củng cố vùng ảnh hưởng tại Bắc Phi; c̣n Việt Minh th́ trước áp lực của Nga Sô và Trung Cộng, và v́ nhu cầu ổn định để bồi dưỡng thực lực, bèn thỏa hiệp với nhau qua Hiệp Ước Genève. Đất nước lại hai phần chia cách, người dân lại hai miền ly biệt v́ hiệp ước này trao miền Bắc cho Cộng Sản quản lư, c̣n miền Nam th́ tạm thời vẫn thuộc quyền người quốc gia chống Cộng trong lúc chờ đợi hai miền tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo qui định của Hiệp Ước.
    Trong lúc đó, Hoa Kỳ đă có chủ định riêng, họ không kư vào bản Hiệp định v́ đă thủ sẵn lá bài Ngô Đ́nh Diệm do Hồng y Spellman và Công giáo quốc tế bảo đảm, lá bài vốn đă được khai sinh và nuôi dưỡng tại Mỹ từ cuối năm 1950. Mỹ dùng lá bài Ngô Đ́nh Diệm để nhảy vào miền Nam trong ư đồ thiết lập một tiền đồn tại Đông Nam Á hầu chặn đứng sự bành trướng của Cộng Sản quốc tế. V́ vậy, cuộc chiến tranh Quốc Cộng lại tái diễn trên đất nước Việt Nam, chỉ thay đào đổi kép cho một vở tuồng cũ mà thôi! (Xem thêm The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, trang 238 đến 245)
    Phần đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai này là một cuộc chiến đă được cả hai phe lâm chiến tô vẽ cho một bản chất ư thức hệ mà một bên là ư thức Mác-Lê duy vật, và một bên là ư thức Kitô giáo độc thần. Nghĩa là một bên do đảng Cộng Sản Việt Nam với những lănh tụ Mác xít như Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp lănh đạo tại miền Bắc, một bên do một gia đ́nh Công giáo của ông Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục và đảng Cần Lao gồm hầu hết là người có đạo Công giáo cai trị miền Nam.
    Phật giáo Việt Nam, lực lượng đại đa số trong cộng đồng quốc gia, từ sau khi đất nước bị chia đôi, đă nhận thức rơ vai tṛ áp đảo của Cộng Sản trong mặt trận Việt Minh, bèn bỏ hẳn chủ trương thân Việt Minh trước kia như hầu hết các đảng phái quốc gia khác. Nhưng bất hạnh cho Phật giáo, muốn tránh vỏ dưa lại đạp phải vỏ dừa, v́ miền Nam lại bị cai trị bởi gia đ́nh ông Diệm và đảng Cần Lao Công giáo, vốn chủ trương tiêu diệt các đảng phái quốc gia, ḱ thị, khủng bố và đàn áp các tôn giáo trong đó có Phật giáo. Bị kẹt giữa hai kẻ đối nghịch, Phật giáo phải chịu đựng thống khổ nhục nhă suốt gần 9 năm trời dưới chế độ độc tài Công giáo trị Ngô Đ́nh Diệm. Cho đến 1963, t́nh trạng không thể chịu đựng được nữa, lại nhân v́ ông Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh hạ cờ Phật giáo nhân dịp lễ Phật Đản, Phật tử, dưới sự lănh đạo của Giáo hội Phật giáo, buộc phải vùng lên đấu tranh đ̣i hỏi b́nh đẳng tôn giáo, đ̣i hỏi tự do hành đạo như bên Công giáo, mở đầu cho một cuộc vận động cách mạng dân tộc. Cuộc đấu tranh của Phật giáo là cuộc đấu tranh bất bạo động và hợp ḷng dân nên đă mang một tầm vóc rộng lớn v́ được sự ủng hộ của đa số nhân dân của tất cả các tỉnh, thị miền Nam.
    Cuộc tranh chấp công khai của người Việt Nam trước đây chỉ có hai phe lâm trận, nay lại có thêm phe thứ ba là Phật giáo. Cuộc tranh chấp ư thức hệ này từ nay được lănh đạo bởi ba lư thuyết chánh trị rơ rệt: lư thuyết cực tả của Cộng Sản quốc tế, lư thuyết cực hữu của Kitô giáo quốc tế và lư thuyết trung dung của Phật giáo dân tộc. Thật ra, nếu anh em ông Diệm biết đặt quyền lợi tổ quốc và dân tộc trên quyền lợi của Công giáo La Mă, nếu ông Diệm tự coi ḿnh mang trách nhiệm của một vị nguyên thủ quốc gia hơn là trách nhiệm của một tông đồ và biết tạo sự đoàn kết giữa người quốc gia, th́ trận chiến tranh Việt Nam đă chỉ là trận chiến tranh giữa phe dân chủ tự do với phe Cộng Sản độc tài, và hai tôn giáo lớn tại Việt Nam đă có thể hài hoà sống chung để cùng rao giảng từ bi, bác ái. Bất hạnh cho miền Nam, gia đ́nh ông Diệm, và do đó chế độ của ông ta, lại là kẻ thừa kế đích thực của ba tệ hại lớn nhất: tệ hại phong kiến quan lại của thời Nguyễn Mạt, tệ hại hủ nho của một nền Tống Nho đă đến lúc suy tàn và sâu đậm nhất, tệ hại độc tôn giáo điều của một giáo hội Công giáo Việt Nam đang lên đến cao điểm nhờ sự khai sinh và nuôi dưỡng của thực dân Pháp từ hơn 100 năm và nhờ sự thừa nhận của Thiên Chúa giáo quốc tế (Vatican và Mỹ) như sức mạnh chống Cộng độc nhất ở Việt Nam. Cho nên ông Diệm và gia đ́nh của ông cũng đi con đường “Công giáo hóa” miền Nam như các cố đạo trước. V́ thế, hậu quả khốc liệt đă đến với gia đ́nh ông và với miền Nam sau này.
    Như đă nói, định mệnh trớ trêu đưa đẩy ḍng lịch sử của dân tộc đến một giai đoạn tranh chấp giữa ba xu hướng từ tầng chính trị bước lên kích thước văn hóa trong suốt những năm giao động của hai thập niên 50 và 60. Ba xu hướng này va chạm vào nhau và nổ bùng thành những cơn lốc chính trị và được lănh đạo bởi ba nhân vật cùng một quê quán Quảng B́nh. Đó là ông Vơ Nguyên Giáp quê làng An Xá, ông Ngô Đ́nh Diệm quê làng Đại Phong và Thượng Toạ Thích Trí Quang quê làng Diêm Điền.
    Làng An Xá cách làng Đại Phong hai con suối nhỏ và một cánh đồng lầy lội, c̣n làng Diêm Điền th́ nằm chếch hẳn một bên và cách đều hai làng này khoảng 20 cây số. Ba nhân vật trên đây, từ đời nội tổ trở lên chỉ là những ḍng họ khố rách áo ôm thuộc hàng bần dân nghèo dốt. Đến đời thân phụ ông Diệm là ông Ngô Đ́nh Khả, nhờ theo các cha cố và chính quyền bảo hộ Pháp mới được làm quan. Ông Vơ Nghiễm, thân phụ ông Vơ Nguyên Giáp chỉ vươn lên tới được chức cửu phẩm là chức thấp nhất trong hệ thống quan lại Nam triều, và phụ thân của Thượng Tọa Thích Trí Quang th́ măi vào những năm đầu của thế kỷ 20 mới bắt đầu ăn nên làm ra.
    Trong khung cảnh của một vùng đất khốn khổ và dân t́nh nghèo đói như tỉnh Quảng B́nh, 40 năm về trước, có ai ngờ ba đứa bé mở mắt chào đời vào buổi b́nh minh của thế kỷ thứ 20 lại có thể trở nên những nhân vật lẫy lừng làm chao nghiêng lịch sử và làm sụt sùi dân tộc. Có ai ngờ một cậu ấm tử sinh trưởng trong một gia đ́nh quan lại của một chế độ phong kiến mục nát lại trở nên Tổng thống của một quốc gia, dù nội dung thực sự là ǵ, th́ h́nh thức cũng là của một chế độ Cộng Ḥa Dân Chủ kiểu Tây phương; có ai ngờ một chú sa di đầu tṛn áo vuông lại trở nên linh hồn của một phong trào tôn giáo quần chúng lớn “làm rung chuyển nước Mỹ” với tham vọng thực hiện cuộc Tổng Hợp Đề văn hóa để ḥa giải dân tộc; và có ai ngờ một cậu học tṛ áo vải chân đất ê a mấy chữ a, b, c trong làng quê của một nước thuộc địa lại trở nên một nhân vật quân sự lẫy lừng, cầm chân và đánh bại được hai bộ máy chiến tranh hiện đại của Pháp rồi Mỹ.
    Ba nhân vật tiếng tăm của đất Quảng B́nh nghèo khó nhưng lạ lùng đó, mỗi người có tham vọng riêng, có quyền thế riêng, có hậu thuẫn riêng và dĩ nhiên có chỗ đứng riêng trong chiều dài lịch sử nước ta cũng như trong chiều sâu của ḷng dân tộc ta. Họ có lư do để chống đối nhau và tiêu diệt nhau v́ chủ nghĩa, v́ lư tưởng, v́ đặc quyền, đặc lợi phe đảng hay v́ bất cứ một cái “v́” nào khác, c̣n kẻ viết th́ cũng xuất thân từ vùng đất cày lên sỏi đá xơ xác đó, nên h́nh như cũng đă được định mệnh an bài để không thể trở thành một kẻ đứng bên ḍng lịch sử, bàng quan và lạc lơng, mà lại bị cuốn hút vào cơn cuồng phong của thời đại, nên đều liên hệ với cả ba nhân vật này mà đặc biệt là liên hệ khắng khít với ông Ngô Đ́nh Diệm từ những ngày đầu tiên khi c̣n là một trong những cán bộ tiên phong và ṇng cốt của cái tổ chức mới manh nha của ông ta. Nhưng rồi sau suốt 22 năm trời kể từ 1942, chia sẻ với nhau những giây phút vinh quang và khốn khổ của bao cuộc thăng trầm vinh nhục, trở thành chiến hữu trung kiên và cốt cán của tổ chức (và sau này của chế độ), cuối cùng kẻ viết lại trở thành một nhân vật trọng yếu trong công cuộc lật đổ và chấm dứt chế độ của ông Diệm vào năm 1963 để cho lư tưởng ban đầu của ḿnh vẫn là lư tưởng keo sơn với dân tộc, để cho chuyển ḿnh của ḿnh gắn bó với chuyển ḿnh của thời đại.
    Ôn lại dĩ văng, và bây giờ ở vào cái tư thế có thể nh́n lại một cách sáng suốt và tự do hơn chuỗi biến cố của lịch sử đất nước kể từ khi làn gió dữ Tây phương cuộn thổi vào quê hương trải dài thành gần trăm năm đô hộ Pháp và hơn 30 năm chiến tranh Quốc Cộng, lại được dịp lần giở kinh xưa sách cũ và đàm luận cùng những người bạn hiền thầy giỏi cùng thế hệ, kẻ viết lại chủ quan thấy thấm thía hơn về cái thuyết “Vô Thường” của đạo Phật và cái thuyết “Lư Số” của đạo Nho, để từ đó chấp nhận như là nhân sinh quan khoáng đạt và giải thoát của chính ḿnh.
    Trong cuốn Nho Giáo, học giả Trần Trọng Kim đă sơ giải cái Tổng Hợp Đề cần thiết cho sự Đồng Nguyên huyền diệu của Tam Giáo ở nước ta khi ông viết:
    Có một điều ta nên chú ư là cái tư tưởng của Nho Giáo đời Tống có lắm chỗ phảng phất tương đồng với Lăo Giáo và Phật Giáo. “Số” là cái uyên nguyên của Nho Giáo do Kinh Dịch mà ra, mà Kinh Dịch là sách bàn về Lư Học, chung cả bên Lăo lẫn bên Nho. Dịch Học cho cái đầu của vũ trụ do “Động, Tĩnh” mà biến thành Âm Dương rồi sinh ra vạn vật, vạn vật chung quy lại trở thành Thái Cực. Đó là cái lư “Đồng quy nhi thù đồ, Nhất trí nhi bách lự” của Khổng Tử đă nói trong Hệ từ. Lư Thái Cực ấy bên Lăo Giáo gọi là ĐẠO, bên Phật Giáo gọi là BHUTA TATHATA danh hiệu tuy khác nhưng cùng đồng một thể. Bởi cái lư đồng cho nên các học thuyết ấy đều theo một chủ nghĩa “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Song mỗi học thuyết đi ra một đường là v́ cách lập giáo và sự hành đạo khác nhau.
    Ư niệm ấy lại được triển khai và lư giải rơ ràng hơn và hiện đại hơn qua Lê Văn Siêu trong cuốn “Việt Nam Văn Minh Sử Cương”, qua Nguyễn Đăng Thục trong cuốn “Tư Tưởng Việt Nam” và qua Phạm Văn Diêu với những tài liệu giảng huấn tại đại học Văn Khoa Sài G̣n v.v…
    Có lẽ chính cái quan niệm Vô thường và Lư số, tuy bàng bạc và đại chúng hơn trong dân dă, nhất là cái dân dă tuyệt đại đa số và tuyệt đại nghèo khổ của nước ta đă tạo nên sức mạnh của dân tộc. Cái sức mạnh đă giúp dân ta vẫn kiên cường trước sự tàn bạo của thiên nhiên và của quân thù, cái sức mạnh đă giúp dân ta khoan dung và nhân nghĩa trước những bạc bẽo và hận thù của đời sống.
    Và có lẽ chính nhờ được nuôi dưỡng và lớn lên trong ḍng suối văn hóa Đông phương vốn mang tính chất Tổng hợp và Hướng nội, kẻ viết mới cảm nhận và thông hiểu được qua lăng kính của hai thuyết Vô thường của nhà Phật và Lư số của nhà Nho, những thảm cảnh nghiệt ngă và bèo bọt về cảnh ngộ của cụ Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài, và đặc biệt của gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Diệm mà kẻ viết sẽ ghi lại trong tập sách này, những nhân vật và gia đ́nh đại vọng tộc, bỗng một phút định mệnh, tán gia bại sản đời đời chuốc lấy oán cừu.
    Văn hóa Tây phương, mà bây giờ con em ta đang hấp thụ, dù là Tây phương tư bản hay Tây phương Cộng Sản, vốn có đặc tính phân tích và hướng ngoại, th́ khó mà cảm nhận và giải thích được những hiện tượng nhân sinh này, lại càng khó mà hiểu biết và chấp nhận được quan niệm Vô thường và Lư số của Đông phương, dù gần đây, trước bế tắc nhân văn của con người và bên bờ vực thẳm của một cuộc chiến tranh hạch tâm khốc liệt, đă có nhiều nỗ lực t́m về phương Đông để t́m câu trả lời cho cuộc khủng hoảng nhân văn toàn cầu.
    Những nỗ lực đó không những được thể hiện nơi các nghiên cứu của các nhà xă hội học và triết gia Tây phương như Paul Mus (Thousand Armed Kannon, A Mystery Or A Problem, 1964), John Blofeld (Bodhi Satva Of Compassion, 1978), Frederic J. Strend (Understand Religious Man, 1969)… mà c̣n nổi bật rơ ràng hơn nơi các nhà khoa học tự nhiên, vốn là thành phần rường cột và được ưu đăi của xă hội Tây phương thuần lư và thuần kỹ thuật. Đứa con trai út của kẻ viết, trong thời gian học về vật lư không gian có tặng cho kẻ viết cuốn “The Tao of Physics” của giáo sư khoa học gia Fritjof Capra mà kẻ viết trích dẫn một vài đoạn sau đây để chứng minh rằng xu hướng t́m về nguồn suối triết học nhân bản của Đông phương càng lúc càng mạnh mẽ nơi xă hội độc thần, duy lư và duy vật này.
    Julius Robert Oppenheimer (cha đẻ bom nguyên tử Hoa Kỳ) tác giả cuốn “Science and the Common Understanding” cho rằng:
    Những khái niệm tổng quát về sự hiểu biết của con người, được biểu hiện bằng những khám phá trong ngành vật lư nguyên tử, không phải là những khái niệm có bản chất xa lạ, mới mẻ hay chưa bao giờ được nhắc đến. Ngay cả trong nền văn hóa của chúng ta, những khái niệm này đă từng có một lịch sử vững vàng. Trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo và Ấn Độ giáo, những khái niệm này c̣n giữ một địa vị rường cột và quan trọng hơn nữa, đem đến cho chúng ta một tấm gương sáng để noi theo, một niềm khích lệ tinh thần và sự kiện toàn của nền triết lư Đông phương sáng suốt [6].
    Werner Heisenberg (trong tác phẩm “Physic and Phylosophy” trang 202) cho rằng:
    Một đóng góp lớn lao của Nhật Bản từ cuối Thế chiến thứ 2 cho lư thuyết vật lư là đă cho thấy một sự tương quan nào đó giữa những tư tưởng triết lư của truyền thống văn hóa Viễn Đông và chất triết lư trong lư thuyết vật lư tư tưởng.[7]
    Niels Bohr, bác học gia Đan Mạch, giải thưởng Nobel, (tác giả cuốn “Atomic Physics and Human Knowledge”) cho rằng:
    Các tư tưởng gia đă đạt đến mức thành công như Phật Thích Ca hay Lăo Tử đă từng phải đối diện với những khó khăn đó khi ta cố ḥa hợp hai thế đứng (vừa là khán giả vừa là diễn viên) của ta trong vở kịch vĩ đại của kiếp nhân sinh. Có thế ta mới có thể so sánh được với bài học rút tỉa từ lư thuyết của ngành vật lư nguyên tử.[8]
    *********** Tất cả quan niệm đó đă được Fritjof Capra, tác giả cuốn sách, tổng kết lại trong một nhận định chắc nịch rằng:
    Với triết học phương Tây, môn luận lư và sự suy luận đă luôn luôn là những phương tiện chính để phát biểu tư tưởng triết lư, kể cả theo Bertrand Russel, những tư tưởng thuộc lănh vực tôn giáo. Ngược lại, đối với Đông phương huyền bí, ai cũng vốn hiểu được rằng sự thật được thể hiện một cách sâu xa hơn khả năng diễn đạt của ngôn ngữ b́nh thường: các nhà hiền triết Đông phương đă không e ngại ǵ mà không vượt quá sự hợp lư và những quan niệm thông thường. Tôi nghĩ rằng đây là lư do chính khiến cho những mẫu mực của Đông phương đă gầy dựng được một nền tảng triết lư kết hợp với nền vật lư ngày nay hơn là những mẫu mực của triết lư Tây phương.[9]
    Tuy nhiên, những nghiên cứu và hiểu biết của kẻ viết, dù đến từ kinh xưa sách cũ, hay tích luỹ từ bạn hiền thầy giỏi vẫn không phải là và chưa đủ là những kiến thức xây dựng thành quan niệm nhân sinh của kẻ viết, nếu những kiến thức lư thuyết đó đă không được đối chiếu với những kinh nghiệm thực tế của chính cuộc sống kể từ ngày người viết c̣n là một đứa trẻ nghèo khó trong một gia đ́nh thanh bần của đất Quảng B́nh xơ xác, kinh qua bao lên xuống của cuộc đời và trôi nổi trong thăng trầm của nhân thế cho đến nay, ở vào cái tuổi thất tuần, sống xa vời cố quận mà hồn th́ vương vấn quê xưa.
    Chính những kinh nghiệm thực tế xương máu đó, những mồ hôi và nước mắt, những vinh quang và tủi nhục, những thù hận và độ lượng, những phản trắc và nhân ái, những tà niệm và tỉnh thức… đă là những xác tín làm cho kẻ viết tin tưởng hơn vào tính cách vô thường của cuộc đời và những vận động cơ cấu của lư số cho kiếp nhân sinh. Chính trong cái nh́n Vô thường đó của Đạo Phật và cái nh́n Lư số đó của Đạo Nho mà người viết sẽ trang trải lại trên những trang giấy sau một phần cuộc đời của ḿnh có liên hệ với cuộc đời của ông Ngô Đ́nh Diệm và của đất nước.
    Những thiếu sót và sai lầm nếu có là do kiến thức chưa thực thâm sâu hoặc do kư ức bắt đầu phai nhạt chứ nhất định không phát xuất từ thiên kiến giáo điều hoặc cố tâm muốn bóp méo sự thật. Những cảm xúc và nhận định mà người đọc thấy thấp thoáng trên những trang sách là những cảm xúc và nhận định chủ quan và riêng tư, nhưng có lẽ nhờ vậy mà sẽ chân thành và trung thực.
    Những thiếu sót và sai lầm, xin được các bậc cao minh chỉ giáo và bổ khuyết. C̣n những cảm xúc và nhận định, nếu có đóng góp được ǵ cho một cái nh́n lịch sử đúng đắn và chính xác hơn về một giai đoạn truân chuyên của dân tộc th́ xin được trao gởi cho thế hệ Việt Nam tương lai, thế hệ mà trên cả hai miền đất nước cũng như bây giờ trong và ngoài nước, những phản trắc và lừa lọc, những gian dối và ngụy tạo đă làm lung lay niềm tin của họ vào con người, vào lịch sử và cả vào dân tộc.
    *
    -o0o-
    *
    Tôi vốn quê làng Thổ Ngọa, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng B́nh, vùng có địa danh là Ba Đồn, và đă từng được ghi vào sử sách dân tộc v́ nơi đó đă xảy ra nhiều trận chiến giữa quân Pháp xâm lăng và quân Cần Vương kháng chiến. Quê tôi nằm trên tả ngạn sông Linh Giang, tục gọi là sông Gianh, cách phía Nam đèo Ngang 25 cây số, nơi mà ngay từ cuối đời Hùng Vương cho đến thời nước nhà bị Pháp đô hộ đă liên tiếp là vùng chiến địa. Quê tôi vốn là vùng nước mặn đồng chua, hàng năm thường bị tai trời ách nước, lại bị chiến tranh liên miên xảy ra nên quê tôi nghèo lắm. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nhân một chuyến Nam du, khi ngang qua đây, thấy dân chúng địa phương quá nghèo khổ đă phải tỏ lời thở than:

    *********************** Xe hơi đă tới Đèo Ngang
    *********************** Ấy qua Hà Tĩnh đường sang Quảng B́nh
    *********************** Danh sơn gặp khách hữu t́nh
    *********************** Đèo Ngang ơi hỡi là ḿnh với ta.

    *********************** Dừng xe lên đỉnh ta trông
    *********************** Mặt ngoài biển nước bên trong núi rừng.
    *********************** …
    *********************** Nhỏ to mả trắng bên đường,
    *********************** Xa xa mé bể cồn vàng thấp cao.
    *********************** Dọc đường dân chúng biết bao,
    *********************** Ruộng t́nh hữu ái như rào trận mưa.
    *********************** Rồng Tiên cũng họ từ xưa,
    *********************** Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau.
    *********************** Nhân xem áo vải quần nâu,
    *********************** Gái trai già trẻ một màu không hai,
    *********************** Văn minh rày đă bán khai,
    *********************** Mà đây c̣n hăy như đời Hùng Vương…
    *
    *********** Quê tôi nghèo đến độ dân chúng bốn mùa chỉ bận quần nâu áo vải, và chỉ trừ những ngày Tết, Lễ, được ăn cơm, c̣n th́ phải trộn khoai mà ăn với mắm cà rau muống suốt năm. Nhưng h́nh như Tạo hóa có luật thừa trừ: đă bắt dân chúng đói nghèo, cực khổ th́ bù lại họ có cái tiết tháo, thông minh. Quê tôi tuy nghèo nhưng lại là một đại xă nổi tiếng về văn học, buổi tiền triều khoa giáp rất đông. Làng Thổ Ngọa của tôi là một trong tám làng của tỉnh Quảng B́nh có nhiều người đỗ đạt, nhiều người làm quan, và cũng nổi tiếng v́ có nhiều vị khoa bảng làm quan nửa chừng rồi cởi áo từ quan về làng sống cảnh an bần lạc đạo.
    Có lẽ v́ làng tôi có nhiều nhà Nho, nhiều bậc sĩ phu vốn trọng nền Tam Giáo cho nên dân làng tôi không một ai cải đạo, mặc dầu phủ tôi v́ gần với căn cứ quân sự Pháp nên có nhiều làng theo đạo Công giáo hơn. Và có lẽ v́ thấm nhuần sâu đậm tư tưởng Khổng Mạnh, mang khí tiết, danh dự kẻ sĩ cho nên đă một thời tuy ở rất gần nhiều đồn lính Tây và bị bao vây bởi những làng theo đạo Công giáo mà vào những năm 1885, 1886 phần đông dân làng tôi đều theo nghĩa quân Cần Vương dưới quyền lănh đạo của vị anh hùng Lê Trực. Ông đă biến làng tôi thành một tiền đồn trực tiếp đối đầu với quân Pháp, che chở cho chiến khu của Vua Hàm Nghi trong rừng già Thanh Lạng, vùng giáp giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng B́nh.
    Nội tổ của chúng tôi cũng đă từng theo đ̣i nghiên bút, theo đường khoa danh như hồi kư của cháu tôi là Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên của Tổng Thống Diệm [10] đă tŕnh bày; nhưng v́ thời thế loạn ly, ông bỏ đèn sách mà theo việc kiếm cung và trở thành viên tướng tiên phong cho vị lănh tụ Cần Vương là cụ Đề Lê Trực. Nội tổ chúng tôi bị tấn công bởi lính Pháp, lính Đạo, có giáo sĩ Tortuyaux từ Đồng Hới ra làm kẻ chỉ đường nên bị thất trận, giặc Pháp giết không toàn xác và ném thây xuống sông mất tích. Thủ hạ của ông chạy thoát được về báo cho gia đ́nh. Sau này con cháu họ Đỗ chúng tôi phải lập đền thờ cho đấng tiền nhân tiết liệt. Cũng sau này, con cháu họ Đỗ chúng tôi phải lập đàn cầu cơ, hỏi người hồn phách siêu lạc, vất vưỡng phương nào để con cháu xây bia lăng chôn “ḿnh dâu, đầu gáo” và lập đền thờ cho đấng tiền-nhân tiết-liệt. Khi cơ lên, Nội tổ chúng tôi cho biết ông đă bị mắc mưu bội phản nên bị quân Tây sát hại. Ông đă viết trên mâm gạo trắng một bài thơ dài, tả tâm sự và cảnh ngộ của ḿnh, lời thơ vô cùng ảo năo thương tâm. Con cháu chúng tôi học thuộc ḷng để mỗi khi cúng kỵ cùng tụng lên theo tiếng mơ hồi chuông như tụng kinh trước bàn thờ Phật. Bài thơ này chính là chúc thư cách mạng đầu tiên cho tôi để sau này lớn lên biết yêu nước, yêu dân, và biết theo lẽ phải giữ ǵn khí tiết:
    *********************** “Phật tự Liên Hoa nhân mạc kiến,
    *********************** Tăng như Lô thảo thế nan tầm.
    *********************** Gẫm cuộc đời thêm nhớ bạn tri âm,
    *********************** Nh́n thế sự khôn cầm cơn lệ ngọc.
    *********************** Ví thuở trước bụi hồng không lăn lóc,
    *********************** Th́ có đâu những lúc hiện thời.
    *********************** Cũng vừa may nhờ lượng Bửu Đài,
    *********************** Nên mới đặng văng lai nơi cố quận.
    *********************** Nay gặp buổi phong ḥa vũ thuận,
    *********************** Xét phàm trần trắc ẩn tiền nhân.
    *********************** Vậy* mua vui dạo ít cung đờn,
    *********************** Mượn bút ngọc phô trương sự tích:
    *********************** Nhớ thuở trước tiền triều niên lịch,
    *********************** Buổi thiếu thời chỉ thích cao ngôi,
    *********************** Chốn văn chương cửa Thánh trau giồi,
    *********************** Đường vơ bị theo đ̣i cung kiếm.
    *********************** Chí những tưởng đăng khoa bút điểm,
    *********************** Trổ tài hoa đoạt chiếm công danh,
    *********************** Ai ngờ đâu duyên phận mỏng manh,
    *********************** Trong phút chốc tan tành sự nghiệp.
    *********************** Ấy cũng bởi quá tin t́nh nghĩa hiệp,
    *********************** Hóa xui nên thân kiếp biệt ly trần.
    *********************** Hận ḿnh mang gánh nặng quân ân,
    *********************** Mà khổ nỗi nợ nần chưa báo đáp,
    *********************** Th́ đă vội gió vùi mưa dập,
    *********************** Mộng ngàn thu chôn lấp tấm hồn trung.
    *********************** Kể từ đây bốn bể vẫy vùng,
    *********************** Cho thỏa chí anh hùng khi tử tiết.
    *********************** Đức Thượng Đế đoái thương người tuấn kiệt,
    *********************** Sắc phong cho Trung Liệt Hiển Nhơn Thần,
    *********************** Dưới Hoành Nam đi lại kiểm tuần,
    *********************** Theo Liễu Chúa tùy thân hậu giá.
    *********************** Nay gặp hội thừa nhàn thư thả
    *********************** Mượn bút đào lược tả thành chương,
    *********************** Vẫn rằng đây “Tổ thúc Đỗ Đường”,
    *********************** Đem tâm sự phô trương tỏ rơ.
    *********************** Ai là kẻ đem ḷng ngưỡng mộ,
    *********************** Xét đơn tâm báo bổ độ tŕ,
    *********************** Bằng như ai ăn xổi ở th́,
    *********************** Cũng thây kệ thiên tri phó mặc.
    *********************** Ḱa lồng lộng trăng soi vằng vặc,
    *********************** Cảnh tuần hoàn có chắc ǵ đâu,
    *********************** Xanh kia vẫn đội trên đầu
    *********************** Khuyên đừng điên đảo mang câu tội t́nh.
    *********************** Kiếp trần ấy, kiếp phù sinh!”
    *********** Theo tinh thần bài thơ th́ ông Nội tôi v́ hy sinh cho chính nghĩa dân tộc nên được Thượng Đế phong sắc làm Thần và được theo Bà Chúa Liễu Hạnh đi kiểm tuần ở vùng phía Nam núi Hoành Sơn (Đèo Ngang). Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục th́ bà Chúa Liễu Hạnh là vị tiên chúa đại diện cho nguyên lư “Mẫu” cũng như Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) đại diện cho nguyên lư “Phụ”. Bà Chúa Liễu Hạnh tượng trưng cho sự trong trắng, sự khôn ngoan, hiền thảo của người đàn bà nên được dân chúng Việt Nam tôn thờ như Quốc Mẫu, có đền thờ ở Ṣng Sơn (Bắc Việt) và được vua chúa các triều đại phong sắc. Trong dân gian có câu tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ, Cha là Đức Thánh Trần, Mẹ là Tiên Chúa Liễu Hạnh.[11]
    V́ Nội tổ chúng tôi là một vị thần linh nên dân làng bảo trợ cho con cháu lập đền thờ ở quê làng để hàng năm Xuân Thu nhị kỳ cùng đến làm lễ cúng kỵ. Khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, họ chúng tôi di cư vào Nha Trang, lại lập đền thờ trong khuôn viên ngôi nhà anh ruột tôi là ông Đỗ Toàn mà nhiều bạn bè của gia đ́nh chúng tôi ở Nha Trang đă từng đến chiêm ngưỡng.
    Nói về quân Cần Vương ở quê tôi, sử gia Trần Trọng Kim đă viết:
    Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và cử nhân Nguyễn Phạm Tuân hết sức giữ ǵn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.
    Tháng Giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc Kỳ vào Nghệ An rồi chia làm hai đạo. Một đạo do thiếu tá Pelletier theo sông Ngàn Sâu vào mạn Tuyên Hóa, một đạo th́ trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh rồi vào đóng ở sông Gianh.
    Ở Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn (Ba Đồn) và ở Minh Cầm rồi trung tá Metzniger đem ông Cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân Cần Vương chống không nổi, phải tan ra.
    Quân Pháp triệu các đạo quân về chỉ đóng giữ ở Quảng Khê (cửa sông Gianh), ở Ṛn, ở Ba Đồn mà thôi. Quân Cần Vương thấy quân Pháp rút đi lại trở về đóng ở đồn cũ.
    Người Pháp cũng biết là thế lực của đảng vua Hàm Nghi chẳng được là bao nhiêu, cốt t́m đường mà chiếm dần địa thế, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.
    Trước, đại úy Mouteaux ở Quảng B́nh đă cùng với ông cố Tây Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh Thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đánh phá măi. Đại úy Moutaux biết ông Lê Trực là người có nghĩa khí cho nên đại úy vẫn có ư trọng lắm, đưa thư dụ ông về đầu thú. Ông Lê Trực trả lời: “Tôi v́ vua v́ nước chết sống cùng một ḷng, không tham sống mà quên việc nghĩa.”
    Từ khi quân Pháp đóng đồn Minh Cần, ông Lê Trực ra mạn Hà Tĩnh, ông Nguyễn Phạm Tuân về đóng phía Nam sông Gianh, ông bị trúng đạn, sống được mấy ngày th́ chết, quân của ông bị vây rồi bị bắt cả.[12]
    Theo phụ thân tôi và các bậc tôn trưởng trong làng kể lại th́ sau khi Nội tổ bị sát hại, quân Cần Vương tan ră, lính đạo của các cố Tây và dân các làng Công giáo kế cận như Đơn Sa, Diên Ḥa, Diên Phúc, Hướng Phương,… đến bao vây làng tôi, giết hại có hàng trăm người, đốt phá đ́nh chùa, miếu vũ. Những ai đă từng đi qua làng tôi đều thấy dọc theo bờ sông Gianh hàng mấy trăm nấm mồ vô chủ, ngổn ngang như g̣ đống, đó là những ngôi mả của dân làng chết v́ tham dự quân đội Cần Vương hay v́ bị dân các làng theo đạo Công giáo sát hại. Vốn sinh sống nơi vùng đất quê nghèo, sau cuộc kháng Pháp, dân làng tôi vốn đă nghèo khổ lại càng nghèo khổ, gian truân hơn.
    Vùng tả hữu ngạn sông Gianh là nơi quân Pháp đă đóng nhiều đồn bót khi họ đánh chiếm Quảng B́nh cho nên vùng này có trên hai mươi làng theo đạo Công giáo… Giáo phận này có cả tiểu chủng viện ở làng Hướng Phương, quê hương của linh mục Nguyễn Phương, tác giả cuốn “The Parade of American Puppet”, cuốn sách suy tôn Tổng Thống Diệm anh minh và hằn học mạt sát tướng lănh trong quân đội đă lật đổ ông ta.
    Thời kỳ kháng Pháp (1946-1954), trong khi tất cả các làng khác theo tiếng gọi non sông tham gia kháng chiến th́ các làng theo đạo Công giáo ở hai bên bờ sông Gianh đều rào làng, xây cḥi canh tự nguyện thành lập những đội Partisans để phụ lực cho đội quân viễn chinh Pháp, biến vùng này thành một dăy tiền đồn cho quân Pháp an toàn đóng ở Đồng Hới, hướng về Liên khu Tư của Việt Minh. Linh mục Nguyễn Phương đă từng là dân vệ trong đội quân Partisans của làng Hướng Phương trước khi ông vào Huế tiếp tục học hành. C̣n linh mục Cao Văn Luận, nguyên viện trưởng viện Đại Học Huế dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm, từ Hà Nội vào ở tại vùng này một thời gian trước khi vào Huế xin thủ hiến Phan Văn Giáo dạy học ở trường trung học Khải Định. Khi quân đội Pháp rút bỏ dăy tiền đồn ở vùng tả hữu ngạn sông Gianh th́ hầu hết thanh niên những làng theo đạo Công giáo cũng sợ hăi rút theo. Phần đông những thanh niên này gia nhập vào bộ đội Việt Binh Đoàn miền Trung rồi trở thành quân đội quốc gia dưới chế độ Quốc trưởng Bảo Đại. Sau này, phần đông số binh sĩ đó được tuyển chọn vào Lữ Đoàn Liên binh Pḥng vệ phủ Tổng Thống, họ được ông Diệm đặc biệt lưu tâm ưu đăi v́ họ thuộc thành phần trung kiên nhất đối với ông Tổng thống người Quảng B́nh mộ đạo này.
    Sống giữa thời ly loạn, mà cha chú, bà con phần đông bị giặc Pháp cầm tù hay sát hại, nước nhà th́ mất chủ quyền, cha tôi, một nho sĩ nghèo nàn chỉ c̣n biết kéo dài cuộc đời bất đắc chí. Tôi ra đời giữa khung cảnh đất nước đó, trong một gia cảnh thanh bần và giữa một làng quê bùn lầy nước đọng. Mẹ tôi v́ lao tâm lao lực, một nắng hai sương làm lụng cực nhọc để nuôi chồng và một đàn con đông đảo, ḿnh mang trọng bệnh lại thiếu tiền thuốc thang, nên bà đă từ giă cơi đời khi tôi vừa lên bốn tuổi, bỏ lại cha con tôi với thảm cảnh gà trống nuôi con. Tuy nhiên, qua mấy đời, gịng họ con cháu đều theo đ̣i ít nhiều kinh sử, cho nên khi tôi lên năm, cha tôi cũng cố cho tôi theo học chữ Hán trường ông Tú gần nhà. Cho đến khi lên chín th́ tôi được gởi lên trường Phủ học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Thời gian theo bậc tiểu học, tôi đă không có những phút êm đềm của tuổi học tṛ thơ ấu, lại càng không có những mộng mơ hồn nhiên của tuổi đến trường, mà cứ mỗi độ hè đến là phải đi chăn trâu, ngày nghỉ là phải ra đồng mót lúa, đào khoai hay xuống sông ṃ tôm bắt cá kiếm thêm miếng ăn cho gia đ́nh. Sau khi đỗ tiểu học, tôi định bỏ ngang sự học v́ thời bấy giờ muốn vào trung học th́ phải vào Huế, phải tốn tiền ăn, tiền nhà trọ, tiền sách vở áo quần, tiền xe cộ đi về. Với gia cảnh bần hàn mà ngay cả mỗi miếng ăn đói, mỗi manh áo rách đều là kết quả nhọc nhằn của mồ hôi và nước mắt của toàn gia đ́nh, cha tôi biết lấy ǵ để chu cấp cho tôi theo đuổi việc học hành mà tốn kém hàng tháng cũng phải đến 6 đồng bạc, một số tiền lớn giá trị độ 6,7 chục ngàn thời 1970.
    May mắn thay, khi tôi vừa đỗ tiểu học th́ có bà cô họ vốn biết tính ham học của tôi bèn từ Huế về làng, xin cha tôi cho tôi vào Huế tiếp tục việc học hành. Chồng cô tôi là một ông Đề lại đă về hưu, có một ngôi nhà vườn rộng với nhiều cây ăn trái ở chợ Cống, con cái đă thành gia thất và đều đi làm việc cho chính phủ ở các tỉnh xa. Cô tôi đem tôi về, vừa để giúp tôi tiếp tục việc học hành, vừa có thêm đứa cháu cho cảnh nhà bớt phần quạnh quẽ. Tôi theo học trường trung học tư thục Hồ Đắc Hàm, ngày nghỉ về nhà giúp cô dượng tôi nhổ cỏ, tưới cây, quét tước cửa nhà, vườn tược. Ở cái tuổi 15, đáng lẽ tôi đă có thể vẽ được cho ḿnh – dù là viển vông – những ước mơ cao xa và những hoài băo to lớn, nhưng nh́n lại hoàn cảnh gia đ́nh và trong bối cảnh của một quê hương rách nát tang thương, tôi chỉ ao ước được học hết 4 năm, lấy mảnh bằng Thành Chung để xin vào ngạch thư kư ṭa Sứ, ngạch trợ giáo hay ngạch thừa phái Nam triều như ước mơ của hầu hết thanh niên nghèo lúc bấy giờ, không đủ điều kiện học lên tú tài. Nhưng có lẽ vận số gịng họ nhà tôi chưa có mả phát về văn học, nên sắp bước vào năm thứ 4 th́ cô tôi qua đời. Dượng tôi, phần th́ tuổi già, phần th́ thiếu người nội trợ, nên cho thuê ngôi nhà để đi theo con làm y tá ở Phan Thiết, và không thể tiếp tục làm mạnh thường quân giúp tôi ăn học nữa, tôi đành phải dang dở việc học hành, trả lại giấc mơ giản dị và tội nghiệp cho nhà trường để trở lại làng xưa.
    Về đến Đồng Hới, tôi vào ty kiểm học để nộp đơn xin một chức giáo viên sơ học th́ được cụ Kiểm học Trần Kinh, thân phụ của giáo sư Trần Vỹ, thâu nhận vào làm giáo viên sơ học của một làng trong Phủ với số lương hàng tháng là 12 đồng do ngân sách hàng tỉnh đài thọ.
    Trong khi việc học của tôi dang dở như vậy th́ người bạn châu quận của tôi là anh Phan Xứng, vốn cùng tuổi và cùng học với tôi ở trường Phủ, lại may mắn được tiếp tục học cho đến khi đỗ bằng Thành Chung rồi thi vào ngạch thư kư toà Sứ. Tôi nhắc đến anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ của tôi, v́ sau này, qua bao nhiêu biến cố đổi thay của thời cuộc, anh với tôi trở nên hai đồng chí trên trường chính trị kể từ năm 1948, khi chúng tôi cùng tích cực hoạt động cho tổ chức của ông Diệm dù lúc bấy giờ ông Diệm mới chỉ là một chính khách trùm chăn đợi thời.
    Tôi dạy học được một năm, xét thấy nghề giáo viên trường làng với số lương quá thấp, vừa không đủ nuôi thân vừa không giúp được ǵ cho gia đ́nh, nên nhân có mấy người bạn cùng học trước kia ở trường Phủ rủ nhau gia nhập quân đội, tôi bèn nhận lời theo họ. Tôi thích đời quân ngũ một phần v́ lương bổng cao hơn, tương lai bảo đảm hơn, có thể thăng quan tiến chức và phần khác, v́ là quân nhân th́ sẽ biết tác chiến, có được nhiều bạn đồng ngũ, hợp với sở thích hiếu động của tôi. Hơn nữa, và đây mới là điều quan trọng nhất, khi gia nhập quân đội tôi sẽ vừa có tiền nuôi thân lại vừa có tiền giúp đỡ cha già mỗi ngày thêm già nua bệnh hoạn.
    Thời Pháp thuộc, bên Nam triều, có những ngạch lính riêng như lính Lệ, lính Giản, lính Hộ Thành, lính Khố Vàng, c̣n bên Bảo Hộ có lính Chính quy, tức là lính Khố Đỏ, lo việc chống ngoại xâm và lính Bảo An tức là lính Khố Xanh (Garde Indochinoise) lo việc trị an trong nước. Thật ra tôi thích đi lính Khố Đỏ hơn v́ nghe nói đi lính ấy sẽ được dịp xuất ngoại, sẽ được đi Tây, biết được những chân trời xa lạ cho thỏa chí giang hồ, nhưng v́ người tôi ốm yếu không đủ cân lượng làm một người lính chính quy nên tôi đăng vào ngạch lính Khố Xanh ở cơ Bảo An Hà Tĩnh.
    Trong nhà binh thời Pháp thuộc, những quân nhân có tŕnh độ trung học như tôi đều làm việc ở văn pḥng, khỏi phải làm tạp dịch nặng nề. Đến năm thứ sáu, tôi đi học lớp hạ sĩ quan tại cơ Lưu động Huế, nơi đào tạo hạ sĩ quan cho toàn thể xứ Trung kỳ. Sau năm tháng học tập, thi măn khóa tôi đỗ đầu nên được người Pháp giữ lại làm huấn luyện viên cho các lớp hạ sĩ quan tiếp theo. Tôi cùng Hồ Văn Tố (cựu Thiếu tướng Quân đội Việt Nam Cọng Ḥa) đă dạy ở đây mấy năm trường. Hiện nay tại hải ngoại có rất nhiều người đă từng học lớp hạ sĩ quan Huế do chúng tôi làm huấn luyện viên. Dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa họ đă giữ những chức vụ trọng yếu trong quân đội hay các cơ quan chính quyền, chẳng hạn như Đại tá Phùng Ngọc Trưng, Giám đốc nha Quân nhu Quân Đoàn I, cựu Đại tá Lê Khương từng là Tỉnh trưởng Quảng Nam và Tổng Giám đốc Bảo An, ông Lê Kim Ân từng là nhân viên cao cấp ngành Công An Cảnh Sát Quốc Gia, vân vân… (Ba nhân vật trên hiện ở hải ngoại). Năm 1942, năm dạy lớp hạ sĩ quan tại Huế, tôi vừa đúng 25 tuổi.
    Nh́n lại hai mươi lăm năm của thời kỳ đầu tiên trong cuộc đời, 25 năm ngậm đắng nuốt cay của một đứa trẻ mồ côi mẹ, lớn lên trong lũy tre làng xơ xác của một làng quê xác xơ, 25 năm nền móng để xây dựng nên cốt cách và nhân phẩm của ḿnh sau này, tôi sung sướng và hănh diện được sinh ra trong khung cảnh của một nông thôn nghèo nàn, của một gia đ́nh nho phong khí tiết. Chính những mồ hôi nhọc nhằn đổ ra trên ruộng lúa cằn cỗi, sau này, đă dạy cho tôi bài học về giá trị của lao động; chính những đêm buốt giá mà manh chiếu không đủ để che thân, sau này, đă dạy cho tôi bài học về chống bất công, chống độc tài. Và cũng chính những ân t́nh của xóm làng gia tộc đă dạy cho tôi về nhân nghĩa, về ḷng độ lượng và bao dung. Cho nên những thực tại đó của cuộc đời, những kinh nghiệm sống thật đó của bản thân, hơn tất cả những bài học ở trường, hơn tất cả những sách vở mà tôi đă nghiên cứu, mới là hành trang quư giá và thân thương nhất giúp tôi xông pha vào đời với một lương tâm trong suốt và với một con tim tràn đầy nhiệt huyết.
    Hai mươi lăm năm đầu tiên đó của cuộc đời lại cũng là khoảng thời gian mà tôi mở mắt nh́n, lắng tai nghe kiếp sống đáy tầng của một dân tộc bị trị. Kiếp sống mà “theo đạo Chúa, làm cho Tây” th́ tính mạng được an toàn và cơm áo được tươm tất, kiếp sống mà sĩ khí không mua được lon gạo, tiết nghĩa không đổi được lít dầu!
    Cảnh nhà khốn khổ của thời ly loạn đă khiến tôi dang dở việc học để lăn vào đời sớm hơn những thanh niên khác. Nhưng dang dở việc học mà tôi không ân hận v́ đă được mang những nhọc nhằn của ḿnh ra phần nào báo hiếu cho cha già; lăn vào đời sớm mà tôi không xót xa v́ chính cuộc đời đă tôi luyện chí khí và nhân cách cho ḿnh vào cái thời kỳ c̣n trong trắng nhất, c̣n chưa hệ lụy vào lư thuyết trừu tượng và giáo điều. Cho nên sau này, trước bao nghịch cảnh của cuộc đời, tôi vẫn hoài niệm về 25 năm đầu tiên đó của ḿnh, tôi vẫn hoài niệm về cha già gà trống nuôi con, tôi vẫn hoài niệm về làng Thổ Ngọa tiêu điều đó như là những năng lực tuyệt vời giúp tôi vượt thoát lên trên mọi giông băo.
    Nhưng vào thời điểm của những năm đầu của thập niên 40, những ước mơ, những cao vọng, những rung cảm của tôi mới chỉ là những ước mơ tầm thường và tội nghiệp của một người dân tội nghiệp và tầm thường. Nghĩa là phải chiến thắng sự nghèo khổ cho chính gia đ́nh ḿnh, c̣n những Độc Lập, những ái Quốc, những Kháng Chiến, những Chống Xâm Lăng… đều là những tiếng gọi mơ hồ và xa lạ.
    Tôi những tưởng cuộc đời của tôi như thế là đă được an bài, sẽ lớn lên trong ḷng quân đội Pháp, vô thức làm một công cụ cho chế độ thực dân và hài ḷng với những đảm bảo kinh tế của một người dân bị trị cho đến ngày nhắm mắt.
    Nhưng định mệnh đă đưa đẩy ném tôi vào những chuyển ḿnh lớn lao của lịch sử như bao nhiêu người trai trẻ của thế hệ đó để trong một cơ may hiếm hoi của đời người, tôi bừng tỉnh và theo đ̣i những hoạt động cách mạng vào những ngày mà t́nh h́nh thế giới đang căng thẳng mở màn cho thế chiến thứ hai.

    *

    [1] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, tr. 12, 13.
    [2] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam, tr. 322, 326.
    [3] Nhà Xuất Bản Khoa Học, Đại Nam Nhất Thống Chí, tr. 26.
    [4] Nhà Xuất Bản Khoa Học, Đại Nam Nhất Thống Chí, tr. 60.
    [5] Lư Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật Giáo, tr. 255, 256.
    [6] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 4.
    [7] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 4.
    [8] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 4.
    [9] Fritjof, Capra, The Tao of Physics, tr. 33.
    [10] Lê Tử Hùng, Nhật Kư Đỗ Thọ, tr. 154.
    [11] Nguyễn Đăng Thục, Tư Tưởng VN, tr. 90.
    [12] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, tr. 325, 326.
    1. VÀO ĐƯỜNG ĐẤU TRANH
      *

      Trong những năm đầu tiên của đệ nhị thế chiến, có hai biến động xảy ra ngoài nước Việt Nam nhưng lại đặc biệt liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh nước ta vào lúc đó. Liên hệ chặt chẽ v́ hai biến động này xảy ra trong hai quốc gia và cho hai dân tộc đă từng xâm chiếm và đặt nền* đô hộ trên lănh thổ Việt Nam.
      Biến cố thứ nhất xảy ra vào ngày 19 tháng 6 năm 1940, khi gót giày sắt của quân đội Đức Quốc Xă giẫm nát vỉa hè thủ đô Balê tiến vào chiếm điện Elysée và bắt đầu khống chế nước Pháp bằng một chế độ quân quản sắt đá, chấm dứt uy thế và quyền lực của Chính phủ Pháp không những trên lănh thổ Pháp quốc mà c̣n làm suy yếu thực lực và tinh thần của các bộ máy chính trị quân sự tại các nước thuộc địa.
      Biến cố thứ hai xảy ra tại Trung Hoa vào đầu năm 1940 khi Nhật Bản, khởi đầu bằng cuộc đổ bộ ở Lư Câu Kiều vào năm 1937, điều động đoàn quân tinh nhuệ với những vũ khí hiện đại đánh tan các lộ quân của Thống chế Tưởng Giới Thạch, tràn xuống miền Nam Hoa, chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, và chuẩn bị kế hoạch tấn chiếm Đông Dương để hoàn thành các mắt xích chiến lược của kế sách địa lư chính trị “Đại Đông Á”.
      Kết quả hỗ tương và nhịp nhàng của hai biến cố đó đă chấn động t́nh h́nh chính trị tại Việt Nam và đẩy bộ Chỉ huy Quân sự của Nhật Bản đến quyết định đặt yêu sách đ̣i chính quyền của Pháp tại Đông Dương phải chấm dứt giao thương với Trung Hoa và giành quyền thiết lập một lực lượng kiểm soát việc thực thi quyết định này tại cảng Hải Pḥng. Lúc bấy giờ Decoux vừa mới thay Catroux trong nhiệm vụ Toàn quyền Đông Dương và được Chính phủ Pháp, trong cơn ngặt nghèo lúng túng của chính nội t́nh mẫu quốc, ủy nhiệm toàn quyền chỉ huy quân sự, chính trị để giữ vững bán đảo Đông Dương.
      Ban đầu Decoux nhất quyết chống đối quyết định đó của Nhật Bản nên ngày 22 tháng 9 năm 1940, ngày quân Nhật từ Quảng Đông phối hợp hỏa lực mănh mẽ của lục quân và đoàn quân cơ giới thần tốc xua quân đánh tan một số căn cứ quan trọng tại biên giới và tấn chiếm Lạng Sơn (vốn là bộ Chỉ huy trung ương của Pháp, phụ trách tuyến pḥng ngự Việt Bắc) và bắt Pháp phải nhượng bộ. Quân Nhật không những đă ngang nhiên đóng quân tại nhiều địa điểm chiến thuật ở sâu trong vùng đồng bằng mà c̣n sử dụng đường hỏa xa, các hải cảng, các phi trường và mua cao su, gạo, nhiên liệu cùng nhiều sản phẩm địa phương cần thiết với giá rẻ để cung ứng cho nhu cầu quân nhu và vận tải của quân đội viễn chinh Nhật (mà đường tiếp liệu xa chính quốc gần 10 ngàn cây số càng lúc càng khó khăn). Ngược lại, Nhật Bản tôn trọng tư cách và quyền hành cai trị của Pháp tại Đông Dương cũng như tư cách và quyền hành của vua Bảo Đại tại Trung Kỳ.
      Trong biến cố này, v́ những hứa hẹn chính trị và yểm trợ vũ khí của Nhật Bản, một lực lượng Phục quốc quân do chí sĩ Trần Trung Lập chỉ huy đă giúp quân đội Nhật Bản tấn công căn cứ Lạng Sơn và chiếm đóng thành phố này. Đau đớn thay, sau khi đă được Pháp nhượng bộ, Nhật phản bội lực lượng Việt Nam này và trao lại toàn bộ đơn vị phục quốc quân cho người Pháp như một điều kiện trong thỏa hiệp Nhật-Pháp. Chí sĩ Trần Trung Lập hy sinh và hầu hết phục quốc quân Việt Nam kẻ bị tử h́nh, người bị tù chung thân, chỉ một số ít liều ḿnh vượt thoát được qua Trung Hoa. [1]
      Song song với việc thiết lập những cơ sở quân sự và nắm chặt t́nh h́nh an ninh tại Đông Dương, Nhật Bản vẫn khôn ngoan duy tŕ hệ thống hành chánh và hư danh của bộ máy bảo hộ Pháp để có th́ giờ chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chính trị ở tầng quần chúng qua cơ quan phản gián Kempeitai, qua tờ báo Tân Á xuất bản bằng tiếng Việt nhằm tuyên truyền chống Pháp, đề cao chủ nghĩa “Đông Á của người Á Đông”, hô hào nước Việt Nam “độc lập trong khối thịnh vượng Đại Đông Á”. Họ tổ chức các lớp học Nhật ngữ nhằm chuẩn bị một lực lượng cán bộ hành chánh bản xứ, họ tuyển mộ một số thanh niên Việt Nam vào đội Hiến binh và thông ngôn của họ, và đặc biệt họ ngấm ngầm tuyên truyền cho sự trở về tất yếu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, lúc bấy giờ đang lưu vong trên đất Nhật.
      Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nguyên là cháu đích tôn của Mỹ Đường Nguyễn Phúc Đan mà ông này lại vốn là trưởng nam của Hoàng tử Cảnh. Quyết định xuất dương để vận động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để là vừa để trả nợ nước vừa để trả thù nhà. Trả nợ nước là nhiệm vụ chung của toàn dân ta trong giai đoạn bị ngoại thuộc đó, dù ở giai tầng nào trong xă hội, dù đứng ở vị trí nào trong ḷng dân tộc, ngoại trừ một thiểu số được thụ hưởng đặc quyền đặc lợi của Pháp và liên hệ máu thịt với những định chế giáo quyền và thế quyền tại mẫu quốc. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Hoàng thân quốc thích vừa lại là người thật tâm yêu nước, yêu dân nên việc ông xả thân tranh đầu là điều hiển nhiên. Trả thù nhà là v́ sau khi vua Gia Long băng hà, chi hệ thuộc Hoàng tử Cảnh v́ đă bỏ đạo gia tiên, nhục mạ Phật giáo, lại c̣n bị giám mục Pigneau de Béhaine xúi dục theo Công giáo La Mă qua hành động đ̣i mẹ bôi phân lên tượng Phật, nên không được Hoàng phái đồng ư cho nối nghiệp cha [2] mà lại để cho vua Minh Mạng, một vị vua thông minh, cương nghị và chống Pháp trong tinh thần quốc gia cực đoan nối ngôi.[3] Chi hệ Hoàng tử Cảnh bị biếm hạ xuống thành hàng thứ dân và phải sống khổ nhục cho đến năm 1848 mới được vua Tự Đức gia ân phục hồi lại tước vị và ban cho một số tiền phụ cấp nhỏ nhoi.[4]
      Hoàng thân Cường Để xuất dương qua Nhật, cùng với cụ Phan Bội Châu hoạt động chống Pháp dành độc lập nhằm quang phục đất nước và được cụ Phan tôn làm Minh chủ trong tổ chức Cách Mạng Việt Nam Quang Phục Hội do cụ thành lập. Hai người con trai của cụ Hoàng thân là ông Tráng Liệt và ông Tráng Cử ở lại quê nhà trong cảnh nghèo khó, không ai để nương tựa, lại bị người Pháp gây khó khăn nên không tiến thân được. Ông Tráng Liệt sau đó được làm thư kư công nhật ở pḥng Văn khố ṭa Khâm sứ Huế, c̣n ông Tráng Cử th́ đi dạy ở một trường tiểu học nhỏ tại Trung phần, trong chánh sách mua chuộc của người Pháp.
      Lúc bấy giờ, thế chiến thứ hai đang ở cao điểm thắng lợi của phe Trục Đức-Ư-Nhật. Quân đội của họ đánh tan các lực lượng đề kháng yếu ớt và thiếu chuẩn bị của khối Đồng minh. Và mặt trận Đông Dương, v́ bộ máy Bảo hộ bị gián đoạn với mẫu quốc, lại bị hăm dọa bởi lực lượng quân sự hùng hậu của Nhật, đă trở thành một cơ hội thuận tiện cho những người Việt muốn đấu tranh để giành độc lập cho nước nhà.
      Mùa xuân năm 1941, sau gần 30 năm biệt xứ, ông Nguyễn Tất Thành, tức Chín Thẩu, tức Ba, tức Nguyễn Ái Quốc, cải trang thành một phóng viên Trung Hoa, theo đường bộ vượt qua biên giới Hoa Việt và cùng với các ông Phạm Văn Đồng và Vơ Nguyên Giáp xây dựng một căn cứ địa an toàn, thành lập “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh” với chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật. Tại hang Păc Pó, ông Nguyễn Tất Thành đổi tên thành Hồ Chí Minh [5], chính thức phát động cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đồng thời bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, mở màn cho hai cuộc chiến tranh Đông Dương đẫm máu sau này. Trong khi đó th́ hầu hết các cá nhân tổ chức thuộc phe quốc gia lại t́m cách hợp tác với quân đội Nhật với hy vọng sẽ cùng với Nhật Bản lật đổ Pháp tại Đông Dương để dành độc lập cho Việt Nam, một nền độc lập thực sự hay ngay cả một nền độc lập trong khối Đại Đông Á.
      Lúc bấy giờ, theo khuynh hướng này, đại để ở miền Bắc có những nhân vật như nhà báo Vũ đ́nh Dy, bác sĩ Nguyễn xuân Chữ, bác sĩ Lê Toàn, cụ Trần Trọng Kim, cụ Dương Bá Trạc, hoặc như một bộ phận đảng Đại Việt của ông Trương Tử Anh, đảng Dân Chính của ông Nguyễn Tường Tam... C̣n ở miền Nam th́ có những cá nhân nổi bật như nhà báo Trần Văn Ân, ông Nguyễn Văn Sâm, hoặc khối Cao Đài, lực lượng Ḥa Hảo... Riêng tại miền Trung, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ Nhật gửi thư về Huế nhờ nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng làm đại diện cho Ngài để liên lạc và thảo luận với người Nhật, nhưng cụ Huỳnh lấy lư do tuổi già sức yếu để từ chối lời yêu cầu này và cụ nhờ người con trưởng của Kỳ Ngoại Hầu là ông Tráng Liệt viết thư cho cha đề cử ông Ngô Đ́nh Diệm thay thế Cụ.
      Điều đáng lưu ư là 5 năm sau, năm 1946, cụ Huỳnh lại nhận lời của ông Hồ Chí Minh để đảm nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ tại Hà Nội mặc dù, lúc bấy giờ, cụ tuổi già sức yếu hơn nhiều. Có hai lư do giải thích hai quyết định có vẻ mâu thuẫn này trong đời hoạt động của cụ Huỳnh.
      Thứ nhất là cụ từ chối lời yêu cầu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để v́ lập trường quốc gia quá khích của cụ. Khác với người bạn thân là cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh không tin tưởng vào sự hợp tác chân thành của người Nhật nói riêng và người ngoại quốc nói chung. Chính v́ lập trường quá khích đó mà năm 1946, ông Hồ Chí Minh đă thuyết phục và lôi kéo được cụ với lá cờ dân tộc chống xâm lăng.
      Và thứ hai là cụ không chủ trương đấu tranh chống Pháp cho một nước Việt Nam theo thể chế quân chủ lập hiến trong tương lai như ông Diệm mà phải là một nước Việt Nam không những độc lập mà c̣n dân chủ nữa. V́ thế, giới thiệu ông Ngô Đ́nh Diệm, một người mà cả ba đời bề tôi trung thành của nhà Nguyễn, để làm đại diện cho Kỳ Ngoại Hầu, một người Hoàng phái ḍng chính thống, là một việc làm mà cụ Huỳnh thấy vừa hợp lư vừa thuận t́nh. Lại vừa nói lên cái thâm thuư của nhà Nho ở chỗ cụ vốn đánh giá rất thấp khả năng và đạo đức của ông Diệm, nên mới giới thiệu cái gánh nặng chính trị đó cho tổ chức của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cụ vốn chê là có xu hướng vọng ngoại [6], nếu không muốn nói là có khả năng trở thành một tổ chức phản động trong cuộc cách mạng sau này. Khi đề cập đến quan điểm chính trị “chống vọng ngoại” này của một sỹ phu thời đó, giáo sư Nguyễn Văn Xuân đă xác quyết trong tác phẩm biên khảo “Phong trào Duy Tân” rằng:
      “Cụ Huỳnh Thúc Kháng sau này không chịu nhận hợp tác với Nhật chắc chắn là v́ đă rút gọn được kinh nghiệm cũ”.[7]
      (Việc này cũng để cải chính một số luận điệu rằng nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng đă hợp tác với ông Diệm lúc bấy giờ).
      Sau khi nhận được thư của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để gởi về đồng ư cho ông Ngô Đ́nh Diệm làm đại diện và lănh đạo một phong trào thân Nhật tại miền Trung, ông Tráng Liệt bèn đi với ông Nguyễn Bá Mưu đến gặp ông Diệm một cách bí mật và trao thư cùng giấy ủy nhiệm của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cho ông ta. Ông Diệm vô cùng hân hoan, vội viết thư phúc đáp, tỏ lời cảm tạ và hứa sẽ hết ḷng phục mệnh Kỳ Ngoại Hầu. Ông Diệm lúc bấy giờ đang là một vị quan mất hết phẩm hàm, sống ẩn dật tại Huế.
      Ông Nguyễn Bá Mưu là anh vợ của tôi và bạn cùng sở với ông Tráng Liệt và ông Vơ Như Nguyện, lúc bấy giờ đều làm Phán sự ở Ṭa Khâm sứ Huế, ông Mưu đă có cảm t́nh với phong trào Cường Để từ lâu v́ ông với anh em ông Tráng Liệt đă là những bạn thân tri kỷ từ trước.
      Với tư cách là đại diện chính thức của tổ chức có thế yểm trợ quốc tế, lại được mang tính chính thống của ḍng họ nhà Nguyễn, ông Diệm mới bắt đầu dự trù những kế hoạch chính trị có tầm vóc toàn quốc hơn và có nội dung đấu tranh hơn.
      Khi ông Diệm từ quan (rồi mất hết phẩm hàm) vào năm 1933, trong gia đ́nh ông cũng đă có nhiều tranh luận sôi nổi, người theo, kẻ chống quyết định này. Dư luận trong giới quan trường tại Huế có xôn xao một dạo rồi biến cố đó cũng ch́m dần vào quên lăng: người th́ khen ông Diệm cứng rắn chống nhà nước Bảo hộ mà từ quan, người th́ cho rằng ông Diệm chống nhau với Thượng thư Phạm Quỳnh bị thua nên uất ức mà từ chức. Riêng ngoài quần chúng, ngay cả tại Huế, không mấy ai để ư đến chuyện lên voi xuống chó trong chốn Triều Trung v́ họ cho rằng Nam triều chỉ đóng vai bù nh́n của Pháp, việc lên hay xuống, ở hay đi của các vị quan lại chẳng qua là việc tranh giành địa vị, đua chen lợi danh chứ không ảnh hưởng ǵ đến chánh sách của Pháp, lại càng không ảnh hưởng ǵ đến đời sống quần chúng hay vận mệnh quốc gia. Thật vậy, kể từ ngày Kinh đô thất thủ (1885) làm cho vua Hàm Nghi bôn đào, rồi vua Thành Thái bị truất biếm, và nhất là kể từ khi vị vua trẻ tuổi Duy Tân mưu đồ cách mạng bị thất bại rồi cả ba vị vua Việt Nam bị Pháp bắt đi lưu đày, th́ người dân Huế đâm ra bi quan. Họ nh́n về tương lai mịt mù với tất cả chán chường và thất vọng. Họ nh́n rêu phủ trên thành quách, lau mọc bên bờ sông, trăng tàn trên nội điện mà cảm thương cho vận nước lao lung.
      Hầu như tất cả người dân xứ Huế đều thuộc ḷng 5 câu thơ mà sau này trở thành những câu ḥ rất phổ biến trong nhân gian:
      Chiều chiều trước bến Văn Lâu
      Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
      Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
      Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
      Đưa câu mái đẩy chạnh ḷng nước non.

      Họ mượn câu ḥ để ghi lại một biến cố đau buồn của lịch sử và đồng thời cũng để kư thác nỗi niềm tâm sự của ḿnh. Nỗi niềm thương tiếc một nhà vua yêu nước mà bị gian truân, một bậc trung thần can trường mà đầu rơi máu chảy, tâm sự của một người dân nh́n đất nước suy vong mà chỉ biết đưa câu mái đẩy để chạnh ḷng nước non!
      Họ lại càng trở nên chai lỳ hơn với những đổi thay của thời cuộc kể từ khi vua Khải Định hành xử như một tên Việt gian vô trách nhiệm, chỉ biết cúi đầu vâng dạ người Pháp để có cơ hội tiêu xài phung phí công quỹ. Từ đó về sau, người dân Huế xem những buổi tế lễ ở đàn Nam Giao, những buổi thiết triều trong Đại Nội với áo măo xênh xang, tiền hô hậu ủng cũng giống như những xuất hát bộ trên sân khấu của rạp hát bà Tuần. Họ sống với hiện tại nhưng ḷng th́ chỉ hoài niệm về quá khứ, một quá khứ mà quê hương c̣n vắng bóng ngoại nhân đô hộ, c̣n có vua quan là minh quân. V́ vậy, việc ông Diệm từ quan hay ông Quỳnh thắng thế không làm xúc động hay gây được sôi nổi trong đời sống vốn rất trầm mặc của họ.
      Mùa xuân năm 1942, khi những cơn sóng ngầm bắt đầu chuyển động trong sinh hoạt chính trị của người Việt th́ tôi được thuyên chuyển về Huế làm huấn luyện viên các lớp Hạ sĩ quan. Đối với tôi, về Huế là về kinh đô của quốc gia, là về với cung đài diễm lệ của trung tâm đất nước. V́ thuở thiếu thời chỉ biết lũy tre làng và đồng ruộng khô, thời niên thiếu th́ bận học hành, lớn lên gia nhập quân đội chỉ biết kỷ luật thép và hàng rào sắt, nên khi được đổi về Huế, tôi đă lợi dụng dịp này để ngao du khắp các ngơ ngách của kinh thành.
      Phong cảnh đất Thần kinh vừa u trầm cổ kính, vừa thơ mộng hữu t́nh rất phù hợp với tinh thần vốn bảo thủ và nặng ḷng hoài cổ của tôi. Những ngày nghỉ lễ, tôi thường lang thang đi bộ viếng thăm những danh lam thắng cảnh của kinh đô như hồ Tịnh Tâm, chùa Thiên Mụ, đàn Nam Giao, cửa Ngọ Môn, thôn Vĩ Dạ, vườn Ngự Viên, cầu Bạch Hổ, núi Ngự B́nh, chùa Diệu Đế, làng Kim Long, trường Quốc Tử Giám... ở đâu và lúc nào, tôi cũng t́m được những rung cảm tuyệt vời. Từ tiếng chuông thu không của những buổi chiều bảng lăng đến tiếng ḥ năo nùng trong sương mờ của buổi sáng sông Hương, từ cô gái giặt áo ở mặt nước ven sông đến tà áo tím Đồng Khánh của mùa thu tan trường về, từ hàng cau thôn Vĩ đến tiếng thông reo đỉnh Ngự, tất cả đều có sức thu hút lạ lùng và đều để lại trong tâm tưởng tôi những h́nh ảnh không quên. Lần băng cầu Ḷ Rèn để đi Phú Cam , tôi đi qua nhà ông Diệm và thầm cảm phục vị Thượng thư đầu triều, tuy c̣n trẻ tuổi mà không màng danh lợi, dám cởi áo từ quan trong giai đoạn mà nhiều người bán hết gia tài để mua chút phẩm hàm, hoặc dâng vợ cho giặc để kiếm chức tri huyện.
      Đời sống của tôi tại Trung tâm Huấn luyện Hạ sĩ quan càng ngày càng trở nên căng thẳng và bực bội. Những va chạm với những quân nhân Pháp trong lúc điều hành công tác giảng huấn, những hành vi hống hách kỳ thị của họ đối với quân nhân Việt Nam, những áp bức và bất công trong đời sống trong và ngoài doanh trại, và nhất là thái độ khúm núm sợ hăi đến độ tội nghiệp của một số đồng ngũ người Việt Nam... như biến thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước của thời thơ ấu thôn quê của tôi, mà chết chóc, đốt phá, hăm hiếp, tù đày do người Pháp và tay sai của họ gây ra đă chồng chất bấy lâu nay.
      Cho đến một hôm vào tháng 6 năm 1942, tôi đang dạy tác chiến cho một trung đội khóa sinh tại chân núi Ngự B́nh th́ ông Trần Văn Dĩnh (sau này là Giám đốc Thông tin dưới thời ông Diệm và hiện đang sống tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ [8]) và một người lạ mặt đến thao trường xin gặp tôi. Ông Dĩnh tự giới thiệu tên họ của ḿnh và người lạ mặt (mà bây giờ tôi mới nhớ ra tên Nguyễn Huy Tuân), một công chức của Chính phủ Bảo hộ.
      Ông Dĩnh đặt ra một số vấn đề thời sự để thẩm định ḷng yêu nước và quyết tâm dành độc lập cho nước nhà của tôi, rồi phân tích t́nh h́nh chính trị thế giới và Việt Nam cho tôi nghe để đi đến kết luận là chế độ bảo hộ của Pháp tại Việt Nam thế nào cũng phải chấm dứt và Việt Nam thế nào cũng được độc lập. Tuy c̣n trẻ, nhưng ông lư luận rất khoa học và ông đặt vấn đề rất đúng đắn, cách tŕnh bày của ông, tuy rất tổng quát, nhưng lại phù hợp hoàn toàn với những suy tư của tôi từ lâu.
      Trả lời thắc mắc v́ sao ông biết tôi và dám đến để làm công tác tuyên truyền này th́ ông cho hay là đă điều nghiên và thiết lập được danh sách những quân nhân Việt Nam tại Huế từng chứng tỏ có ḷng yêu nước và dám xả thân chống Pháp. Trước khi về, ông khuyên tôi nên gia nhập một tổ chức đấu tranh để đi vào hoạt động cách mạng và hẹn gặp tôi vào một dịp khác chưa định trước được.
      Ngay tối hôm đó, tôi liền đến nhà ông Nguyễn Bá Mưu kể rơ lại trường hợp gặp gỡ và nội dung buổi nói chuyện. Nghe tôi nhắc đến tên ông Trần Văn Dĩnh, anh vợ tôi cười rồi cho biết rằng tuy chưa quen Dĩnh nhưng ông biết Dĩnh là em ruột ông Trần Văn Hướng, con của cụ Tú Trần Văn X, và cũng như ông, cả ba cha con đều ở trong phong trào ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để do ông Diệm lănh đạo. Nghe anh tôi nói rơ, tôi mới yên tâm v́ trong ḷng vẫn ngại Dĩnh là nhân viên trá h́nh của sở Mật thám Pháp.
      Mấy tuần sau, cũng tại chân núi Ngự B́nh, Dĩnh lại t́m đến gặp tôi. Lần này th́ Dĩnh cho biết thẳng là đang làm việc cho ṭa Lănh sự Nhật Bản tại Huế và hoạt động rất an toàn v́ được cơ quan Hiến binh của Nhật (lúc bấy giờ đóng ở trường trung học Hồ Đắc Hàm cũ) bảo vệ kỹ càng. Trong lần nói chuyện này, chúng tôi thảo luận sâu xa hơn nhưng rơ ràng là Dĩnh t́m cách tác động tinh thần yêu nước chống Pháp của tôi mà cụ thể là theo Nhật để đánh đổ Pháp. Theo Dĩnh th́ thế nào Nhật cũng đảo chánh Pháp và cả vua Bảo Đại, để đưa Kỳ Ngoại Hầu về nước cầm chính quyền với ông Diệm làm Thủ tướng Chính phủ.
      Vốn đă được nghe anh vợ tôi phân tích t́nh h́nh chính trị đương thời trong chiều hướng đó với những triển vọng thật lạc quan, lại đang ẩn ức v́ cứ phải ôm những hoài băo của ḿnh trong ḷng mà vẫn phải làm việc chung với người Pháp, nay nghe Dĩnh phân giải và thúc đẩy hoạt động với một sách lược cụ thể trong một tổ chức có thật, tôi rất xúc động và hứa sẽ cùng hoạt động với ông ta. Tôi liền được Dĩnh trao cho công tác bí mật theo dơi hoạt động của những sĩ quan Pháp trong đơn vị của tôi, theo dơi số lượng vũ khí xuất nhập kho và t́m cách kết nạp thêm nhiều đồng chí khác.
      Sau một vài lần nữa tiếp xúc với Dĩnh, cuối cùng tôi được anh vợ tôi và ông Tráng Liệt giới thiệu tôi vào tổ chức của ông Ngô Đ́nh Diệm. Lúc đó là vào mùa thu năm 1942.
      Anh vợ tôi mà một số các vị Mục sư Tin Lành (hiện sống ở Los Angeles) cũng như ông Vơ Như Nguyện (hiện đang sống tại Mỹ) đều biết là một người tính t́nh ngay thẳng, cương nghị và có chí lớn. V́ nhà nghèo, nên sau khi đỗ bằng Thành Chung, ông bèn thi vào ngạch Thư kư ṭa Sứ để có phương tiện sinh sống. Vừa mới có đứa con đầu ḷng (sau này là cố Chuẩn tướng Nguyễn Bá Liên) được 15 ngày th́ vợ chết, ông rất buồn nên t́m nguồn an ủi trong giáo lư của đạo Tin Lành. Thân phụ của ông là cụ Nguyễn Bá Dĩnh, đỗ Cử nhân và được bổ làm Tri huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An. Được mấy năm, chán cảnh quan trường, lại bất măn v́ triều đ́nh bất lực trước ngoại nhân, cụ từ quan về làng mở trường dạy học sống cảnh an bần lạc đạo. Người con gái đầu của Cụ, tức là chị ruột của ông Nguyễn Bá Mưu, lấy người con trai của cụ Cử Lưu Trọng Kiến ở huyện Bố Trạch, vốn là thân phụ của hai thi sỹ Lưu Kỳ Linh và Lưu Trọng Lư, mà người em đă đi vào lịch sử thi văn nước nhà với bốn câu thơ bất hủ [9]:
      Em không nghe mùa thu
      Lá thu rơi xào xạc
      Con nai vàng ngơ ngác
      Đạp trên lá vàng khô...

      C̣n thân phụ tôi tuy không đỗ đạt cao nhưng cũng có công dùi mài kinh sử nên người trong huyện gọi là ông “Đầu Xứ”, c̣n chú tôi th́ vào đến Tam Trường mới hỏng cho nên nơi hương đẳng đ́nh trung cũng được liệt vào hàng những nhà Nho trọng vọng. V́ thế, cụ cử Nguyễn Bá Dĩnh và gia đ́nh tôi trở nên bằng hữu thân thiết trong khung cảnh của một làng quê nghèo nàn nhưng nề nếp. Lạ ǵ thanh khí lẽ hằng, cụ Cử và cha chú tôi vốn là những môn đồ Khổng Mạnh vào cái thời mà văn minh Tây phương đang công phá những thành tŕ văn hóa và chính trị cuối cùng của nếp sống nho phong, nên trở thành bạn tâm giao tri kỷ một cách dễ dàng, và cũng nhờ đó mà hai nhà mới trở thành thông gia và tôi trở thành em rể của ông Nguyễn Bá Mưu.
      Một mặt nhờ gịng máu bất khuất của tổ tiên, mặt khác nhờ tấm gương sĩ khí của nhạc gia và anh vợ, nhưng sâu sắc nhất là nhờ làm việc trực tiếp với quân đội Pháp nên càng ngày tôi càng thấy rơ chính sách hà khắc và thâm độc của người Pháp, cũng như thái độ ḷn cúi nhục nhă của quan lại An Nam. Chính những sinh họat thực tế hàng tháng, hàng ngày, hàng tuần đó... chính những chứng kiến trong công việc, trong đời sống đó... đă nẩy mầm và nuôi dưỡng trong tâm hồn tôi cái quyết tâm khước từ và chống lại sự cai trị của một chính quyền ngoại nhân trên đất nước. V́ thế khi ông Tráng Liệt và ông Trần Văn Dĩnh tổ chức tôi vào phong trào của cụ Cường Để với mục đích tối hậu là giành lại độc lập và chủ quyền cho quốc gia trong tay chính quyền Pháp th́ tôi hăng hái nhận lời gia nhập ngay, dù ư thức được rằng là một quân nhân, nếu bị Pháp khám phá ra, tôi có thể mang tội tử h́nh như một số quân nhân khác trong phong trào “Đầu độc Hà thành”, trong vụ “Khởi nghĩa Yên Bái”, trong vụ “Đội Cung ở Nghệ An”...
      Lúc bấy giờ, ư thức đấu tranh cách mạng hay quan niệm một đảng đấu tranh cách mạng, đối với tôi, không phải là nhu cầu cấp bách nhất. Quyết định của tôi chỉ được vận động bằng t́nh cảm căm thù Pháp đô hộ và chỉ bằng t́nh cảm đó mà thôi, nên bất kỳ một tổ chức nào, Việt Quốc, Tân Việt hay ngay cả đảng Cộng Sản, nếu đến tuyên truyền và kết nạp, tôi cũng sẵn sàng gia nhập ngay.
      *Thế rồi vào một đêm mưa phùn gần cuối năm 1942, khoảng 11 giờ khuya, ông Tráng Liệt đến nhà tôi và rủ đi gặp ông Ngô Đ́nh Diệm. Chúng tôi đi dọc theo tả ngạn sông Hương hướng về phía Phú Cam và dừng lại trước ngôi nhà cổ kính, từ đường của gia tộc Ngô Đ́nh.
      Được người vào báo, ông Diệm ra tận bậc cấp trước cửa nhà để đón chúng tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông Diệm. Ông rất trẻ so với tước vị và những huyền thoại về ông. Dù đă khuya, ông vẫn mặc áo lương, khăn đóng, giày hạ, ra mời chúng tôi vào pḥng khách chính, nơi có bộ bàn ghế mây xưa mà chú Phẩm, người đầy tớ trung thành của ông, đă dọn ra ba chén nước chè xanh để mời khách.
      Dưới ngọn đèn mờ, trong một pḥng khách cổ kính, trước một nhân vật đă từng là Thượng thư đầu triều, đă từng cởi áo từ quan, và bây giờ đang thay mặt Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cầm đầu một tổ chức chống Pháp, tôi có cảm tưởng như ḿnh lạc vào một thế giới khác, xa lạ hẳn với thực tế sôi động của t́nh h́nh đất nước. Sau khi mời chúng tôi dùng nước chè xanh, ông Diệm bắt đầu hỏi về gia thế và sinh hoạt của tôi, cũng như hỏi về đời sống và tinh thần của quân nhân Việt Nam trong mối tương quan với quân nhân Pháp.
      Có lẽ nhờ đă được ông Tráng Liệt giới thiệu trước về hoàn cảnh và ước vọng của tôi cũng như có lẽ nhờ có người anh vợ của tôi vốn đă là thành viên trong tổ chức, nên sau phần mở đầu đó của câu chuyện, ông Diệm tỏ ra tin tưởng và thân t́nh với tôi hơn. V́ vậy, ông bắt đầu kể chuyện đời ông như để trang trải tâm sự hơn là để khoe khoang nhằm thuyết phục: ông nói nhiều về giai đoạn ông làm Tri huyện rồi Tri phủ mà công tác chính là cùng với các trưởng đồn người Pháp đi thanh sát ở làng quê, hoặc khám phá và lùng bắt những tổ chức Cộng sản thời 1929-30 khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị đàn áp. Ông cũng tŕnh bày chuyện ông từ bỏ quan trường v́ người Pháp đă không thực tâm khai hóa nhân dân Việt Nam. Cuối cùng, ông đi vào trọng tâm của buổi nói chuyện là khơi dậy ḷng yêu nước, nung nấu chí căm thù thực dân và tay sai như Bảo Đại và ba ông Thượng thư đồng triều mà ông thù ghét nhất, là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản và Hồ Đắc Khải. Ông cũng đề cập đến cuộc đời và con đường hoạt động của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và của cụ Phan Bội Châu để kết thúc câu chuyện đă quá dài.
      Suốt buổi gặp gỡ, ông Tráng Liệt và tôi nghe nhiều hơn nói. Riêng tôi, tuy có ư chờ ông tŕnh bày về tổ chức mà ông đang phụ trách nhưng v́ ông không đề cập đến nên tôi cũng chưa tiện hỏi. Đêm đă quá khuya, ông Tráng Liệt bèn xin phép ra về. Ông Diệm tiễn chúng tôi ra tận cửa, hẹn gặp lại tuần sau và dặn kỹ không nên vào bằng cửa chính để tránh sự theo dơi của mật thám Pháp mà nên đi bằng cửa bí mật ở vườn sau gần đường xe lửa, lối vào chỉ có một số đồng chí được ông cho biết mà thôi.
      Trên đường về, trong cái rét buốt của xứ Huế buổi trọng Đông, tôi cảm thấy xúc động lạ thường v́ buổi gặp gỡ đó. Buổi gặp gỡ mà tôi cho như là một xác tín cá nhân về tư cách của một đảng viên trong một phong trào cách mạng, có một lănh tụ thuộc gia đ́nh vọng tộc đă dám từ quan để đấu tranh cho quê hương dân tộc. Trong cái tâm trạng mang mang của một người từ nay có một tổ chức để nương dựa, có một lănh tụ để được hướng dẫn, có một lư tưởng để đấu tranh, tôi vẽ ra cho ḿnh những ước mơ sáng tươi trong cái tươi sáng chung của tương lai dân tộc.
      Từ đấy, hầu như mỗi tuần lễ tôi đều đến ngôi nhà ở Phú Cam, vốn được xem như trụ sở trung ương của tổ chức, để sinh hoạt và thảo luận cùng ông Diệm và các đồng chí của ông. Trong số này có hai người cốt cán là ông Hoàng Xuân Minh làm Tham tá ở ṭa Khâm sứ Huế và ông Nguyễn Tấn Quê làm thư kư cho sở Mật thám Trung kỳ. Hai người này đặc biệt được ông Diệm trọng vọng và tin tưởng, nhất là ông Nguyễn Tấn Quê, tuy chỉ mới đỗ Trung học nhưng là người được ông Diệm xem như mưu sỹ chính.
      Sau gần nửa năm hoạt động với ông Diệm và các đồng chí, tôi đi đến nhận xét rằng sinh hoạt và phương thức tổ chức của nhóm về mặt nội dung lẫn cơ cấu có vẻ là một phong trào chính trị hơn là một đảng cách mạng chặt chẽ. Nhóm không có một hệ thống tổ chức với các cơ cấu và chức năng rơ ràng, không có chủ thuyết chỉ đạo cũng như không có một sách lược đấu tranh với các kế hoạch giai đoạn nhất định. Tại các tỉnh, và đặc biệt tại Huế, bất cứ ai đồng ư chung chung với chủ trương thân Nhật và kính phục ông Diệm th́ đều có thể gia nhập phong trào của ông. [10]
      Nói tóm lại, ngay từ lúc đó, tôi đă đánh giá được bản chất của tổ chức là một bản chất chính trị vận dụng chứ không phải cách mạng đấu tranh như các đảng khác. Tổ chức đó được kết tinh sau lưng uy tín của một lănh tụ và hoạt động theo sự biến chuyển của t́nh thế.
      Dù nhận định như vậy, tôi vẫn quyết định hợp tác với ông Diệm v́ lư do t́nh cảm nhiều hơn là v́ chọn lựa chính trị có ư thức. Công tác của tôi được ông Diệm giao phó là tổ chức một lực lượng quân nhân Khố xanh trong khắp các cơ binh thuộc xứ Trung kỳ, bao gồm từ Thanh Hóa vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên. Về quân nhân Khố đỏ th́ do Thiếu úy Phan Tử Lăng đang phục vụ trong thành Mang Cá ở Huế phối hợp với ông Đội khố đỏ Nguyễn Vinh (mà sau này, khi ông Diệm mới chấp chánh, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Danh dự, tiền thân của Liên binh Pḥng vệ Tổng Thống phủ) phụ trách việc liên lạc và thông tin các cơ sở quân sự đóng tại Huế và Phú Bài.
      Đặc biệt ông Diệm giao cho tôi thảo một kế hoạch hoạt động chi tiết để phối hợp với quân đội Nhật Bản khi nào Nhật làm cuộc đảo chánh tấn công quân Pháp, và một dự án dài hạn khác về việc tái tổ chức quân đội Bảo An cho quốc gia sau khi Hoàng thân Cường Để lấy lại chính quyền trong tay người Pháp. Hai dự án này, nhờ sự hội ư của hai ông Hoàng Xuân Minh và Nguyễn Tấn Quê, và nhất là nhờ được sử dụng những tài liệu quốc pḥng của Pháp tại Trung tâm Huấn luyện, đă được tôi hoàn tất đúng kỳ hạn và tŕnh cho ông Diệm nghiên cứu. Độ hai tuần sau ông cho biết là đă đọc kỹ và đồng ư hoàn toàn.
      Nhờ uy tín và vị thế huấn luyện viên của các khóa hạ sỹ quan, tôi thiết lập được liên lạc và tổ chức một hệ thống các tổ gồm từ 5 đến 7 người trong suốt 20 cơ binh của miền Trung. Những học tṛ, những bạn bè của tôi được tổ chức vào phong trào Cường Để do ông Diệm lănh đạo, nhiều người được các ông Vơ Như Nguyện, Trần Văn Hướng hay Phùng Ngọc Trưng hiện ở hải ngoại biết rơ.
      Ngoài ra, lợi dụng 15 ngày nghỉ phép thường niên của tôi, ông Diệm c̣n giao cho tôi công tác đi khắp các tỉnh Trung Kỳ để liên lạc với các đồng chí có uy tín và thực lực khác. Tôi đă từng đi Thanh Hóa liên lạc với cụ Nguyễn Trác (là thân phụ của kỹ sư Nguyễn Luân và cũng là nhạc phụ của luật sư Nghiêm Xuân Hồng một nhân sỹ có tinh thần cách mạng đă từ chức Tri huyện để hoạt động) đi Hà Tĩnh liên lạc với ông Trần Văn Lư đang làm Tuần vũ tại đây, đến Quy Nhơn gặp bác sỹ Lê Khắc Quyến, đến Phan Thiết gặp ông Trần Tiêu, một người đồng hương đang giữ chức Kinh lịch, v.v...
      Nhờ những chuyến đi này và kinh qua những lần tiếp xúc với các vị đàn anh, tôi được học hỏi nhiều thêm về ư thức chính trị và khả năng phân tích t́nh h́nh. Cũng nhờ những chuyến đi này, tôi được biết không những người trong giới quan lại ủng hộ ông Diệm, đặc biệt là cụ án sát Phan Thúc Ngô ở Quảng B́nh, mà c̣n có một số trí thức tân học, tuy không ở trong phong trào, nhưng cũng có cảm t́nh với ông Diệm như bác sỹ Ung Vi ở Phan Thiết hay kỹ sư Đặng Phúc Thông ở Nha Trang. (Kỹ sư Thông sau này giữ chức Bộ trưởng Công Chánh một thời gian ngắn trong Chính phủ đầu tiên của Việt Minh)...
      Ngoài hai công tác chính này, riêng tại Thừa Thiên, tôi cũng đă đẩy mạnh công tác kinh tài cho tổ chức bằng cách tuyên truyền và vận động một số các thương gia giàu có t́nh nguyện đóng góp cho ông Diệm. Có người đóng góp 4 đồng bạc Đông Dương mỗi tháng, riêng có một vị lương y (là thân phụ của Trung Tá Nguyễn Mễ, hiện ở Mỹ) t́nh nguyện đóng góp hết 6 đồng (mỗi đồng bạc Đông Dương vào thời đó, có giá trị rất lớn. Một kí gạo chỉ 25 xu).
      Trong suốt thời gian này, không bao giờ tôi thấy ông Diệm rời khỏi Huế cũng không bao giờ thấy ông xuất hiện hoạt động trong giới chính trị công khai hoặc bí mật. Hàng ngày ông đi lễ nhà thờ và buổi chiều thường mặc áo lương đen đi lang thang một ḿnh dọc bở sông Phú Cam để hóng mát. Cũng trong suốt thời gian này (cho đến năm 1948), dù thường đến nhà ông Diệm tôi cũng không hề thấy mặt ông Ngô Đ́nh Cẩn. Tôi gặp ông Nhu hai lần: một lần vào năm 1943 trong dịp tang lễ của cụ Thân Thần Tôn Thất Hân (khi tôi dẫn trung đội lính đi dàn chào lúc làm lễ động quan), và lần thứ hai, gặp cả hai vợ chồng tại văn pḥng Văn Khố ṭa Khâm sứ Huế khi tôi đến thăm ông Tráng Liệt. Ông Tráng Liệt cho biết cứ hai hay ba ngày, bà Nhu lại đến văn pḥng chồng để gặp gỡ và nói chuyện. Bà Nhu đến bằng xe kéo gọng vàng do một người đầy tớ thân tín và lực lưỡng kéo. Xe kéo của bà Nhu là một trong những chiếc xe sang nhất ở Cố Đô mà các cậu Ấm và cô Chiêu trong triều đ́nh nhà Nguyễn thường dùng để di chuyển trong thành phố.
      Về trường hợp ông Nhu, ông Diệm thường dặn ḍ chúng tôi: “Chú ấy theo Tây, ham ăn sung mặc sướng, không thiết ǵ đến chính trị hay cách mạng đâu, các ông chớ nên gặp gỡ hay thân thiết với chú ấy làm ǵ”. Lúc đầu chúng tôi thực sự ngạc nhiên v́ lời dặn ḍ lạ lùng đó, tự hỏi tại sao anh th́ muốn làm cách mạng mà em th́ lại hủ hóa như vậy; nhưng từ từ chúng tôi mới hiểu được rằng lời dặn ḍ đó là một trong những biện pháp an ninh phát xuất từ t́nh cảm gia đ́nh mà ông Diệm chỉ muốn một ḿnh chịu trách nhiệm và hậu quả về hoạt động thân Nhật và chống Pháp của ông, chứ không muốn làm liên lụy cả gia đ́nh. Hơn nữa, ông Nhu vừa mới ở Pháp về, và cũng vừa lập gia đ́nh với một người vợ c̣n son trẻ (bà Nhu sinh năm 1924) của Hà thành hoa lệ, ông ta cần có thời gian để củng cố địa vị của một công chức Bảo hộ cao cấp và củng cố đời sống gia đ́nh mà người vợ vốn quá tự do tân thời, tự thấy bị tù túng mà lại c̣n phải ganh đua giữa một kinh kỳ có nhiều mệnh phụ quư phái.
      Cuối năm 1943, những hệ quả chính trị và kinh tế của đệ nhị thế chiến thật sự ảnh hưởng đến hoạt động và đời sống hàng ngày của những người như tôi. Giá sinh hoạt leo thang vùn vụt, đồng bạc Đông Dương bị mất giá thảm hại, gạo từ 25 xu lên đến một đồng một kư khiến lương hàng tháng 40 đồng của một quân nhân trung cấp như tôi quả thật không đủ cho tiểu gia đ́nh tôi đủ sống. V́ vậy, và cũng v́ không muốn vướng bận thê nhi trong hoạt động đấu tranh của ḿnh, tôi đă phải bùi ngùi quyết định cho vợ tôi và hai đứa con trai nhỏ về quê sống với bên ngoại. Về quê, tuy đời sống thanh đạm và thiếu thốn hơn, tuy có phải tảo tần cực khổ một nắng hai sương nhưng ít ra vợ con tôi c̣n có một mảnh vườn để trồng rau cỏ, một hồ nước có tôm cá, một rừng tràm có củi nứa và nhất là có bà con thân thuộc để có thể đắp đổi sống qua ngày. Buổi biệt ly, nh́n chiếc xe đ̣ cũ kỹ chập chùng đưa vợ con về cố quận thân thương, người cán bộ 26 tuổi đời như tôi không khỏi có một chút xao xuyến xót xa. Được biết quyết định đó của tôi, ông Diệm hân hoan lắm và khen tôi làm cách mạng th́ phải biết hy sinh cá nhân, phải biết thoát ly gia đ́nh để có nhiều th́ giờ và năng lực cống hiến cho đại cuộc.
      Đại cuộc đó, hay nói đúng ra là những vận động chính trị của nhóm ông Diệm trong khuôn khổ cuộc tranh chấp ảnh hưởng giữa Nhật và Pháp tại Việt Nam, vẫn tiếp tục thăng trầm theo nhịp độ thắng hay bại của phía người Nhật. Quân đội Nhật Bản, chiến thắng oanh liệt trong những năm đầu của thế chiến, từ cuối năm 1943 trở đi, đă trở về thế pḥng ngự thụ động. Và tại các mặt trận lớn ở Ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương... quân Nhật hứng chịu những thất bại quân sự nặng nề đến nỗi phải rút lui ra khỏi những quốc gia bị chiếm đóng... Đầu xuân năm 1944, chuyện phải đến đă đến, mật thám Pháp và Thượng thư Phạm Quỳnh tổ chức vây bắt ông Diệm mà nếu không nhờ Hiến binh Nhật, với khả năng t́nh báo của sở gián điệp Kempeitai, kịp thời can thiệp để cứu thoát trong đường tơ kẽ tóc th́ có lẽ sinh mạng và chính tổ chức của ông Diệm đă không c̣n.
      Nguyên tổ chức có một đồng chí tên là Khang làm thư kư ở sở Bưu điện Huế, đêm đó trực ở pḥng điện tín đến khuya mà vẫn c̣n thấy viên trưởng sở bưu điện người Pháp ở lại đích thân thảo và đánh điện tín, ông bèn t́m cách lén đọc được một số công điện mà trong đó có công điện mang nội dung về việc bắt ông Diệm. Ông liền thông báo cho một anh em có liên hệ đến bên t́nh báo của Nhật biết tin này. (Cũng có thể có nhiều đường giây khác nữa mà tôi không được biết).
      Khoảng gần 11 giờ đêm th́ ba người Hiến binh Nhật Bản đến nhà ông Diệm ở Phú Cam và độ nửa giờ sau th́ họ ra về trước cặp mặt xoi mói của nhân viên mật thám Pháp đang canh chừng nhà ông Diệm. Măi đến quá nửa đêm, các nhân viên mật thám Pháp mới bố trí xông vào nhà bắt ông Diệm nhưng họ chỉ gặp được bà cụ thân mẫu của ông, người đầy tớ tên Phẩm và một người hiến binh Nhật Bản... Th́ ra ông Diệm, vốn người thấp lùn, nên đă giả trang mặc quân phục Hiến binh trốn theo cùng với hai người hiến binh Nhật kia ra đi từ lâu, làm mất công viên chánh sở mật thám Đông Dương là Pierre Arnoux từ Hà Nội vào đích thân điều khiển công tác vây bắt nhân vật thân Nhật Bản quan trọng nhất tại Trung Kỳ. Nhóm mật thám Pháp dọa dẫm bà cụ thân mẫu ông Diệm, tra tấn anh Phẩm một hồi rồi hậm hực ra về.
      Hiến binh Nhật đưa ông Diệm về tạm trú tại ṭa Lănh sự Nhật của ông Ishida [11] vài tiếng đồng hồ rồi chở ông đến thẳng trụ sở Hiến binh tại trường Hồ Đắc Hàm cũ để được an toàn hơn và để tránh những va chạm ngoại giao có thể có với người Pháp. Cụ Thái Văn Châu (nguyên Phó chủ tịch Pḥng Thương mại Sài G̣n và hiện tị nạn tại Pháp), lúc bấy giờ là một thương gia có khuynh hướng thân Nhật và đang được đấu thầu cung cấp thực phẩm cho quân đội Nhật, biết tin nên vội vàng vào thăm và mang một ít đ̣n chả Huế cho ông Diệm dùng chung với khẩu phần đạm bạc tại sở Hiến binh Nhật. Theo lời cụ th́ ông Diệm có vẻ suy tư và nỗi lo âu lộ hẳn ra mặt.
      Được vài ngày, người Nhật liền hộ tống ông Diệm bằng ô tô nhà binh vào Đà Nẵng và từ đó chở ông bằng phi cơ quân sự vào Sài G̣n. Ban đầu họ để ông tạm trú tại trụ sở trung ương của sở Hiến binh Nhật, sau đó họ di chuyển ông đến văn pḥng chính của Đại Nam Công ty, vốn là bề mặt ngụy trang của Bộ chỉ huy trung ương của ông Matsuisita, trùm gián điệp của Nhật tại Đông Dương. Thời ông Diệm làm Tổng thống, ông Matsuisita trở lại miền Nam Việt Nam làm ăn buôn bán và đă giúp ông Diệm rất đắc lực trong quan hệ ngoại thương giữa VNCH và Nhật Bản. Sau ngày chế độ ông Diệm bị toàn dân lật đổ, ông Matsuisita bị Hội Đồng Tướng Lănh làm khó dễ trong vấn đề tài sản và các thương vụ của ông tại Sài G̣n, nhưng v́ nghĩ t́nh xưa giữa ông Diệm và ông ta, tôi đă t́m cách can thiệp và giúp đỡ.
      Sau ngày ông Diệm bị bắt hụt và được Nhật che chở mang đi mất vào Sài G̣n, viên chánh sở mật thám Trung Kỳ Perroche, vốn cụt một tay và nổi tiếng tàn ác, bắt đầu nghi ngờ có nhân viên ch́m của ông Diệm trong sở mật thám Huế, bèn yêu cầu với trung ương cho biệt phái ông Lombert, viên chánh sở mật thám Vinh vốn thông thạo về t́nh h́nh đảng phái và nhân sự Việt Nam, vào Huế và thành lập một ủy ban đặc nhiệm phụ trách điều tra “vụ án Ngô Đ́nh Diệm”. Ông Hoàng Đồng Tiếu, (hiện ngụ tại Portland, tiểu bang Oregon), lúc bấy giờ c̣n đang có cảm t́nh với cá nhân ông Diệm và đang làm phán sứ tại sở mật thám Huế, tuy có thông báo sự kiện này cho một số người trong tổ chức ông Diệm biết, nhưng cũng không tránh khỏi t́nh trạng một số chiến hữu lần lượt bị sa lưới mật thám Pháp.
      Trước hết là cụ Án Sát Phan Thúc Ngô bị lột chức và bắt giải vào giam ở Huế, rồi đến ông Tuần vũ Hà Tĩnh Trần Văn Lư suưt bị bắt nhưng nhờ có bà vợ là bà con gần với Nam Phương Hoàng Hậu nên chỉ bị hạ tầng công tác, thuyên chuyển vào Phú Yên và vĩnh viễn không được đề nghị thăng thưởng. Ông Vơ Như Nguyện và ông Lương Duy Uỷ (sau này làm tỉnh trưởng Phú Yên và Vĩnh B́nh dưới thời ông Diệm), hai đồng chí thân thiết nhất với tôi lúc bấy giờ, cũng bị bắt đày lên Dakto. Ngoài ra, một số các đồng chí khác tại Huế và các tỉnh Trung Kỳ, người th́ vào ṿng lao lư, người th́ bị truy lùng.
      Về phía quân nhân bên Khố đỏ chỉ có mấy người Đội cao cấp bị bắt giữ, c̣n bên Khố xanh, từ Thanh Hóa vào đến Phan Thiết, bị mật thám Pháp bắt giữ rất nhiều. Có người bị tra tấn đến gẫy cả hai hàm răng và xương quai hàm như anh đội Lộc ở Phú Bài, có người bị đánh què chân như anh đội Xự ở Quảng Trị. Đa số các hạ sĩ quan Khố xanh bị bắt và giam tại các nhà lao Bái Thượng ở Thanh Hóa, nhà lao Lao Bảo ở Quảng Trị hoặc tại các nhà lao khác ở Cao nguyên Trung phần. Riêng phần tôi, v́ là người lănh đạo toàn bộ nhóm quân nhân Khố xanh nên bị bắt giam và tra tấn tàn bạo ở sở mật thám Huế và tống giam ở lao Thừa phủ gần hai tháng, trước khi bị đày lên Di Linh để biệt giam trong một nhà lao do lính Thượng canh giữ.
      Đầu năm 1945, quân đội Nhật Bản bị phản công và bị dồn vào thế tuyệt vọng tại các mặt trận Trung Hoa cũng như trên các tuyến pḥng vệ Đông Nam Á. Trong khi đó, trên chiến trường Âu Châu, sau cuộc đổ bộ ngày 6/6/1944 tại bờ biển Normandie của quân lực Đồng Minh, tướng De Gaulle dẫn toàn bộ Chính phủ lâm thời từ Alger trở về Pháp nắm chính quyền vào tháng 8 cùng năm đó.
      Trên mặt trận Thái B́nh Dương, tướng Mac Arthur đă chiếm xong Phi Luật Tân và đang tung quân tấn chiếm các quần đảo pḥng vệ chiến lược của xứ Phù Tang, yểm trợ cho một kế hoạch tái chiếm Đông Dương của liên quân Anh-Pháp. Trước nguy cơ có thể bị nội công ngoại kích đó, quân đội Nhật Bản tại Việt Nam bèn đảo chánh chính quyền Pháp vào đêm 9/3/1945, bắt toàn quyền Decoux và thiết lập nhiều trại tập trung để giam giữ công chức và quân nhân Pháp tại nhiều địa điểm trên toàn lănh thổ Đông Dương. Tại Bắc Kỳ, một số đơn vị Pháp chống lại cuộc đảo chánh này đều bị đàn áp, kẻ th́ bị bắt, kẻ th́ trốn qua Tàu.
      Thế là sau gần 100 năm đô hộ Việt Nam, tiến hành một chính sách thực dân tàn ác để khai thác tối đa tài nguyên và nhân lực của nước ta, tiến hành một chính sách xâm lược văn hóa xảo quyệt để phá nát truyền thống của dân ta, tiến hành một chính sách cai trị dựa trên bạo lực và phân hóa, chỉ cần một đêm và một đêm thôi, toàn thể bộ máy thống trị của Pháp hoàn toàn bị sụp đổ. Huyền thoại về “nhiệm vụ khai hóa” đầy nhân đạo của các quan toàn quyền và các vị cố đạo theo lá cờ Tam tài rơi rũ xuống đất.
      Biến cố lịch sử đêm mồng 9/3/1945, và nhất là hai ngày sau đó, khi vua Bảo Đại tuyên bố “Việt Nam độc lập” trong khối “Thịnh vượng chung Đại Đông Á”, dù không phải là kết quả của một cuộc đấu tranh thực sự do người Việt chủ xướng, dù sau đó sẽ đưa Việt Nam đến một chân trời đầy lọc lừa và cạm bẫy, đầy máu và nước mắt, đầy đau đớn và tủi nhục, nhưng ngày đó, tự nó, có một ư nghĩa lịch sử lớn như một trở ḿnh của lịch sử, có tác dụng mạnh trong sự thức tỉnh sảng khoái của nhân dân cả nước sau 100 năm dài ch́m đắm trong giấc mộng bị trị hăi hùng.
      Tôi xin trích lại ở đây một đoạn hồi kư của một nhân chứng đă sống trong ngày đó và đă bộc bạch một cách thành thật tâm sự của ḿnh trước, sau và trong ngày đó. Chứng nhân này là ông Lư Chánh Trung, một tri thức Công giáo, từ sau 1975 đă ở lại Việt Nam làm việc cho chính quyền Hà Nội. Hồi kư đó được trích từ tác phẩm “T́m về Dân tộc”, xuất bản tại Sài G̣n vào năm 1967. Tôi cũng cần phải nói rằng với tư cách một người đă chống lư thuyết và chế độ Cộng sản từ 30 năm* nay bằng chính máu xương của ḿnh, với tư cách là người đă từng cầm đầu một bộ phận về an ninh đối đầu với người Cộng Sản, với tư cách là chiến hữu, đồng chí, bạn bè của những nhân vật Việt Nam đă từng là nguyên thủ của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa, ở vào thời điểm nầy, trong buổi hoàng hôn của cuộc đời nơi xứ lạ quê người, khi đọc hai tác phẩm “T́m về Dân tộc” và “Tôn giáo và Dân tộc” của Lư Chánh Trung, tôi vẫn không giám quả quyết ông Trung có thật tâm theo cộng sản hay không? Cũng như tôi vẫn không giám quả quyết là những người như ông Trung, suốt chiều dài của cuộc chiến 30 năm Quốc-Cộng, dù đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, có thật sự là đă có tự do và sáng suốt để lựa chọn hay không? Hay tất cả chỉ muốn thể hiện ḷng yêu nước của ḿnh nhưng lại bị xảo quyệt vận dụng bởi những ngôn từ, những ảnh tượng, những thủ đoạn của các thế lực oan nghiệt khác.
      Đoạn hồi kư của ông Lư Chánh Trung, dù được viết lại hơn 20 năm sau, vẫn nói lên được rất rơ ràng sức chấn động lạ lùng của biến cố đêm 9/3/1945:
      Từ trường Taberd Sài G̣n ra Huế, tôi được học ở trường Providence, thọ giáo với các linh mục của hội Mission Etrangère.
      Nói đến xứ Trung Kỳ, nghe xa lạ làm sao. Từ nhỏ chí lớn, tôi chỉ biết có cờ Tam sắc, bây giờ ra Huế mới hay rằng xứ An Nam c̣n có một lá cờ, lá cờ vàng sọc đỏ (thuở đó mới có một sọc thôi...)
      Nhưng lá cờ đó không gây cho tôi một sự hănh diện nào mà trái lại: Tất cả những vật đó có vẻ mốc meo, mục nát, lỗi thời, không c̣n một chút ǵ liên hệ với tôi.
      Tôi c̣n nhớ buổi chào cờ trọng thể đầu niên học tại trường Providence, ṭa Khâm sứ và Chính phủ Nam triều đều cử đại diện đến tham dự. Bên người Pháp là hai ông sĩ quan trẻ tuổi hùng dũng trong bộ quân phục trắng tinh. Bên người Việt có hai cụ sồn sồn bụng phệ, khăn đóng áo rộng thùng th́nh lẹp xẹp đôi dép hàm ếch, lại c̣n phe phẩy cái quạt đồi mồi ngay trong lễ thượng cờ. Chúa ơi! Trông mới chán đời làm sao!
      Trường Providence tân tiến hơn trường Taberd, có một nền giáo dục hoàn bị, cởi mở hơn trường Taberd. Các Cha gần gũi học sinh hơn các sư huynh. Nơi đây tôi đă hấp thụ những kiến thức vững chắc để có thể hiểu biết nền văn hóa Tây phương là nền văn hóa quân b́nh, nhân bản và sâu sắc. Tôi cũng đă thấm nhuần nền đạo lư Kitô giáo để cảm thấy cái đ̣i hỏi (ít ra cũng được như thế) hướng cuộc đời ḿnh về một cái ǵ tốt.
      Nền giáo dục này hội điều kiện cho tôi “thành người”. Chỉ tiếc một điều là “con người đào tạo nơi đây không phải là con người Việt Nam”! Quê hương vắng bóng ngay giữa ḷng quê hương!
      Trong mấy năm trường, chúng tôi đă sống bên ngoài dân tộc, bên lề lịch sử. Cho nên đêm mồng 9/3/1945, khi tiếng súng của quân đội Nhật hoàng đ́ đùng báo hiệu sự cáo chung của nền đô hộ Pháp, chúng tôi chẳng hiểu mô tê ǵ.
      Vài ngày sau, học sinh trường Khải Định, Đồng Khánh biểu t́nh mừng độc lập: Việt Nam Độc Lập! “Việt Nam” đă lạ tai rồi, “Độc Lập” nghe c̣n quái đản hơn.
      Ngày biểu t́nh, chúng tôi ṭ ṃ đi xem, nh́n thiên hạ vác biểu ngữ reo ḥ “Việt Nam! Việt Nam!” mà chẳng thấy vui mừng chi, chỉ nghe ấm ức và bực bội và cảm thấy ḿnh bơ vơ, lạc loài giữa đám đông. Tôi c̣n nhớ một đứa trong bọn tôi đă nói lớn “Độc lập là cái cóc ǵ?” Câu hỏi xấc xược, ngô nghê này diễn đạt cái tâm trạng chung của chúng tôi lúc ấy. Quả t́nh chúng tôi không hiểu...[12]
      Hai mươi năm sau, câu hỏi Độc lập là cái cóc ǵ? mới nổ lớn thành câu trả lời rực lửa trong ḷng Lư Chánh Trung để ông “T́m về với Dân Tộc”, để khỏi vắng bóng giữa ḷng quê hương... Là một tín đồ Công giáo La Mă mộ đạo, là một tri thức xuất thân từ các trường Ḍng mà nội dung giáo dục thiên Tây phương, ông Trung đă phải lục kư ức t́m về một ngày lịch sử xa xưa để tỉnh thức t́m về dân tộc nhưng cuối cùng lại phục vụ cho Cộng sản. Nguyên ủy nào đă đưa đẩy thân phận của một trí thức Công giáo trôi giạt vào thảm cảnh của một người Việt Nam thấy lạc loài ngay chính trên quê hương ḿnh để cuối cùng phải bám víu vào những ảo ảnh của một lư thuyết phi dân tộc hầu thỏa măn những khát khao muốn có một chỗ đứng trên đất Mẹ ở giữa ḷng quê hương?!
      *Sau đêm mồng 9 tháng 3, sau cơn bàng hoàng chính trị chung của cả nước, mọi người, và đặc biệt tại Trung Kỳ, đều dự đoán là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sẽ nắm được cơ hội mà về nước lên ngôi Vua để trao cho ông Diệm chức Thủ tướng, thành lập nội các để điều khiển quốc gia. Không ngờ chỉ hai ngày sau, ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại vẫn tại vị và tuyên bố Việt Nam độc lập trong khối Đại Đông Á, hủy bỏ mọi hiệp ước bảo hộ đă kư kết với Pháp từ trước và mời học giả Trần Trọng Kim thành lập Chính phủ. Chính phủ này được thành lập và ra mắt đồng bào vào ngày 17/4/1945 mà Kỳ Ngoại Hầu Cường Để vẫn ở Nhật và ông Diệm vẫn cô đơn nằm tại Sài G̣n một cách im lặng lạ lùng.
      Sau này, ông Bảo Đại cho biết người Nhật đă dứt khoát không tiếp tục ủng hộ ông Diệm nữa [13], và cụ Trần Trọng Kim trong hồi kư “Một cơn gió bụi” cũng kể lại rằng trong cuộc gặp gỡ giữa cụ và ông Diệm tại Bộ tư lệnh Nhật Bản tại Sài G̣n, ông Diệm cho cụ biết người Nhật đă không cho ông Diệm biết ǵ cả, ngay cả bức điện tín của vua Bảo Đại gởi mời ông Diệm về Huế cũng bị dấu kín.[14]
      Những sử liệu và những dự kiện thực tế này cho ta thấy Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Diệm, dù trước đó đă thật tâm ủng hộ người Nhật, cuối cùng đă thực sự bị người Nhật bỏ rơi v́ uy tín và sức mạnh chính trị của họ (dù dưới mắt người Nhật chỉ là vị trí và sức mạnh của một lá bài chính trị bản xứ cho một nhu cầu ổn định giai đoạn) không c̣n phù hợp với nhu cầu mới của chính sách của Nhật tại Đông Dương. Và điều này cũng cải chính luôn luận điệu của một số tài liệu do bộ máy tuyên truyền của chế độ ông Diệm vào những năm ông mới chấp chánh, cũng như những tài liệu do những “sử gia” hoài Ngô sau 1963, cố t́nh cho rằng “ông Diệm không bao giờ chịu hợp tác và nương dựa vào người Nhật”.[15]
      Trường hợp ông Diệm bị Nhật Bản bỏ rơi và phản bội sau gần bốn năm hợp tác chân thành với Nhật chỉ là sự lập lại của một quy luật chính trị cổ điển và sơ đẳng trong các tương quan quốc tế, nhất là tương quan giữa một trong nhiều thế lực chính trị của một nước nhược tiểu với một cường quốc như Nhật Bản. Thật vậy, Nhật Bản phản bội ba lần cùng một tổ chức Việt Nam (trực tiếp hay gián tiếp do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lănh đạo):
      - Năm 1909, trục xuất Kỳ Ngoại Hầu và cụ Phan Bội Châu sau khi họ kư hiệp ước thân hữu với Pháp.
      - Năm 1940, bắt giam và trao lại cho Pháp lực lượng Phục quốc quân của chí sĩ Trần Trung Lập, Trần Huy Thanh và Hoàng Lương sau trận Lạng Sơn.
      - Năm 1945, bỏ rơi cụ Cường Để và ông Diệm để thừa nhận vua Bảo Đại với Chính phủ Trần Trọng Kim, sau biến cố 9 tháng 3 năm 1945 đảo chánh quân Pháp.
      Quả thật ông Diệm và những mưu sĩ trong bộ tham mưu của ông đă không học được hai bài học trước.
      Sau thất bại chính trị nói trên, ông Ngô Đ́nh Diệm buồn rầu chán nản vô cùng, nhất là khi Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, hầu như ông không c̣n nghị lực để tiếp tục cuộc đấu tranh nữa. Mang tâm trạng của người thất thế, ông lui về sống cô đơn không tiếp xúc với ai nữa tại nhà người em là Ngô Đ́nh Luyện ở Chợ Lớn, hoặc thỉnh thoảng xuống thăm người anh là giám mục Ngô Đ́nh Thục ở Vĩnh Long. Gia đ́nh và t́nh anh em luôn luôn là pháo đài kiên cố làm nơi nương dựa cho ông trong hoạn nạn cũng như trong đắc thắng.
      Trong lúc đó th́ tại Huế, v́ vấn đề liên lạc cách trở, thông tin chậm chạp, người anh trưởng là ông Ngô Đ́nh Khôi vẫn không nắm vững t́nh h́nh để thấy rằng “lá bài Ngô Đ́nh Diệm và giải pháp Cường Để” đă hoàn toàn bị Nhật xóa bỏ, vẫn tiếp tục hoạt động chuẩn bị cho ngày về của ông Cường Để và nội các của ông Diệm. Số đồng chí của ông Diệm, mà một số lớn đă được phóng thích khỏi nhà giam Pháp nhờ cuộc đảo chánh của Nhật, vẫn tiếp tục sinh hoạt tại nhà ông Khôi để đợi chờ ông Diệm.
      Về phần tôi, sau khi cùng với các chính trị phạm khác ở trại tù Di Linh được quân đội Nhật phóng thích, tôi bèn trở về quê cũ thăm gia đ́nh làng xóm độ nửa tháng rồi trở lại Huế cũng sinh hoạt với các đồng chí cũ dưới sự điều hành của ông Ngô Đ́nh Khôi. Tư dinh của ông Khôi tọa lạc tại tả ngạn sông Phú Cam, là một dinh thự to lớn, huy hoàng và lộng lẫy như lâu đài của các vị hầu tước Âu Châu. Mỗi khi họp, ông Khôi thường cho trải sáu tấm chiếu cạp điều giữa pḥng khách rộng lớn để mọi người cùng ngồi tṛn quanh ông, chẳng khác ǵ ṣng sóc đĩa lớn tại các nhà phú hộ ở thôn quê. Trong các buổi họp, ông Khôi thường nói nhiều, nói lưu loát và luôn luôn mềm dẻo khi có mâu thuẫn về lư luận. Tuy tính t́nh của ông vui vẻ và ḥa đồng, nhưng ông vẫn được tiếng là người nhiều thủ đoạn nhất trong số chín anh chị em.
      Vào khoảng một tuần lễ sau khi nội các của cụ Trần Trọng Kim ra đời, ông Nguyễn Tấn Quê và tôi được ông Khôi cử vào Sài G̣n để gặp ông Diệm và để tổ chức cuộc đón tiếp Kỳ Ngoại Hầu mà ông Khôi tưởng sẽ trở về Việt Nam. Ông Khôi c̣n trao cho chúng tôi một chiếc khăn đóng và một chiếc áo gấm màu tím để ông Diệm mặc trong dịp nghênh đón nhà cách mạng đă từng bôn ba nơi hải ngoại hơn 40 năm trời. Chúng tôi đến được nhà ông Luyện ở số 2 đường Armand Rousseau tại Ngă Sáu Chợ Lớn, nơi ông Diệm đang cư trú, sau một cuộc hành tŕnh hết sức gian lao, nguy hiểm, v́ trên suốt chặng đường gần một ngàn cây số đó, nhất là đoạn ở miền Trung, phi cơ Đồng Minh liên tiếp oanh tạc ngày đêm làm gián đoạn đường sá và làm các toa xe lửa đổ ngổn ngang nhiều nơi.
      Gặp lại ông Diệm sau hơn một năm trời mà tưởng như một khoảng thời gian xa cách lâu lắm. Những thất bại chính trị và sự tan tác của tổ chức v́ quá nhiều nhân sự cốt cán bị tù đày đă làm cho chúng tôi sung sướng bàng hoàng trong buổi hội ngộ này. Sau khi tŕnh bày đầy đủ chi tiết các tin tức liên quan đến tổ chức tại miền Trung, và sau khi trả lời cho ông Diệm biết t́nh h́nh chính trị tại Huế, ông Nguyễn Tấn Quê c̣n cho biết là dọc đường, trong một lần bị phi cơ Mỹ ném bom suưt nữa cả hai chúng tôi tan xác, hành lư của chúng tôi, trong đó có cả khăn đóng và áo gấm của ông Khôi gởi vào, đă bị thất lạc. Ông Diệm không tỏ vẻ trách móc ǵ, ông chỉ cười buồn chua chát mà thôi.
      Cũng tại ngôi nhà này, lần đầu tiên chúng tôi được gặp ông Ngô Đ́nh Luyện, linh mục Lê Sương Huệ, và ông Vơ Văn Hải. Ông Luyện c̣n rất trẻ, ít tham gia những cuộc thảo luận chính trị, c̣n Vơ Văn Hải chỉ là một thanh niên mới lớn, giúp ông Diệm* các công việc giấy tờ vừa như một thư kư, vừa như một tùy phái. Ban ngày, ông Quê và tôi về khách sạn để ông Diệm tiếp khách hoặc nghỉ ngơi, chỉ vào buổi chiều, chúng tôi mới trở lại ngôi nhà ở Armand Rousseau để dùng cơm tối với anh em ông Diệm và linh mục Huệ rồi tiếp tục thảo luận. Dù biết chúng tôi trông chờ, tuyệt nhiên ông Diệm vẫn không đề cập ǵ đến hoàn cảnh của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và những dự tính tương lai.
      Ở Chợ Lớn vào khoảng một tuần lễ, ông Diệm cho chúng tôi biết ngày mai sẽ khởi hành đi Đà Lạt. Sáng hôm sau, khi Sài G̣n bắt đầu trở ḿnh thức dậy với những sinh hoạt rộn rịp th́ bốn người chúng tôi là ông Diệm, linh mục Huệ, ông Quê và tôi lên đường. Lúc xe ngừng lại tại Blao để ăn trưa, ông Diệm mới tŕnh bày việc người Nhật đă phản bội không cho Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về nước và cắt đứt mọi liên lạc chính trị với chính ông, rồi ông tỏ ư buồn phiền vua Bảo Đại đă mời “tên đồ nho Trần Trọng Kim” làm thủ tướng. Lúc bấy giờ ông Quê và tôi mới thực sự hiểu rơ t́nh h́nh và trạng huống bi đát của ông Diệm và của tổ chức chúng tôi. Sách lược nắm chính quyền bằng con đường thân Nhật của ông Diệm đă đi vào bế tắc và hoàn toàn thất bại, hệ quả chính trị của nó không những là mất đi những ưu thế phát triển mà quan trọng hơn cả, c̣n là sự tê liệt của tổ chức.
      Xe đến Đà Lạt vào buổi chiều, sương núi mờ mờ phủ xuống thành phố vừa lên đèn và không khí lạnh lùng vào dịp đầu Thu càng làm cho nỗi buồn của chúng tôi thêm sâu đậm. Sau khi chạy xuyên qua trung tâm thành phố và vượt mấy ngọn đồi, xe đến thẳng dinh Tổng đốc của ông Trần Văn Lư. Dinh Tổng đốc vốn là ṭa Đốc lư cũ của Pháp, kiến trúc theo lối Tây phương, tọa lạc trên ngọn đồi cao nh́n xuống khắp thành phố Đà Lạt. Ông Lư ân cần đón chúng tôi vào pḥng khách và cho người dọn trà thơm dùng cho ấm bụng. Biết rằng chúng tôi mệt mỏi sau cuộc hành tŕnh nên ông cho người thu xếp pḥng để chúng tôi đi nghỉ sớm.
      Đêm đầu trên thành phố Cao Nguyên này mà càng về khuya trăng càng mờ, sương càng lạnh, trời đất th́ bàng bạc huyền ảo như tâm sự mông lung của những người vừa thất bại sau một cuộc đấu tranh. Thành phố Đà Lạt ch́m xuống sau những rặng thông im ĺm như chia xẻ nỗi thất vọng của chúng tôi. Trước khi ngủ, ông Nguyễn Tấn Quê c̣n tâm sự với tôi rằng một khi Bảo Đại đă tiếp tục cầm chính quyền để củng cố thế lực th́ tổ chức khó có thể thay đổi được t́nh h́nh, huống ǵ ông Diệm, người lănh đạo của tổ chức lại không phải là một loại nhân vật “anh hùng tạo thời thế”. Tôi c̣n nhớ măi mấy lời phê phán cuối cùng của ông như một tiếng than năo nùng trong đêm vắng: “Chúng ta đă vớ phải cái bè nứa mục ră trôi xuôi theo con nước lũ”. Nhận định và tâm sự của ông Quê như vậy, chẳng trách ǵ mười năm sau, ông đă bị anh em ông Diệm thẳng tay hạ sát khi họ có quyền lực trong tay. Đến năm 1948, 1949 Nguyễn Tấn Quê c̣n nhắc lại những nhận xét trên cho nhiều bạn bè. Trong số bạn bè đó có cả ông Vơ Như Nguyện...
      Mấy hôm sau, linh mục Huệ lấy xe đ̣ đi Phan Rang để từ đó trở lại Sài G̣n, ông Nguyễn Tấn Quê đáp xe lửa về Huế mang theo một lá thư riêng của ông Diệm gởi về cho ông Ngô Đ́nh Khôi, c̣n ông Diệm và tôi th́ vẫn ở lại Đà Lạt.
      Ông Trần Văn Lư, quê ở Quảng Trị, có bà con với giám mục Lê Hữu Từ, là một vị quan nổi tiếng liêm chính. (Khi ông làm Thủ hiến Trung Việt, người em ruột của ông là Trần Văn Tŕnh, chủ sự pḥng Nội dịch, ngày chủ nhật lấy xe Chính phủ về sử dụng riêng bị ông cất chức ngay, đối với các linh mục hay đến xin xỏ, nhờ cậy, ông thẳng thắn từ chối). Ông Lư là người thanh liêm, cương trực, có tinh thần yêu nước và có khả năng quản trị nên được Chính phủ Trần Trọng Kim mời giữ chức Tổng đốc cai trị 4 miền cực Nam Trung Việt như là một thứ Tiểu Khâm Sai. Chức vị của ông lúc bấy giờ là “Tổng đốc Lâm-Đồng-B́nh-Ninh” (bốn tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, B́nh Thuận, và Ninh Thuận), và v́ lúc bấy giờ phương tiện giao thông và hệ thống liên lạc c̣n khó khăn cách trở nên ông được đại diện chính phủ toàn quyền giải quyết cấp thời công việc quốc gia. Văn pḥng Tổng đốc có ông Nguyễn Đ́nh Hàm (sau này có thời làm hiệu trưởng một trường trung học tại Huế) giữ chức Tổng thư kư, ông Tham Tự làm chánh văn pḥng và nhà văn Vơ Hồng vừa làm bí thư vừa làm thông dịch viên v́ ông Vơ Hồng nói và viết thông thạo cả ba ngôn ngữ Pháp, Anh, Nhật.
      Ông Lư trưng dụng một ngôi biệt thự tại Đà Lạt và biệt phái một số bồi bếp cũng lính Bảo An giữ an ninh cho ông Diệm và tôi. Trong hơn một tháng trời sống chung với nhau trong ngôi nhà rộng răi nhưng lạnh lùng đó, sinh hoạt thường nhật của chúng tôi thật trầm lặng: buổi sáng thức dậy uống trà nói chuyện rồi dùng điểm tâm, sau đó chúng tôi đi ra đồi thông sau nhà để có một chút nắng ấm và để tạm thay cho buổi tập thể dục; sau buổi cơm trưa, chúng tôi hoặc đi nghỉ hoặc lên thư pḥng đọc sách kê trên ba cái tủ sách lớn của người chủ nhân Pháp cũ để lại cho đến chiều. Sau buổi cơm tối, chúng tôi hoặc tiếp khách nhưng thường thường là ngồi nói chuyện với nhau đến khuya mới đi ngủ. Thỉnh thoảng ông Lư cho người đến hướng dẫn chúng tôi đi thăm các thắng cảnh tại Đà Lạt như thác Cam Ly, hồ Than Thở, đỉnh Lâm Viên, ngôi mộ ông Nguyễn Hữu Hào v.v...
      Một hôm ông Trần Văn Lư nhận được điện tín của chánh phủ Trần Trọng Kim thông báo sẽ bổ nhiệm thiếu úy Đinh Xuân Thạc (em của luật gia Đinh Xuân Quảng, người sau này tham gia chính biến Nhảy Dù 11/11/1960 để đảo chánh ông Diệm) giữ chức Trưởng ty Vơ pḥng kiêm tư lệnh Bảo an bốn tỉnh cực Nam Trung Kỳ trực thuộc ông Lư. Chúng tôi thảo luận với nhau rồi đánh điện trả lời đề cử tôi thay thế Đinh Xuân Thạc trong chức vụ này. Đề nghị này được Huế mau chóng chấp thuận chỉ trong mấy ngày, v́ tôi đang có mặt tại chỗ và nhất là thiếu úy Phan Tử Lăng, một đồng chí cũ của tôi, đang giữ chức Tổng chỉ huy Bảo an Trung Kỳ.
      Sau này, ông Lư nhận được nghị định chính thức và hồ sơ binh sách của tôi, trong đó có một tài liệu của sở mật thám Trung Kỳ cũ của Pháp với lời phê: “A pris une part très active dans un mouvement politique contraire aux intérêts de la France en Indochine, a revélé de ce fait un charactère sournois d’autant plus dangereux qu’il est très intelligent. A arrêter et surveiller étroitement”. (Đă tham dự rất tích cực vào một phong trào chính trị đi ngược lại với quyền lợi nước Pháp tại Đông Dương, điều đó chứng tỏ đương sự không những gian giảo mà lại c̣n nguy hiểm nữa v́ đương sự rất thông minh. Thành phần cần phải bắt giam và kiểm soát chặt chẽ). Vốn đă biết tôi từ trước, bây giờ lại được đọc hồ sơ của tôi, ông Trần Văn Lư cảm thấy vui mừng và phấn khởi lắm v́ từ nay có thêm một người vừa là cộng sự viên có khả năng vừa là đồng chí có tinh thần yêu nước. Và cũng chính nhờ lời phê phán của mật thám Trung Kỳ mà mấy tháng sau đó, khi Việt Minh cướp chính quyền, tôi khỏi bị bắt giam mà c̣n được trọng dụng. C̣n ông Lê Khương, sau này dưới thời Đệ nhất Cộng Ḥa mang cấp bậc Đại tá, lúc bấy giờ là một Trung sĩ Bảo an phục vụ dưới quyền tôi tại Đà Lạt.
      Ông Diệm ở lại Đà Lạt cho đến đầu tháng Tám th́ quyết định trở lại Sài G̣n. Buổi chia tay giữa ông và tôi thật buồn, mỗi người một tâm sự, mà tâm sự nào cũng có liên hệ đến cơn sóng gió vừa qua của tổ chức và cũng đều phản ảnh cái tương lai vô định của những ngày sắp tới. Ông ân cần khuyên tôi nên giữ ǵn sức khỏe và hẹn sẽ gặp lại ở Huế nơi ngôi nhà Phú Cam mà tôi đă gặp ông lần đầu năm 1942, khi ông c̣n đang làm lănh tụ lạc quan của phong trào thân Nhật ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Xe của ông đă khuất sau rừng thông mà tôi c̣n đứng ngẩn ngơ v́ những bịn rịn của buổi chia ly, không biết trước được rằng cuộc chia tay hôm đó lại mở đầu cho chuỗi ngày lao lư của lănh tụ ḿnh và cho những sóng gió thời cuộc đẩy đưa tôi vào những biến động máu lửa của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1945-1954.
      Như vậy là chỉ trong ba năm ngặt nghèo, từ 1942 đến 1945, từ một quân nhân mang rất nhiều ẩn ức t́nh cảm và chính trị trong một môi sinh ngột ngạt và đè nén, tôi đă nhờ những chuyển động của thời thế và quyết tâm của chính ḿnh để cuối cùng được gia nhập vào một tổ chức đấu tranh cho đất nước và, riêng cá nhân, được hành xử như một chiến sĩ kiên tŕ và liên tục đấu tranh cho quê hương.
      Nhiệm vụ mới đă dẫn dắt tôi đi suốt miền Trung nghèo nàn cằn cỗi. Công tác mới đă tạo ra những liên hệ thân t́nh với các nhân vật mà nhiều lúc t́nh bằng hữu quyện luôn vào t́nh chiến hữu. Vóc dáng và vị thế của ông Ngô Đ́nh Diệm trong giai đoạn này, đối với tôi là vóc dáng và vị thế của người thuyền trưởng lèo lái con thuyền tổ chức, tuy ngặt nghèo lên xuống nhưng đằm thắm t́nh nghĩa. Nhưng lỗi lầm cơ bản về chính trị do khả năng đấu tranh yếu kém của ông gây ra tuy có kéo theo những đổ vỡ làm tê liệt tổ chức, nhưng cuối cùng, trong buổi tạm biệt sầu mang mang của một buổi sáng Đà Lạt, tôi vẫn tin tưởng mănh liệt vào người anh cả đầu đàn đó như tôi vẫn hằng tin tưởng vào một nước Việt Nam được thực sự độc lập trong tương lai.
      Những giây phút âm thầm khắc phục mọi khó khăn để bí mật xây dựng tổ chức trước mạng lưới mật thám Pháp, những ngày tháng thui thủi và nhục nhằn trong trại tù chính trị phạm ở Di Linh, rồi những đêm dài nhớ vợ thương con, nhớ bến đ̣ xưa, thương cây đa cũ... đă làm tăng trưởng khả năng chịu đựng và tôi luyện thêm quyết tâm đấu tranh trong tôi, như chiến cuộc Việt Nam đă trui rèn hàng hàng lớp lớp thanh niên Việt Nam trong giai đoạn đó.
      Ba năm ngắn ngủi đó cũng đă chất đầy hành trang chính trị cho tôi để bước vào một cuộc chiến tranh Pháp-Việt sắp mở màn.





      [1] Nguyễn Phúc Dân, Cuộc Đời Cách Mạng Cường Để, tr. 135, 136.
      [2] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam, tr. 293 (và theo lời kể lại của nhiều nhân sĩ lăo thành thuộc Nguyễn Phước tộc).
      [3] Theo lời kể lại của cụ Tôn Thất Toại, nguyên Thượng thư Bộ Nghi lễ Nam triều, bạn học buổi thiếu thời của ông Ngô Đ́nh Diệm.
      [4] Thái văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam, tr. 488.
      [5] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 126, 127.
      [6] Ông Nguyễn Dậu, một nhân sĩ tỉnh Phú Yên, vốn là bạn thân với ông Trương Kỳ Nguyên em ruột của ông Trương Tử Anh, lănh tụ đảng Đại Việt, thường đến chơi nhà cụ Trương Bội Hoàng (thân phụ của Trương Kỳ Nguyên) được cụ cho biết khoảng 1942-43 khi cụ được ông Ngô Đ́nh Diệm mời ra Huế bàn chuyện hợp tác trong việc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, trước khi gặp ông Diệm cụ Hoàng ghé thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng để hỏi ư kiến, cụ Huỳnh khuyên không nên, cho rằng ông Diệm là hạng người phong kiến không thể làm cách mạng. Ông Nguyễn Dậu hiện sống ở California, Mỹ.
      [7] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, tr. 156.
      [8] Ông Trần Văn Dĩnh c̣n được ông Thiên Nhất Phương đề cập đến trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại (số 33 năm 1978, tr. 35).
      [9] Hoài Thanh & Hoài Châu, Thi Nhân Việt Nam, tr. 309.
      [10] Đề cập đến tổ chức ông Diệm lúc bấy giờ, ông Trần văn Hướng, một cán bộ ở Huế của ông Diệm, sau này đă hồi ức lại như sau (trích từ Nhật báo Người Việt thứ Năm số 564, ngày 31/10/1985):
      “... Tại Huế, cụ kết nạp một số rất đông thanh niên yêu nước chia thành từng nhóm. Để tránh màn lưới mật thám Pháp, cụ đưa họ vào hoạt động không lương tại các cơ quan Nhật như Toà Lănh Sự, Sở Hiến Binh để theo dơi hành động của Nhật cũng như cho Nhật biết mọi hành động chống Nhật của Pháp, nhằm mục đích thôi thúc người Nhật sớm lật đổ chính quyền Pháp giải phóng Việt Nam như Nhật đă từng tuyên bố.
      ... Ở các công sở Pháp cũng như của Nam triều, ở các đồn lính khố xanh khố đỏ của Pháp, cụ Ngô đều có tổ chức các cộng tác viên nên mọi chỉ thị của Pháp cụ đều rơ. Cũng nhờ vậy mà vào năm 1944, khi mật thám Pháp vây nhà khám xét và định bắt cụ đưa đi an trí ở Xieng Khoang (Lào) th́ cụ đă được báo tin trước mấy ngày. Cụ có đủ th́ giờ đi ẩn náu tại nhà của Phó lănh Sự Nhật tại Huế là ông Ishida.
      ... Mục đích hoạt động của cụ Ngô là lợi dụng thời cơ để thu hồi nền độc lập cho Tổ Quốc, thành lập thể chế Quân chủ Lập hiến giống như Anh Quốc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm vua, và một chính phủ lâm thời do Cụ làm Thủ tướng. Phương pháp hành động là dùng người Việt trong các cơ quan và đồn lính Pháp nổi dậy lật đổ chính quyền Pháp với sự giúp đỡ của quân đội Nhật.”
      Ngoài ra, trong tác phẩm nghiên cứu Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Chính Đạo, NXB Văn Hoá), phong trào Cường Để thân Nhật Bản của ông Diệm - mà tên một thành viên được nhắc đến là Đỗ Mậu - cũng đă được nêu lên nhiều lần. Điều này mặc nhiên phản bác luận điệu vô cơ sở của một linh mục viết sách cho rằng ông Diệm không thân Nhật và phong trào Cường Để không có thật.
      [11] Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, lúc ông Nguyễn Ngọc Thơ c̣n làm Đại sứ VN tại Tokyo, ông Ishida lúc bấy giờ đă thôi việc ở Bộ Ngoại Giao Nhật Bản, được thuê vào làm thư kư cho Toà Đại Sứ VN. Năm 1964, nhân một chuyến công du Nhật Bản, tác giả có đến nhà riêng thăm ông Ishida. Kể lại những kỷ niệm xưa, vị cựu Phó Đại sứ Nhật Bản tại VN thời 1944-45 không quên trách khéo ông Diệm lúc làm Tổng Thống đă quên ông ta mà chỉ trọng dụng ông Matsuisita nguyên Chỉ huy ngành Hiến binh mà thôi.
      [12] Lư Chánh Trung, T́m Về Dân Tộc, tr. 23-27.
      [13] Bảo Đại, Le Dragon d Annam, tr. 99-115.
      [14] Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi.
      [15] Phạm Kim Vinh, Những Bí Ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam Cộng Ḥa, tr. 27 và sách Đời Một Tổng Thống của Minh Bảo.




    1.   THĂNG TRẦM TRONG   CUỘC CHIẾN VIỆT PHÁP

      *Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng sau khi hứng chịu hai quả bom nguyên tử tiêu huỷ hoàn toàn hai thành phố Hirosima và Nagasaki. Ngày 18, tại Đông Dương, Bộ chỉ huy Nhật Bản trao quyền lại cho chính phủ Việt Minh và ngày 23 vua Bảo Đại thoái vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập chính phủ lâm thời tại Hà Nội vào ngày 19 tháng 8, mời công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn Tối Cao để ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên bố Việt Nam độc lập. Quân đội Anh, dưới quyền của tướng Douglas Gracey, đổ bộ lên Sài G̣n ngày 13 tháng 9 để giải giới quân đội Nhật và sau đó trao quyền lại cho quân đội Pháp.

      Chỉ trong ṿng một tháng ngắn ngủi đó, bao nhiêu biến cố trọng đại đă dồn dập xảy ra trên chiến trường và chính trường Việt Nam, đưa vận mệnh đất nước vào một khúc quanh nghiệt ngă mới. Trong khi đó, tại Đà Lạt, sau khi ông Diệm đi được mấy hôm, và tôi chỉ mới bắt đầu nhậm chức Tư lệnh Bảo an của bốn tỉnh cực Nam Trung phần, th́ các đoàn thể thanh niên tại thị xă họp đại hội và bầu tôi làm Thủ Lănh Thanh Niên Tiền Phong Đà Lạt (Thanh niên Phan Anh) dù lúc đó Việt Minh đă bắt đầu trải người hoạt động mạnh. Cờ đỏ sao vàng và truyền đơn kêu gọi nổi dậy chống Nhật và Pháp rải đầy thành phố, một vài vụ bạo động và nguồn tin sẽ có đ́nh công băi thị càng làm cho không khí thị xă thêm căng thẳng.

      Đầu tuần lễ thứ nh́ của tháng chín, Việt Minh cướp chính quyền tại Đà Lạt bằng một cuộc biểu t́nh rầm rộ, vây dinh Tổng đốc bắt ông Trần Văn Lư giải về Huế, c̣n tôi th́ họ giữ lại tại địa phương để điều tra bổ túc. Vừa thoát khỏi ngục Pháp được mấy tháng tôi lại bước vào cửa ngục Việt Minh.

      Trong các lần thẩm vấn, tôi quyết định khai hết sự thật v́ nghĩ rằng "vàng thật sợ ǵ lửa đỏ", tôi là người thật tâm yêu nước, nếu có làm việc trong hệ thống quân đội của Pháp th́ chẳng qua cũng là v́ thời thế bắt buộc, nếu có ở trong hệ thống hành chính của Nhật th́ chẳng qua cũng là v́ hoàn cảnh, miễn rằng tâm và chí của ḿnh không thân Tây vọng Nhật. Duy có việc tham gia một phong trào chống Pháp th́ tôi cố càng dấu tổ chức của ḿnh càng nhiều càng tốt, nhất là danh tánh các đồng chí.

      Lúc bấy giờ, tôi chưa biết Mặt Trận Việt Minh do đảng Cộng Sản chỉ đạo và điều động mà chỉ biết họ như một tổ chức cách mạng lớn, cướp chánh quyền để đánh đổ chế độ phong kiến, chống thực dân Pháp và phát xít Nhật cho độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn dân Việt Nam. Cho nên ở một mặt nào đó, tuy bị giam cầm và tù ngục, tôi vẫn yên tâm và c̣n có ư trông chờ ngày được họ phóng thích để trở về Huế. Quả nhiên, chỉ hơn một tuần lễ sau, tôi được mời lên một văn pḥng trông đàng hoàng hơn pḥng lấy khẩu cung thường lệ, và cho biết v́ hồ sơ cá nhân của tôi sạch sẽ, tứ thân phụ mẫu đều thuộc giai cấp nho sĩ vô sản, và hồ sơ binh sách của tôi bị phê là có hoạt động chống Pháp nên tôi được họ thả với lời "yêu cầu" ở lại Đà Lạt hợp tác với chính quyền cách mạng địa phương.

      Tin tức Sài G̣n đưa về cho biết t́nh h́nh rất sôi động v́ quân Pháp, sau khi được quân đội Anh trao lại quyền quản trị, đă cấp tốc thiết lập các đơn vị tác chiến để tái lập trật tự tại Sài G̣n và mở rộng vùng ảnh hưởng ra toàn bộ Nam kỳ. Chính quyền Việt Minh tại Đà Lạt vội tổ chức khẩn cấp hai tiểu đoàn Vệ Quốc Quân. Một tiểu đoàn được giao cho Nguyễn Lương, người Quảng Ngăi, nguyên là thư kư toà Sứ Đà Lạt nhưng có lẽ đă tham gia Việt Minh từ trước, chỉ huy ; và tiểu đoàn thứ hai được giao cho tôi điều khiển. Trong tiểu đoàn thứ nhất này c̣n có ông Tôn Thất Đính làm uỷ viên chính trị trung đội và ông Phạm Đăng Tải (ông Tải sau làm ở Bộ Ngoại giao thời Đệ Nhất Cộng Hoà và hiện sống ở Monterey, Hoa Kỳ).

      V́ quân Pháp đang âm mưu tiến về miền Trung và đánh chiếm các tỉnh Cao Nguyên Trung phần nên ông Vơ Nguyên Giáp, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ Hồ Chí Minh, vội cầm đầu một phái đoàn quân chính lên Đà Lạt để tham quan t́nh h́nh và cho những chỉ thị cần thiết[1]. Chúng tôi được lệnh dàn quân chung quanh trụ sở Uỷ Ban Hành Chính Tỉnh và gia nhập phái đoàn đón tiếp ông Vơ Nguyên Giáp. Khi ông Giáp đến, trong phái đoàn tuỳ tùng, tôi thấy có cả Thiếu uư Phan Tử Lăng (vốn là Tổng chỉ huy Bảo an Trung kỳ và là một đồng chí trong tổ chức ông Diệm) bấy giờ là đại diện cho Uỷ Ban Quân Sự Trung Bộ của Việt Minh tại Huế. Thấy Lăng, tôi bàng hoàng, nhưng cũng gọi tên và giơ nắm tay lên cao để chào, nhưng Lăng chỉ mỉm cười kín đáo rồi trả lời vừa đủ để tôi nghe: "Việc cũ bỏ hết, đừng nhắc lại nữa".

      Tuy đă có lần nghe ông Diệm kể chuyện ông Giáp đến thăm ngôi nhà ở Phú Cam và tuy đă được nghe tiếng tăm của ông Giáp từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp gặp ông ta. Tôi không ngờ ông ta c̣n quá trẻ và phong cách th́ như một bạch diện thư sinh chưa từng dăi nắng dầm sương. Mặc dù lúc bấy giờ tôi không đồng quan điểm với Việt Minh nhưng vẫn chưa có ǵ để chống đối thù nghịch nên trong thâm tâm tôi thoáng có một chút cảm phục và tự hào về nhân vật đồng hương trẻ tuổi nhưng tài cao chí lớn nầy.

      Ông Giáp làm Bộ trưởng Nội vụ năm 32 tuổi trong một chính phủ độc lập của một quốc gia thống nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, trong khi người đồng hương của ông ta là ông Diệm, cũng năm 32 tuổi, làm Thường thư Bộ Lại cho một triều đ́nh phong kiến bù nh́n của một xứ Bảo hộ Trung kỳ. So sánh đó tuy có thoáng qua rất nhanh trong óc tôi, nhưng trong buổi gặp gỡ ông Giáp tại trụ sở Ủy Ban Hành Chánh Đà Lạt, h́nh bóng của ông Diệm với bao kỷ niệm cũ vẫn có đủ sức mạnh đánh đổ cái hấp lực hào hùng của ông Giáp.


    1. Ông Vơ Nguyên Giáp sinh năm 1912, quê làng An Xá, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng B́nh, cách làng Đại Phong của ông Diệm chỉ có hai con hói. Học trường tiểu học Lệ Thuỷ rồi vào Huế học trung học ở trường Khải Định, ông Giáp nổi tiếng thông minh và thuộc ḷng sử Pháp lẫn sử Việt. Ông thuộc từng chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp và những trận đánh của Nă Phá Luân. Tại trường Khải Định, mặc dù là học sinh trung học Đệ nhất cấp mà ông vẫn được giáo sư Sử-Địa Pháp mời thuyết tŕnh sử Pháp cho hầu hết giáo sư và học sinh toàn trường nghe. Ông được chú ư sớm nhờ tính t́nh văn nghệ và nhờ mang tư tưởng cách mạng của chí sĩ Phan Bội Châu. Mới 14 tuổi, ông đă gia nhập "Tân Việt Cách Mạng Đảng", tham dự phong trào băi khoá để tang cho chí sĩ Phan Chu Trinh. Năm 1930, nhân những vụ nổi loạn ở Nghệ An, ông bị mật thám Pháp ở Trung kỳ bắt giam vào lao Thừa Phủ, Huế. Sau mấy tháng ở trong tù, nhờ lời khai thú tội nên được Giám đốc Sở Chính trị Phủ Toàn quyền là Marty can thiệp trả tự do. Ông Giáp được Marty nâng đỡ giúp cho vào trường trung học Pháp Albert Sarraut ở Hà Nội. (Theo tôi th́ việc đầu hàng Sở Chính trị của thực dân chỉ là sự đầu hàng giả trá, sự đầu hàng đă được đảng Cộng Sản Đông Dương cho phép và tổ chức, v́ lúc bấy giờ ông Giáp đă trú ngụ từ lâu tại nhà giáo sư Đặng Thai Mai, một đảng viên Cộng Sản). Trong lúc c̣n là học sinh, ông Giáp đă cộng tác với ông Phạm Văn Đồng trên tờ báo Pháp ngữ "Le Peuple . Tiếp tục lên đại học, ông thi đỗ cử nhân Luật khoa năm 1937. Điều buồn cười là trong kỳ thi cử nhân luật đó, ông Giáp hoàn toàn hỏng môn Quốc Tế Công Pháp nhưng nhờ môn kinh tế chính trị được 18 điểm trên 20, nên mới khỏi bị đánh rớt. Đỗ cử nhân xong, ông dạy ở trường Thăng Long, vốn là một môi trường tốt để truyền bá chủ nghĩa Mác-Xít trong đám bạn bè và sinh viên. Năm 1945, sau khi cướp được chính quyền, công an dưới quyền ông Giáp đă sát hại chính vị hiệu trưởng trường Thăng Long là giáo sư Tôn Thất B́nh và bắt cha vợ của ông B́nh là Thượng thư Phạm Quỳnh đem đi thủ tiêu.

      Chiến tranh thế giới bùng nổ, ông Giáp thoát ly gia đ́nh, để vợ sống một ḿnh ở Vinh, rồi lui vào bóng tối hoạt động bí mật. Người vợ cũng là một chiến sĩ cách mạng bị bắt năm 1941, bị kết án chung thân khổ sai và chết trong lao tù, sau đó người em gái vợ cũng bị tra tấn và chết tại khám lớn Sài G̣n. Thảm cảnh gia đ́nh càng làm cho ông ta thêm thù hận người Pháp, ông bèn trốn qua Tàu và nghe nói có theo học một lớp quân sự tại Diên An. Tại Trung Hoa, ông Giáp gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng để từ đó trở lên một trong những nhân vật tối quan trọng của đảng Cộng Sản Đông Dương.

      Năm 1944, ông Giáp tổ chức dân thiểu số vùng Việt Bắc vào các đội du kích quân, và kết nạp được ông Chu Văn Tấn thuộc dân thiểu số, và tuy là một Cai Lính dơng, nhưng ông Tấn đă trở thành một trong những tướng lănh giỏi của Cọng sản sau nầy. Ông Giáp là cha đẻ của Chiến tranh Du kích và của Quân đội Nhân dân tại Việt Nam. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Giáp được coi như nhân vật trọng yếu thứ nh́ của Việt Minh, sau ông Hồ Chí Minh. Theo Bernard Fall th́ từ khi chiến tranh Pháp-Việt mở màn cho đến ngày Cộng Sản toàn thắng, với tư cách là Tổng tư lệnh quân đội Việt Minh, ông Giáp chỉ phạm lỗi lầm chiến lược có một lần trong trận tấn công Vĩnh Phúc Yên, Đông Triều và Ninh B́nh (để bị tướng De Lattre de Tassigny đánh bại), v́ tuy rất thông minh nhưng vẫn là người tự học một ḿnh và v́ ông ta chủ quan sau chiến thắng Cao Bằng, đường số 4. Từ đó về sau, ông Giáp luôn luôn chiến thắng. Trong suốt bốn năm đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Việt, ông để cho du kích địa phương cầm chân tiêu hao lực lượng viễn chinh Pháp, mà chỉ nỗ lực tổ chức và huấn luyện quân chính quy tại vùng núi rừng Việt Bắc và tại phía Nam Trung Hoa.[2]

      Thân phụ của ông Vơ Nguyên Giáp là ông Vơ Nghiễm, nguyên là một thư kư của ty Hành Chánh tỉnh Quảng B́nh thời phong kiến, được hàm Cửu phẩm văn giai cho nên thường được gọi là ông Cửu Nghiễm. Gia đ́nh ông Cửu Nghiễm là gia đ́nh tiểu tư sản, có ruộng cho thuê và có tiền cho vay. Người con gái đầu ḷng của ông Cửu Nghiễm lấy chồng là một quản lính Khố đỏ và sống ở thôn quê. Hai người con trai của ông Cửu Nghiễm là Vơ Nguyên Giáp và Vơ Thuần Nho, ngược lại, đều theo Việt Minh và đều là những nhân vật sắt máu. Ông Vơ Thuần Nho giữ chức Uỷ Viên Tư Pháp tỉnh Quảng B́nh, khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945 đă xử tử nhiều người. Trước nhà ông Vơ Nghiễm có một bức b́nh phong kết bằng những cây chè cắt h́nh một con cọp, mỗi lần gió thổi, cọp chè lay động theo bóng đêm làm nhiều người đi qua trông thấy phải giật ḿnh. Năm 1947, khi quân Pháp đổ bộ lên Quảng B́nh, ông Vơ Nghiễm bị bắt đem về giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Ông ta chết ở trong lao và được chôn tại đó nhưng không biết làm sao mà hài cốt được Việt Minh đào lên và di chuyển đến một chỗ bí mật khác, có lẽ đă đem về chôn ở Quảng B́nh.

      Sự kiện ông Vơ Nguyên Giáp phải đến thị sát Đà Lạt và vùng Tây Nguyên đă nói lên tính cách nghiêm trọng của t́nh h́nh miền Nam và Cao nguyên lúc bấy giờ. Sau cuộc thị sát của ông Vơ Nguyên Giáp, tôi được chỉ thị của Uỷ Ban Hành Chánh Kháng Chiến Đà Lạt đem tiểu đoàn bố trí từ ngoại ô thành phố đến Dran (Đơn Dương), có một trung đội của ông Từ Bộ Cam từ Huế vào tăng cường. (Ông Từ Bộ Cam sau này là Đại tá Không quân, hiện ở tiểu bang Washington). Tiểu đoàn gồm độ 500 binh sĩ nhưng vũ khí đều là loại vũ khí cũ của Pháp và Nhật để lại, hoả lực chính của tiểu đoàn là ba khẩu liên thanh kiểu FM 1924-1929. Chủ lực của tiểu đoàn gồm một số lính Khố xanh cũ có kinh nghiệm tác chiến, nhưng phần lớn c̣n lại toàn là thanh niên mới gia nhập, chưa được huấn luyện ǵ. T́nh trạng tiểu đoàn như thế mà tôi phải đương đầu với cuộc tấn công của liên quân Anh-Pháp-Nhật, được yểm trợ bởi một chi đội thiết giáp.

      Sau khi thảo luận với chính trị viên của tiểu đoàn, tôi quyết định tránh đụng độ trực diện với kẻ thù, chỉ t́m cách cầm chân hay giảm thiểu sức tiến của địch để bảo toàn đơn vị và để chờ bộ chỉ huy Đà Lạt có th́ giờ triệt thoái. Áp dụng kỹ thuật hoán vị các đại đội, tôi cho ba tổ liên thanh di chuyển từ cao điểm này đến cao điểm khác của vùng đồi núi Đơn Dương, bám theo đà tiến của kẻ thù mà phục kích tấn công. Dĩ nhiên hoả lực yếu kém của chúng tôi chỉ làm cho địch chuyển quân chậm hơn và gây thiệt hại không đáng kể, chứ không thể nào cầm chân hay công phá được sức tiến của đoàn thiết giáp. Sau một ngày một đêm vừa đánh vừa lùi, cuối cùng tôi ra lệnh bỏ chiến trường Đơn Dương, rút quân về Ninh Thuận. Với hơn 300 binh sĩ c̣n lại, tôi và bộ chỉ huy tiểu đoàn băng rừng về miền núi phía Tây tỉnh Phan Rang và lập chiến khu ở vùng Ba Râu.

      Tại đây, theo lệnh của Uỷ Ban Kháng Chiến Trung Uơng, tôi được lệnh mở những cuộc đột kích quân đội Pháp để tạo t́nh trang bất an ninh trong vùng và để cầm chân những đơn vị này không thể tăng phái về các mặt trận khác. Sau nửa năm, t́nh trạng của tiểu đoàn trở nên nguy kịch, thiếu đạn dược, thiếu thực phẩm, thiếu thuốc men, binh sĩ của tôi càng ngày càng mất khả năng cũng như tinh thần chiến đấu. Bị cô lập và phải hoàn toàn tự lực tất cả mọi mặt, tôi không t́m ra được phương thế nào để chấn chỉnh lại sức mạnh của đơn vị đang càng lúc càng rơi vào t́nh trạng tê liệt. Đă vậy, thỉnh thoảng các chính trị viên Việt Minh đến thanh tra chiến khu lại gay gắt phê b́nh và lên án những nhược điểm của chúng tôi mà không đề nghị một biện pháp giải quyết nào cả.

      Đồng thời, qua những sinh hoạt hàng ngày, tôi bắt đầu phát hiện ra vai tṛ quyết định và đầy ưu thế của đảng Cộng Sản Đông Dương đằng sau mặt trận Việt Minh, một vai tṛ không những giành độc quyền chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp mà c̣n giành độc quyền quản trị đất nước ngay từ bây giờ cũng như trong tương lai. Tính độc quyền đó, ngay cả trong giai đoạn kháng Pháp mà nhu cầu đoàn kết là một nhu cầu tối quan trọng, vẫn được thể hiện qua những vụ thanh trừng các nhân vật và lực lượng không Cộng Sản.

      Vừa bực ḿnh v́ thái độ vô trách nhiệm của chính uỷ, vừa bắt đầu lo sợ v́ màu sắc chính trị không Cộng Sản của ḿnh, và nhất là vừa nhớ nhà sau hơn hai năm trời biền biệt khói lửa, nên vào một buổi chiều nọ, tôi rời khỏi chiến khu Ba Râu, trốn ra vùng biển Ninh Chữ, giả vờ làm thường dân tản cư thuê ghe về Tuy Hoà để từ đó t́m đường về quê. Ra đến Tuy Hoà, không ngờ tôi lại tạm trú tại nhà một vị cựu công chức Nam triều nên được biết một số tin tức về ông Diệm.

      Nguyên sau khi Việt Minh cướp chính quyền tại Nam bộ, ông Diệm liền theo đường bộ rời Sài G̣n để về Huế. Cùng đi với ông có ông Vơ Văn Hải và một đồng chí trẻ tuổi tên là Bảo. Đến Nha Trang th́ ông bị Việt Minh bắt giữ nhưng nhờ kỹ sư Đặng Phúc Thông đang làm việc ở ty Hoả Xa và một trung uư hiến binh Nhật can thiệp nên được trả tự do. Sáng hôm sau, ông tiếp tục cuộc hành tŕnh chỉ với Bảo, nhưng cả hai lại bị Việt Minh chận bắt tại sông Cầu. Riêng ông Vơ Văn Hải, v́ ngủ quên tại nhà người quen tại Nha Trang nên thoát khỏi.

      Sau gần hai tuần lễ chỉ để vượt một đoạn đường không đến 500 cây số, lúc th́ đi bằng thuyền, lúc th́ xe hoả, lúc xe hàng, cuối cùng tôi đă đặt chân được tới Huế.

      Tại ngôi nhà Phú Cam, tôi mới biết tin ông Diệm bị Việt Minh bắt đem ra Bắc không biết số phận như thế nào, c̣n ông Ngô Đ́nh Khôi và người con trai độc nhất của ông là Ngô Đ́nh Huân cùng bị bắt với ông Phạm Quỳnh và sau đó bị thủ tiêu tại một địa điểm ở phía Bắc tỉnh Thừa Thiên. Một số lớn đồng chí của tôi, trong đó có Nguyễn Tấn Quê, kẻ th́ bị bắt giam vào lao Thừa Phủ, kẻ th́ bị giam giữ ở những trại tù bí mật xa thành phố Huế, có người lại bị thủ tiêu mất tích.

      Về Huế mà tôi như lạc lơng đến một vùng đất xa lạ. Cũng thành quách soi bóng nước sông Hương mơ màng, cũng cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, cũng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang, cảnh cũ vẫn đó mà người xưa đâu c̣n. Ngọn cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ tung bay trên kỳ đài Ngọ Môn đă làm đảo lộn dân t́nh xứ Huế. Nhân dân tự vệ, Vệ Quốc quân đang soạn sửa để chờ đợi cuộc giao tranh, dân chúng đang lo lắng để tản cư về vùng thôn dă. Công dân Vĩnh Thuỵ ra đi, kinh thành trưởng giả, đài trang, cổ kính xưa kia, nay đă biến thành một quê hương ly loạn. Mấy năm sau, đọc bài thơ của Vũ Hoàng Chương, tôi vô cùng thán phục thi nhân đă lột tả được một cách thần t́nh những thay đổi của Cố Đô và tâm trạng của những con người vốn nặng ḷng hoài cổ:

      *

      Một gánh gươm đàn tới Cố Đô,

      Mưa liền sông tạnh tưởng vào Ngô.

      B́m leo cửa khuyết ai ngờ rứa,

      Rồng lẫn mây thành chẳng thấy mô.

      Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng,

      Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ.

      Tiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảm,

      Tốt đă vào cung loạn thế cờ.

      *

      Sau khi ở Huế mấy hôm để ḍ la thêm tin tức và đau đớn chấp nhận một thực tại khốc liệt là tổ chức đă tan, lănh tụ đă bị bắt, thế cờ đă loạn, tôi quyết định rời Huế để trở về lại quê làng Thổ Ngoạ của tôi.

      Trận đói Ất Dậu (năm 1945) khủng khiếp vẫn c̣n hằn in nét đau thương kinh hoàng trên từng luống đất của làng xóm, trên mỗi khuôn mặt của bà con: mồ mả ngổn ngang mọc đầy đồng làm loang lổ những đám ruộng nứt nẻ, bà con chỉ c̣n xương bọc da thất thểu đi t́m nhau trong tuyệt vọng. Chỉ có cán bộ Việt Minh và Nhân dân tự vệ, tay súng tay dao, hung hăng hành xử quyền làm chủ một đại xă nổi tiếng văn học, nho phong của ngày xưa.

      Gặp lại người vợ ngày xưa ṃn mỏi v́ trông đợi mà đôi vai gầy như oằn xuống v́ sức nặng của nhớ mong và của thiên tai, gặp lại hai đứa con trai c̣m cơi tay lấm chân bùn đang ê a những mẫu tự vỡ ḷng trên chiếc chiếu lá xơ xác, ḷng tôi như quặn lại. Tôi tự nghĩ, chí hướng và sự nghiệp của ḿnh đă dang dở mà Việt Minh th́ bây giờ lại xem ḿnh như thành phần đă từng hợp tác với Pháp, cuộc sống tương lai chắc chắn sẽ vạn phần bấp bênh nguy hiểm.

      Bị dằn vặt trong tâm trạng đó, tôi bèn giữ thái độ "gặp thời thế thế thời phải thế , chủ trương sinh hoạt như một kẻ an phận thủ thường để lo nuôi vợ dạy con, vốn đă quá cơ cực bần hàn với ước mơ chịu đựng cho qua cơn băo tố để chờ ngày trời quang mây tạnh.

      *Nhưng người anh vợ của tôi, ông Nguyễn Bá Mưu, vốn bất khuất, luôn luôn mang đầu óc quật cường, đă cùng với một số đảng viên Việt Quốc thành lập một tổ chức đối kháng lại với Việt Minh, t́m cách bắt liên lạc với những đảng phái quốc gia ở ngoài Bắc. Ông kết nạp những thành phần cựu hào lư, quân nhân, công chức chế độ cũ gồm người cùng làng và những làng lân cận, trong đó có hai người anh ruột và anh rể của tôi. Nhưng chẳng may âm mưu bị bại lộ, ông Nguyễn Bá Mưu cùng một số đảng viên Việt Quốc bị ban ám sát của Việt Minh đang đêm đến chặt đầu ngay tại nhà. Người anh rể, một người anh ruột và tôi bị bắt lên chiến khu Trung Thuần, mỗi người bị đem giam một chỗ.

      Trong khi tôi nằm đếm ngày tháng ṃn mỏi trôi qua trong ngục tù của Việt Minh th́ t́nh h́nh chính sự bên ngoài vẫn biến chuyển sôi động. Vào cuối tháng 5 năm 1946, ông Hồ Chí Minh đi Pháp tham dự hội nghị Fontainebleau để điều đ́nh với Pháp cho đến tháng 9 mới trở về với một bản "modus vivendi về các hợp tác kinh tế để chấm dứt các vụ xung đột. Tháng Sáu cùng năm đó, đô đốc Thierry d Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông Dương, đă vi phạm thoả ước kư kết với nhau từ tháng Ba, tuyên bố thành lập một chính phủ tự trị cho Nam kỳ. Ngày 23 tháng 11, trước mâu thuẫn quyền lợi không thể thoả hiệp được và trong thế sống mái quân sự một mất một c̣n, các chiến hạm của Pháp tại cảng Hải Pḥng bắt đầu pháo vào thị xă và đổ quân vào thành phố để hành quân tiến về Hà Nội. Quân đội Việt Minh rút về bảo vệ thủ đô nhưng đến tuần lễ thứ nh́ của tháng 12 th́ quyết định bỏ trống Hà Nội cho các đơn vị thanh niên chống trả, ông Hồ Chí Minh dẫn bộ tham mưu và chủ lực chính quy rút về Việt Bắc lập chiến khu, mở màn cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt.

      Tháng 6 năm 1947, bắt được tin t́nh báo cho hay một đơn vị quân Pháp đang đóng ở Quảng Khê (sông Gianh) sẽ phối hợp với một đơn vị khác đóng tại làng Công giáo Đan Sa tái chiếm Ba Đồn, một vị trí chiến lược nằm ngay cửa chính mở vào mật khu của họ, Việt Minh bèn thủ tiêu hết những tù nhân mà chúng cho là nguy hiểm đang bị cầm tù. Cả anh ruột lẫn anh rể của tôi đều bị sát hại trong quyết định tàn ác này. Hai các chết đó đă ám ảnh tôi rất sâu đậm trong suốt cuộc đời đấu tranh của tôi sau này.

      Riêng tôi và một số anh em Công giáo khác đang bị biệt giam ở một trại tù ở dưới chân núi đèo Ngang, kịp thời phá tù trốn thoát được trong đường tơ kẽ tóc. Tôi dựa vào bóng đêm và men theo đường rừng, ṃ mẫm về được làng cũ trong bí mật. Nhưng chỉ mấy hôm sau, để tránh tai hoạ cho gia đ́nh, vào một buổi tối mưa lớn đổ ào ạt, nh́n lại lần cuối hai đứa con trai đang ôm nhau ngủ vùi trong manh chiếu rách, hôn vợ và ôm chặt đứa con trai thứ ba vừa mới sinh được hai tháng, tôi lại lầm lũi ra đi, rời làng vào Đồng Hới. Mưa xối nặng nề trên mái tranh xác xơ của ngôi nhà như nước mắt của người vợ hiền tiễn chồng ra đi ngút ngàn v́ nghiệp dĩ đấu tranh...

      Vào đến Đồng Hới, đang bơ vơ chưa biết sẽ liên lạc với ai để t́m lại các đồng chí cũ th́ t́nh cờ gặp được ông Hoàng Văn Toản, lúc bấy giờ đang làm Tổng thư kư của toà Hành chính tỉnh, cũng là một thành viên trong tổ chức của ông Diệm ngày xưa. Ông cho biết ông Trần Văn Lư, hiện đang làm Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung phần, ra lệnh phải t́m kiếm tôi để phụ trách đơn vị Bảo Vệ Quân tỉnh Quảng B́nh. Tôi bèn cấp tốc vào Huế gặp ông để từ chối chức vụ Chỉ huy trưởng Bảo Vệ Quân và tŕnh bày thẳng ư định của tôi về ưu tiên huấn luyện một tầng lớp cán bộ chính trị quân sự. Ông Lư đồng ư và thảo liền công văn cho tỉnh trưởng Quảng B́nh là ông Nguyễn Hữu Nhân về việc thiết lập một khoá huấn luỵện quân sự và chính trị do tôi phụ trách.

      Trong dịp gặp riêng ông Lư ngoài giờ làm việc, tôi hỏi thăm tin tức về ông Diệm và được biết rằng sau khi bị bắt ở Sông Cầu, ông Diệm bị đem ra Bắc cô lập ở một vùng rừng núi Việt Bắc cho đến đầu năm 1946, nhờ giám mục Lê Hữu Từ, lúc bấy giờ đang là cố vấn tôn giáo của ông Hồ Chí Minh, can thiệp nên ông được trả tự do. Sau đó ông Diệm về Hà Nội ở tại nhà thờ ḍng Chúa Cứu Thế Nam Đồng một thời gian rồi khi th́ lên Cao Nguyên sống với vợ chồng ông Ngô Đ́nh Nhu tại Đà Lạt, khi th́ xuôi miền Nam sống với giám mục Ngô Đ́nh Thục tại Vĩnh Long. Về việc ông Diệm bị bắt, có một số báo chí và sách vở Cần Lao cho rằng trước khi được phóng thích từ Thái Nguyên, ông Diệm đă từ chối lời mời tham gia hợp tác chính phủ Hồ Chí Minh, và ông Hồ đă phải thả ông Diệm ra sau đó. Nhưng theo ông Hồ Sĩ Khuê (tác phẩm Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng, tái bản lần thứ nhất) th́ ông Diệm bị "giam lỏng trong bệnh viện Lannessan (Hà Nội) do các bà Soeurs trông coi. Đêm Tổng khởi nghĩa 19/12/1946, ông Hồ và Việt Minh phải đương đầu với t́nh thế cấp bách mà bỏ quên ông Diệm tại Hà Nội trong bệnh viện này. Nhờ thế, ông Diệm đă thoát khỏi tay ông Hồ".

      Ngoài ra, ông Lư cũng cho biết Cựu Hoàng Bảo Đại hiện ở Hồng Kông và trở thành một "giải pháp" cho cả hai ông Diệm và Lư. Không như các tổ chức của Nguyễn Phước tộc ủng hộ Bảo Đại để phục hồi nền quân chủ cũ, hai ông Diệm và Lư ủng hộ Bảo Đại để tiến đến một chế độ quân chủ lập hiến. Theo ông Trần Văn Lư th́ chế độ này là một thể chế trung dung giữa chế độ quân chủ phong kiến đă lỗi thời và chế độ Cộng Hoà Tây phương c̣n quá mới lạ với quần chúng cũng như truyền thống chính trị Việt Nam. Nhưng dù sao th́, theo ông, tối thiểu Việt Nam cũng phải có một qui chế như Dominion mới lôi kéo được nhân dân Việt Nam ra khỏi hấp lực của Hồ Chí Minh mà về với Bảo Đại. Cũng cần phải nói rơ thêm như Bernard Fall đă mô tả th́ ông Diệm là người có đầu óc phong kiến, quan lại, cổ hủ, chỉ muốn bảo vệ một nền quân chủ. Cho đến năm 1955, v́ ở vào t́nh trạng tranh chấp với Bảo Đại và muốn có quyền hành thật to lớn, ông mới chủ trương thành lập nền Cộng Hoà để làm một nhà độc tài [3].

      Đối với tôi, chọn lựa này rất phù hợp với tư thế chính trị và bản chất đấu tranh của những người như ông Diệm và ông Lư, vốn là những vị quan lại được sinh ra và lớn lên, rồi lại được thăng hoa trong hệ thống phong kiến, nhưng lại có va chạm với những định chế Tây phương trong vị trí của một viên chức công quyền. Lửa cách mạng để lột xác một cách triệt để và toàn diện, để dứt khoát hoàn toàn với quá khứ không thể có được trong các ông. Chính một cộng sự viên thân tín của ông, sáu năm sau ngày ông bị lật đổ, nh́n lại khoảng thời gian làm việc chung với ông cũng đă phê phán như sau:

      "Nhưng ông Ngô Đ́nh Diệm không phải là người có tâm lư chính trị mới mẻ như vậy. Sinh trưởng trong một gia đ́nh triều thần, được đào tạo theo nếp giáo dục cổ truyền, rồi chính ông lại thừa nghiệp nhà mà thờ nhà Nguyễn: hẳn ông không phủ nhận những mối liên lạc tinh thần giữa vua tôi và thầy tṛ thuở trước. Chứng cớ là không thấy ai bắt buộc hơn ông và ông Nhu sự trung thành ở người cộng sự. Trung thành là điều kiện ưu tiên được đặt trên cả tài năng" [4].

      Tuy nhận định như vậy, nhưng lúc bấy giờ, đối với tôi, thể chế tương lai chưa phải là mối quan tâm hàng đầu mà chính sự xây dựng một tổ chức vững mạnh với một đội ngũ cán bộ kiên tŕ mới là yếu tố quan trọng để khi đuổi Tây đi, giành được độc lập th́ vẫn c̣n sức mà "sống mái" với lực lượng Việt Minh của ông Hồ Chí Minh. Lư luận đơn giản và chắc nịch như thế, nên tôi để mặc những vấn đề thể chế cho các vị đàn anh như ông Diệm hay ông Lư, c̣n ḿnh th́ chỉ xả thân hoạt động trong phạm vi của ḿnh.

      Tôi trở lại Đồng Hới làm việc dưới quyền của ông Tỉnh trưởng Nguyễn Hữu Nhân để điều khiển một lớp đào tạo cán bộ gần 40 khoá sinh, mà nội dung giảng huấn gồm cả hai phần chính trị lẫn quân sự, nhằm mục đích xây dựng cái lơi nhân sự đầu tiên cho một đơn vị quân chính tương lai.

      Độ gần một tháng sau, nhân chuyến đi kinh lư ở Đồng Hới, ông Trần Văn Lư có ghé thăm lớp huấn luyện và tỏ ra rất ngạc nhiên về những tiến bộ và thành quả của khoá. Cùng đi với ông c̣n có kỹ sư Lê Thế Ngạc (hiện nay đang ở Mỹ), lúc bấy giờ là Uỷ Viên của Hội Đồng Chấp Chánh, và ông Trần Trọng Sanh, một lănh tụ Việt Quốc tại Huế đang làm Giám đốc Công an Trung phần (hiện ở Mỹ).

      Song song với việc điều hành lớp huấn luyện, tôi bắt đầu tổ chức lại từ căn bản phong trào ủng hộ ông Diệm trong địa phương của ḿnh, đặc biệt là gây dựng lại hệ thống nhân sự cho tổ chức. V́ Đồng Hới là cửa ngơ mở ra liên khu Tư nhưng cũng là cửa thoát cho các phần tử quốc gia muốn rời bỏ Việt Minh để "về tề", nên tôi đă thành lập một bộ phận chỉ chuyên điều nghiên để kết nạp các phần tử này.

      Hoạt động của tôi dù kín đáo bao nhiêu nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi đôi mắt nghi ngờ của mật thám Pháp. Nghi ngờ đó biến thành thái độ đối phó khi họ quyết định bắt tôi và ba đồng chí cốt cán của tổ chức lúc khoá huấn luyện sắp kết thúc. Thế là ông Hiệu (trưởng ty Công an tỉnh Quảng B́nh), ông Đặng Phúc (một người bà con của ông Diệm), ông Phạm Đăng Tải quận trưởng quận Lệ Thủy (hiện ở Mỹ) và tôi bị pḥng Nh́ Pháp ập vào nhà riêng từng người bắt giam, và sau đó giải về pḥng điều tra của pḥng Nh́ Pháp tại Huế.

      May mắn thay, nhờ có đồng chí kịp thời thông báo, ông Trần Văn Lư vội can thiệp ngay với tướng Lebris, đang vừa là Uỷ Viên Cộng Hoà, vừa là Tư lệnh quân đội Pháp ở miền Trung, nên chúng tôi được trả tự do.

      Cuối tháng 12, Bảo Đại kư thông cáo chung với Cao uỷ Emile Bollaert, chuẩn bị cho Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Tôi quyết định chuyển từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công khai. Quyết định này phát xuất từ ba lư do rất rơ ràng: Trước hết, trong khung cảnh đấu tranh chính trị lúc bấy giờ, vấn đề biểu dương lực lượng để xác định sự hiện diện và sự lớn mạnh của tổ chức rất cần thiết; thứ nh́ là cần tạo một số cơ sở quần chúng để đưa tổ chức dựa lưng vào nhân dân; và cuối cùng là cá nhân tôi và một số đồng chí đàng nào cũng có hồ sơ và cũng bị mật thám Pháp theo dơi rồi.

      Một cơ quan ngôn luận vừa có chức năng thông tin tuyên truyền, vừa có nhiệm vụ đấu tranh là h́nh thức thích hợp nhất và có thể trả lời được ba điều kiện trên. Tôi bèn bàn với anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ của tôi, quyết định cho ra đời tuần báo Tiếng Gọi. Tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, c̣n anh Xứng th́ làm Tổng thư kư toà soạn với sự hợp tác của anh Nguyễn Văn Chuân (sau này là thiếu tướng, và hiện ở Mỹ) và Nguyễn Khương (sau này là đại tá, và hiện ở Pháp). Bốn người chúng tôi là chủ lực phụ trách phần bài vở nói lên đường lối của tờ báo và lo phần điều hành, những bài vở khác có nội dung văn nghệ nhưng phù hợp với chủ trương của tờ báo th́ do một số nhà văn ở cố đô Huế được mời viết.

      Lúc bấy giờ ở Huế đă có hai tờ báo khác: nhật báo Quốc Gia của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, do cựu Thượng thư Trần Thanh Đạt chủ trương, và bán tuần san Ḷng dân, tiếng nói bán chính thức của Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ, do ông Vơ Như Nguyện điều khiển. Hai tờ báo này có lập trường chính trị rất rơ rệt là chống Cộng Sản và cổ xuư cho giải pháp Bảo Đại. Tuần báo Tiếng Gọi của chúng tôi, ngoài lập trường chống Cộng, c̣n chủ chương đấu tranh chống thực dân đế quốc, ủng hộ đường lối và cá nhân ông Ngô Đ́nh Diệm.

      Năm 1948 mở màn với những vận động sôi nổi tại Hồng Kông, nơi ông Bảo Đại trú ngụ. Trước sự thành h́nh minh nhiên của giải pháp Bảo Đại, tôi viết một bài quan điểm nẩy lửa kêu gọi ông Bảo Đại nên chấp thuận lập trường và chủ trương của ông Ngô Đ́nh Diệm. Chủ đích của bài báo là vừa giới thiệu thân thế và sự nghiệp của ông Diệm với quần chúng đông đảo, vừa chứng minh rằng một lập trường cứng rắn trong giai đoạn này là thích ứng nhất cho vận mệnh đất nước. Số tiếp theo, số 8, tôi lại viết một bài nhan đề Con chó đá bên mộ cụ Phan Bội Châu, đả kích và lên án gắt gao thái độ ngoan cố của thực dân Pháp đang tiến hành chính sách tái lập nền đô hộ. Bài này lại được tờ Quốc Gia của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp trích đăng đầy đủ.

      Mấy ngày sau, trong lúc đang cùng với anh em toà soạn chuẩn bị ra số tiếp theo th́ nhận được tin sở Liêm Phóng Pháp sắp bắt tôi một lần nữa. Ông Trần Văn Lư lại phải can thiệp với tướng Lebris để tôi khỏi vào tù, nhưng tờ Tiếng Gọi th́ bị thâu hồi giấy phép, đóng cửa vĩnh viễn. Sau tám số tung hoành ngang dọc, tờ Tiếng Gọi đành im tiếng, nhưng lời kêu gọi của nó vẫn c̣n vang vọng trong ḷng một số người dân cả ba kỳ. Tôi thanh toán các hồ sơ c̣n dang dở, thu xếp bàn ghế và dụng cụ rồi bùi ngùi đóng cửa toà soạn với rất nhiều cảm xúc. Phan Xứng lên đường đi Đà Lạt và Sài G̣n.

      Cuối tháng ba, Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp vận động cất chức ông Trần Văn Lư và thành công trong việc thay thế ông Lư bằng ông Hà Xuân Hải trong chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ (nhiều sách Việt ngữ [5] và ngoại quốc, sau này, đă sai lầm khi viết rằng ông Diệm là lănh tụ của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp tại Huế. Thật ra, mặt trận này đă xem ông Diệm và ông Lư là những đối thủ quan trọng).

      Đến tháng Năm th́ giải pháp Bảo Đại thật sự thành h́nh với sự ra đời của Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời tại Sài G̣n do ông Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng, và ông Phan Văn Giáo, một cộng sự viên thân tín của ông Bảo Đại, từ Hồng Kông về Huế đảm nhận chức vụ Tổng trấn Trung phần.

      Ông Phan Văn Giáo nguyên là một dược sĩ ở Thanh Hoá và đă từng là bạn thân với ông Ngô đ́nh Diệm và ông Nguyễn Đệ. Ông bị Việt Minh bắt giam gần một năm rưỡi, khi ra khỏi tù, ông liền qua Hồng Kông cộng tác với Cựu Hoàng Bảo Đại. Ông Giáo là một chính trị gia nh́n xa thấy rộng, hoạt bát, lanh lợi, và rất b́nh dân. Đối với binh sĩ và cán bộ dân sự thường phải trực tiếp đối đầu với hiểm nguy, ông coi họ như bà con ruột thịt, thường giúp đỡ tiền bạc mỗi khi họ túng thiếu. Thỉnh thoảng ông đi hành quân với binh sĩ, ngủ lại đêm với họ ở những tiền đồn hẻo lánh xa xôi.

      Về Huế nhậm chức Tổng trấn, việc đầu tiên của ông là tiến hành việc tổ chức và xây dựng một quân đội quốc gia tại miền Trung mà ông có tham vọng sẽ thay thế quân đội Pháp. Ông xin đại uư Nguyễn Ngọc Lễ, lúc bấy giờ đang làm việc trong quân đội Pháp, về giữ chức Tư lệnh đội quân quốc gia mà ông đặt tên là Việt Binh Đoàn. Theo ông Giáo, Việt Binh Đoàn là V.B.Đ. ngầm ư là vua "Vua Bảo Đại", "V́ Bảo Đại", hay "Với Bảo Đại". Đại uư Nguyễn Ngọc Lễ dù cấp số thuộc quân đội Pháp nhưng là một phần tử quốc gia yêu nước mà nhà văn Nguyễn Vỹ có đề cập đến trong tác phẩm Tuấn, chàng trai nước Việt. Ông Lễ, từ khi chuyển qua Việt Binh Đoàn được thăng cấp thiếu tá, là một người hiền hậu, chân thành, ông xem binh sĩ cấp dưới như anh em ruột thịt trong nhà.

      Với chỉ tiêu của đợt thành lập đầu tiên là 10.000 quân nhân cho quân lực Việt Binh Đoàn, ông Lễ có rất nhiều cộng sự viên có khả năng trong bộ tham mưu của ông. Do đó, tuy không quen nhau từ trước nhưng chỉ v́ có nghe đến khả năng tham mưu và thành tích đấu tranh của tôi mà ông cho mời tôi đến và hợp tác. Trong buổi hội kiến đầu tiên, điều làm cho tôi ngạc nhiên thật sự và có phần nào cảm phục là ông Lễ (và cả ông Giáo) đều biết tôi là một cán bộ ṇng cốt của tổ chức ông Diệm, đối thủ trực tiếp và đáng kể của cả hai ông, thế mà v́ nhu cầu quốc gia, hai ông đă không ngần ngại kêu gọi làm việc chung.

      Sau khi hội ư với một số anh em, tôi quyết định nhận lời để duy tŕ sự hiện diện của ḿnh trong một bộ phận trung ương của quân đội tương lai. Tôi được giữ chức Trưởng Pḥng Ba, đặc trách về tổ chức, huấn luyện, và hành quân, đồng thời kiêm nhiệm chức chủ nhiệm tuần báo Tiếng Kèn, cơ quan ngôn luận chính thức của quân đội Việt Binh Đoàn. Cả hai nhiệm vụ này đều phù hợp với khả năng và sở thích của tôi. Tôi thầm nghĩ: sau Tiếng Gọi yêu nước, bây giờ là Tiếng Kèn lên đường, đều là những tiếng KÊU tranh đấu cả.

      Chỉ hơn một năm sau, quân đội Việt Binh Đoàn đă phát triển mạnh mẽ, tinh thần chiến đấu cao và khả năng tác chiến ở mức khá hiện đại. Tại nhiều địa phương chiến lược, đơn vị Việt Binh Đoàn đă thay thế các đơn vị của quân đội Pháp. Uy tín và uy thế của Việt Binh Đoàn càng ngày càng lên cao làm cho các chính khách ở ngoài Bắc cũng như trong Nam và các cấp chỉ huy Pháp đi từ ngạc nhiên đến thán phục. Nhiều khi họ tổ chức hẳn thành những phái đoàn đến thăm để nghiên cứu.

      Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol kư thoả ước Elysée biến Việt Nam thành một quốc gia "Độc lập trong Liên Hiệp Pháp", nhưng Quốc pḥng, Ngoại giao và Tài chính vẫn bị Pháp chi phối, kiểm soát.

      Tháng 4 năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại hồi loan sau ba năm tự ư lưu vong nơi hải ngoại. Ông đi công du ba miền để thăm viếng đồng bào, về Huế thăm lại Cố Đô, thăm mẹ già và cúng kỵ Tiên Vương. Ông sung sướng thấy tại miền Trung một quân đội hoàn toàn Việt nam, do chính sĩ quan Việt Nam chỉ huy, tinh thần cũng như tác phong hùng dũng, gương mẫu, không thua ǵ quân đội chính qui ở các nước tiên tiến. Cũng cần nhắc lại năm ngoái, năm 1948, ông Phan Văn Giao được Quốc trưởng Bảo Đại thăng hàm Trung tướng, do đó một buổi lễ diễn binh long trọng do tôi tổ chức trước lầu Ngọ Môn để Thủ tướng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, đại diện cho Cựu Hoàng đang ở Hồng Kông, gắn lên vai Trung tướng Phan Văn Giáo ba ngôi sao bạc. C̣n năm 1949, một chợ phiên qui mô, to lớn để tŕnh bày thành tích của Việt Binh Đoàn cũng do tôi tổ chức tại Bến Thương Bạc và trên sông Hương, đă thu hút hàng chục vạn người tham dự. Các chính khách, tướng tá, các nhân sĩ, thương gia từ Hà Nội, Đà Lạt, Sài G̣n, đến dự chợ phiên đông đảo, tạo cho quang cảnh cố đô mười ngày đêm tưng bừng rộn ră vô cùng.

      *

      Nước Việt Nam, trong tiến tŕnh lập quốc rồi Nam tiến mở mang bờ cơi, và cận đại hơn, trong chuỗi thời gian Pháp đô hộ, Nhật chiếm đóng, Việt Minh cướp chính quyền, cho đến khi Pháp trở lại và giải pháp Bảo Đại ra đời, đă có đến ba thủ đô: Hà Nội, Huế và Sài G̣n. Tùy hoàn cảnh chính trị, tuỳ triều đại, tuỳ những đổi thay của thời cuộc mà mỗi thành phố lần lượt mang vai tṛ thủ đô lănh đạo chính trị, hành chánh quốc gia. Ví dụ như từ triều đại nhà Lư đến hậu Lê, Hà Nội là thủ đô quốc gia ; triều đại nhà Nguyễn từ thời Gia Long đến hết đời Tự Đức, thủ đô là Huế; và thời Pháp thuộc, thủ đô là Sài G̣n. Tuy nhiên, mỗi thủ đô có một cá tính đặc thù, như Hà Nội có tiếng là đất ngàn năm văn vật, Sài G̣n th́ mang tên ḥn ngọc Viễn Đông, c̣n Huế, từ thời nhà Nguyễn đến thời Việt Nam Cộng Hoà, đă đóng vai tṛ ǵn vàng giữ ngọc cho nền văn hoá dân tộc. H́nh ảnh và dư âm của những trường thi Hương, thi Hội, những chùa chiền, lăng tẩm, miếu vũ, đền đài, Hoàng thành, Đại nội, Văn Vơ Thành, Tàng thư, Di Luân Đường, những biến cố truất biếm hay lưu đầy các vị vua cách mạng, sự hiện diện của chí sĩ Phan Bội Châu mười lăm năm trời tại Bến Ngự, những điệu ḥ mái nh́, mái đẩy, những câu ca Nam B́nh, Nam Ai, hay cái áo dài muôn thuở của người con gái xứ Huế ... đă là những biểu tượng sống động của nền văn hoá và t́nh tự dân tộc. Nếu chưa cho những thành tựu, những kết tinh đó là đủ th́ phong cảnh, cỏ cây, hoa lá của xứ Huế, hơn nơi nào hết, đă hoà t́nh người với cảnh vật, đă hoà hồn cá nhân với hồn vũ trụ tạo nên khí thiêng và sức sống của dân tộc.

      Trong bối cảnh lịch sử của thập niên 50, trong khi Hà Nội như đang đi vào dĩ văng, Sài G̣n th́ đang cựa ḿnh vươn lên để đón nhận một tương lai kinh tế và thương mại phồn thịnh, th́ Huế vẫn tượng trưng cho sự quyết tâm bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, kiên tŕ bám chặt lấy truyền thống cốt lơi. Cho nên Huế đă giữ đúng vai tṛ trọng yếu trong sự phát huy quốc học nói chung và Phật học nói riêng. Thử kiểm điểm những bia miếu, liệt kê trong những ngôi chùa, thử làm một danh bản những bậc cao tăng, ghi lại những nhọc nhằn đau đớn mà dân tộc đă gánh chịu, những hân hoan kiêu dũng của một kinh đô giữa ḷng đất mẹ, th́ ta sẽ thấy ngay một bức tranh sinh động về văn hoá và tinh thần của dân tộc Việt Nam. V́ quen nghĩ đến Huế như một biểu tượng b́nh lặng, khuất ch́m trong cuộc sống nên ít người biết rằng dưới cái lớp vỏ u hoài cô tịch của xứ Huế, có một sức sống mănh liệt, dạt dào đang luôn sôi sục để nếu có một cơ hội là vùng lên phát huy, tung nở đoá hoa dân tộc. Những biến cố lịch sử cận đại cũng đủ để chứng minh điều đó rồi.

      Sau những mùa chiến chinh ly loạn với bao thay đổi đoạn trường, những lá cờ cũng thay h́nh biến dạng đổi màu từ cờ Long Tinh qua cờ Quẻ Ly, rồi từ cờ đỏ sao vàng biến thành cờ tam tài xanh trắng đỏ cho phù hợp với những đổi thay phông cảnh, đào kép trên sân khấu chính trị. Riêng dân Việt Nam, tôi muốn nói đến những người Việt quốc gia chống Cộng phải chấp nhận thế đứng đớn đau ở bên này chiến tuyến, quả thật đă hoàn toàn tuyệt vọng v́ có chính nghĩa mà không làm sáng bùng lên chính nghĩa đó khi (v́ lư do này hay lư do khác, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác) phải cùng với người Pháp bảo vệ những mảnh đất quê hương c̣n tự do. Cho nên sự trở về của vua Bảo Đại, với sự ra đời của lá cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng hồi sinh mới, đă tượng trưng cho một niềm hy vọng.

      Đồng ư là vua Bảo Đại đă có thời gian là một vị vua bù nh́n, sống cuộc đời thụ hưởng ở quê người. Nhưng năm 1948, sau những vận động ngoại giao khôn khéo trong những điều kiện khó khăn nhất của một kẻ mất đất mất dân, yếu thế, ông đă thành công trong nỗ lực tiến lên một bước, một bước đầu tuy ngắn nhỏ nhưng cơ bản, để đặt nền móng cho chế độ gọi là quốc gia sau này. Một ông vua đă lột xác, đă thức tỉnh để giữ đúng và giữ trọn tinh thần của lời tuyên bố bốn năm trước rằng:

      "Trẫm hy sinh ngai vàng điện ngọc cho quốc dân" và "Trẫm thoái vị để thà làm dân một nước độc lập, c̣n hơn làm vua một nước nô lệ" [6].

      V́ vậy, ông trở về và đă được những lực lượng đấu tranh trong nước đón nhận như một biểu tượng của thế quốc gia chống Cộng của người Việt Nam. Nhiều chính khách, nhân sĩ yêu nước và có hoạt động cách mạng, trước đây giữ thái độ trùm chăn hoặc chống đối người Pháp bằng thái độ bất hợp tác, nay cũng quyết định ra mặt ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại như các ông Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hoàng Nam Hùng,Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc Định, Nguyễn Phan Long... và nhiều nhân vật trọng yếu trong các đảng Đại Việt, Việt Quốc, hay các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo. Đặc biệt, giám mục Lê Hữu Từ vốn là Cố vấn Tôn Giáo của ông Hồ Chí Minh và từng duy tŕ giáo phận Phát Diệm của ngài trong tư thế "tự trị", cũng từ bỏ thái độ này và sát nhập vùng tự trị Phát Diệm vào cộng đồng quốc gia dưới quyền cai trị của Quốc trưởng Bảo Đại [7]. Ngay cả ông Ngô Đ́nh Diệm, dù sau này đă từng xuống tay hạ nhục ông Bảo Đại bằng một cuộc trưng cầu dân ư lạ lùng, th́ cũng là một Thủ tướng do chính Bảo Đại bổ nhiệm, và tháng 7 năm 1954, khi vị Tân Thủ tướng ra Huế, th́ cũng đă phải đến cung Diên Thọ trong nội thành cố đô Huế để cúi đầu bái yết đức Từ Cung, thân mẫu của Quốc trưởng Bảo Đại. (Tâm trạng của ông Diệm và ư nghĩa đích thực của cuộc trưng cầu dân ư năm 1955 đă được ông Đoàn Thêm phân tách rơ ràng trong chương "hạ bệ và suy tôn" của tác phẩm Những ngày chưa quên).

      Cho nên, lật lại những trang sử cũ, khách quan và nghiêm chỉnh nh́n lại những biến động của đất nước trong thời gian đó để đừng v́ tinh thần bè phái và xúc động chủ quan mà bóp méo sự thật, ta phải công nhận rằng chính Bảo Đại đă đặt viên đá đầu tiên xây dựng nền tảng pháp lư, cơ sở quốc gia, và nội dung chống Cộng cho các chế độ Cộng hoà sau này. Nền tảng đó, cơ sở đó, nội dung đó, nếu sau này theo t́nh h́nh mà tăng trưởng hay lụn bại, mà đẹp thêm hay xấu đi th́ viên đá đầu tiên, với những giới hạn của trạng huống đất nước lúc đó, vẫn có giá trị không chối căi được của một viên đá đầu tiên.

      Nói rơ ra, phải có một Bảo Đại mới có một Ngô Đ́nh Diệm. Cũng như phải có một Ngô Đ́nh Diệm th́ mới có một Nguyễn Văn Thiệu trong sự liên tục luân lưu của lập trường chống Cộng từ năm 1949 cho đến năm 1975. Sự sụp đổ thảm bại của quyết tâm đó và lực lượng đó, ngoài những yếu tố khách quan và ngoại vi khác, là do ông Ngô Đ́nh Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu, chứ phần lớn nhất không phải là và không thể là do ông Bảo Đại.

      Giải pháp Bảo Đại đă khai sinh ra Việt Binh Đoàn, tiền thân đích thực của Quân đội Việt Nam Cọng Ḥa sau này, một đội quân hoàn toàn Việt Nam trên phương diện tổ chức, nhân sự và đường lối. Tuy người Pháp lúc bấy giờ có thành lập một số "tiểu đoàn Việt Nam" nhưng những tiểu đoàn này vẫn do sĩ quan Pháp hoặc tay sai của họ chỉ huy và vẫn bị người Việt Nam khinh bỉ v́ bản chất "lính đánh thuê" của chúng. Trái lại, Việt Binh Đoàn, dù chưa có truyền thống của một quân đội độc lập lâu dài, dù c̣n phải phối hợp với quân đội Pháp để cùng chiến đấu chống lại bộ đội Cộng sản, đă thực sự là một quân đội quốc gia (trong ư nghĩa chủ quyền và tự quyết) để che chở và bảo vệ nhân dân đang kẹt giữa hai lằn đạn của Việt Minh và Pháp. Chính Việt Binh Đoàn với trường Vơ Bị Quốc Gia đầu tiên ở Huế đă cung cấp cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà sau này những sĩ quan chỉ huy cấp tướng và cấp tá. Cũng chính Việt Binh Đoàn đă đào tạo ra những chiến sĩ anh dũng (sau này được chọn lựa vào Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Tổng Thống Phủ của ông Diệm) và những cấp chỉ huy của hai sư đoàn 1 và 2 can trường đương đầu sóng gió Trị Thiên.

      Nhớ lại thời kỳ chập chững h́nh thành của Việt Binh Đoàn với bao khó khăn và trở ngại phải khắc phục, nhớ lại thời kỳ phát triển vàng son của Việt Binh Đoàn với những chiến thắng oanh liệt, tôi không khỏi liên tưởng đến cựu Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ bây giờ đă là người ngàn thu, và ông Trần Nguyên An (hiện ở Mỹ) nguyên Tham Mưu Trưởng Việt Binh Đoàn. Một người tượng trưng cho lư tưởng, tinh thần và ư chí, một người biểu tượng cho óc tổ chức, tài quyền biến và khả năng vận động của lực lượng vơ trang đầu tiên này của quốc gia Việt Nam. Chính hai người này, trong t́nh nghĩa chung lưng đấu cật với tôi, trong nỗi chia sẻ công tác khó khăn với tôi, đă ảnh hưởng khá nhiều đến con người nhà binh của tôi sau này.

      Tuy nhiên, dù bận rộn v́ công vụ, dù tâm t́nh có chia sẻ với những người bạn mới trong công tác chung, và dù trên mặt hệ thống quân giai có trực thuộc ông Nguyễn Ngọc Lễ và ông Phan Văn Giáo (do đó, Quốc trưởng Bảo Đại), ḷng tôi vẫn luôn luôn nghĩ về ông Ngô Đ́nh Diệm v́ những liên hệ keo sơn đă kết tinh từ lâu, và nhất là v́ ư thức chính trị và kinh nghiệm đấu tranh thực tiễn cho tôi thấy rằng t́nh h́nh Việt Nam không thể ngưng lại trong t́nh trạng của một quốc gia độc lập mà lại c̣n có chính quyền Pháp kiểm soát, của một quân đội chống Cộng mà lại c̣n phối hợp với lính viễn chinh Pháp đang khủng bố, tàn sát đồng bào ruột thịt.

      Giải pháp Bảo Đại chỉ là giải pháp tạm thời để khai thông một số bế tắc chính trị. Sự hợp tác giữa ông Bảo Đại và Pháp chỉ là sự hợp tác giai đoạn, kết quả của một thế chính trị có lợi cho cả hai bên, do đó, không sớm th́ muộn, một giải pháp khác sẽ phải ra đời cho phù hợp với t́nh h́nh quốc tế và sự đe doạ càng lúc càng nguy hiểm của đảng Cộng Sản trong ḷng cuộc kháng chiến của Việt Minh. Giải pháp khác đó phải đặt nền tảng trên chủ quyền quốc gia của người Việt mà thể hiện đầu tiên và rơ ràng nhất là quân đội quốc gia phải hoàn toàn thuộc về một chính phủ Việt Nam. Tôi suy nghĩ (và ước mơ) rằng giải pháp đó là giải pháp Ngô Đ́nh Diệm.

      V́ thế, từ khi trở lại Huế vào cuối năm 1948, tôi đă tiếp tục đến sinh hoạt ở ngôi nhà Phú Cam, nơi ông Ngô Đ́nh Cẩn đang ở, để cùng với một số anh em thảo luận những kế hoạch chính trị nhằm ủng hộ cho ông Diệm.

      Ông Ngô Đ́nh Cẩn là một người có cung cách và tác phong giống hệt một viên chánh tổng của miền quê Bắc Việt. Chân đi guốc gỗ, mặc áo bà ba lụa trắng, miệng nhai trầu nhóp nhép nhưng nói phô trịch thượng và lại khinh người. Với ai ông Cẩn cũng gọi là thằng nọ, thằng kia, ngay cả với ông Bảo Đại. Ông Cẩn chỉ trích và chê bai tất cả các đảng phái và thường huyênh hoang bảo rằng "bọn Đại Việt, Việt Quốc có đến mời tôi làm lănh tụ nhưng "bọn đó" chẳng làm nên tṛ trống ǵ nên tôi từ chối". Ông Cẩn có tiếng nói rơ ràng và cặp mắt rất sắc, đôi lông mày rậm và hơi xếch lên theo cái tướng của những người hiểm ác, dám làm những việc táo bạo. Sáu người con trai của ông Ngô Đ́nh Khả ai cũng học hành thành tài và có sự nghiệp, chỉ riêng ông Cẩn mới học đến lớp ba tiểu học th́ v́ ham chơi mà đứt ngang việc học hành. Cũng v́ thế mà khi lớn lên, Ông Cẩn chỉ lo việc đồng áng, chăm sóc bà cụ thân sinh và phụ trách các việc quan, hôn, tang, tế trong gịng họ Ngô Đ́nh.

      Từ năm 1948, một phần v́ tổ chức bị tan ră từ trước và phần khác v́ ông Diệm không có mặt thường trực tại Huế. nên số cán bộ cũ không c̣n lại bao nhiêu người, chỉ thưa thớt có các ông Vơ Như Nguyện, Trần Văn Hướng, Nguyễn Vinh, và tôi, vốn là những đồng chí cũ của ông Diệm từ thời tiền 1945.


    1. Dần dần, nhờ nỗ lực phát triển của chúng tôi và nhất là nhờ có một số người ư thức được rằng giải pháp Bảo Đại chưa phải là một giải pháp lâu dài để giải quyết dứt khoát và toàn bộ vấn đề Việt Nam, nên họ lượng định lại "lá bài" Ngô Đ́nh Diệm, và muốn liên hệ với chúng tôi như một lối thoát chính trị trừ bị, do đó họ cùng đến sinh hoạt và ủng hộ chúng tôi. Nhóm này có các ông Nguyễn Đôn Duyến, Tôn Thất Trạch, Phạm Văn Nhu, Trương Văn Huế, Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Văn Đông, Bùi Tuân, Huỳnh Hữu Hiến... Linh mục Nguyễn Văn Thính thuộc ḍng Chúa Cứu Thế ở Huế, cũng thường lui tới ngôi nhà Phú Cam để yểm trợ và theo dơi t́nh h́nh.

      Số lượng ủng hộ ông Diệm càng ngày càng gia tăng, phần đông là các linh mục và những người theo Công Giáo. Tuy nhiên, cho đến ngày ông Diệm về nước (vào năm 1954), số lượng đó chỉ hơn 30 người ở khắp bốn tỉnh miền trung Trung phần. Ông Trần Điền (sau này là nghị sĩ Quốc Hội thời Đệ Nhị Cộng Hoà) và ông Nguyễn Trân (sau này là Tỉnh trưởng Nha Trang dưới thời ông Diệm) cũng thỉnh thoảng đến nhà ông Ngô Đ́nh Cẩn, nhưng hai ông này chỉ đến gây cảm t́nh và để nghe ngóng t́nh h́nh chứ không phải thực sự ủng hộ ông Diệm. Ông Trần Điền, v́ một mặt có bà con với ông Hà Thúc Kư (một lănh tụ Đại Việt ở miền Trung), mặt khác là cộng sự viên thân tín của ông Trần Văn Lư, lại có ư khinh bỉ ông Cẩn nên không thực tâm ủng hộ; c̣n ông Nguyễn Trân, v́ có mặc cảm là một cựu tri phủ tham nhũng của Nam Triều bị hạ hồi dân tịch, lại có xu hướng thân Pháp, nên không dám hoạt động cho giải pháp Ngô Đ́nh Diệm [8]

      Ông Trần Văn Lư, vốn là một đồng chí kỳ cựu của ông Diệm, trong thời kỳ làm Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh đă giúp đỡ tiền bạc để ông Diệm tiêu dùng và chi phí việc đi lại Hồng Kông gặp gỡ Cựu hoàng Bảo Đại. Nhưng từ khi ông Cẩn thấy tổ chức của anh ḿnh bắt đầu sống lại và càng ngày càng phát triển mạnh thêm th́ bắt đầu có thái độ khinh thường ông Lư, cho nên kể từ tháng 3 năm 1948, khi ông Lư mất chức Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh th́ hai gia đ́nh không c̣n liên hệ ǵ với nhau nữa. Các ông Diệm, Nhu, và giám mục Thục có lẽ v́ nghe lời dèm pha và xúi giục của ông Cẩn nên cũng chấm dứt mối tương quan với ông Lư.

      Thời bấy giờ ở Huế, ông Cẩn công khai bày tỏ sự căm thù đối với dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, và gọi là Việt gian, vô luân, v́ ông Thăng là bạn giao t́nh của Thủ hiến Phan Văn Giáo, người mà ông Cẩn thù ghét. Ông Nguyễn Cao Thăng c̣n là tay chân thân tín của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và là đại diện thợ thuyền của ông Tâm tại Trung phần. Nhưng lư do chính và sâu kín nhất mà ông Cẩn thù hằn ông Thăng là v́ ông này thường công khai gọi ông Cẩn là "hạng nhai trầu, dựa tên tuổi của cha anh mà làm tàng, hàng chánh tổng mà đ̣i làm lănh tụ..." Ông Cẩn c̣n tuyên bố với anh em chúng tôi là hễ có chính quyền trong tay th́ người đầu tiên ở Huế mà ông ta chặt đầu là Nguyễn Cao Thăng. (Cuối năm 1954, khi ông Diệm đă làm Thủ tướng, tức là ông Cẩn "đă có chính quyền trong tay", ông bèn ra lệnh cho nhóm Lê Quang Tung, Trần Thái ném lựu đạn vào nhà riêng của ông Trần Văn Lư và vào nhà thuốc của ông Nguyễn Cao Thăng ở đường Trần Hưng Đạo. Ông Trần Thái hiện sống ở Mỹ).

      Từ năm 1948, các ông Thục, Diệm, và Nhu thỉnh thoảng về Huế để thăm bà cụ thân sinh. Cứ mỗi lần như vậy, nhất là khi chính ông Diệm về, chúng tôi lại tổ chức các cuộc gặp gỡ trong ṿng đồng chí và thân hữu để thảo luận về t́nh h́nh chính trị, t́nh h́nh chiến sự và các kế hoạch cần phát động. Và từ đó, chúng tôi xiết chặt ṿng thân hữu lại bằng cách yêu cầu các thân hữu (chứ không phải chỉ các đồng chí trong tổ chức mà thôi như trước kia) cứ mỗi ba tháng lại đóng góp một số tiền để giúp đỡ ông Diệm, ông Nhu có khả năng hoạt động chính trị. Sau này, khi ông Diệm xuất ngoại, số tiền đóng góp của chúng tôi lại tăng thêm và thường xuyên hơn.

      Ông Thục và ông Nhu cũng tỏ ra cởi mở và vui vẻ hơn ngày xưa, thường hỏi thăm hoàn cảnh gia đ́nh và tâm sự cá nhân riêng tư của chúng tôi. Vào một buổi chiều tháng 6 năm 1950 ông Nhu đă nhờ ông Vơ Như Nguyện và ông Huỳnh Hữu Hiến hướng dẫn đến thăm tôi tại căn nhà nghèo nàn chật hẹp ở cửa Đông Ba. Lúc bấy giờ tôi là một Trung uư trong quân đội Việt Binh Đoàn với một người vợ đảm đang nhưng quê mùa và bốn đứa con trai mà đứa đầu mới 10 tuổi. Trong căn pḥng khách chật hẹp và nóng nực, và cũng là pḥng học và pḥng ngủ của các con tôi, ông Nhu tuy mồ hôi nhễ nhại mà cũng vui vẻ dùng chén chè xanh và cho biết sở dĩ ông đến thăm tôi v́ lời giới thiệu đặc biệt của hai ông Diệm và Cẩn về một cán bộ trung kiên, tâm huyết, can trường và biết sống chết cho lư tưởng. Tôi c̣n nhớ ông Nhu đă nói thẳng rằng: "muốn làm cách mạng th́ phải có những chiến sĩ như anh, c̣n hạng khoa bảng chỉ là bọn nhát gan, hay tính toán và chỉ biết tranh giành địa vị để làm giàu".

      Ông Cẩn tuy thường ngạo mạn và ra oai với mọi người nhưng cũng biết e dè với cụ Trương Văn Huế, một bậc lăo thành, với ông Vơ Như Nguyện và tôi, hai cán bộ dám chỉ trích và tranh luận tay đôi với ông ta.

      V́ những sinh hoạt của tôi tại ngôi nhà Phú Cam càng ngày càng công khai, và v́ ông Cẩn càng ngày càng đả kích Quốc trưởng Bảo Đại nên một hôm, Thủ hiến Phan Văn Giáo, với tư cách là cấp* chỉ huy của tôi, đă mời tôi đến văn pḥng để cảnh cáo dưới h́nh thức của một buổi nói chuyện thân t́nh:

      "Moa biết toa làm việc với moa mà toa vẫn cứ trung thành và hoạt động cho Ngô Đ́nh Diệm. Nhóm Ngô Đ́nh Cẩn làm ǵ, kể cả việc nói xấu Đức Quốc Trưởng và chỉ trích moa, moa biết hết. Nhưng moa tha cho hết v́ nhóm đó cũng là những người chống Cộng sản, chống Việt Minh, huống chi moa biết Diệm quá rơ, Diệm không làm nên tṛ trống ǵ đâu, bọn toa có hoạt động cũng vô ích, cũng chẳng đi tới đâu, nên moa chẳng cần bắt bớ.

      "Toa chưa biết chứ Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Đệ và Phan Văn Giáo đă có một thời kết nghĩa anh em như "Les trois Mousquetaires". Diệm lù khù như một nhà tu, lại dang dở việc t́nh duyên nên moa và Đệ gọi y là "Aramis". (Đệ là ông Nguyễn Đệ, nguyên Đổng lư văn pḥng của Quốc trưởng Bảo Đại. Trong hồi kư Le Dragon d Annam, Bảo Đại cũng cho biết ông Đệ và ông Diệm là đôi bạn thân, khi ông Diệm từ chức Thượng thư Bộ Lại th́ ông Đệ cũng từ quan luôn. Ông Đệ hiện ở Pháp – Ghi chú của tác giả).

      "Có lẽ v́ Ngô Đ́nh Cẩn tự ái không cho toa biết chứ moa đă giúp đỡ cho mụ Cả Lễ (em gái ông Diệm) nhiều vụ đấu thầu để bà ta có lời lấy tiền giúp cho Diệm và Cẩn hoạt động. Chủ trương của moa là các đảng phái quốc gia cần phải được chính quyền giúp đỡ v́ họ càng hoạt động, càng tổ chức, th́ càng làm giảm tiềm lực Cộng Sản, hàng ngũ chống Cộng càng tăng thêm. Trước đây Trần Văn Hướng (anh ruột của Trần Văn Dĩnh) làm Phó Giám đốc Thông Tin, in bài báo của đại sứ William Bullit để đả kích Quốc trưởng rải khắp nơi trong ư đồ ủng hộ ông Diệm, moa cũng tha thứ, th́ nay moa chỉ gọi toa đến để nói cho toa biết ḷng quảng đại, khoan dung của moa chứ moa không làm tội t́nh ǵ toa đâu". (Những lời lẽ của ông Giáo trên đây tôi có nói lại cho ông Cẩn và các bạn bè như ông Duyến, Nguyện, Hướng biết).

      Sau này, năm 1954, khi ông Diệm mới từ Mỹ về nước cầm quyền th́ ông Giáo đang là Thủ hiến Trung Việt (nhiệm kỳ hai). Trong lần ông Diệm trở về Huế để bái yết đức Từ Cung và thăm những tôn miếu trong Hoàng thành, ông Giáo đă tổ chức một cuộc đón rước rất trọng thể tại sân bay Phú Bài và ngay tại cố đô Huế. Nhưng chỉ độ một tháng sau th́ ông Diệm cách chức ông Giáo, điều tra tài sản và đe doạ khiến ông Giáo phải trốn đi Pháp.

      Ông Giáo không phải là người hoàn toàn và chắc chắn đă có những lỗi lầm cá nhân, nhưng trên mặt công việc, nhất là công việc chung của đất nước, ông là một nhân vật có lập trường quốc gia chống Cộng rất vững chắc, một cán bộ cao cấp có tài tổ chức, có tầm nh́n xa và rộng, lại có tinh thần đoàn kết rộng răi và biết trọng dụng nhân tài. Đă từng công tác với ông trong một số công việc khó khăn và quan trong, tôi cứ tiếc hoài một người như ông Phan Văn Giáo mà không làm Bộ trưởng Quốc Pḥng để tổ chức và chỉ huy quân đội quốc gia hầu đọ sức thi tài với ông Vơ Nguyên Giáp.

      Ngày 7 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ và Anh quốc cùng công nhận nước Việt Nam độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính quyền Bảo Đại. Toà đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên đặt tại Sài G̣n do ông Donald Heath, một nhà ngoại giao kỳ cựu, điều khiển. Trong khi đó th́ Mao Trạch Đông, sau khi thống nhất được Trung Hoa Lục Địa, bắt đầu kế hoạch quân viện quy mô cho Việt Minh dọc theo miền biên giới Việt Hoa.

      *

      Như vậy, những vận động âm ỉ từ trước của các cường quốc về số phận của nước Việt Nam bắt đầu phát động mạnh mẽ bằng những biểu dương ngọai giao và quân sự ngay trong ḷng đất nước vào mùa xuân năm 1950, mặc những nỗ lực tội nghiệp của đế quốc Pháp đang trên đà suy tàn. Và đến cuối năm, sau khi bị đánh bại nặng nề ở Cao Bằng, ngày 6 tháng 12, chính phủ Pháp bổ nhiệm tướng Jean De Lattre de Tassigny làm Tổng tư lệnh quân đội kiêm Cao uỷ Đông Dương để mong cứu văn t́nh h́nh càng ngày càng nguy ngập.

      Tháng 2 năm 1951, ông Hồ Chí Minh thành lập đảng Lao Động để thay thế cho đảng Cộng Sản đă được tuyên bố giải tán từ năm 1945, và thống nhất Mặt Trận Liên Hiệp nhằm lôi kéo những lực lượng chống Pháp không Cộng sản khác. Cũng trong mùa xuân năm đó, tôi được thuyên chuyển ra Đồng Hới giữ chức Chỉ huy trưởng lực lượng Việt Binh Đoàn tỉnh Quảng B́nh. Trước khi lên đường về nhiệm sở mới, trong văn pḥng ông Phan Văn Giáo và có mặt cả ông Nguyễn Ngọc Lễ, ông Giáo cho biết người Pháp đă phản đối kịch liệt quyết định bổ nhiệm tôi vào chức vụ quan trọng này v́ họ không tin tưởng vào lập trường chính trị của tôi. Trước khi ra về để lên đường, ông mới nói rơ ư định thật của ḿnh: "Moa giải thích với người Pháp về chuyện bổ nhiệm toa giữ chức chỉ huy quân sự rằng toa là người quê Quảng B́nh nên hiểu rơ dân tính và địa thế vùng đất chiến lược này. Moa muốn toa hợp tác chặt chẽ với bên dân sự là tỉnh trưởng Nguyễn Văn An ở ngoài đó. (Nguyễn Văn An tức Nguyễn Tấn Quê, mưu sĩ xuất sắc nhất của ông Diệm mà tôi đă đề cập đến trong chương hai, ông đổi tên từ sau khi ở tù Việt Minh ra. Từ đây tôi sẽ chỉ gọi tên Nguyễn Văn An để thay thế cho tên Nguyễn Tấn Quê). Hai anh em sẽ bắt tay nhau chặt chẽ để b́nh định tỉnh Quảng B́nh, v́ moa đang điều đ́nh với người Pháp để họ giao hoàn toàn quyền cai trị tỉnh này lại cho chính quyền Việt Nam. Quảng B́nh là nơi đứng đầu sóng ngọn gió đối đầu với Liên khu Tư của Việt Minh, ḿnh phải tỏ ra đủ khả năng đương đầu với Việt Minh trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự th́ ngựi Pháp mới dần dần trả đất đai quyền hành lại cho Đức Quốc trưởng".

      Tôi về lại Quảng B́nh, quê hương thân thương, và cùng với ông Nguyễn Văn An bắt tay liền việc xây dựng và phát triển sức mạnh của Việt Binh Đoàn như một sức mạnh vừa công vừa thủ, vừa có chức năng bảo vệ các cơ sở hành chánh và kinh tế, vừa có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị vơ trang của địch.

      Cũng trong năm1951 này, một hôm tôi nhận được điện tín mật của ông Nguyễn Đôn Duyến (tôi nhớ h́nh như lúc bấy giờ ông đang làm Tỉnh trưởng Thừa Thiên) chuyển lời của ông Ngô Đ́nh Cẩn nhờ chấm số tử vi của ông Diệm xem trong tương lai gần có biến chuyển ǵ không. Liên lạc thêm với ông Duyến, tôi mới biết cụ bà Ngô Đ́nh Khả mang trọng bệnh sắp mất và ông Cẩn đă nghĩ đến chuyện "hậu sự" cho bà như chuẩn bị quan tài, in thiếp báo tang và cũng đă đánh điện tín thông báo cho ông Diệm lúc bấy giờ đang ở Hoa Kỳ biết.

      Tại Đồng Hới có một thầy tử vi rất giỏi là thầy Dụ mà ông Cẩn, dù là một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo và vẫn thường chỉ trích những h́nh thức bói toán này, đă nhấn mạnh với ông Duyến nhờ nói với tôi là phải đến ông thầy này chứ không ai khác. Tôi đến gặp thầy Dụ và đưa tuổi ông Diệm mà tôi giả vờ bảo là tuổi anh cả của tôi để thử tài và nhờ đoán hộ một số. Bấm tay xong, thầy Dụ bảo tuổi Canh Tư này không phải là tuổi của anh tôi mà phải là tuổi của một nhân vật rất tiếng tăm nhưng cuộc đời th́ "thăng trầm vô độ". Thầy Dụ lần lượt kể ra những đặc biệt của số này: Một là anh em của người này phải có người làm tu sĩ cấp cao, hai là anh em phải có người chết bất đắc ḱ tử, ba là tuổi này đă có một đại hạn (mười năm) làm quan rất lớn, bốn là trong đại hạn hiện tại, tuổi này chỉ là bạch đinh và phải xa nhà, xa anh em vạn dặm trùng dương, năm là tuổi này về đường thê thiếp th́ vợ con vô thuỷ vô chung v́ cặp mắt có nốt ruồi thương phu trích lệ, và cuối cùng là đại hạn sắp tới (mười năm tiếp theo) công danh tột đỉnh, tiếng tăm vang lừng, nhưng sẽ bị thiên hạ nửa ghét nửa thương.

      Tôi ngắt lời thầy Dụ để hỏi :"Ai ở đời mà không có người thương người ghét?" thầy Dụ đồng ư nhưng ông cho là rất khó nói v́ thương ghét ở đây c̣n có ư là phe đảng, thuần phục và chống đối. (Sau này tôi mới hiểu ra được thời gian ông Diệm cầm quyền th́ đất nước bị chia đôi thành hai phe Quốc- Cộng). Điểm quan trọng mà ông Cẩn muốn biết là ông Diệm có về kịp để nh́n mặt mẹ trước khi tống táng cho mẹ không th́ thầy Dụ bảo rằng: "số này là số mẹ khóc con, nghĩa là mẹ sẽ chết sau con" (xin lưu ư là lúc bấy giờ h́nh như bà cụ đă gần 90 tuổi rồi). Ông Diệm là lănh tụ của tôi, là niềm hy vọng của tôi cho nên tôi hỏi thêm: "Nếu trong đại hạn tới, tuổi Canh Tư công danh tột bực, tiếng tăm vang khắp cơi, vậy th́ đường công danh của ông có kéo dài vài chục năm không?" Thầy tử vi tài ba này vội trả lời: "Số này v́ cung Phúc Đức kém lắm, số đại phát mà cũng đại sát! Công danh chỉ kéo dài mười năm mà thôi". Tôi gửi thư trả lời cho Ngô Đ́nh Cẩn về việc bà cụ chưa thể từ trần, Cẩn hết sức vui mừng . Lúc chia đôi đất nước, thầy Dụ di cư vào Huế ở phường Tây Lộc trong Thành Nội, được ông Cố vấn Chỉ đạo Chính trị miền Trung nhắn gởi lời khen. Người con trai thầy Dụ là một sĩ quan ngành Công Binh Tạo Tác được ông Cẩn giữ lại tại Huế, khỏi phải thuyên chuyển đi nơi khác, như là một sự đền ơn. (Việc này, nhiều người đồng hương Quảng B́nh c̣n nhớ rơ). Theo ông Cẩn th́ tất cả những điều thầy Dụ nói đều đúng hết. Số mệnh của ông Diệm như đă tŕnh bày trên đây, lúc bấy giờ tôi cũng kể cho các bạn tôi biết.

      Giờ đây nhớ lại ông Diệm sinh năm Canh Tư mà quên mất tháng, ngày, giờ âm lịch, những yếu tố cần thiết để có thể an sao hầu biết chi tiết về cả cuộc đời ông. Nhưng nh́n vào từng đại hạn để đối chiếu với thực tế th́ thấy rơ số của ông đúng là"thăng trầm vô độ" và "đại phát đại sát". Số của ông Diệm thuộc về Mộc tam cục, nghĩa là mỗi đại hạn bắt đầu bằng tuổi tận cùng có số 3. Ta thấy cuộc đời của ông Diệm cho đến 23 tuổi th́ hết vận thanh niên, học hành, sửa soạn cho sự trưởng thành. Từ 23 đến 33 tuổi (1923-1933) ông làm quan thăng chức như diều. Từ 33 đến 43 tuổi (1933-1943) là hạn xấu, mất hết quyền lộc nhưng chưa đến nỗi truân chuyên. Vận này, ông về nhà sống bên cạnh mẹ và em nhưng chưa đến nỗi tù tội, cô lập, ly cách. Nhưng hạn 44 đến 53 tuổi (1944- 1953) ông gặp Thiên la Địa vơng, bị Pháp bắt năm 44 tuổi, phải đi trốn, bị Việt Mnh bắt, bị giam cầm, khi được tự do cũng không làm nên được công nghiệp ǵ, phải xuất ngoại (ly cách). Từ 54 đến 63 tuổi (1954-1963), ông đến hạn phát giả như lôi, làm nên sự nghiệp (Tổng thống), tiếng tăm vang lừng như "sấm sét".

      Cuối năm 1963, ông bị sát hại như tiếng vang rền của sấm sét tan vào không gian, đúng với số "thăng trầm vô độ" và "đại phát đại sát", đồng thời cũng phù hợp với cung Phúc Đức rất xấu của ông. Năm 1951, cụ bà Ngô Đ́nh Khả chưa măn phần là một yếu tố may mắn cho cuộc đời chính trị của ông Diệm v́ nếu cụ mất, ông Diệm về chịu tang th́ thế nào cũng bị người Pháp gây phó khăn không cho đi nữa. Lư do không phải như ông đă kể lại với kư giả Robert Shaplen của tờ The New Yorker rằng ông bị Việt Minh xử tử h́nh vắng mặt, v́ "người Pháp không đủ nhân viên an ninh để bảo vệ nên cho phép ông xuất ngoại" [9].

      Lư do thật sự là trên đường xuất ngoại để vận động với lực lượng Thiên Chúa giáo quốc tế và Hoa kỳ, lúc ghé lại Hông Kông, ông đă đưa ra lời tuyên bố với báo chí có nội dung chống Quốc trưởng Bảo đại và chính sách của Pháp tại Việt Nam. Ông cũng tuyên bố "chính phủ tương lai phải là một chính phủ gồm toàn những nhân vật đang cầm súng kháng chiến" chứ không phải là hạng người mà ông cho là bù nh́n và tay sai của Pháp như Bảo Đại và nội các đương nhiệm.

      Chuyện ông Diệm xuất ngoại sẽ được tŕnh bày trong chương tiếp theo và bây giờ xin trở lại với thời gian tôi đang về Quảng B́nh làm việc.

      Một hôm, tôi vào văn pḥng Tỉnh trưởng th́ gặp ông Nguyễn Văn An đang đàm luận với một tu sĩ Phật giáo, ông bèn giới thiệu với tôi vị tăng sĩ này. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Thượng toạ Thích Trí Quang, vị tăng sĩ sau này, năm 1963, đă làm "rung động nước Mỹ" và lănh đạo lực lượng Phật giáo để cùng với quần chúng cả nước đương đầu với chế độ Ngô Đ́nh Diệm, Thượng toạ Trí Quang lúc bấy giờ c̣n trẻ, gương mặt xương, hai lưỡng quyền cao và cặp mắt rất sáng, tuy nhiên cách nói chuyện của ông rất nhỏ nhẹ mà rơ ràng.

      Tôi vào một lát th́ Thượng toạ Trí Quang ra về. Ông An cho tôi biết Thượng tọa trụ tŕ ở Huế nhưng được ông An đích thân mời ra Đồng Hới trong ư định nhờ Thượng toạ yểm trợ kế hoạch Việt nam hoá tỉnh Quảng B́nh mà ông Phan Văn Giáo đă uỷ thác cho chúng tôi. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn An kết luận rằng "quân sự th́ có anh, chính trị th́ có tôi, c̣n thế nhân dân th́ phải nhờ đến Thượng toạ". Hỏi thêm th́ ông An cho biết đă quen với Thượng toạ Trí Quang trong thời kỳ hoạt động chung cho Hội Chấn Hưng Phật Giáo miền Trung với Bác sĩ Lê Đ́nh Thám, một cư sĩ tiếng tăm của Phật giáo.

      Hai con người đa mưu túc trí đó đều mang chung hoài băo xây dựng một vùng "Ba Thục Việt Nam", không Việt Minh, không Pháp, để làm căn cứ địa cho một chiến lược lâu dài (chính v́ hoài băo lớn đó mà Nguyễn Văn An đă không trở lại hoạt động cho ông Diệm nữa như những đồng chí cũ, mà lại hợp tác với ông Phan Văn Giáo và Quốc trưởng Bảo Đại để lợi dụng thời cơ tính chuyện lâu dài). An dặn tôi phải giữ bí mật tối đa tung tích và hoạt động của Thượng toạ Trí Quang v́ người Pháp vẫn c̣n nghi ngờ Thượng toạ thân Việt Minh chống Pháp.

      Chương tŕnh xây dựng tỉnh Quảng B́nh đang phát triển tốt đẹp th́ ông Phan Văn Giáo bị tân Thủ tướng Trần Văn Hữu cất chức và bổ nhiệm ông Trần Văn Lư thay thế. Ông Lư bèn gửi văn thư yêu cầu tôi rời Đồng Hới tức tốc trở về Huế giữ chức Tham Mưu trưởng Việt Binh Đoàn thay thế cho Thiếu tá Trần Nguyên An, tay chân thân tín của ông Phan Văn Giáo. Đại uư Tôn Thất Xứng (hiện ở Canada) được cử thay thế tôi

      Rời Quảng B́nh mà ḷng tôi không khỏi bùi ngùi và luyến tiếc. Không những bùi ngùi v́ phải từ biệt một đồng chí thân thiết và luyến tiếc v́ công tác b́nh định đang trên đà thắng lợi mà c̣n v́ trong mấy tháng ở đó, với tư cách chỉ huy trưởng quân sự, tôi đă được dịp thăm kỹ và thăm hết vùng đất quê hương thân yêu của tôi mà thời niên thiếu tôi đă không có cơ hội thực hiện được. Tôi cũng đă đến thăm Diên Điền, quê hương của Thượng toạ Trí Quang, chỉ cách tỉnh lỵ Đồng Hới có ba cây số, cũng như đến làng An Xá và làng Đại Phong, quê hương của các ông Vơ Nguyên Giáp và Ngô Đ́nh Diệm. Chính nhờ những dịp gặp gỡ với người trong làng, những dịp tiếp xúc thân t́nh với các bô lăo kỳ cựu trong xóm mà tôi t́m hiểu được một số dữ kiện về xuất xứ, gịng họ của các ông Diệm, ông Giáp và Thượng toạ Trí Quang (những dữ kiện mà những sách báo và tài liệu v́ muốn suy tôn và huyền thoại hoá các nhân vật này đă không muốn đề cập đến). Thật ra, lúc bấy giờ, sự t́m hiểu này là để thoả măn óc ṭ ṃ về các nhân vật cùng quê đang có liên hệ đến công việc của ḿnh chứ không phải v́ sau này ba người đồng hương kia trở thành ba đối thủ lợi hại mà tên tuổi vang lừng khắp bốn bể năm châu, mà những quyết định nhiều khi làm đảo điên vận mệnh đất nước.

      Với nhiệm vụ của một Tham Mưu trưởng trực thuộc Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ trong hệ thống quân giai và thủ hiến Trần Văn Lư trong hệ thống hành chánh, tôi được giao hai công tác quan trọng và khẩn cấp: Thứ nhất là cải tổ Việt Binh Đoàn trở thành quân đội chính quy, thống nhất vào quân đội quốc gia, phụ thuộc vào Bộ Tổng Tham Mưu Trung Ương Sài G̣n. Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam này vừa được thành lập với tất cả những sơ hở và yếu kém của một định chế mới chào đời trong những điều kiện khó khăn của những bước đầu chập chững (Ông Nguyễn Văn Hinh, nguyên Trung tá Không quân của quân đội Pháp được đặc cách phong Thiếu tướng thuyên chuyển qua làm Tổng Tham Mưu trưởng). Sự thành lập quân đội quốc gia nằm trong chủ trương chung của Quốc trưởng Bảo Đại và Tướng De Lattre và phù hợp với điều kiện tiên quyết của Hoa Kỳ, chỉ muốn viện trợ quân sự để thành lập một quân đội chính quy cho quốc gia Việt Nam (từ ngày 9 tháng 3 năm 1950, ông Acheson đă yêu cầu Tổng thống Truman chuẩn chi 15 triệu Mỹ kim viện trợ cho người Pháp tại Đông Dương và 6 tháng sau "The Voice Of America" bắt đầu có phần tin tức ngữ Việt ) [10]. Việc này là nhờ uy tín của Quốc trưởng Bảo Đại.

      Công việc khẩn cấp thứ hai của tôi là thành lập một số tiểu đoàn tác chiến chính quy mà quân nhân gồm toàn thanh niên Công giáo động viên từ vùng Phát Diệm và các giáo khu miền Bắc để thành lập một sư đoàn trong kế hoạch phản công tiến chiếm tỉnh Thanh Hoá. Những thanh niên này sẽ được bí mật không vận về Huế để được huấn luyện đặc biệt và được tổ chức thành các đơn vị tác chiến tinh nhuệ, rồi lại đưa về Phát Diệm để thực hiện kế hoạch tái chiếm Thanh Hoá. Đây là một chiến dịch tối mật do giám mục Lê Hữu Từ và thủ hiến Trần Văn Lư đề nghị và được Tướng De Lattre và Thủ tướng Trần Văn Hữu đồng ư thực hiện.

      Tôi mới thành lập được một tiểu đoàn mang danh số "Tiểu đoàn 27" và sắp măn khoá huấn luyện tại Quảng Trị th́ tại Sài G̣n, tháng 8 năm 1952, ông Trần Văn Hữu từ chức và ông Nguyễn Văn Tâm được vua Bảo Đại uỷ nhiệm lên thay thế. V́ là một bạn thân của cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu, ông Trần Văn Lư bị giải nhiệm chức Thủ hiến Trung phần.

      Ông Nguyễn Văn Tâm là thân phụ của tướng Nguyễn Văn Hinh, có hỗn danh "Cọp Cai Lậy", là một người thân Pháp và nổi tiếng rất chống Cộng tại miền Nam. Nội các do ông thành lập, trừ ông Vơ Hồng Khanh lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng làm Bộ trưởng Thanh Niên và Thể Thao, số c̣n lại gồm toàn những nhân vật không được quần chúng tín nhiệm v́ xu hướng thân Tây quá rơ ràng. Vị lănh sự Mỹ tại Hà Nội đă phúc tŕnh cho Hoa Thịnh Đốn rằng nội các này sẽ trở thành "một đối tượng tuyên truyền cho Việt Minh" và chỉ là sự "trở lại khốn cùng của tiền Mỹ máu Pháp"[11].

      Cả ông Hinh lẫn Trung tá Trần Văn Đôn (lúc bấy giờ là Giám đốc An Ninh Quân đội) đều nắm vững hồ sơ cá nhân của tôi và biết tôi là phần tử chống Pháp và hoạt động cho ông Diệm nên quyết định tê liệt hoá hoạt động của tôi bằng cách thuyên chuyển tôi ra Bắc Việt, trao quyền Tham Mưu Trưởng Đệ Nhị Quân Khu tại Huế lại cho Thiếu tá Trương Văn Xương, một sĩ quan tay sai của Pháp và là nhân viên thân tín của Tướng Hinh.

      Ngày ra đi, sân bay Phú Bài nắng chói chang, vợ tôi và sáu đứa con nhỏ nhờ người đồng chí của tôi là ông Thái Văn Châu chở lên phi trường để tiễn chồng, tiễn cha đi về miền Bắc khói lửa ngút ngàn. Tôi c̣n nhớ hai câu thơ tả cảnh biệt ly năo nuột đó mà tôi đă viết gởi về cho các con tôi một năm sau:

      ****************** Mi con tràn lệ cha rơi lệ
      ************** Mà lệ khôn cầm cảnh chia tay...

      Tính sổ lại cuộc đời trong tám năm truân chuyên đó, tôi đă vào tù ra khám nhiều lần (của cả Tây lẫn Việt Minh), tôi đă tổ chức nhiều cơ cấu và đă phát động nhiều chiến dịch có tầm ảnh hưởng mạnh và dài, tôi cũng đă hoặc chỉ huy trực tiếp hoặc làm việc với những nhân vật mà quyết định của họ (lúc đó hay sau này) liên hệ đến vận mệnh quốc gia; và trên hết, tôi đă quyết tâm keo sơn với một lănh tụ duy nhất, cho một tổ chức duy nhất trong ánh sáng chỉ đường rực rỡ của lư tưởng đời ḿnh là độc lập cho nước nhà. Độc lập, ôi hai tiếng huyền diệu của thập niên 40!

      Nhưng những lên và xuống đó của tám năm trôi nổi trong một đời người chỉ là những nổi trôi bé nhỏ và khiêm nhường khi so sánh với những biến chuyển vĩ đại của đất nước trong cơn chuyển ḿnh đau đớn. Có hàng vạn thanh niên như tôi ở cả hai phía, đă đổ máu cho ḷng đất mẹ thêm màu mỡ, đă phơi xương cho hồn dân tộc thêm kiêu hùng. Tôi hănh diện được là giọt nước, hiện diện đầy đủ và hành xử đúng đắn, trong ḍng sông miên man của lịch sử Việt Nam thuộc giai đoạn đó.

      Cho nên khi giă từ miền Trung thân thương để có mặt tại chiến trường Việt Bắc khói lửa, tuy tim th́ như muối xát mà trí th́ mở rộng để đón chờ những ngày gian nguy hơn sắp bắt đầu.


      [1] Vơ Nguyên Giáp, Những Chặng Đường Lịch Sử, tr.319.
      [2] Bernard Fall, Le Viet Minh, tr.183-185
      [3] Bernard Fall, The Two Vietnam, tr.236.
      [4] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 10 và 11.
      [5] Phạm Kim Vinh, Những Bí Ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam Cọng Ḥa, tr. 74.
      [6] Trích lời tuyên bố thoái vị của vua Bảo Đại đọc trước lầu Ngọ Môn ngày 25-8-45 khi trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Mặt Trận Việt Minh. Tư liệu của tác giả.
      [7] Bảo Đại, Le Dragon d Annam, tr. 247.
      [8] Trong lá thư gởi tờ Sun Valley đề ngày 4/5/87 cho một số báo chí, ông Nguyễn Trân viết rằng* “Trước đó mấy tháng một tên Nhật Bản tới phủ hỏi tôi về việc trồng bông vải, tôi trả lời đất Tỉnh Gia phần nhiều là đất cát, rau cải cũng không trồng được mà ăn, nên không trồng bông vải được. Không biết tên thông dịch viên Việt Nam dịch thế nào mà tên Nhật Bản chồm lên để đánh tôi. Tôi tránh được, nhưng nghĩ thế khó làm việc, th́ bệnh của nhà tôi đă cho tôi cái dịp xin nghỉ dài hạn 6 tháng”.
      Đoạn viết này nhằm giải thích và phản bác việc tôi cho rằng ông Trân tham nhũng nên bị hạ hồi dân tịch. Tuy nhiên chúng tôi đă được cụ Phạm Đ́nh Nghị, cựu Tỉnh trưởng Quảng Ngăi và là một đảng viên cao cấp Quốc Dân Đảng, hiện sống tại El Toro, California, xác nhận điều tôi viết đúng. Cụ Nghị học cùng trường với ông Trân và theo dơi kỹ hoạn lộ của ông Trân sau này. Do đó, dữ kiện trên vẫn được giữ nguyên trong lần tái bản nầy.
      Trong tác phẩm "Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng" (1992, NXB Văn Nghệ), tác giả Hồ Sĩ Khuê ở Pháp, một người đă từng làm việc ở mức độ chiến lược với hai ông Diệm Nhu, nhân nhắc đến thời kỳ ông Trân làm Tỉnh trưởng tại Định Tường cũng đă xác nhận ông Trân bị "Phủ Toàn Quyền cất chức v́ hối lộ".
      Ngoài ra, trên báo Tia Sáng số 18, xuất bản tại Houston ngày 20-6-87, có bài của ông Trương Thiện (bút hiệu của một Thiếu tá không quân ngày xưa làm việc tại Nha Trang và hiện đang ở Long Beach, California) cũng đă tố cáo ông Trân tham nhũng như sau:

      "Thưa cụ Nguyễn Trân,

      Chỉ v́ một số đố kỵ, ích kỷ, cố bào chữa cho lỗi lầm cá nhân ḿnh mà cụ đă đi vào cái lầm lẫn quá lớn lao đối với tuổi đời đang chồng chất trên bản thân. Theo tôi biết, Tướng Đỗ Mậu c̣n thiếu sót khi viết về màn ly kỳ nhất lúc Tỉnh Trưởng Nguyễn Trân tham nhũng ở Nha Trang độ nào đă bị bác sĩ Nguyễn Thạch (anh em cột chèo với cụ) xách súng rượt, cụ phải chui vào cầu tiêu (W.C.) trốn, lúc bác sĩ Thạch dí súng vào đầu, cụ van lạy để được tha tội! Sau đó bác sĩ Thạch vào khám Chí Hoà một thời gian chỉ v́ chống tham nhũng Nguyễn Trân và gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm".

      Ngoài ra, trong tác phẩm "Công và Tội" (trang 117), ông Nguyễn Trân kể lại rằng trước khi rời Nha Trang, ông "...có kư một chi phiếu hai triệu gửi nơi Linh mục Cần, căn dặn chỉ nên đưa cho người nào có chữ kư của tôi mà thôi để đưa lại cho anh em kháng chiến. Không biết sao Đỗ Mậu biết được việc đó, đến năn nỉ để nhận nói là nuôi quân...".
      Đây là một sự bịa đặt thiếu khôn ngoan: Thứ nhất, một số tiền rất lớn của chính phủ, làm sao linh mục Cần chỉ v́ một lời "năn nỉ" mà lại trao cho tôi. Thứ hai,dù có trao cho tôi th́ không có chữ kư của ông Trân làm sao Ty Ngân Khố dám phát tiền ra. Thứ ba, sau đó khi Thủ tướng Diệm cho điều tra vụ này th́ chỉ thẩm vấn và định truy tố ông Nguyễn Trân ra toà án mà không thẩm vấn tôi, lại không thấy lúc đó ông Trân khai vụ tôi "năn nỉ" linh mục Cần. Ngược lại, vào đúng thời điểm này, tôi lại được thăng chức Trung tá. Số tiền hai triệu bạc đó, theo tôi, chỉ do một trong hai người thủ đắc: hoặc linh mục Cần (mà tôi thực sự không biết là ai) hoặc chính ông Nguyễn Trân.
      [9] Robert Shaplen, The Lost Revolution, tr. 109-112.
      [10] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 177.
      [11] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 177.

    NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
    ********************** **** CỦA THỰC DÂN PHÁP
    *
    Cho đến đầu Thu năm 1952, tổng số quân nhân Pháp bị tử trận, thương* vong và mất tích tại Đông Dương lên đến hơn 90.000 người. Chi phí cho chiến trường này bằng hai lần số kinh viện của Hoa Kỳ trong khuôn khổ chương tŕnh viện trợ tái thiết Marshall. Tại quốc hội Pháp, từ ngữ “la sale guerre” (cuộc chiến tranh bẩn thỉu) bắt đầu được xử dụng trong các cuộc tranh luận giữa các phe chủ chiến và chủ ḥa.
    Trong khi đó th́ tại miền Bắc Việt Nam, tướng Vơ Nguyên Giáp đánh bật các đơn vị thiện chiến của tướng Raoul Salan ra khỏi cứ điểm Ḥa B́nh và bắt đầu tung ba sư đoàn chiếm một ngôi làng bé nhỏ tên là Mường Thanh ở biên giới Việt - Lào trong một vùng ḷng chảo bề dài 18 cây số, bề ngang 8 cây số có tên gọi là Điện Biên Phủ.
    Mấy tuần lễ trước khi Ḥa B́nh thất thủ, tôi bị tướng Nguyễn Văn Hinh thuyên chuyển ra Bắc. Hồi bấy giờ, “ra Bắc” được xem như là một biện pháp chế tài đối với những sĩ quan ở miền Trung* và miền Nam, v́ t́nh h́nh sôi động của chiến sự và v́ những tổn thất nặng nề về phía những quân nhân Việt Nam. Hầu hết những sĩ quan Việt Nam trung cấp bị đổi ra Bắc đều ít nhiều có hồ sơ chống Pháp, hoặc chống Bộ Tổng Tham mưu của tướng Nguyễn Văn Hinh.
    Tôi theo học khóa Tiểu Đoàn trưởng và khóa Liên Đoàn Lưu Động (để được cập nhật hóa với chiến trường Việt Bắc) do Đại tá Vanuxem, một trong những sĩ quan cao cấp xuất sắc nhất của Pháp lúc bấy giờ điều hành. Cùng khóa với tôi có Trung úy Nguyễn Văn Thiệu.
    Măn khóa, Thiệu, có thêm Trung úy Cao Văn Viên và tôi, được lệnh thuyên chuyển ra mặt trận Hưng Yên, tŕnh diện với Trung tá Dương Quư Phan, một sĩ quan nổi tiếng thân Pháp, tay chân của tướng Cogny. Tư Lệnh miền Đông Bắc Việt đang đóng ở Hải Dương. Mặt trận Hưng Yên vừa được bộ tư lệnh Pháp trao trả phần trách nhiệm lại cho quân đội quốc gia Việt Nam và đang bị những áp lực nặng nề. Bộ Tổng Tham mưu Sài g̣n chỉ định tôi làm Tham mưu trưởng, Cao Văn Viên làm trưởng pḥng Nh́ và Nguyễn Văn Thiệu làm trưởng pḥng Ba. C̣n pḥng Tư vẫn do một Đại úy người Pháp phụ trách. Bộ chỉ huy và trung tâm hành quân khu chiến được đặt tại ngôi giáo đường to lớn rộng răi của tỉnh lỵ Hưng Yên mà linh mục bề trên đă vui ḷng cho quân đội Pháp xử dụng từ trước.
    Ba anh em chúng tôi được cấp phát chung một căn pḥng nhỏ vừa đủ để ba cái ghế bố loại nhà binh và hàng ngày ăn cơm tại câu lạc bộ sĩ quan. Buổi tối, lúc trở lại pḥng để chuẩn bị đi ngủ, Thiệu và tôi thường phân tích và luận bàn về t́nh h́nh chính trị và chiến sự đến khuya. Riêng Viên vốn tính ít nói nên chỉ thỉnh thoảng góp ư kiến mà thôi.
    Tháng 4 năm 1953, tuy t́nh h́nh chiến sự ở Lào trở nên quyết liệt hơn khi Việt Minh chiếm Cánh Đồng Chum và tiến quân về Luang Prabang, thủ đô Hoàng gia Lào, nhưng không v́ thế mà áp lực quân sự giảm bớt tại chiến trường Bắc Việt. Tháng 5 năm đó, tướng Henri Navarre thay thế tướng Salan nhưng chỉ làm cho quân Pháp thêm lúng túng v́ quan điểm chiến lược thiếu thực tế của vị tướng lạnh lùng và cô đơn đă từng tham gia hai trận thế chiến này. Quân đội Pháp hoàn toàn bị động ngay cả ở thế pḥng thủ. Hết căn cứ này đến căn cứ khác lần lượt bị mất vào tay địch hoặc bị rút bỏ, chỉ c̣n giữ lại một ít địa bàn ở các giáo phận Công giáo như Bùi Chu, Phát Diệm, Kẻ Sặt…và các tỉnh chung quanh Hà Nội và Hải Pḥng.
    Trước t́nh thế bi quan đó, một hôm Nguyễn Văn Thiệu đă hỏi tôi: “Theo anh th́ cuộc chiến tranh hiện tại sẽ đi về đâu và tương lai Việt Nam sẽ như thế nào?” Đó là câu hỏi có tính toàn bộ và lâu dài nhưng tôi vẫn xác quyết với Thiệu và Viên là “thế nào Pháp cũng bị bại trận và t́m giải pháp thỏa hiệp với Việt Minh, đất nước sẽ bị chia đôi nhưng không biết chia ở khu vực nào. Hoa kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam để chận đứng mưu đồ bành trướng của Cộng Sản ở Đông Nam Á và Hoa Kỳ sẽ đưa ông Diệm về nước nắm chánh quyền”. Sau này tại Sài G̣n, mỗi lần gặp tôi, Thiệu không quên nhắc lại chuyện cũ và công nhận tôi nh́n xa thấy rộng.
    Sống tại Bắc Việt và đặc biệt tại Hưng Yên, tôi ở vào t́nh trạng của một sĩ quan đang thọ phạt dưới h́nh thức của sự lưu đày. Những đêm trăng lạnh lùng của xứ Bắc, với cái tâm trạng “cử đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương”, tôi nhớ về quê hương miền Trung, nơi đang có gia đ́nh, bạn bè và tổ chức. Tôi hồi tưởng đến những công tác đang dang dở và những đồng chí đang lưu lạc với rất nhiều nhớ thương. Nỗi niềm đó cộng với ư thức chính trị, tinh thần dân tộc cực đoan un đúc bởi mười năm hoạt động, làm tôi không thiết tha một chút nào với công việc hiện tại, một công việc tuy gọi là chống Cộng sản nhưng trước hết chỉ làm lợi cho người Pháp trong ư đồ bám víu lấy mảnh đất thuộc địa mà không thực tâm trao trả độc lập lại cho người Việt Nam, một nền độc lập đă biến thành ư thức chỉ đạo của dân tộc, mà v́ nó và do nó mà trước tôi đă tồn tại đến ngày nay. Cho nên trong suốt thời gian ở tại Hưng Yên, tôi đă cố t́nh không để một chút nhiệt tâm nào vào công vụ.
    Thái độ đó lại được củng cố vững chắc hơn vào ngày 27 tháng 5 năm 1953, khi tại Sài G̣n, hội nghị Đoàn Kết đ̣i hỏi “độc lập ḥa b́nh cho Việt Nam” do các đoàn thể chính trị của các giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, các đảng phái chính trị như Đại Việt, Việt Quốc và các nhân vật tên tuổi như Trần Trọng Kim, Trần Văn Ân, Nguyễn Xuân Chữ, Ngô Đ́nh Nhu,…tổ chức đă phổ biến lập trường quyết liệt của nhân dân Việt Nam. Do đó, tôi thường t́m cơ hội lên Hà Nội liên lạc với một số đồng chí và thân hữu như ông Mai Văn Toan (sau này làm Dân biểu dưới chế độ ông Diệm), ông Trần Trung Dung (sau này giữ chức Phụ tá Bộ trưởng Quốc Pḥng thời Đệ Nhất Cộng Ḥa)…để theo dơi hoạt động của ông Diệm tại Hải ngoại và t́m hiểu những biến chuyển mới của t́nh h́nh chính trị.
    Mỗi lần đi Hà Nội về, tôi lại mang theo một số báo Xă Hội (do ông Nhu chủ trương) để phổ biến cho một số sĩ quan và nhân sĩ tại Hưng Yên trong mục đích xây dựng hậu thuẫn cho chủ trương chính trị của ông Diệm. Trong những dịp đi hành quân hay thanh tra các đơn vị, tôi cũng thường tŕnh bày cho các sĩ quan biết t́nh cảnh trôi nổi hiểm nghèo thật sự của đất nước Việt Nam trong cái thế tương tranh Pháp - Cộng và thuyết phục họ về con đường nào mà một người Việt Nam thực sự yêu nước, đặc biệt nếu người Việt Nam đó lại là một chiến sĩ cầm súng, nên chọn lựa.
    Nhưng rồi những hoạt động “phi quân sự” đó của tôi dần dần bị báo cáo lên cho Bộ chỉ huy rồi đến tai Trung tá Dương Quư Phan, nên tôi bị tướng Cogny phạt 60 ngày trọng cấm, hạ tầng công tác và thuyên chuyển về Liên Đoàn Lưu Động số 3, đang hành quân tại vùng Ninh B́nh do Thiếu tá Phạm Văn Đổng (hiện ở Mỹ) chỉ huy. Lư do bị phạt ghi trong hồ sơ quân vụ c̣n có thêm tội “vô lễ với cấp chỉ huy” v́ đă hai lần tôi công khai chỉ trích Phan trước mặt đông người về tác phong “bồi Tây” của y khi mỗi buổi sáng, nếu gặp các hạ sĩ quan Pháp th́ Phan ân cần chào hỏi “Bonjour mon caporal” c̣n nếu gặp sĩ quan Việt Nam th́ Phan chỉ chào lấy lệ và c̣n có ư khinh bỉ.
    Trong bữa ăn cuối cùng tại câu lạc bộ sĩ quan để tiễn tôi lên đường về nhiệm sở mới, Trung úy Nguyễn Văn Thiệu mở một chai champagne mời tôi và nói mấy lời tiễn biệt rất cảm động. Dương Quư Phan nổi giận, nạt ông Thiệu tại sao lại dám ca ngợi một sĩ quan đang mang trọng tội trước mặt y. Cử chỉ vừa ưu ái, vừa khí phách của ông Thiệu càng làm cho tôi quư mến ông ta hơn. Trớ trêu thay, trong cuộc đời binh nghiệp và chính trị của ông Thiệu và tôi, và qua những biến cố quan trọng của quốc gia, chúng tôi c̣n nhiều duyên nợ cho đến năm 1965, 1966, khi hai ông Thiệu và Kỳ lănh đạo quốc gia, bắt tôi giam lỏng hai lần ở Pleiku và Nha Trang gần cả năm trời.
    Cũng mang cái tâm trạng bất hợp tác như ở Hưng Yên, tôi về Nam Định và làm việc tại Bộ Chỉ huy Liên đoàn 3 Lưu Động. Nhiều khi ngay cả trong giờ công vụ tôi vẫn viết bài hay sáng tác thơ gởi về Sài g̣n cho ông Nhu hoặc ông Đỗ La Lam (hiện ở Mỹ) đăng vào báo Xă Hội. Đặc biệt trong hai bài thơ Nhớ con và Nhớ Huế và trong tùy bút Tâm sự ḍng sông Hương, tôi đă kư thác nỗi ḷng của ḿnh về nỗi hoài vọng ngày ông Diệm và tổ chức thành công đem lại độc lập và tự do cho đất nước để cho những người Việt Nam b́nh thường như tôi khỏi c̣n phải đấu tranh trong cái thế hiểm nghèo giữa Pháp và Việt Minh. Tâm sự này, sau ngày chia cắt đất nước, tại miền Nam, tôi t́m lại được một cách rất khoái cảm trong kịch phẩm Thành Cát Tư Hăn của nhà văn Vũ Khắc Khoan (thuộc nhóm Quan Điểm, gồm những văn nghệ sĩ miền Bắc đă từng theo kháng chiến rồi về Tề, hoặc đă ở lại Hà Nội nhưng bất hợp tác với Pháp) khi ông cho nhân vật Sơn Ca của ông vừa không cộng tác với chính quyền Thành Cát Tư Hăn vừa không vào bưng theo “kháng chiến” Cổ Giă Trường, mà lại chọc mù đôi mắt đi về hướng mặt trời mọc để kết thúc kịch phẩm này.
    Một phần có lẽ v́ những bài thơ đó, và phần khác có lẽ v́ ông Nhu đang muốn tập hợp lại cán bộ đề tụ lực chuẩn bị ngày ông Diệm về nước, nên ông đă vận động với hai người bạn của ông là Đại tá Trần Văn Đôn (vừa thăng chức và vẫn c̣n chỉ huy An Ninh Quân Đội) và Đại tá Trần Văn Minh (Tham Mưu trưởng của tướng Hinh để tôi được thuyên chuyển về Nha Trang, là địa phương chiến lược nằm gần giữa Huế (căn cứ địa của tổ chức) và Sài G̣n (chiến trường của tổ chức).
    Rời miền Bắc căng thẳng của một Hà Nội đang bắt đầu lên cơn sốt, tôi bay về Nha Trang với tư cách Đại diện Đặc biệt của Bộ Tư Lệnh Quân khu Hai với nhiệm vụ cấp thiết thành lập 9 tiểu đoàn khinh quân theo kế hoạch tổ chức mới của Bộ Tham mưu Hỗn hợp Pháp-Việt và của Tướng O’Daniel, trưởng phải bộ quân sự Mỹ ở Sài G̣n. Sau khi đă huy động thanh niên của ba tỉnh Khánh Ḥa, Ninh Thuận và B́nh Thuận trong bốn tháng, tất cả 9 tiểu đoàn đều được thành lập và đều đang trong ṿng huấn luyện ở quân trường th́ tôi được thuyên chuyển về chỉ huy khu chiến Phan Rang vừa được Pháp trao lại cho Việt Nam.
    Khu chiến Phan Rang gồm lănh thổ Ninh Thuận và quận Ḥa Đa của tỉnh B́nh Thuận, quân số gồm hai tiểu đoàn bộ binh và độ 20 đại đội phụ lực binh (supplétif) và một đơn vị thiết giáp. Về đây tôi gặp lại người bạn tri kỷ làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận là ông Thái Văn Kiểm. Ông là một nhà văn hóa và cũng là một nhà viết sử tiếng tăm tại miền Trung, từng làm việc lâu năm ở quê hương Quảng B́nh của tôi, biết nhiều về xuất xứ ḍng họ của các ông Ngô Đ́nh Diệm và Vơ Nguyên Giáp. Tôi được hân hạnh quen biết ông Thái văn Kiểm từ ngày ông làm giám đốc Nha Thông tin Trung Việt vào khoảng năm 1948-1949. Thế rồi khi ông làm Tỉnh trưởng Khánh Ḥa, tôi được thuyên chuyển về đó, nay ông về trấn nhậm Phan Rang, không ngờ tôi lại gặp ông để hai anh em, kẻ bên văn người bên vơ, cùng chung lo dân sinh, dân kế cho đồng bào Ninh Thuận. Khác với những Tỉnh trưởng thời Pháp hay thời Việt Nam Cọng Ḥa sau này, dùng luật lệ, h́nh phạt để trị dân, nhà học giả họ Thái chỉ lo “văn dĩ tải đạo”, lấy nhân trị làm nguyên tắc trị dân. Ông ít khi ngồi ở văn pḥng dinh Tỉnh trưởng mà thường lê gót khắp các ngơ xóm làng để thăm dân cho biết sự t́nh. Đi đến đâu ông cũng đem theo những lời giảng dạy của thánh hiền, những chuyện xưa tích cũ để giáo hóa, d́u dắt dân quê về mọi mặt: tôn giáo, chính trị, xă hội, kinh tế…Sau này, tôi c̣n nhớ vào khoảng tháng 4 năm 1954, ông Ngô Đ́nh Cẩn vận động với các tỉnh, thị trưởng miền Trung lập kiến nghị gởi lên Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp yêu cầu Bảo Đại chấp thuận cho ông Diệm làm Thủ tướng, ông Kiểm (cũng như ông Lê Tá, thị trưởng Đà Nẵng, hiện ở Mỹ) đă vui ḷng kư tên vào thỉnh nguyện thư dù ông Kiểm không thuộc phe đảng chính trị nào. Nhưng sau khi ông Diệm về nước cầm quyền th́ ông Kiểm bị mất chức ngay. Ông được dân chúng Ninh Thuận vô cùng ngưỡng mộ, nghe nói ngày ông từ giă Phan Rang ra đi, đă có nhiều người không cầm được nước mắt trong buổi tiễn đưa.
    Ninh Thuận và Ḥa Đa là nơi dân chúng hiền ḥa, b́nh dị, lực lượng của Việt Minh tại đây không lấy ǵ làm mạnh. Chiến khu Ba Râu của họ (mà khi c̣n là tiểu đoàn trưởng của Việt Minh, tôi đă từng đóng quân tại đây như đă đề cập trong chương III) bị tôi phá hủy các cơ sở dưỡng binh và các kho tồn trữ nên trong thời gian tôi làm việc tại Phan Rang, t́nh h́nh an ninh tương đối khả quan, nhân dân làm ăn đi lại như thuở thái b́nh.
    Tháng 7 năm 1953, quốc hội Pháp làm áp lực yêu cầu chính phủ Pháp phải bắt đầu t́m biện pháp thương thảo để giải quyết chiến tranh Đông Dương. Ngày 9 tháng 11, Hoàng thân* Norodom Sihanouk nắm lấy quyền chỉ huy quân đội Hoàng gia và tuyên bố Cao Miên độc lập. Giáng sinh năm đó, ông Hồ Chí Minh tiết lộ với một kư giả Thụy Điển rằng Việt Nam sẵn sàng thảo luận về những đề nghị ḥa b́nh của chính quyền Pháp và chỉ một tháng sau, ngày 25 tháng Giêng năm 1954, các Ngoại trưởng của Hoa Kỳ, Nga, Anh và Pháp họp tại Tây Bá Linh quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế về Triều Tiên và Đông Dương vào tháng Tư cùng năm.
    Trong khi đó th́ cũng vào đầu năm 1954, tướng Navarre, Tổng Tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, phát động chiến dịch Atlante để tiến chiếm B́nh Định và Phú Yên, và tạo áp lực nhằm xé nhỏ quân của Vơ Nguyên Giáp vốn đang nỗ lực dồn hết chủ lực quân về mặt trận Điện Biên Phủ. Dự đoán rằng ông Giáp cũng sẽ áp dụng cùng sách lược, nghĩa là mở nhiều trận đánh lớn khác tại Trung Việt để cầm chân và làm tê liệt khả năng di động của các đơn vị địch, tôi bèn thảo một bản nhận định t́nh h́nh và một tờ tŕnh về cho Bộ Tư lệnh Pháp-Việt của Phân khu Duyên Hải tại Nha Trang để yêu cầu có kế hoạch đối phó và đồng thời xin tăng cường phương tiện pḥng thủ cho khu chiến Phan Rang vốn rất thiếu thốn và yếu kém. Tôi c̣n dự đoán kế hoạch phản công của Việt Minh trong địa phương trách nhiệm của tôi với những chi tiết về từng đồn một, và sự thất bại gần như đương nhiên của các đơn vị dưới quyền nếu không được thỏa măn nhu cầu tăng viện.
    Nhưng Bộ Tư lệnh Nha Trang, mà về phía Việt Nam do Đại tá Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy, lại cho là tôi hốt hoảng, báo cáo láo, bèn gửi văn thư khiển trách, kèm theo lệnh thuyên chuyển tôi ra Hà Nội học lớp Trung Đoàn trưởng, một quyết định mà tôi cho là phát xuất từ những mâu thuẫn chính trị hơn là từ nhu cầu quân sự lúc bấy giờ. Nhưng cũng nhờ theo học lớp Trung Đoàn trưởng này mà tôi có thêm hai người bạn mới đồng khóa: Thiếu tá Lam Sơn và Đại úy Nguyễn Chánh Thi. Người thay thế tôi tại Phan Rang là Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu, vừa ở Bắc về, với lư do Thiệu là người Ninh Thuận sẽ am hiểu và nắm vững t́nh h́nh hơn tôi.
    Sau đó, quả nhiên đúng như bản nhận định mà tôi đă chi tiết rơ ràng, trong lúc tôi ở Hà Nội th́ Việt Minh tổng phản công khắp các tỉnh miền Trung, đặc biệt tại các tỉnh duyên hải. Tại Phú Yên và B́nh Định, nhiều tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn, phải rút về lập ṿng đai an toàn để chỉ c̣n bảo vệ các tỉnh lỵ mà thôi. Tại Quảng Nam, Việt Minh tấn công Hội An và chiếm giữ một đêm, khi rút đi, họ phá hủy một số công sự và bắt mang theo một số sĩ quan và những dụng cụ truyền tin. Riêng tại Ninh Thuận của ông Thiệu, Việt Minh tiến chiếm và tiêu hủy các căn cứ ngoại vi mà tôi đă xây dựng để che chở mặt Tây Nam của Bộ Chỉ huy Phan Rang. Trong một trận đánh ác liệt gần Tháp Chàm, ông Thiệu đích thân dẫn một đơn vị đi tiếp cứu bị Việt Minh phục kích và theo lời một số người kể lại th́ ông Thiệu đă phải “ôm quần mà chạy”.
    Sau những thất baị liên tiếp, ông Thiệu bị mất chức chỉ huy, đổi về Huế làm việc tại Bộ Tham mưu Quân khu Hai, dưới quyền Đại tá Trương Văn Xương, một cộng sự viên thân tín của tướng Hinh, giao quyền chỉ huy khu chiến Ninh Thuận lại cho ông Thái Quang Hoàng vừa được thăng Thiếu tá. Thật ra không phải ông Thiệu kém khả năng chỉ huy hay thiếu kinh nghiệm chiến trường. Ông Thiệu là người khôn ngoan, tính toán rất kỹ lưỡng, và hành động rất cẩn mật, nhưng v́ binh sĩ tại khu chiến Ninh Thuận đại đa số là dân địa phương hiền lành, không có tinh thần chiến đấu cao, gặp địch phản công mạnh là sợ hăi thối lui. Họ là những nông dân của xứ Chàm cỏ khô lá úa, sau giờ đồng áng th́ thích rươu chè, chọi gà và nhất là cải lương, nên thiếu sự gan dạ và tinh thần kỷ luật phải có của quân nhân tác chiến giỏi. Lúc tôi c̣n là Chỉ huy trưởng tại Phan Rang, cứ mỗi lần có một đoàn cải lương từ Sài G̣n ra lưu diễn tại tỉnh lỵ là một lần tôi phải ban hành t́nh trạng báo động với nhiều lo lắng, v́ binh sĩ tại các căn cứ ngoại vi thành phố đều muốn bỏ đồn về xem hát, bất chấp những biện pháp kỷ luật mà ngày mai họ phải chịu, bất cần Việt Minh có thể tấn công chiếm đồn đêm đó. Nếu dùng biện pháp mạnh, họ có thể đào ngũ hoặc theo Việt Minh làm du kích.
    Đă từng chỉ huy và đă từng t́m hiểu phong thổ, dân t́nh của tỉnh này vốn nằm giữa hai tỉnh nổi tiếng “Cọp Khánh Ḥa, Ma B́nh Thuận” và có một quận người Chàm tuy thủ phận làm ăn nhưng lại rất ngoan cố, cứng đầu khi có mâu thuẫn với người Việt, nên trong những năm sau, dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, khi hai ông Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Trọng Hiếu tuyên dương tỉnh Ninh Thuận đứng đầu trong công cuộc thực hiện ấp chiến lược, tôi nghĩ thầm Ngô Đ́nh Nhu đúng là chỉ biết những con số báo cáo của Trung tá Khánh, tỉnh trưởng Phan Rang (Công giáo Phú Cam), và nh́n sự việc bằng cái bề ngoài hời hợt mà không có một chút kinh nghiệm thực tế nào. Thấy dân Ninh Thuận hăng hái cắm chông, rào ấp, đào hào rồi lại nhiệt tâm thực tập báo động khua trống, gơ mơ, ông Nhu vội đánh giá cao tinh thần chống Cộng của dân ở đây mà không biết rằng dân Chàm làm như vậy là để bố pḥng sợ người Việt phá phách, c̣n người Việt làm như vậy là để ngăn ngừa cọp về phá vườn bắt trâu.* C̣n giữa Việt Cộng và Quốc gia, th́ chọn lựa của người dân rất rơ ràng: bên nào mạnh họ theo!
    *- o0o-
    Trở lại năm 1950, khi tôi về Quảng B́nh để bắt đầu một giai đoạn nổi trôi lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến Pháp-Việt từ Trung ra Bắc, th́ tháng Tám năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của giám mục Ngô Đ́nh Thục, ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên giáo hội Công giáo La Mă Việt Nam này, lên đường đi La Mă dự lễ Năm Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận động chính trị.
    Lộ tŕnh không đi thẳng đến La Mă mà c̣n ghé qua Nhật Bản để thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (một “giải pháp” hầu như không c̣n giá trị ǵ nữa kể từ năm 1945) và nhất là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư Wesley Fishel, một cựu sĩ quan t́nh báo Hải quân thuộc Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ thời đệ nhị thế chiến và nghe nói đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với viên chức quan trọng này của cơ quan t́nh báo Mỹ đưa đến kết quả là trường đại học Michigan sẽ bảo trợ cho chuyến đi Mỹ của ông Diệm [1].
    Sau đó, ông Diệm lên đường đi La Mă dự lễ Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua trung gian của giám mục Ngô Đ́nh Thục, ông được Hồng Y Spellman, thuộc ḍng Franciscain, tiếp kiến.
    Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mă mấy ngày rồi mới đi Thụy Sĩ, Bỉ, Pháp để thảo luận với một số chính khách Việt Nam phần đông là người Công giáo đang cư ngụ tại các nước này. Năm 1951, ông Diệm trở lại Hoa Kỳ hai năm, sống trong tu viện Maryknoll tại Lakewood (New Jersey) và Ossining (New York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng y Spellman, thỉnh thoảng ông lại được mời đi thuyết tŕnh tại các đại học miền Đông và miền Trung-Tây Hoa Kỳ. Ông cũng diễn thuyết tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và với lư luận rằng “chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính phủ do người quốc gia lănh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản” mà ông đă chiếm được cảm t́nh và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ như Nghĩ sĩ Mike Mansfield, John Kennedy, Dân biểu Walter Judd, Chánh án Williams Douglas, và nhiều chính khách Công giáo Mỹ khác. Phê b́nh câu nói của ông Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được sự đơn giản rất hấp dẫn và sự hợp lư khó căi được [2].
    Chính v́ sự “hấp dẫn không căi được” đó và quyết tâm của Hồng Y Spellman muốn có một chính phủ Việt Nam do người Công giáo La Mă lănh đạo [3], mà ông Diệm đă trở thành một “giải pháp” khả dụng và khả thi cho chính sách của Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần. Nhưng cái luận cứ "đơn giản và hợp lư” này đă chứng tỏ tính thiếu khoa học và không thực tế của nó khi ông Diệm, với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với một chính phủ quốc gia và 11 năm cai trị khác, vẫn không đánh bại được Cộng Sản. Nếu không muốn nói rằng chính phủ quốc gia của ông Diệm đă chính nghĩa hóa sự hiện diện của Cộng Sản tại miền Nam, và chính phủ quốc gia của ông Thiệu đă kiện toàn hóa chiến thắng của Cộng Sản tại miền Nam. Như vậy, rơ ràng hai chế độ “quốc gia" đă quản trị đất nước trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật đă không xứng đáng trên cả hai mặt nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
    Theo dơi hành tŕnh vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng đường: Đi Đông Kinh gặp một nhân viên t́nh báo Mỹ, đến Vatican gặp Đức Giáo Hoàng, đi Mỹ gặp một vị Hồng Y, trở lại Vatican không biết để làm ǵ trong một thời gian ngắn rồi lại qua Mỹ gặp tiếp vị Hồng Y cũ, sau đó là các chính khách Hoa Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm trong hai danh từ riêng lẫy lừng: Vatican và Mỹ.
    Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Việt Nam lưu vong mà đa số là người Công giáo, ông Diệm từ giă Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tại tu viện Bénédictine de St André les Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số phận Việt Nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày mồng 7 tháng 5* và những mặc cả tại hội nghị Genève, th́ ông Diệm trở lại Paris và sống tại ngôi nhà của ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự yểm trợ đắc lực của người em là ông Ngô Đ́nh Luyện, ông bắt đầu mở các cuộc thăm ḍ và vận động trong giới chính khách Việt Nam cũng như với các thế lực quốc tế.
    Theo giáo sư Buttinger th́ tại Sài G̣n, ông Nhu biết rằng anh ḿnh không đủ khả năng trong việc đối phó với những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng phái cộng sự viên thân tín là hai ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật qua Paris để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên là tri huyện thời Pháp thuộc, sau theo Việt Minh làm chánh án Liên khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào năm 1952. C̣n ông Lê Quang Luật là một trí thức Công giáo Bắc Việt, người thân tín của giám mục Lê Hữu Từ.
    Ba mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất của ông Diệm là được sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, tranh thủ được sự thỏa thuận của chính phủ Pháp, và cuối cùng là thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ tướng. Ba vận động liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh của hàng triệu người Việt Nam mà sức mạnh vô định của chính hàng triệu người Việt Nam đó không hề được vận dụng tới. Thật ra ba bước vận động này tṛng vào nhau như ba mắt xích, mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ, mở được mắt xích thứ nhất là hai mắt xích c̣n lại sẽ bị tháo tung. Mắt xích thứ nhất, Hồng y Spellman đă giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi cho nên tuy Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ư “con người Ngô Đ́nh Diệm”, nhưng dưới áp lực của ngoại trưởng Mỹ Foster* Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của Hồng Y Spellman vào chính sách của Phong trào Cọng ḥa B́nh dân Thiên Chúa Giáo Pháp (MRP), cuối cùng chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng.
    Trong hồi kư Le Dragon d’Annam, trang 328, ông Bảo Đại đă cố t́nh không nói rơ những áp lực nầy dù những vận động chính trị của các nước liên hệ đến chính t́nh Việt Nam lúc đó, cũng như dù mối bất hoà Bảo Đại-Ngô Đ́nh Diệm trong quá khứ đă rơ ràng (xem thêm Bên Gịng Lịch Sử 1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao Văn Luận). Một cách thật tinh tế, để nói lên áp lực của người Mỹ, ông Bảo Đại đă cho biết rằng "sau khi gặp ông Foster Dulles để cho ông ta biết dự án của tôi, tôi đă gọi ông Diệm đến và nói rằng" (Après m être entretenu avec Foster Dulles, pour lui faire part de mon projet...). Sự kiện trước lúc lấy một quyết định nội bộ quan trọng (chỉ định một Thủ tướng) mà vị nguyên thủ quốc gia phải hội ư với Ngoại trưởng của Mỹ (không như trước đó ông Bảo Đại đă chỉ định 5 Thủ tướng mà không cần phải qua "thủ tục này") đă chứng tỏ áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng lên quyết định của ông Bảo Đại. Hơn nữa, ngay ở trang 239 sau đó, ông Bảo Đại c̣n viết thêm:
    Thật vậy từ, nhiều năm nay, ông ta được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính cứng rắn. Dưới mắt họ, ông Diệm là người phù hợp một cách đặc biệt cho hoàn cảnh hiện tại, v́ vậy mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại ǵ mà không ủng hộ ông ta. (En effet, depuis de nombreuses années, il était connu des Américains qui appréciaient son intransigeance. A leurs yeux, il était l’homme fort convenant particulièrement à la conjoncture, aussi Washington ne lui ménagerait pas son appui).
    Nêu lên nhận định nầy, ông Bảo Đại ngầm cho ta biết sự can thiệp của người Mỹ trong quá tŕnh chọn lựa ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng là một sự can thiệp có thật. (Những người không hiểu rơ cá tính của hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm, lại không nắm vững những hoạt động quốc tế cũng như nội bộ Việt Nam lúc bấy giờ, đă nhầm lẫn và không hiểu rơ được sự can thiệp nầy nên đă hiểu sai luôn những biến cố lịch sử sau đó là lẽ dĩ nhiên).
    Sự kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ ủng hộ là một yếu tố quan trọng xoay chuyển lịch sử Việt Nam trong chiến tranh Quốc-Cộng nên tôi cần trích dẫn ra dưới đây những đoạn sách khả tín của các kư giả, nhà văn, nổi tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu cho các nhà nghiên cứu sử sau nầy.
    Theo John Cooney th́ Giáo Hoàng Pius 12 muốn Hồng Y Spellman vận động với Hoa Kỳ tham dự vào chánh t́nh Việt Nam và ủng hộ cho ông Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền tại nước này:
    Theo Malachi Martin, một giáo sĩ Ḍng Tên đă từng làm việc tại Vatican trong những năm Mỹ gia tăng sự tham dự vào Việt Nam, th́ lập trường của Hồng Y Spellman hợp với ư muốn của Giáo Hoàng (in accordance with the wishes of the Pope...) Giáo Hoàng muốn Hoa Kỳ ủng hộ Diệm v́ ngài bị ảnh hưởng của Giám mục Thục là anh của Diệm. Ông Martin xác nhận rằng "Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng thêm làm suy hại đến Giáo hội. Giáo Hoàng đă nhờ Spellman khuyến khích người Mỹ can dự vàoViệt Nam ("The pope was concerned about Communism making more gains at the expense of the Church. He turned to Spellman to encourage American commitment to Vietnam", The American Pope, JohnCooney, tr.241, 242).
    V́ vậy Spellman đă bắt tay vào việc điều động kỹ càng một chiến dịch xây dựng chế độ Diệm (carefully orchestrated campaign to prop up the Diem regime)... Spellman và Kennedy cũng thành lập một tổ chức ở Hoa Thịnh Đốn để vận động cho Diệm. Chiêu bài vận động là chống Cộng và Công giáo (the rallying cries were anti-Communism and Catholicism). Sách đă dẫn, trang 242.
    Tháng 10 năm 1950, hai anh em Thục Diệm gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao tại khách sạn Mayflower ở Hoa Thịnh Đốn, có cả sự tham dự của Dean Rusk. Diệm và Thục được linh mục McGuire và ba giáo sĩ chính trị gia (political churchmen) đặc trách chính sách chống Cộng tháp tùng, đó là Cha Emmanual Jacques, Giám mục Howard Carroll và Edmund Walsh của Đại học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ là để t́m hiểu t́nh h́nh Việt Nam và để xác định lập trường chính trị của hai anh em Diệm-Thục. Hai anh em tin rằng Diệm đă được an bài để cai trị đất nước (both Diệm and Thục believed that Diệm was destined to rule his nation). Sự kiện giáo dân Việt Nam chỉ chiếm mười phần trăm chẳng làm cho hai người bận tâm. (The fact that Vietnam,s population was only ten percent Catholic mattered little as far as the brothers were concerned...) như Diệm đă nói trong bữa ăn tối rằng hai lập trường không lay chuyển của ông đă quá rơ ràng. Ông tin tưởng vào quyền lực của Toà thánh và ông chống Cộng kịch liệt (He believed in the Power of the Catholic Church and He was virulently anti-Communist). Sách đă dẫn, 241.
    Thật vậy, ngoài cuốn "The American Pope - The life and Time of Francis Cardinal Spellman" của John Cooney do Time Book phát hành, trong quyển "VietNam - Why did we go" của Avro Mahattan (trang 58), chuỗi sự kiện này cũng đă được tŕnh bày lại rơ ràng:
    "Spellman introduced Diem to William O. Douglas of the Supreme Court. The latter introduced Diem to Mike Mansfield and to John F. Kennedy, both Catholics and senators. Allen Dulles, director of the CIA adopted him.
    Following the decision of his brother, John Foster Dulles, and of Cardinal Spellman, who was acting for Pope Pius XII, Diem become their choice; he was going to be the head of the government in South Vietnam.
    The decision has been taken, Dulles adviced France to tell Bao Dai to appoint Diem as Prime Minister. France, having by now decided to abandon Vietnam, agreed. Diem became Prime Minister in June, 1954. The 19th of the same month, Bao Dai invested Diem with dictatorial power. This entailed not only civilian but also military control. Diem arrived in Saigon June 26, 1954 and on June 7, set up his own government."
    Tạm dịch: HồngY Spellman đă giới thiệu ông Diệm với ông Wiliam O.Douglas, Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện. Ông nầy lại giới thiệu ông Diệm với ông Mike Mansfield và ông John F. Kennedy, cả hai đều là Thượng Nghị sĩ theo Công giáo. Ông Giám đốc CIA Allen Dulles cũng đă đỡ đầu cho ông Diệm.
    Theo quyết định của anh ông ta là (Ngoại trưởng) John Foster Dulles và của Hồng Y Spellman, người đại diện cho Giáo Hoàng Phero XII, ông Diệm đă được họ tuyển chọn, ông sẽ là người cầm đầu chính phủ Nam Việt Nam.
    Sau khi lấy quyết định xong, ông Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp hăy nói với Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng. V́ lúc bấy giờ đă có quyết định bỏ Việt Nam nên Pháp đồng ư. Ông Diệm trở thành Thủ Tướng vào tháng 6 năm 1954. Ngày 19 cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho Ông Diệm toàn quyền. Không những quyền kiểm soát dân sự mà c̣n cả quân sự nữa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới Sài G̣n ngày 26 tháng 6 và thành lập chính phủ vào ngày 7 thàng 7 năm 1954.
    Những bí ẩn lịch sử trên đây cho ta thấy ngay từ trước năm 1950, ông Diệm v́ không thể cộng tác được với Pháp và cựu Hoàng Bảo Đại nữa nên hướng về Hoa Kỳ, mà cuộc vận động nhịp nhàng của Vatican và cơ quan CIA đă đưa ông thành công với chức vụ Thủ tướng khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. Bây giờ th́ ta đă thấy rơ ràng tại sao trên đường xuất ngoại năm 1950 hai ông Diệm và Thục lại gặp giáo sư Wesley Fishel tại Nhật Bản, nhân viên cao cấp của cơ quan T́nh báo Trung Ương Mỹ, tại sao trong "Bên Gịng Lịch Sử" linh mục Cao Văn Luận khoe khoang; "Có thể nói rằng nếu không có cha Houssa th́ số phận Việt Nam không chừng đă khác", tại sao khi đến thăm Sài G̣n thăm lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên bố: "các anh chiến đấu cho văn minh Thiên Chúa Giáo". Từ nay, ông Diệm trở thành người lính tiền đồn ngăn chận Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.
    Đàng sau vở tuồng chính trị này, ta c̣n thấy thấp thoáng bóng dáng một người đàn bà mà tuy vai tṛ khiêm nhường nhưng không kém phần quan trọng là bà Nam Phương Hoàng Hậu, một nữ tín đồ Công giáo ngoan đạo và có uy tín. Ông Tôn Thất Cẩn, con trai của cụ Thân thần Phụ chánh Tôn Thất Hân và là bạn thân của ông Diệm, đă thuyết phục bà Nam Phương để bà góp ư với chồng với điều kiện sau khi ông Diệm cầm quyền phải nâng đỡ Hoàng tử Bảo Long, người con trai đầu ḷng của bà và của vua Bảo Đại. Bernard Fall cho biết ông Diệm đă quỳ xuống trước bà Nam Phương để nhận lời uỷ thác đó [4].
    Ngày 16 tháng 6 năm 1954, sau một buổi tiếp kiến với Ngoại trưởng Foster Dulles, Quốc trưởng Bảo Đại kư sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng. Sau khi ông Diệm tuyên bố chấp nhận, vua Bảo Đại bèn kéo ông vào một gian pḥng kế cận trong lâu dài Thorence, nơi vua Bảo Đại trú ngụ tại Cannes, trước bức thánh giá rồi bắt ông thề:
    -"Chúa của ông đó, ông hăy thề sẽ bảo toàn lănh thổ quốc gia mà người ta sẽ giao phó cho ông. Ông sẽ bảo vệ quốc gia chống lại Cộng Sản và nếu cần chống cả người Pháp".
    Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nh́n Bảo Đại, rồi quay lại phía thánh giá, ông nói thầm:
    -"Tôi xin thề" [5].
    Kể lại những sự kiện trên đây, kư giả Karnow viết rằng: "Sau khi bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo Đại đă tự đào lỗ huyệt chính trị của ḿnh mà không biết".
    Những sự kiện về ông Ngô Đ́nh Diệm đến bái yết Quốc trưởng Bảo Đại khi nhận chức Thủ tướng c̣n được Hillaire du Berrier kể tường tận hơn, đúng như cựu "Tổng trưởng trực tiếp với Phủ Thủ Tướng" (trong chính phủ Bửu Lộc) Phan Huy Quát và ông Tôn Thất Cẩn đă kể cho tôi nghe:
    Ngô Đ́nh Diệm sau khi từ giă Hoa Kỳ năm 1953, về Bỉ rồi đến Pháp và không thể tránh được con đường dẫn tới ngôi lâu đài 12 pḥng tại Cannes. Lúc ấy, vào tháng 6 năm 1954, một người thấp nhỏ, kỳ dị, lạnh lùng, thiếu nét vui tươi đứng trước mặt một vị Cựu Hoàng mà vẫn tâu là "Bẩm tâu Hoàng Thượng", mặc dù vị cựu Hoàng đó lúc bấy giờ chính thức mang danh hiệu là Quốc trưởng.
    Bảo Đại biết rơ con người đó tính t́nh bất thường hay thay đổi, khi th́ bẽn lẽn rụt rè nhưng đôi khi lại nóng nảy cộc cằn, thứ người ĺ lợm khắc khổ v́ những năm tháng cô đơn thiếu t́nh người. Bảo Đại biết con người đó cao ngạo và ngoan cố. Nếu để chọn lựa một vị Thủ tướng trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy để phục vụ hữu hiệu cho quốc gia th́ Ngô Đ́nh Diệm mà Bảo Đại phải chỉ định làm Thủ tướng chỉ là con người được lựa chọn sau chót, nhưng Bảo Đại không có lựa chọn nào khác hơn.
    Qú xuống trước Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm thề trung thành với vị Hoàng Đế của ông ta. Đă trải qua biết bao thăng trầm cay đắng, Bảo Đại chấp nhận mọi việc chỉ là thường t́nh. Bảo Đại cố quên những buổi hội họp đầy sóng gió tại Hồng Kông năm năm về trước. Bảo Đại biết rằng con người trước mặt ông ta không bao giờ quên thù hận nhưng Bảo Đại vẫn làm phần vụ của ông ta là chỉ định Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng với toàn quyền thành lập chính phủ. Lời nói cuối cùng của Bảo Đại là: "Ông hăy hợp nhất các giáo phái vào cộng đồng quốc gia, thống nhất phần đất nước c̣n lại của chúng ta".
    Bà Nam Phương Hoàng Hậu, cũng là một tín đồ Công Thiên Chúa giáo như ông Diệm, đă khẩn khoản yêu cầu ông Diệm hăy cứu văn và tạo thế lực cho nhà Nguyễn để giúp đỡ cho Bảo Long, con trai của bà.
    Bảo Đại kư cho ông Diệm cái ngân phiếu một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc biểu t́nh "tự phát" (spontaneous demonstration) hầu làm xúc động người Mỹ và tạo hào hứng cho dân chúng Việt Nam. Diệm bỏ ngân phiếu vào túi rồi cảm ơn và tâu: "Bẩm Hoàng thượng, nếu khi nào Ngài thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một lời là tôi xin từ chức ngay".
    Ngày 26 tháng 6 năm 1954, Diệm vào tuổi 54, trở về Việt Nam để chấp chánh và từ đây th́ trách nhiệm về phần người Mỹ [6].
    Nhận định về những nỗ lực và thành quả vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy yếu tố chính quyết định những nỗ lực và thành quả này là tôn giáo của ông Diệm. Uy tín trong nước của ông, vị thế chính trị trong nước của ông, cơ sở quần chúng trong nước của ông... quả thật chỉ là những hậu thuẫn nhỏ nhoi không đủ để giúp ông mở được cánh cửa của Mỹ và Pháp. Trong cái thế chính trị toàn cầu lúc bấy giờ, khi mà nội bộ nền đệ tứ Cộng Hoà Pháp đang dần dần băng ră v́ "trận chiến tranh bẩn thỉu", khi mà Cộng Sản đang hiện diện một cách áp đảo tại Đông Nam Á, th́ nhu cầu của cường quốc Mỹ là can thiệp vào Việt Nam với một "người hùng bản xứ" chống Cộng. Mà dưới nhăn quan chính trị và nhân văn của Mỹ vào thập niên 50, 60 "người hùng" chống Cộng đó phải là và chỉ có thể là một tín đồ Công giáo khả tín (như có anh ruột là chức sắc cao cấp chẳng hạn). Ông Diệm thoả măn đầy đủ những điều kiện đó của nhu cầu này. Và v́ ông là ứng cử viên "hợp lệ" duy nhất nên ông đă được chọn. Tôn giáo của ông đă đưa ông lên đài danh vọng, th́ cũng chính v́ tôn giáo của ông, mà sau này thân thế sự nghiệp của ông phải tan tành.
    Mấy ngày trước đó, Thủ tướng Pháp Pierre Mendès-France được tín nhiệm để thành lập một nội các với lời hứa sẽ thực hiện cuộc ngưng bắn tại Đông Dương trong ṿng một tháng. Ngay sau khi nhận chức, thủ tướng Mendès-France liền điều đ́nh với ông Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Trung Cộng.
    Cho những độc giả cần nghiên cứu kỹ càng hơn về giai đoạn khai sinh ra nền Đệ Nhất Cộng Hoà nầy qua việc ông Ngô Đ́nh Diệm được Vatican, Hồng Y Spellman chọn lựa và được cơ quan CIA và bộ ngoại giao Hoa Kỳ bảo trợ để được Bảo Đại cử làm Thủ tướng Việt Nam vào năm 1954, tôi đề nghị xin đọc kỹ hai tác phẩm: "The American Pope - The Life and Times of Francis Cadinal Spellman" của kư giả Cooney từ trang 236 đến trang 245, và "Vietnam - Why did we go?" của Avro Mahattan, từ trang 51 đến trang 75. Qua chi tiết của hai cuốn sách vừa kể, ta thấy quả thật ông Diệm được Vatican và Hoa Kỳ cùng sử dụng để làm con cờ chống Cộng ở Đông Nam Á. Nói thế không phải là chê trách ông Diệm, khen hay chê ông ta là tuỳ vào hành động lănh đạo quốc gia sau này. Nói thế chỉ v́ sự thật của lịch sử như thế.
    *Một sự kiện lịch sử khác cũng cần phải được phân tách cho ra lẽ, đó là việc ông Diệm khi nhận chức Thủ tướng không biết có quỳ trước Bảo Đại như Hilaire du Berrier đă viết trong "Background to Betrayal" hay không, mà trong "Le Dragon d Annam", Bảo Đại nói chỉ bắt ông Diệm thề trước Chúa mà thôi.
    *Ngoài Hilaire du Berrier, nhà văn Hoàng Trọng Miên trong cuốn "Đệ Nhất Phu Nhân" (trang 389), học giả Nguyễn Hiến Lê trong cuốn "Con Đường Thiên Lư" (trang 202), kư giả Bernard Fall trong cuốn "The Two Vietnam" (tr.244) cũng nêu lên việc ông Diệm có quỳ trước Nam Phương Hoàng Hậu trong lễ nhận chức Thủ tướng tại lâu đài Thorence:
    "... After three days of hesitasion, Bao Dai yielded. Diem received absolute dictatorial power on June 19. Fully realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made Diem swear a solemn oath of alllegiance to him, and several authoritative witnesses affirm that Diem also swore on his knees to Empress Nam Phuong that he would “do everything in his power” to preserve the throne of Vietnam for Prince Bao Long, son of Bao Dai."
    Có thể ông Ngô Đ́nh Diệm đă không quỳ cho nên vua Bảo Đại không đề cập đến chuyện này, cũng có thể ông Ngô Đ́nh Diệm có quỳ mà Bảo Đại v́ tế nhị không muốn nói đến.
    Nhưng nghĩ cho cùng th́ có lẽ ông Ngô Đ́nh Diệm đă quỳ như hành động cuối cùng của chuỗi nỗ lực vận động nắm chức Thủ tướng, trong đó kể cả việc ông Ngô Đ́nh Luyện dâng Bảo Đại một chiếc ô tô lộng lẫy mà ông Hồ Sĩ Khuê đă nêu ra trong tác phẩm "Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm, và Mặt Trận Giải Phóng" (tr. 276) hoặc như ông Ngô Đ́nh Luyện đến Cannes đề nghị biếu Bảo Đại 300 triệu Francs (30 triệu bạc Việt Nam) nếu Bảo Đại cho ông Diệm toàn quyền củng cố uy quyền bằng vũ lực ("Việt Nam Niên biểu Nhân vật Chí" của Chính Đạo, tr.290).
    Như vậy, rơ ràng việc ông Diệm được Giáo hoàng La Mă, Hồng y Spellman và chính giới Mỹ "bồng" về Việt Nam cầm chính quyền, và việc vua Bảo Đại bất đắc dĩ cử ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng, là những sự thật lịch sử đă được ghi lại minh bạch và đầy đủ, thế mà “trí thức” Công giáo Nguyễn Văn Chức trong cuốn sách gọi là "Việt Nam Chính Sử" lại nguỵ biện cho rằng tác giả VNMLQHT viết sai và gian trá.
    Ông Diệm từ Paris trở về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, sau 5 năm trời sống tại các thủ đô quốc tế ở hải ngoại. (Năm năm này, sau đó, đă được đưa vào phần mở đầu của bài ca "Suy tôn Ngô Tổng thống"..."Ai bao năm từng lê gót nơi quê người..." bắt buộc hát sau bài quốc ca để cân bằng với 40 năm biệt xứ đấu tranh của ông Hồ Chí Minh).
    Sự trở về của ông Diệm không gây được hào hứng nào trong khối quần chúng Việt Nam. Ông Diệm không được đón tiếp như một anh hùng từng đấu tranh cho đất nước. Rơ ràng tên tuổi ông ta không làm bốc lửa trong ḷng nhân dân. Chỉ độ 500 người gồm những quan lại già nua, chức sắc Công giáo và nhân viên cao cấp của chính phủ đón chào ông ta tại phi trường. Những người đến đón nhà lănh đạo quốc gia mới không ngờ rằng khi ông Diệm bước ra khỏi phi cơ là sẽ đi trên con đường vinh quang mau chóng, tuyệt vọng và sớm mua lấy cái chết.[7]
    *Sau này, khi biết được cuộc đón tiếp ông Diệm thiếu sự tham dự của nhân dân, tôi đă trách móc ông Nhu và ông Vơ Văn Hải không huy động nổi đồng bào đi biểu t́nh đông đảo để đón tiếp sự hồi hương của lănh tụ.******
    Buổi đón tiếp tuy đầy đủ phần nghi lễ nhưng thiếu hẳn quần chúng đón chào tỏ ra rằng ông Diệm không có thực lực quần chúng ủng hộ. Vả lại, 500 người có mặt tại Tân Sơn Nhất hôm đó quả thật đă không đại diện một chút nào cho 25 triệu người Việt Nam trên mặt pháp lư cũng như chính trị, trên mặt liên đới t́nh cảm cũng như liên đới tinh thần.
    Một người đă từng chống Bảo Đại và chống Pháp th́ không thể trở về với dân tộc để lănh đạo quốc gia bằng một sắc lệnh của Quốc trưởng và trên một chiếc máy bay có cờ tam tài. Trường hợp đó và khung cảnh đó phù hợp với những thoả hiệp của một cuộc vận động chính trị hậu trường, hơn là kết quả của một quyết tâm xả thân đấu tranh cho đất nước, cho nên nhân dân Việt Nam nói chung, và quần chúng Sài G̣n nói riêng vẫn không t́m được sự hào hứng để chào mừng ông Diệm trong ngày trở về của ông.
    Nhưng lúc đó, đối với tôi, từ miền Bắc xa xăm, và sau 5 năm trông đợi ngày về của người lănh đạo tổ chức, ngày ông Diệm về nước là một ngày hội lớn, là sự thành tựu của 12 năm đấu tranh cho lư tưởng của ḿnh xuyên qua h́nh bóng của ông Ngô Đ́nh Diệm, là ngày mà những tra tấn trong ngục tù, những ly biệt với vợ con, những hiểm nghèo trong lửa đạn bắt đầu đơm bông kết trái thành đài vinh quang. Tôi đă không cần dấu diếm nữa mà bộc bạch hẳn với hai người bạn cùng khoá là Thiếu tá Lam Sơn và Đại uư Nguyễn Chánh Thi về tương lai chắc nịch của đất nước, về cơ hội lịch sử đă cho phép ông Diệm sẽ được quản trị quốc gia một cách dân chủ, sẽ được thi thố tài năng trong cuộc thư hùng với Cộng Sản.
    Tuy nhiên, sau những phút vui mừng bồng bột đầu tiên đó, tôi bắt đầu lo âu cho ông Diệm. Đă từng sống giữa ḷng quê hương từ trước cuộc kháng Pháp, đă từng làm việc chung với người Pháp trong chế độ Bảo Đại, đă là chứng nhân của bao nhiêu biến cố chính trị, bao nhiêu lừa lọc phản trắc, tôi biết ông Diệm sẽ phải đi qua một băi ḿn nổ chậm với bao nhiêu khó khăn phức tạp cạm bẫy đang chờ đợi ông. Cụ thể hơn, là một sĩ quan cấp tá thâm niên, tôi biết rơ tham vọng và tính t́nh của tướng Nguyễn Văn* Hinh và tinh thần quân đội dưới quyền ông ta. Những thực tế này sẽ là trở lực khó khăn nguy hiểm đầu tiên mà ông Diệm không thể tránh được. Đành rằng trong giai đoạn đó, quân đội không phải là yếu tố quyết định những thay đổi quan trọng của t́nh h́nh chính trị Việt Nam, nhưng ở một mặt nào đó, quân đội dưới quyền tướng Hinh, một người Pháp mang tên Việt, lại đủ sức* để cản trở những kế hoạch của ông Diệm. Hay đi xa hơn, có thể tiêu diệt ngay sức mạnh pháp lư và chính trị c̣n mong manh của vị tân Thủ tướng.
    Biết như thế mà lại biết rất rơ nữa là khác, cho nên dù điều kiện khó khăn và phương tiện bị hạn chế, tôi cũng phải làm mọi cách để giúp được ông Diệm phần nào hay phần đó. Tuyên truyền, giác ngộ vẫn là thứ khí giới hữu hiệu nhất cho nên tôi bèn viết rất nhiều thư cho các bạn bè từ chí thân đến sơ giao, cho các sĩ quan thân tín ở nhiều quân khu, nhiều đơn vị, nói cho họ biết muốn cứu nước, muốn quốc gia khỏi rơi vào tay Cộng sản, muốn c̣n có đất chôn chân th́ phải ủng hộ cho Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm vượt thắng mọi thế lực chống đối ông ta. Với các sĩ quan miền Trung như Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn Nghiêm, Thái Quang Hoàng, Tôn Thất Đính,... tôi không ngần ngại nói thẳng cho họ biết rằng tướng Hinh và những tay sai của Pháp sẽ t́m cách triệt hạ ông Diệm. Tôi yêu cầu họ nỗ lực hoạt động lôi kéo bạn bè, cộng sự viên của họ theo con đường chính nghĩa. Mục tiêu của tôi là xây dựng cho ông Diệm một chủ lực, nếu không được th́ ít nhất là một hậu thuẫn trong quân đội, để đối phó với cuồng vọng của tướng Nguyễn Văn Hinh sau này.
    Tại Hà nội, nơi tôi học, có bốn lớp quân sự: lớp Trung đoàn trưởng, lớp Tham mưu trưởng, lớp Tiểu đoàn trưởng, và lớp Đại đội trưởng, tổng số* khoá sinh gồm độ 150 người, mà khi tốt nghiệp những sĩ quan này sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy. Tôi dùng luận điệu "ông Diệm có c̣n, Việt Nam mới c̣n" để tác động tinh thần họ. Thiếu tá Lam Sơn, Đại uư Nguyễn Chánh Thi cũng đồng quan điểm với tôi và sau này họ đă có công trong việc giúp ông Diệm chống lại lực lượng của tướng Hinh. Sau này, biến cố đất nước bị chia đôi ngày 20 tháng 7 bởi hiệp ước Genève do sự bất lực của Pháp và các chính phủ của chế độ Bảo Đại, càng cho tôi thêm yếu tố để tuyên truyền hầu tăng cường uy tín và lập trường quốc gia chống Pháp của ông Diệm.
    Ngày 30 tháng 6, khi ông Diệm ra Hà Nội để quan sát t́nh h́nh miền Bắc và để thăm ḍ nhân sự hầu thành lập nội các, th́ t́nh h́nh chiến sự tại Bắc Việt đă đến hồi kết thúc trong hỗn* loạn, Đại tá Vanuxem mở cuộc hành quân Auvergne để di tản khỏi miền Nam của Bắc Việt (Thái b́nh, Ninh B́nh, Nam Định... các tỉnh có nhiều giáo phận và đồn bót của Pháp) trong cố gắng tránh những tổn thất do cuộc rút quân gây ra. Thành phố Hà Nội tràn ngập dân di tản ở các vùng này, họ sống lê lết ở các vỉa hè và xô xát với nhân viên công lực. Và đúng như Bảo Đại mô tả trong "Le Dragon d`AnNam", họ là những người Công giáo, lực lượng mà ông Diệm tin cậy sẽ là hậu thuẫn ở miền Bắc nhưng họ chỉ lo t́m đường chạy trốn vào Nam.
    Quyết định rút lui của quân đội Pháp đă như cơn gió mạnh thổi tan lực lượng này, vốn hiện diện và tồn tại phần lớn nhờ nương dựa vào sức mạnh của chính quân đội ngoại bang đó. Khi cây đă ngă th́ những b́m bịp bám dựa vào đó cũng ngă theo luôn.
    Khi nhận chức Thủ tướng với Bảo Đại, ông Diệm không ngờ chiến sự tại Bắc Việt lại suy sụp nhanh đến thế, khi thề trước thánh giá sẽ "bảo vệ toàn vẹn lănh thổ", ông Diệm đă hoàn toàn không nắm vững được t́nh h́nh sẽ biến chuyển theo chiều hướng nào. Như suốt cả cuộc đời ông Diệm (và cả anh em ông nữa) đă chứng minh, họ luôn luôn chủ quan, không thực tế, và nhất là chỉ cho ḿnh là đúng, là nhất.
    Khi quân Pháp rút lui, tâm trạng bị bỏ rơi của các giáo phận đó đă được chính Đại tá Vanuxem kể lại trong hồi kư của ông qua thái độ tuyệt vọng một cách nhục nhă của Giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu, một thái độ bị bỏ rơi nên trở lại coi người bạn Pháp năm xưa như kẻ thù [8]:
    Một ngày kia, tại Nam Định, nơi có bộ chỉ huy của tôi, người ta báo cho tôi biết có một số các vị giáo phẩm Công giáo Việt Nam của địa phận tới xin vào thăm, tôi tiếp họ ở một căn hàng tạp hoá. Cả thảy có bốn người, cầm đầu bởi giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu, và sau này thuộc giáo phận Đà Nẵng và luôn luôn là bạn thân của tôi.
    Đến trước mặt tôi, ông bèn quỳ xuống trong lúc tôi cố đỡ ông dậy, ông nói: "Không, tôi xin lỗi Đại tá. Chúng tôi xin lỗi Đại tá. Chúng tôi cứ tưởng rằng quốc gia chúng tôi xứng đáng được độc lập mà chúng ta có bổn phận giúp đỡ; nhưng chúng tôi đă nhận ra quá muộn rằng những người mà chúng tôi trông cậy (người Pháp) lại là những kẻ thù của chúng tôi, những kẻ thù muốn chúng tôi mất linh hồn".
    Vanuxem kết luận rằng:
    Thật là một thảm hoạ to lớn khi những nhân vật lănh đạo tinh thần đă buộc phải hạ ḿnh nhục nhă trước một quân nhân. Tương lai đă cho thấy tất cả thảm hoạ đó.
    Giáo phận Bùi Chu đă hợp tác và phục vụ quân đội Pháp ngay từ ngày đầu tiên Pháp trở lại Bắc Việt. Giáo phận này đă biến một số giáo đường thờ Chúa thành pháo đài quân sự, khuyến khích thanh niên Công giáo gia nhập Phụ Lực Binh cho quân đội Pháp. T́nh trạng của giáo dân trước viễn ảnh Tây đi Cộng về rơ ràng rất nguy hiểm và rất đáng tội nghiệp, nhưng không phải v́ thế mà một vị tu sĩ cao cấp lănh đạo tinh thần của một tôn giáo có truyền thống hy sinh tử v́ đạo lại có thể quỳ xuống trước một quân nhân ngoại quốc để cầu khẩn họ ở lại bằng những luận cứ trách móc, giận hờn. Cách thế hành sử đó và nội dung lời cầu khẩn đó không những làm đau ḷng những tín đồ Công giáo chân chính mà c̣n làm cho những đồng bào Việt Nam của ông hổ thẹn nữa. (Sau này, khi di cư vào Đà Nẵng, Giám mục Phạm Ngọc Chi trở thành một lănh tụ của đảng Cần Lao tại miền Trung bên cạnh lănh chúa Ngô Đ́nh Cẩn. Không trách ǵ quần chúng và Phật giáo đồ tại miền Trung bị khốn khổ và cũng không trách ǵ v́ những người như vậy, mà chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị toàn dân căm thù lật đổ vào năm 1963).
    Được tin ông Diệm đến Hà Nội, tôi bèn tới dinh Thủ Hiến để gặp chào mừng ông. Một đám đông chưa tới một ngàn người, do nhóm các ông Lê Quang Luật và Hoàng Bá Vinh (hai nhân sĩ Công giáo ở Bắc) tổ chức, đang cầm quốc kỳ và trương biểu ngữ diễn hành trước dinh Thủ Hiến để chào mừng vị tân Thủ tướng. Tôi vừa buồn vừa giận v́ số người tham dự quá ít ỏi so với dân số Hà Nội lúc bấy giờ, nhất là dân số đó lại vừa được tăng cường nhờ số dân Công giáo tị nạn từ các tỉnh mới đến. Tôi nghĩ thầm như thế và đâm ra ngượng với các cán bộ của Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí (thuộc đảng Đại Việt), vốn không ưa ǵ ông Diệm.
    *Khi ông Diệm đến bậc thềm để vào dinh Thủ Hiến th́ thấy tôi, tôi vội chào lớn "thưa Cụ". ông Diệm nh́n tôi vừa lộ vẻ ngạc nhiên một cách vui mừng và nói lớn: "À! có cả anh Mậu đây nữa à . Tôi chưa kịp nói thêm lời nào th́ những lễ nghi quân cách đă vang lên kéo ông vào đại sảnh. Tuy hơn tôi những 16 tuổi và xa cách gần sáu năm trời, tôi vẫn không thấy ông già thêm bao nhiêu. Bước đi của ông vẫn ngắn và thoăn thoắt, chỉ có dáng người trông có vẻ bệ vệ hơn trong bộ âu phục trắng. Biết ông c̣n bận rộn với những nghi lễ, tôi vội rời đám đông trở về quân trường. Nhớ lại ngày nhận được tin ông Diệm được ông Hồ Chí Minh trả tự do tôi mừng bao nhiêu th́ hôm nay, gặp lại ông trong cảnh huy hoàng của sự đạt thành ư nguỵện, tôi mừng bấy nhiêu. Đối với tôi, một cá nhân tầm thường, một cán bộ đấu tranh chỉ có tấm ḷng son trang trải cho quê hương, th́ sự kiện ông Diệm nắm được chính quyền là một thắng lợi vĩ đại vừa của tổ quốc, vừa của tổ chức, và vừa của chính ḿnh. Mười hai năm gian truân vào tù ra khám, mười hai năm không biết được mái ấm gia đ́nh, mười hai năm cầm cự cho tổ chức sống c̣n... như cuốn phim dài chợt tuần tự tŕnh chiếu lại như một thoáng vó câu. Tôi mừng mừng tủi tủi đến rơi nước mắt và trong một thoáng ngắn ngủi, chợt thấy trời đất Bắc mùa Hạ mà ngọt ngào hương nắng mùa Xuân.
    Hai ngày sau, ông Diệm cho người mời tôi vào dinh Thủ Hiến để thăm hỏi t́nh h́nh chiến sự, t́nh trạng gia cảnh. Ông bắt tôi kể lại cho ông nghe điều kiện hoạt động của từng anh em trong nhóm và riêng tôi th́ khi nào măn khoá để về Nam. Ông cũng cho biết là mới về, công việc c̣n đa đoan và nhiều khó khăn. Sau những phút nồng nhiệt ban đầu của cuộc gặp gỡ, ông trở lại với trạng thái đăm chiêu, nét lo âu mệt mỏi hiện rơ ra trên cặp mắt kém linh động; ghế bên kia, ông Nhu ngồi với bộ mặt khổ năo lầm ĺ. Được gần một tiếng đồng hồ th́ tôi đứng dậy chào về v́ bên ngoài đă có người chờ vào gặp.
    Ra ngoài hành lang dinh Thủ Hiến, tôi gặp cụ Tạ Chương Phùng và ông Vơ Văn Hải, bèn thắc mắc với họ về nét mặt ưu tư của ông Diệm và ông Nhu. Ông Hải chưa kịp trả lời th́ cụ Phùng đă nói: "Hôm qua Nhu mới bị ông Cụ la cho một trận nên thân đó . Cụ Phùng nhắc lại gần nguyên văn lời ông Diệm gay gắt với ông Nhu: "Chú đánh điện qua Pháp bảo tôi mọi việc ở nhà đều xong xuôi sẵn sàng cả rồi, bây giờ tôi về lại gặp không biết bao nhiêu là khó khăn. Không ai thèm hợp tác với tôi, ngay cả ông Chữ và ông Toàn cũng từ chối (tức là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ và bác sĩ Lê Toàn, hai đồng chí của ông Diệm trong phong trào Cường Để hoạt động ở Bắc Việt dưới thời Nhật chiếm đóng). Tôi không làm việc được trong t́nh cảnh này, về Sài G̣n rồi tôi sẽ ra đi..." Tuy ông Diệm nói thế nhưng hai anh em ông vẫn liên lạc thăm ḍ, mời một số chính khách tham dự vào nội các của ông. Sau gần hai tuần lễ Việt Nam không có chính phủ, ngày 7 tháng 7 tại Sài G̣n, nội các Ngô Đ́nh Diệm đầu tiên ra mắt quốc dân với thành phần như sau;
    *- Ngô Đ́nh Diệm: Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ, kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng.
    * - Trần Văn Chương: Quốc Vụ Khanh.
    * - Trần Văn Đỗ: Tổng trưởng Ngoại Giao.
    * - Trần Văn Của: Tổng trưởng Tài chính, Kinh tế.
    * - Phan Khắc Sửu: Tổng trưởng Canh nông.
    * - Nguyễn Tăng Nguyên: Tổng trưởng Lao Động và Thanh Niên.
    * - Trần Văn Bạch: Tổng trưởng Công chánh và Giao Thông.
    * - Nguyễn Dương Đôn: Tổng trưởng Giáo Dục.
    * - Phạm Hữu Chương: Tổng trưởng Y Tế và Xă Hội.
    *
    Ngoài ra c̣n có một số Bộ trưởng như:
    * - Trần Quang Thành: Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.
    * - Lê Quang Luật: Bộ trưởng Thông Tin.
    * - Nguyễn Ngọc Thơ: Bộ trưởng Nội Vụ.
    * - Lê Ngọc Chấn: Bộ trưởng Quốc pḥng.
    * - Bùi Văn Thinh: Bộ trưởng Tư Pháp.
    * - Nguyễn Văn Thoại: Bộ Trưởng Kinh Tế.
    * - Trần Hữu Phương: Bộ Trưởng Tài Chánh.
    *- Phạm Duy Khiêm: Phát ngôn viên Phủ Thủ tướng [9]
    Nh́n vào thành phần chính phủ trên đây ta thấy có một số nhân vật có uy tín, có thành tích đấu tranh, số khác là những nhà trí thức khoa bảng hoặc là thành phần quan lại cũ, nhưng không có nhân vật nào nằm gai nếm mật xả thân cho Cách mạng chống Pháp chống Việt Minh như anh em ông Diệm thường hô hào. Và đại đa số những Tổng, Bộ trưởng trong nội các lại càng chưa bao giờ "cầm súng kháng chiến" như lời tuyên bố của ông Diệm tại Hồng Kông năm 1950 khi ông bắt đầu cuộc hành tŕnh vận động quốc tế.
    *Điều mỉa mai là trong số 16 nhân vật cộng tác với ông Diệm trong chính phủ đầu tiên này, chỉ trừ các ông Nguyễn Dương Đôn và Phạm Duy Khiêm là không nghe nói đến có mâu thuẫn và chống đối với ông Diệm hay chế độ của ông, 14 vị c̣n lại dần dần đều đứng trong tư thế đối lập hoặc trở thành kẻ thù của ông Diệm. Ngay như hai ông Bùi Văn Thinh và Trần Chánh Thành, những người từng chia sẻ cay đắng, đồng lao cộng khổ với ông Diệm trong những năm 1954, 1955, mà rồi cũng bị bạc đăi để phải đi ra nước ngoài theo chính sách "được làm Vua thua làm Đại sứ". Kỹ sư Trần văn Bạch chỉ v́ không chịu hô "Ngô Thủ tướng muôn năm" trong lễ chào cờ mà bị mất chức, bị gán cho là thân B́nh Xuyên và bị theo dơi [10]. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, người bạn chí thân của ông Diệm, cuốí cùng rồi cũng theo phe cách mạng 1-11-63. Ông Nguyễn Văn Thoại làm Bộ trưởng mấy tháng rồi cũng chán nản từ chức bỏ nước ra đi v.v...
    Một điểm cần lưu ư ở đây là từ năm 1956, nghĩa là khoảng tám tháng sau khi truất phế Cựu hoàng Bảo Đại và thành lập nền Cộng Hoà, chính phủ ban hành đạo luật xem ngày 7 tháng 7 như một quốc lễ (lễ Song Thất) và đồng thời bài "Suy tôn Ngô Tổng Thống" được hát sau bài quốc ca trong tất cả mọi lễ chào quốc kỳ của tất cả mọi trường hợp (Bài hát đại ư tôn vinh cá nhân Ngô Tổng thống anh minh đă cứu nguy cho dân tộc), mà trong phần điệp khúc có câu “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống. Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm” đă được quần chúng nhại lại một cách châm biếm là "Toàn dân Việt Nam nhớ ăn tô hủ tiếu. Tô hủ tiếu, Tô hủ tiếu ngon ghê!". Lễ song thất và bài ca suy tôn Ngô Tổng thống là một sự bắt chước thô kệch và thất nhân tâm của ngày lễ Song Thập, vốn là quốc khánh của Trung Hoa Dân quốc để kỷ niệm ngày cách mạng Tân Hợi thành công (10-10-1911). Thô kệch về h́nh thức v́ một bên là vinh danh một cuộc cách mạng, một bên là suy tôn một cá nhân; và thất nhân tâm là v́ nội dung của nó, một bên mô tả lại một cuộc cách mạng gian khổ để đạp đổ nền quân chủ phong kiến, c̣n một bên mô tả lại một cá nhân “bao năm lê gót nơi quê người” mà ai cũng biết là "lê gót" để đi vận động chính trị chứ không phải xuất dương để đấu tranh cách mạng gian khổ.
    Tội nghiệp ông Diệm đă từng chống lại Bảo Đại rồi "lê gót" từ Việt Nam qua Rome, qua Mỹ mong cầu hai thế lực này đưa ông về nước làm lănh tụ, không ngờ ông c̣n buộc phải qua cái cầu Bảo Đại nữa mới mong làm được Thủ tướng. Theo linh mục Cao Văn Luận trong Bên Gịng Lịch Sử th́ giữa năm 1953, ông Diệm "lê gót" từ Mỹ qua Pháp mong cầu gặp Đức Quốc trưởng nhưng chờ chực ba tháng trời mà không được Quốc trưởng tiếp kiến làm cho ông bồn chồn, lo âu, bực tức đến phải trách móc than thở. Thấy thái độ lănh đạm của Cựu hoàng Bảo Đại, ông Diệm lại phải "lê gót" qua Bỉ để đợi thời. Cho đến khi Ngoại trưởng Foster Dulles yết kiến vua Bảo Đại để vận động cho ông Diệm, vua Bảo Đại mới chịu tiếp kiến ông Diệm và sau đó cử ông làm Thủ tướng.
    Chỉ là một Thủ tướng được Quốc trưởng chỉ định chứ không phải do con đường cách mạng mà lên cầm quyền cho nên các văn kiện như sắc lệnh, như Dụ, v.v... ông phải kư "thừa lệnh Đức Quốc trưởng". Sau khi thành lập chính phủ mà ông đă từng chỉ trích chống đối, ông Diệm cử Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ và ông Nguyễn Hữu Châu, một luật sư danh tiếng, anh em cột chèo với ông Ngô Đ́nh Nhu, đi tham dự hội nghị Genève thay thế phái đoàn của chính phủ Bửu Lộc do giáo sư Nguyễn Quốc Định cầm đầu; đồng thời bổ nhiệm ông Hoàng Cơ B́nh giữ chức chủ tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Bắc Việt thay thế ông Nguyễn Hữu Trí, Thủ hiến Bắc Việt, một nhân vật thuộc đảng Đại Việt.
    Trách nhiệm ông Diệm là phải bảo toàn tất cả những phần đất của phe quốc gia và nước Việt Nam phải toàn vẹn lănh thổ như ư nguyện của mỗi người quốc gia và như ông đă thề trước thánh giá và trước Quốc trưởng Bảo Đại. Nhưng ông đă hoàn toàn thất bại.
    Tại pḥng hội lớn của Liên Hiệp Quốc tại Genève, trưởng phái đoàn Việt Nam là Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, mặc dù khả năng lư luận có thừa và ḷng yêu nước cuồn cuộn, vẫn không ngăn được kết quả của một thế cờ đă được sắp sẵn rồi. Thế cờ oan nghiệt cắt đứt đất nước thành hai miền để những thoả hiệp của các cường quốc có thể thành h́nh trên máu lệ của 25 triệu người dân Việt Nam.
    Thư mà cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ gởi cho tôi đính kèm trong phần Phụ lục là một tài liệu lịch sử quư giá nói lên nỗi đau ḷng của một nhà Ngoại giao thất thế. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đă không khóc lóc tại hội nghị Genève như một số người viết sử đă thêu dệt, vô t́nh tạo cơ hội cho Cộng Sản tuyên truyền; ngược lại, chính ông đă phản đối kịch liệt Thủ tướng Mendès-France, trưởng phái đoàn Pháp, đ̣i hỏi Pháp phải đưa ra lời tuyên bố long trọng công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ít ra, trong những giây phút cô đơn và tuyệt vọng nhất, ông cũng đă phơi bày được tấm ḷng son với đất nước quê hương.
    C̣n tại Bắc Việt, ông Hoàng Cơ B́nh, chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt nhất định không muốn rút lui khỏi miền Bắc, ông thành lập trung đoàn Thủ Đô để bảo vệ Hà Nội. Người Pháp thấy thái độ cứng rắn của ông có thể gây trở ngại cho việc thi hành những điều quy định của hiệp ước Genève nên làm áp lực với Thủ tướng Diệm cất chức ông ta. Ông Diệm đành phải nhượng bộ người Pháp và cử ông Lê Quang Luật đang làm Bộ trưởng Thông Tin tại Sài G̣n ra Hà Nội thay thế ông Hoàng Cơ B́nh, giải tán trung đoàn Thủ Đô và tổ chức cuộc triệt thoái các cơ cấu quốc gia trong ṿng 300 ngày theo qui định của hiệp ước Genève.
    Trước đó và cách đó gần trọn nửa trái cầu, vào buổi chiều ngày 20 tháng 7 năm 1954, Molotov, trưởng phái đoàn Nga Sô, triệu tập một buổi họp không chánh thức tại biệt thự Le Bocage nơi ông ta đang trú ngụ, ông Bedell Smith của phái đoàn Mỹ và Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ không được mời tham dự. Hiện diện tại buổi họp có Mendès-France, Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Eden của Anh, và ông Phạm Văn Đồng. Ông Đồng mở đầu bằng đề nghị chia đôi Việt Nam theo vĩ tuyến 16, Mendès-France vẫn nhất định đ̣i vĩ tuyến 18. Sau một hồi bàn căi quyết liệt, cuối cùng Molotov lớn tiếng: "Thôi hăy đồng ư với nhau vĩ tuyến 17 đi" và đề tài thảo luận chuyển qua thời biểu cho cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước.[11]
    Số phận Việt Nam thế là được định đoạt bằng một câu nạt nộ của một viên chức người Nga trong một biệt thự kín cổng cao tường của nước Thuỵ sĩ. Không có ai trong buổi họp lịch sử đó là người phía Việt Nam quốc gia cả.
    Hiệp ước 20-7-54 này qui định chấm dứt mọi hành động thù nghịch giữa các phe lâm chiến, tạm chia nước Việt thành hai miền tại vĩ tuyến thứ 17 trong lúc chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử toàn quốc vào mùa hè năm 1956. (Theo nhiều sử sách ngoại quốc th́ trước cuộc họp tại biệt thự Le Bocage, Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Trung Cộng, đă gặp riêng ông Phạm Văn Đồng và cho biết là phải chấp nhận vĩ tuyến 17).
    Như vậy là sau 10 năm máu lửa và với hơn bốn trăm ngàn thường dân và quân nhân chết cả ở hai phía, chủ nghĩa, chế độ, xă hội và con người Cộng Sản bắt đầu công khai xuất hiện và quản trị miền Bắc. C̣n tại miền Nam Việt Nam, chủ nghĩa và chế độ gọi là quốc gia bắt đầu biến mất để nhường lại cho một chủ nghĩa và một chế độ gọi là “chống Cộng kiểu Công Giáo”, dù Hiến pháp có gọi là nước Cộng Hoà, có gọi định chế quốc gia là Tổng thống chế, và dù giai tầng lănh đạo có gọi chủ thuyết chỉ đạo quốc gia là nhân vị.
    *-o0o-
    *Cuối tháng Bảy, tuy chưa măn khoá nhưng lớp của chúng tôi cũng phải xuống Hải Pḥng đợi tàu di tản vào Nam. Năm giờ chiều, con tàu Saint Michel từ từ rời bến. Đứng trên boong tàu, tôi nh́n lại quê hương miền Bắc lần chót, ḷng tái tê trước cảnh biệt ly.
    Miền Bắc không phải là nơi chôn nhau cắt rốn nhưng Bắc-Trung-Nam như đầu ḿnh và tay chân, nối liền máu xương ruột thịt, nay miền Bắc rơi vào tay Cộng Sản, quê hương Quảng B́nh của tôi rơi vào tay Cộng Sản, tôi đau đớn như thấy mất đi một phần thân thể của mẹ hiền. Theo Gia phả họ Đỗ nhà tôi th́ nơi xuất phát của gịng họ tôi vốn nằm ở mạn Sơn Tây, Bắc Việt gần vùng đất Hùng Vương dựng nước. Nhưng v́ cuộc cờ biến thiên, hoặc v́ loạn ly, hoặc v́ những đợt hưng vong của các triều đại, một số con cháu họ Đỗ theo đà Nam tiến của dân tộc trôi dạt đến đất Quảng B́nh, dừng lại trên bờ sông Linh Giang sau dăy đèo Ngang, lập thành làng Thổ Ngọa. Căn cứ vào truyền thuyết và gia phả th́ tổ tiên chúng tôi thuộc ḍng dơi thiền sư Đỗ Thuận. Theo Việt Nam Phật Giáo sử Luận của Nguyễn Lang (tức Thượng Toạ Thích Nhất Hạnh) và Hai ngàn năm Việt Nam và Phật Giáo của Lư Khôi Việt th́ "Thiền sư Đỗ Thuận xuất gia hồi c̣n thơ ấu, có thiên tài về thơ phú và văn chương, được học giả Lê Quư Đôn có thơ truy tặng: "Câu thơ Pháp Thuận, sứ Tống khen hay. Bài ca Chân Lưu nổi danh một thủa". Chính ông cùng với thiền sư Khuông Việt đă dùng nghệ thuật phù sấm giúp Lê Hoàn nắm lấy quyền bính trong cuộc đảo chánh ôn hoà năm 980. Trong buổi đầu sáng nghiệp của triều Lê, ông có công thiết kế và quyết định chính sách quốc gia, nhưng khi thiên hạ đă thái b́nh rồi th́ không chịu nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành rất kính trọng, không gọi tên, chỉ xưng họ là Đỗ Pháp sư mà thôi." [12]
    Cho nên hôm nay xa đất Bắc, ĺa quê cha đất tổ của thời xa xưa, chẳng những tôi phải ly cách một phần quê hương ruột thịt mà c̣n vĩnh biệt luôn miền đất của gốc rễ cội nguồn. Giờ đây, núi Tản Viên ghi dấu Quốc Tổ Hùng Vương, sông Hồng Hà bao phen nhuộm máu quân thù phương Bắc, Hà Nội ba mươi sáu phố phường, thành cũ Thăng Long ngàn năm văn vật với chùa Trấn Quốc, hồ Hoàn Kiếm, g̣ Đống Đa, đền Ngọc Sơn, tất cả núi sông hùng vĩ, cảnh vật cẩm tú yêu kiều chỉ c̣n là những h́nh bóng của tâm tưởng trong cảnh trời chiều bảng lảng, để rồi vỡ tung thành vạn mảnh kư ức khi con tàu từ từ ĺa bến Cảng ra khơi. Ḷng tôi se thắt lại.
    Đến Sài G̣n, những lớp học của chúng tôi được chuyển vào Bộ Tổng Tham Mưu để tiếp tục cho đến ngày măn khoá gần cuối tháng 9. Trong lúc đó th́ đài phát thanh quân Đội của tướng Hinh vẫn ra rả ngày đêm công kích, đả phá, thách thức Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm.
    Ngày chúng tôi măn khóa, tướng Nguyễn Văn Hinh cho tổ chức một buổi tiệc trà tại nhà riêng của Đại tá Trần Văn Đôn ở Chợ Lớn vào lúc 7 giờ chiều để chúc mừng các sĩ quan tốt nghiệp. Khi chúng tôi đến nơi th́ đă thấy tề tựu nhiều sĩ quan như Đại tá Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Văn Minh, các Trung tá Nguyễn Khánh, Trần Tử Oai, Dương Văn Đức... và những sĩ quan thuộc pḥng hai, pḥng năm, và pḥng sáu, pḥng chiến tranh Tâm Lư, Nha An Ninh Quân đội, nghĩa là những sĩ quan thuộc bộ phận chính trị và t́nh báo, những sĩ quan thân thuộc của tướng Nguyễn Văn Hinh. Độ chín giờ tối, tướng Hinh mới đến, theo sau là cả một đoàn xe hộ tống có cả xe Jeep trang bị trung liên. Ông ra lệnh cho tất cả các sĩ quan trong buổi tiệc đứng ṿng tṛn chung quanh ông. Sau khi ông nói mấy lời chào mừng các sĩ quan măn khoá các lớp quân sự, đến lượt các sĩ quan phụ tá của ông phát biểu ư kiến. Tất cả đều dùng một thứ ngôn từ và một thứ luận điệu để nặng lời đả kích, hạ nhục Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm. Họ chê ông là Tuần Vũ, là ngu thần của phong kiến thối nát, là tay sai của Đế quốc tư bản Mỹ, là trốn tránh ra nước ngoài để vận động làm Thủ tướng trong lúc quân dân hy sinh xương máu chống Cộng Sản, là ngồi mát ăn bát vàng... Cuối cùng một sĩ quan trẻ thuộc pḥng Năm tóm lược các lời tŕnh bày rồi đề nghị quân đội phải đảo chánh ông Diệm để cứu lấy miền Nam. Họ c̣n ví ông Diệm là một thứ Farouk và kêu gọi tướng Hinh noi gương Nasser, người hùng Ai Cập. Họ hô hào là thời cơ đă đến cho tướng Hinh cướp lấy chính quyền. Tướng Hinh và tất cả các sĩ quan thuộc hạ của ông nh́n tôi với đôi mắt vừa chế diễu vừa khiêu khích v́ họ biết quá rơ tôi là cán bộ cốt cán của ông Diệm.
    Bao vây bởi một nhóm người thù nghịch làm cho máu căm thù sôi sục trong tim gan tôi. Trong giây phút đó, trong khung cảnh đó, tôi chợt nhớ đến Ngự sử Phan Đ́nh Phùng, trước ba trăm cấm binh của Tôn Thất Thuyết mà vẫn can đảm đứng lên oai dũng kết tội viên phụ chánh lộng quyền độc ác, dám trái lời uỷ thác của vua Tự Đức khi vua vừa mới băng hă: "Đức Tiên Hoàng vừa mới nhắm mắt mà ngài đă làm việc trái nghịch di chiếu như thế thật không c̣n đạo nghĩa quần thần một chút nào. Huống chi Tân quân (vua Dục Đức) chưa có lỗi ǵ mà ngài định làm việc phế lập càn dỡ đó, sao cho phải lẽ?" Nhớ lại thái độ gan dạ của chí sĩ Phan Đ́nh Phùng trước một triều thần mục nát, xuẩn động, tôi chợt quên hẳn hoàn cảnh của một quân nhân trước thượng cấp mà chỉ c̣n bùng lên ḷng căm phẫn của một cán bộ mà lư tưởng và lănh tụ của ḿnh đang bị xúc phạm. Không một chút phân vân, tôi bèn giơ tay xin phát biểu ư kiến: "Thưa Trung tướng, tôi xin hỏi ai đă làm mất nửa nước, có phải là tại thực dân và tay sai không? Vậy tại sao Trung tướng và các sĩ quan không kết tội thực dân và tay sai mà lại công kích ông Diệm một cách vô ư thức như thế. Tôi xin hỏi ông Diệm mới về nước cầm quyền, ông đă làm những lỗi lầm ǵ mà đ̣i đảo chánh ông ta? ". Thiếu tá Lam Sơn đứng bên tay mặt của tôi, thúc cùi chỏ vào hông tôi và nói nhỏ: “Đừng nói nữa mà nguy hiểm”. Nhưng tôi vẫn hùng hồn lên án tướng Hinh và tay sai thực dân, càng nói tôi càng to tiếng hơn. Trung tá Trần Đ́nh Lan, một loại Tây da vàng, con của bác sĩ Trần Đ́nh Quế, từng làm bác sĩ ở tỉnh tôi, từng làm Thị trưởng Đà Lạt mà tôi biết cả lai lịch gia đ́nh rất rơ, rút súng lục chĩa vào mặt tôi mà nói lớn: "Mày có im miệng không, nói nữa tao bắn tan xác". Đại uư Nguyễn Chánh Thi đứng phía trái tôi vội giơ tay lên can. Từ đó buổi họp nhuộm bầu không khí nghẹt thở nặng nề trong khi nhóm tay chân bộ hạ của tướng Hinh xầm x́ to nhỏ. Tôi t́m một chiếc ghế ngồi xuống, mặt hầm hầm chờ đợi tướng Hinh ra lệnh bắt giam. Nhưng rồi ông ta vẫn để tôi yên. Sau này tôi nghe nói lại rằng ông Hinh định đảo chánh ông Diệm xong mới bắt tôi v́ bắt lúc bấy giờ sợ mang tiếng. Tiệc tàn, tôi và Đại uư Nguyễn Chánh Thi cùng về, c̣n có một số sĩ quan trẻ đi theo vừa để bảo vệ, vừa để bộc bạch sự ngưỡng mộ. Trung uư Nguyễn Huỳnh, người Công giáo (sau này là một đảng viên Cần Lao, Trung tá phụ tá cho tôi ở Nha An Ninh Quân Đội) giở mũ và nói: "Đàn em xin kính phục đàn anh, vào hang hùm mà không sợ cọp. Đàn em xin "chapeau".
    Vốn có ư thức chính trị lại nắm vững t́nh h́nh quân đội, tinh thần sĩ quan nên tôi đă dự liệu rất đúng tham vọng và ư đồ của tưóng Nguyễn văn Hinh và phe nhóm của ông ta đối với Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm. Về phần tôi, đă trải bao gian nguy mà tôi c̣n không e ngại th́ sá ǵ những kẻ tay sai thực dân, đầu óc vơ biền, ham lợi danh, không hiểu biết ǵ thời thế.
    Ngay tối hôm đó, khoảng nửa đêm, tôi vào dinh Độc Lập xin yết kiến Thủ tướng và kể lại cho ông Diệm nghe sự t́nh bữa tiệc vừa qua, đồng thời tŕnh bày những nhận định của tôi về ư đồ đảo chánh của tướng Hinh. Ông Diệm nghe xong chỉ khuyên tôi lần sau đừng liều như thế, nhưng trông ông có vẻ buồn rầu và hết sức ưu tư. Sáng hôm sau, ông sai ông Ngô Đ́nh Luyện đến nhà tướng Hinh tại Chợ Lớn để điều đ́nh, nội dung điều đ́nh như thế nào tôi cũng không rơ.
    Thái độ cương quyết và hung hăn đó của tướng Hinh cộng với những áp lực của Pháp và cuộc nổi loạn của B́nh Xuyên sau này đă có lúc làm cho ông Diệm dự định bỏ nước ra đi như Linh mục Cao Văn Luận đă mô tả trong cuốn "Bên Gịng Lịch Sử".
    Từ ngày ông Diệm về làm Thủ tướng, tướng Hinh đă bày tỏ thái độ bất măn của ông bằng cách cho đài phát thanh Quân Đội liên tục đả kích ông Diệm, mặt khác thành lập một tổ chức bí mật, "Đảng Con Ó", để làm hậu thuẫn chính trị cho ông ta, đồng thời bố trí bốn tiểu đoàn tại những địa điểm huyết mạch của Đô Thành. Tôi c̣n nhớ một trong bốn tiểu đoàn này do Đại uư Albert Cao chỉ huy [13], người mà sau này nhờ là tín đồ Công Giáo nên lại được ông Diệm tin cậy và trọng dụng.
    Suốt mùa hè năm đó, tướng Hinh phối hợp với nhóm B́nh Xuyên của Bảy Viễn t́m cách khiêu khích và âm mưu phá hoại tân chính phủ, đặc biệt nhắm vào cá nhân ông Diệm. Hinh cho pḥng Năm in truyền đơn rải khắp Sài G̣n-Chợ Lớn kết án ông Diệm. Đă có lần ông Diệm yêu cầu vua Bảo Đại giải nhiệm tướng Hinh nhưng không nhận được trả lời. Biết vậy, tướng Hinh lại càng lộng hành hơn, đến độ mặc thường phục cỡi xe mô tô chạy trên các phố chính của Thủ đô để dương oai với dân chúng và để thách thức quyền hành của Thủ tướng phủ.
    Trước những khiêu khích và khinh thường đó, tôi chỉ thấy ông Diệm liên lạc với phía người Mỹ để nhờ can thiệp, và riêng ông Nhu th́ không h́nh thành nổi một lực lượng quần chúng để có phản ứng thích hợp. Những đồng chí cán bộ cũ, hoặc bị tê liệt v́ bị vướng mắc vào bộ máy nhà nước chưa chạy nhịp nhàng, hoặc v́ quá tŕnh hoạt động chưa bao giờ kết tinh thành một tổ chức đấu tranh có qui củ, nên lúc đó, mỗi người, trong cương vị của ḿnh, tự lấy sáng kiến mà hoạt động riêng rẽ.
    Trong t́nh trạng đó, tôi ráo riết đi khắp các đơn vị ở thủ đô để phát hiện và động viên các sĩ quan tâm huyết hăy biết phân biệt chính tà, hăy biết phân biệt vấn đề sống chết của quốc gia, của quân đội, và đặt họ trước một sự chọn lựa dứt khoát giữa Thủ tướng Diệm hay tay sai của thực dân Pháp. Tôi vận động được một số khá đông sĩ quan trẻ, đặc biệt có Trung uư Nguyễn Hữu Hạnh, một cộng sự viên thân tín của Đại tá Dương Văn Minh, đang là Chỉ huy trưởng Quân vụ Thị trấn Sài G̣n-Chợ Lớn. Tôi chỉ thất bại một lần khi lên Trung tâm Quang Trung để tuyên truyền cho Trung tá Trần Tử Oai. Oai hầm hầm nhục mạ ông Diệm và gần như muốn đuổi tôi ra khỏi văn pḥng (ông Oai hiện ở Pháp).
    Trong lúc đó th́ từ tháng 6 năm 1954, nghĩa là khi hiệp định Genève chưa ra đời, và một tháng trước khi ông Diệm được bổ nhiệm làm Thủ tướng, đại tá Edward G. Lansdale đă có mặt ở Việt Nam với một nhóm chuyên viên t́nh báo khoảng 15 người nằm trong Phái Bộ Quân Sự Sài G̣n (Saigon Military Mission) với hai nhiệm vụ rất rơ ràng: Thứ nhất, tiêu diệt khả năng phá hoại của t́nh báo Pháp và tay sai để dọn đường cho ông Diệm dễ dàng củng cố quyền lực; và thứ hai là xây những viên đá đầu tiên làm cơ sở cho sự hiện diện chính trị hợp pháp và tất yếu của người Mỹ tại Việt Nam. Sau đó, một cách chính thức hơn, tướng Collins xuất hiện bên cạnh Thủ tướng Diệm và ngân sách viện trợ ba trăm triệu Mỹ kim được Ngoại trưởng Dulles tháo khoán cho Việt Nam. Ở một kích thước khác và bí mật hơn, Thiếu tá Lucien Conein (thuộc hạ của Lansdale) chỉ huy một kế hoạch phá hoại miền Bắc trước, trong và sau khi hiệp định Genève có hiệu lực.
    Cuối tháng Chín, tôi được lệnh Tổng Tham Mưu trở về tŕnh diện đơn vị cũ ở Nha Trang thuộc phân khu Duyên Hải, lúc bấy giờ do Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ làm tư lệnh. Tại Nha Trang c̣n có Thiếu tướng Nguyễn Văn Vận, tư lệnh quân khu 3, đóng bộ chỉ huy tại đây và một số đơn vị khác từ miền Bắc di cư vào tạm trú để được chờ tái phối trí về các đơn vị địa phương khác. Vài ngày trước khi ra đi, tôi tŕnh bày với ông Vơ Văn Hải và bác sĩ Bùi Kiện Tín (hiện ở Mỹ) ư định sẽ tổ chức một chiến khu tại vùng Duyên Hải để ông Diệm có thể trở về sử dụng như một căn cứ địa trong trường hợp ông Diệm bị tướng Hinh đảo chánh đánh bật ra khỏi Sài G̣n.
    * Bác sĩ Bùi Kiện Tín là một người đă từng ủng hộ ông Diệm từ trước năm 1945, gia đ́nh ông đă giúp đỡ nhiều cho ông Diệm khi ông Diệm c̣n ở với em là Ngô Đ́nh Luyện tại số 2 đường Armand Rousseau trong Chợ Lớn. Năm 1954, bác sĩ Tín trở thành bác sĩ riêng của ông Diệm và sau đó thay ông Lê Quang Luật làm Bộ trưởng Thông Tin, khi ông Luật ra Bắc nhận chức Đại biểu Chính phủ tại Bắc Việt.
    Sau khi nghe tôi tŕnh bày, bác sĩ Tín đề nghị tôi nên thông báo kế hoạch đó cho Phái bộ Quân sự Mỹ biết, và sáng hôm sau, bác sĩ Tín dẫn con là ông Bùi Kiến Thành (hiện ở Pháp) và hai người Mỹ phụ tá cho Lansdale vào dinh Độc Lập, nơi tôi đang tạm trú để t́m gặp tôi. Tôi tŕnh bày về nguyên tắc tổng quát cho họ biết rằng quân đội Việt Nam tại miền Trung, do một số sĩ quan tâm huyết chỉ huy, nhất định sẽ chống đối tướng Hinh và người Pháp đến kỳ cùng. Nếu ông Diệm bị lật đổ bằng bất kỳ phương cách nào và bởi bất kỳ thế lực nào th́ chúng tôi sẽ xây dựng miền Trung thành một quốc gia độc lập để vừa chống Cộng sản ở phương Bắc, vừa đuổi tay sai Pháp ở phương Nam. Hai người Mỹ không tranh luận với tôi, họ chỉ ghi nhận và cố t́m thêm chi tiết, họ ngỏ lời ca ngợi tinh thần quốc gia của chúng tôi và hứa sẽ báo cáo lên thượng cấp chủ trương lập Chiến khu của chúng tôi.
    Ư thức chính trị cho tôi biết rằng giai đoạn này là cái cơ duyên lịch sử duy nhất để dân tộc có thể chấm dứt vĩnh viễn sự hiện diện nặng nề và ung thối của thực dân Pháp trên đất nước tôi. Vậy th́ dù có hay không có ông Diệm, tôi cũng phải t́m cách khai dụng cái cơ duyên này. Bắc chống Cộng, Nam đuổi Tây chỉ là cái thế tất yếu nhưng có phần nguy hiểm hơn Khổng Minh ngày xưa muốn thành h́nh chiến lược tam phân, Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo. Nhưng có chống được Cộng Sản ở phương Bắc và có đuổi được tay sai Pháp ở phương Nam hay không, lúc bấy giờ, đối với tôi, chưa phải là lúc ngồi nghiên cứu tính cách khả thi của nó. Tôi chỉ biết là phải ủng hộ ông Diệm cho cái thế cờ đuổi Pháp chống Cộng thành h́nh. C̣n nếu ông Diệm không c̣n th́ tuy cách đánh cờ có khác nhưng thế cờ vẫn phải như vậy.
    *********** Về đến Nha Trang, tôi đến gặp Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ ngay. Ông Lễ là người tâm huyết nhưng ít mưu cơ. Tôi tŕnh bày cho ông biết rằng nếu ông Diệm phải ra đi hay bị lật đổ th́ người Pháp sẽ thi hành hiệp định Genève, nghĩa là sau hai năm, Cộng Sản sẽ chiếm trọn miền Nam để thống nhất đất nước. Cho nên dù có chết bây giờ hay sau hai năm th́ cũng là chết, quân đội Việt Nam phải có thái độ và hành động cụ thể để cứu ông Diệm bây giờ tức là cứu cho miền Nam mai sau. Tôi bàn với ông Lễ là sẵn ông đang làm Tư lệnh Phân khu Duyên Hải, có lực lượng quân đội trong tay, lại thêm những sĩ quan chỉ huy trưởng các tiểu khu, các tiểu đoàn đều là người thân tín với ông hết, công việc lập chiến khu biến miền duyên hải thành đất Ba Thục không khó khăn ǵ. Điểm khó khăn duy nhất là sự hiện diện của tướng Vận, nguyên Tư lệnh Quân khu 3 từ Bắc vào, đang đóng tại Nha Trang.
    Tôi liền đề nghị ông Lễ triệu tập ngay một buổi họp gồm có Trung tá Nguyễn Quang Hoành, chỉ huy trưởng tiểu khu Phan Thiết, Thiếu tá Thái Quang Hoàng, chỉ huy trưởng tiểu khu Phan Rang, Thiếu tá Huỳnh Công Tịnh, chỉ huy trưởng tiểu khu Nha Trang, và Đại uư Lê Khương, chỉ huy tiểu đoàn 82 đóng tại thành Diên Khánh cách tỉnh lỵ Nha Trang 10 cây số. Ngày hôm sau, cuộc họp diễn ra tại nhà ông Lễ gần bờ biển. V́ đă có kế hoạch sẵn nên tôi tŕnh bày chi tiết cho anh em thảo luận thêm, c̣n ông Lễ th́ khôn khéo kích động ḷng yêu nước của anh em để cuối cùng buổi họp đi đến quyết định chung là phải cứu ông Diệm. Bốn ngày sau, một cuộc họp mật khác được tổ chức tại một địa điểm trong một dăy núi thuộc huyện Sơn Hải phía đông tỉnh Ninh Thuận. Tham dự buổi họp này, ngoài sự hiện diện của anh em quân nhân, tôi c̣n mời thêm ba người dân sự toàn là bạn thân của tôi và có thể nói họ là những chiến sĩ kiên cuờng. Đó là Phan Xứng từ Đà Lạt xuống, Nguyễn văn Hay ở Phan Rang, và Tạ Chí Diệp, tức Nguyễn Phan Châu cháu gọi cụ Tạ Chương Phùng bằng Bác, từ Qui Nhơn vào. Về phía quân sự c̣n có Đại uư Nguyễn Khương và Trung uư Hà Quang Giác, những sĩ quan tâm huyết và có ḷng yêu nuớc rất cao. (Nguyễn Khuơng vốn là cộng sự viên với tôi khi c̣n làm chủ nhiệm tuần báo "Tiếng Gọi" ở Huế). Chúng tôi phân công cho Thái Quang Hoàng lập chiến khu Đông. Tạ Chí Diệp sẽ đưa 50 thanh niên đảng viên của anh ta từ B́nh Định vào chiến khu để làm cán bộ chính trị ṇng cốt, Đại uư Nguyễn Khương phụ trách thông tin tuyên truyền. Phan Xứng về Đà Lạt lo đối phó với Ngự Lâm Quân. Chúng tôi nhờ linh mục Nguyễn văn Sồ (ở cách Nha Trang 5 cây số) lo việc in truyền đơn, c̣n nhà thờ của Cha sẽ biến thành trụ sở bí mật. Thiếu tá Nguyễn Quang Hoành nắm lấy tỉnh Phan Thiết và Đại uư Nguyễn Khương về Khánh Hoà sửa soạn đem quân lên núi tổ chức thêm chiến khu. Sắp đặt xong, ông Lễ và tôi về lại Nha Trang và cho Đại uư Huỳnh văn Cao vào mật tŕnh với dinh Thủ tướng.
    Yếu tố mấu chốt của kế hoạch này là thành lập được vài chiến khu để gây thanh thế và tạo áp lực chính trị về Sài G̣n. Áp lực chính trị này xuất phát từ cả quân lẫn dân th́ sẽ là một đ̣n bẩy lớn giúp ông Diệm thêm sức mạnh trong thế chính trị mà ông phải đương đầu. Nhưng mặt khác, yếu tố mấu chốt đó cũng là điểm có nhiều sơ hở nhất trong kế hoạch v́ chúng tôi không có nhiều th́ giờ để chuẩn bị chu đáo hầu tạo nên yếu tố bất ngờ. V́ vậy, sau khi Thiếu tá Thái Quang Hoàng di chuyển đuợc một số đơn vị lên Chiến khu Đông rồi th́ t́nh báo của Pháp phúc tŕnh cho Bộ Tham Mưu và tướng Hinh có phản ứng quyết liệt liền.
    Tướng Hinh đánh công điện ra lệnh cho tuớng Vận nắm toàn quyền chỉ huy Phân khu Duyên Hải và Đại tá Lễ phải lên đường tŕnh diện Bộ Tổng Tham mưu tức khắc để nhận lệnh thuyên chuyển đi làm Chỉ huy trưởng đặc khu Phú Quốc. Được t́nh báo cho biết ông Lễ và tôi là hai nguời chủ lực trong kế hoạch này, tướng Vận bèn cho một trung đội đến "hộ tống" ông Lễ* lên máy bay vào Sài G̣n, và đến phi trường Tân Sơn Nhất th́ có sĩ quan của tướng Hinh đón về Bộ Tổng Tham mưu. Trên đuờng từ phi trường về, ông Lễ đă lừa được vị sĩ quan an ninh đó, cầm lấy tay lái xe rồi chạy thẳng vào dinh Thủ Tuớng và tạm trú tại đó luôn.
    Riêng phần tôi th́ Tướng Vận cũng cho một trung đội đến bao vây nhà để bắt giam, nhưng tôi trốn được chỉ 5 phút trước đó và đến trú ẩn tại nhà thờ của linh mục Nguyễn Văn Sồ. Mấy ngày sau, Đại uư Nguyễn Vinh, chỉ huy trưởng Tiểu đoàn Danh dự Phủ Thủ tướng tuớng, mặc thuờng phục đến t́m tôi và chuyển lệnh của ông Diệm gọi tôi vào Sài G̣n ngay có công tác quan trọng. Tôi vào đến dinh Thủ tướng đợi ba ngày mà không gặp được ông Diệm, chỉ được ông Vơ Văn Hải (lúc bấy giờ đă là Chánh văn pḥng Phủ Thủ tuớng ) cho biết là "Cụ đang bận lắm, anh cứ đợi đó”. Thế là ông Lễ và tôi cứ ở mấy ngày liền trong pḥng riêng của ông Vơ Văn Hải tại dinh Thủ tướng.
    T́nh h́nh Thủ đô mỗi ngày một căng thẳng, các đơn vị quân đội, cảnh sát và các giáo phái đều ở trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Tướng Collins, Đặc phái viên của Tổng thống Eisenhower, bất đồng quan điểm với ông Diệm trong khi Đại tá Lansdale th́ lại hết ḷng ủng hộ ông Diệm. Sự mâu thuẫn nội bộ của các viên chức cao cấp Mỹ làm cho hoạt động của vị tân Thủ tướng bị đ́nh trệ và lúng túng, và cũng làm cho tướng Hinh thêm quyết liệt trong ư định lật đổ ông Diệm.
    Một hôm, trong pḥng riêng của ông Vơ Văn Hải, Đại tá Lễ, bác sĩ Tín, Tạ Chí Diệp, Hải và tôi đang ngồi nói chuyện th́ hai ông Luyện và Nhu vào. Ông Luỵện hướng về Đại tá Lễ và tôi rồi nói: " Cụ thương hai anh nên muốn hai anh đi Hoa Kỳ tu nghiệp thêm. Hai anh sửa soạn hành lư rồi đợi giấy tờ xong th́ đi".
    Từ khi mới vào Sài G̣n, tôi đă ngạc nhiên về việc ông Diệm gọi gấp vào mà cứ bắt tôi chờ không giao cho một công tác nào, rồi ông Vơ Văn Hải suốt cả tuần nay, sau mỗi ngày làm việc cho ông Diệm, tối về pḥng lại kể cho chúng tôi biết "ông Cụ đang rất buồn rầu chán nản trước nhiều khó khăn", cho nên khi nghe ông Luyện nói hết sự thật rằng việc cho ông Lễ và tôi, hai sĩ quan đă công khai dùng biện pháp quân sự để chống tướng Hinh, đi Mỹ là v́ có ư thương muốn cho chúng tôi đi trước để rồi ông sẽ đi sau mà không sợ cộng sự viên bị trả thù. Tôi vội trả lời ông Luyện: "Mười mấy năm trời theo Cụ đấu tranh biết bao gian khổ mà tôi không sờn ḷng, nay Cụ đă về nước để cầm quyền, đă ngồi đàng hoàng trong dinh Độc Lập mà lại phải bỏ cuộc ra đi th́ thật là vô lư. Tôi không đi đâu hết". Ông Luyện có vẻ bực ḿnh nói; "Vậy anh ở nhà để làm ǵ?" Tôi cũng bực ḿnh trả lời lại: "Nếu Cụ không c̣n nắm chính quyền, và nếu tôi bị đuổi khỏi quân đội, tôi sẽ về nhà đi buôn nước mía, có sao đâu!" Ông Nhu từ đầu vẫn không nói một tiếng nhưng đến đây th́ ông mỉm cười, có lẽ v́ biết không thuyết phục được chúng tôi, ông bèn kéo ông Luyện đi ra. Sau này nhờ thời gian và các nhân chứng kể lại, nhờ các biến cố tiếp theo cũng như nhờ càng ngày càng hiểu rơ thêm tính t́nh ích kỷ, hẹp ḥi của anh em nhà Ngô, ông Lễ và tôi biết được rằng việc hai anh em ông Luyện và Nhu cùng vào thuyết phục chúng tôi đi Mỹ thật ra chỉ là một âm mưu. Họ định hy sinh loại bỏ chúng tôi và cả ông Thái Quang Hoàng (chiến khu Đông) nữa, để dùng như một trong nhiều điều kiện để thoả hiệp với tướng Hinh đừng chống đối, đừng đảo chánh. (Tôi vẫn nghĩ rằng điều kiện của tướng Hinh chỉ là kế hoăn binh của ông ta mà thôi, thâm tâm và chủ trương của tướng Hinh và Pháp vẫn luôn luôn muốn lật đổ ông Diệm).
    Ở đời, thường thường hết chim mới bẻ cung, ăn xong cháo mới đá bát. Trường hợp này, anh em ông Diệm chỉ mới gần hết chim, chỉ ăn sắp xong bát cháo, binh lửa vẫn c̣n ầm ĩ mà đă xuống tay hy sinh cộng sự viên rồi. Tuy xót xa nhưng cũng là thường t́nh, v́ lúc đó nếu ông Diệm nói thẳng với tôi về nhu cầu phải chấm dứt mọi hoạt động chính trị quân sự tại miền Trung, hoặc nếu cần cứ nói thẳng với tôi là tự tê liệt hoá mọi hoạt động th́ chắc chắn tôi cũng sẵn sàng trả quân phục, cấp hiệu lại cho quân đội để về làm một cán bộ đấu tranh trong quần chúng. Nhưng ông Diệm và anh em của ông đă không làm như thế, đă không hành xử đúng cung cách của một bậc lănh đạo đối với đồng chí của ḿnh, hay ngay cả không đúng tư cách của một người tầm thường nhưng có tâm chất yêu nước và có đạo đức cách mạng.
    Sau này, chúng tôi biết thêm được sở dĩ ông Diệm không c̣n* ư định "bỏ nước ra đi" nữa là phần lớn là nhờ những vận động chính trị và hoạt động cụ thể của Đại tá Lansdale nhằm chia rẽ và thu phục phe đối lập, đồng thời khuyên giải và gây niềm tin nơi ông Diệm, nhưng một phần khác cũng nhờ thái độ cương quyết của ông Ngô Đ́nh Cẩn và lực lượng cán bộ ở Huế, trong t́nh trạng thiếu những tin tức chính xác để có thể lượng định t́nh h́nh, đă cứng rắn một cách liều lĩnh nhất định bắt buộc ông Diệm phải tiếp tục nắm quyền. Chính ông Nguyễn Đôn Duyến, Đại biểu Chính phủ ở Trung phần, đă thảo nội dung công điện đánh vào Sài G̣n.
    Hai ông Luyện và Nhu đă ra khỏi pḥng rồi mà ông Lễ và tôi vẫn c̣n bàng hoàng về quyết định của ông Diệm gởi hai chúng tôi đi Mỹ, dù bấy giờ quyết định đó không c̣n được thi hành nữa. Tạ Chí Diệp, người bạn trẻ trí thức, chí lớn tài cao của tôi, người đă từng phụ trách bộ phận chính trị của Chiến khu Đông, hậm hực kéo tôi ra hành lang tâm sự "Đă muốn làm cách mạng, muốn cầm chính quyền th́ khó khăn nguy nan mấy cũng phải kiên cường gian khổ đấu tranh, sao ông Cụ và hai ông Nhu Luyện mau thối chí đến thế. Bác xem lại coi liệu chúng ta có lầm ủng hộ cho một gia đ́nh phong kiến tầm thường không?..." Tôi vội chận Diệp lại: "Cứ từ từ cho Cụ Diệm làm việc đă, chưa nên có ư nghĩ đó vội, dù sao c̣n nước ta c̣n tát".
    Tuy nhiên, từ đó Tạ Chí Diệp xa lánh dần nhà Ngô, không c̣n liên hệ với anh em ông Diệm nữa. Cho đến khi bác của Diệp là cụ Cử Tạ Chương Phùng bị nhà Ngô chê bai là quê mùa cổ hủ, tỏ thái độ vong ân bội phản, Diệp càng thêm bất măn bèn liên lạc với B́nh Xuyên để chống đối lại Thủ tướng Diệm. Diệp đă tổ chức nhiều cuộc biểu t́nh phản đối nhà Ngô ngay trước dinh Độc Lập, do đó Diệp bị bắt và bị giam chung với cán bộ Cộng Sản tại Thủ Đức và Tam Hiệp gần 5 năm trời. Sau khi Diệp bị bắt th́ Cụ Cử Tạ Chương Phùng và người con rể của Cụ cũng bị công an bắt (xem thêm thư của Cụ Huỳnh Minh Ư trong phần phụ lục A). Khi được trả tự do, Diệp thường liên lạc với bác sĩ Trần Kim Tuyến và tôi, do đó sau này Diệp có chân trong Hội nghị Đoàn Kết do ông Ngô Đ́nh Nhu chủ tọa, việc mà tôi sẽ kể rơ ở một chương sau.
    Như đă nói ở trên, trong lúc anh em ông Diệm ở Sài G̣n đang bối rối v́ áp lực của tướng Hinh và thối chí muốn bỏ nước ra đi, th́ Đại tá Lansdale và 15 người trong tổ chức đặc nhiệm hoạt động ráo riết để t́m cách cứu văn t́nh h́nh và động viên tinh thần ông Diệm.
    Là người đă dính dự rất chủ động trong việc di cư hơn 800 ngàn đồng bào từ Bắc vào Nam, Landsale là một sĩ quan cao cấp xuất sắc của ngành t́nh báo Hoa Kỳ* trong các công tác hải ngoại. Xuất thân là một chuyên viên trong ngành quảng cáo kỹ nghệ, ông chú trọng rất nhiều đến các kỹ thuật tâm lư chiến. "Đức Mẹ đă vào Nam" là một trong rất nhiều kỹ thuật đă được ông sử dụng để vận động các giáo phận tại Bắc Việt dứt khoát lên đường vào Nam trong khuôn khổ 300 ngày chọn chỗ di trú do Hội nghị Genève 1954 quy định. Chính ông là người đă giúp đỡ và tạo nên huyền thoại Magsaysay trong chiến dịch tiêu diệt Cộng Sản Hukbalahap tại Phi Luật Tân nhờ vậy sau này ông có biệt danh là "The Kingmaker .
    Cho nên để loại bỏ tướng Hinh với sự ủng hộ của Pháp và lực lượng các giáo phái, ông đă được phái đến Sài G̣n. Quả nhiên Lansdale đă thành công trong loại công tác này một lần nữa: Trước hết là thuyết phục Hoa Thịnh Đốn về sự thiên vị và thiếu am hiểu t́nh h́nh của tướng Collins, sau đó là hoặc thuyết phục tướng Tŕnh Minh Thế và quân đội Cao Đài liên minh tại núi Bà Đen, hoặc hối lộ một số cấp chỉ huy của lực lượng vơ trang các giáo phái, hoặc là nhờ Bộ Ngoại giao Mỹ hăm doạ chính phủ Pháp để tạo áp lực bắt cơ quan t́nh báo Pháp tại Sài G̣n phải ngưng ủng hộ tướng Hinh và lực lượng B́nh Xuyên của Bảy Viễn...
    Vào lúc tướng Hinh sắp đảo chánh ông Diệm th́ Quốc hội Hoa Kỳ chính thức công bố lập trường qua lời tuyên bố của phát ngôn viên bán chính thức về vấn đề Đông Dương lúc bấy giờ là Thượng Nghị Sĩ Mansfield "Nếu ông Diệm bị lật đổ th́ Mỹ sẽ chấm dứt viện trợ cho Việt Nam và cũng chấm dứt quân viện cho quân đội Pháp", đồng thời Tổng thống Eisenhower gửi thư cho Sài G̣n công khai xác nhận sự ủng hộ ông Diệm của chính quyền Mỹ.
    Ngày 2 tháng 10, tướng Ély, Cao uỷ Pháp tại Đông Dương, về Pháp phúc tŕnh cho Bảo Đại biết, chính quyền Pháp đành phải theo đường lối chính trị của Mỹ tại Đông Dương, nghĩa là Mỹ sẽ thay Pháp xây dựng một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á v́ quyền lợi của thế giới tự do. Ngày 19 tháng 11, theo lệnh Bảo Đại, tướng Hinh rời Việt Nam vĩnh viễn, trao quyền Tổng Tham Mưu trưởng quân đội Việt Nam lại cho tướng Nguyễn văn Vỹ, và như vậy chấm dứt mọi khó khăn và mọi đe doạ cho cá nhân ông Diệm và cho khả năng hành xử quyền điều hành quốc gia của tân nội các. Thế là Hoa Kỳ đă cứu ông Diệm tránh được cuộc đảo chánh của tướng Nguyễn Văn Hinh nhưng ông Diệm không giao chức Tổng Tham Mưu trưởng cho tướng Vỹ mà lại giao cho tướng Lê Văn Tỵ.
    Sau khi tướng Hinh đi rồi, tôi đề nghị mật với Thủ tướng rút hai tiểu đoàn bộ binh thuộc Phân khu Duyên hải vào khu Sài G̣n để tăng cường quân lực cho ông Diệm. Hai tiểu đoàn đó do Đại uư Trọng và Đại uư Long người Công giáo Quảng trị và Thừa Thiên chỉ huy (Trung tá Long hiện nay ở Hoa Kỳ).
    *-o0o-
    *Từ năm 1952 đến năm 1954, bao nhiêu biến cố trọng đại đă xảy ra cho dân tộc điêu linh trên quê hương khốn khổ. Năm 1952, trận Hoà B́nh mở màn cho những thảm bại quân sự của quân đội viễn chinh Pháp, và năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh ra đi để dân tộc vĩnh viễn xóa nhoà tàn tích của chế độ Bảo Hộ trên đất nước. Chảy xuyên ḍng sông lịch sử trong giai đoạn đó là trạng huống chia đôi giang sơn và biến cố ông Diệm về nước chấp chánh.
    Nh́n lại ba năm nhọc nhằn nhưng oai hùng đó, ta thấy đất Mẹ như đang chuyển bụng sau gần 100 năm cưu mang. Giai đoạn lâm bồn quằn quại của Tổ quốc là giai đoạn biến h́nh đau đớn của 25 triệu người dân Việt vùng lên đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi sơn hà gấm vóc. Dù thấp thoáng đằng sau cơn vượt cạn đó có bóng dáng ma quái của Cộng Sản Nga, Cộng Sản Tàu, Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp, nhưng quả thật chính dân tộc Việt Nam, và chỉ dân tộc trong hoàn cảnh này hay điều kiện nọ, đă xả thân hy sinh xương máu cho nền độc lập của nước nhà.
    Nếu Cộng Sản trong mặt trận Việt Minh đă không phải là kẻ duy nhất chống Pháp, th́ những thành phần yêu nước ở bên này chiến tuyến cũng không phải là những kẻ hoàn toàn theo Pháp. Đuổi giặc xâm lăng ra khỏi Quê hương chính là công đầu của dân tộc, và chỉ dân tộc mà thôi. Ngoại trừ một số đă rứt ĺa cuống nhau ruột thịt ra khỏi ḷng dân tộc, mới là tay sai của Pháp, tay sai của Nga Tàu.
    Hưng Yên, Nam Định, Phan Rang, Hà Nội, Sài G̣n, Nha Trang... những địa danh thân thương của đất nước trong những ngày sôi động mà tôi có dịp đặt chân đến, bây giờ, ở quê người, chỉ c̣n là những tiếng gọi tuy đă xa vời nhưng vẫn vang vọng trong chiều sâu của kư ức và chiều dài của dĩ văng. Tôi đă làm đầy đủ nhiệm vụ của người trai thời loạn trong cuộc chiến, đầy đủ nhiệm vụ của một cán bộ trong tổ chức đấu tranh, giờ đây, ông Diệm đă vững vàng để xây dựng chế độ mà tôi ao ước ông sẽ đem lại phúc lợi cho toàn dân, đem lại dân chủ tự do cho miền Nam để lấy đó làm bàn đạp cho một ngày sáng nắng hồng, quân ta trở về giải phóng đất Bắc mù khơi.
    ********** Trong niềm ao ước chính đáng nhưng vẫn c̣n xa vời đó, tôi chợt thấy đất miền Nam như cứng lại cho ông Diệm quét hết rác rớm, tàn tích để xây dựng một vận hội mới cho Tổ Quốc.

    *



    [1] Về buổi gặp mặt này xin xem thêm "Vietnam History, Documents and Opinions" của* Marvin E. Gettleman, tr. 269.
    [2] Joseph Buttinger, Vietnam A Political History, tr.385.
    [3] John Cooney, The American Pope, tr.236-245.
    [4] Bernard Fall, The Two Vietnam, tr.244. Về sự kiện nầy, xin đọc thêm Đệ Nhất Phu nhân của Hoàng Trọng Miên (tập 1, tr. 389), Con Đường Thiên Lư của Nguyễn Hiến Lê (tr.202).
    [5] Bảo Đại, Le Dragon d Annam, tr.329.
    [6] Hilaire Du Berrier, Background to Betrayal, tr.27, 28.
    [7] Joseph Buttinger, Vietnam, A Political History, tr.387.
    [8] Historia - Notre Guerre d Indochine (số 25 năm 1972), tr.158,159.
    [9] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 149.
    [10] Hội Ái Hữu Công Chánh, Lá thư Công Chánh (số 14 tháng 11-79), tr.52,53.
    [11] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr.203.
    [12] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử luận, tr. 144,145 và sách Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật giáo của Lư Khôi Việt, tr.89.
    [13] Ông Albert Cao hiện sống ở Pháp. Dù trước đây là nhân viên thân tín của tướng Nguyễn Văn Hinh, nhưng sau này nhờ một số linh mục và ông Bùi Văn Lương cất nhắc, nên được ông Diệm bổ nhiệm làm Tổng Uỷ viên Dinh Điền thay thế ông Lương về giữ Bộ Nội Vụ.

  1. image001.jpg
      Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ)
    (1593-1660 )

    “Tôi tin rằng v́ nước Pháp ngoan đạo nhất trong tất cả các vương quốc nên sẽ cung cấp cho tôi nhiều quân lính để đi chinh phục toàn thể Đông Phương, và tôi sẽ t́m ra phương cách để thu dụng nhiều Giám mục và Giáo sĩ người Pháp cai quản các nhà thờ mới nầy”
    Helen B. Lamb: Vietnam’s Will to Live, 1985, trang 38 và 39
    “Việt Nam: Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy và khi chiếm được vị trí nầy th́ thương gia Âu châu sẽ t́m được một nguồn lợi nhuận và các tài nguyên phong phú”
    Nhà Xuất bản Khoa học: Lịch sử Việt Nam, 1976, trang 304
    *

    image002.jpg
      Pierre Joseph Georges
      Pigneau de Béhaine (Cha Cả)
      (1741-1799 )

    Vị Giáo sĩ thừa kế và thực hiện ư đồ của Đắc Lộ, người đở đầu cho Nguyễn Ánh và sau nầy dẫn Hoàng tử Cảnh đến bệ kiến vua Louis XVI để xin quân viện và kư Hiệp ước Versailles
    (28-11-1787), hiệp ước đầu tiên bán nước Việt Nam cho thực dân Pháp
    *

    image003.jpg

      Georges Thierry d’Argenlieu
      (1884-1964)

  2. *Cựu tu sĩ Công giáo gịng Carmélite, Đô đốc Hải quân, Cao ủy đầu tiên của thực dân Pháp tại Đông Dương.
    *

      image004.jpg
      Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
    (1882- ?)

    *Biểu tượng tinh thần của các nhóm chính trị Việt Nam chống Pháp nhưng thân Nhật trong thập niên 40’
    *

    image005.jpg
      Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê
    Chịu trách nhiệm Giáo phận Hà Nội từ năm 1954


    image006a.jpg
      Giám mục Phạm Ngọc Chi

    Người đă van xin Đại tá Vanuxem đừng rút quân Pháp khỏi Bắc Việt. Sau 1954, cai quản Giáo phận Đà Nẳng, phụ tá cho Cố vấn Chỉ đạo Ngô Đ́nh Cẩn trong đảng Cần Lao tại miền Trung.
    *

      image007a.jpg
    Đại tá LeRoy

    *Tư lệnh Quân đội Công Giáo B́nh Đại (Bến Tre, Kiến Ḥa), lực lượng thân binh của Quân đội Pháp, đang phủ dụ các Bà Xơ.
    *

    image008.jpg

    Các ông Hồ Chí Minh, Trựng Chinh, Vơ Nguyên Giáp và Trung tá A. Peter Dewey,
    Trưởng nhóm 7 người O.S.S. (Office of Strategic Services). Dewey bị Việt Minh bắn nhầm trên đường ra phi trường tại Sài G̣n (1945) và là quân nhân Mỹ tử nạn đầu tiên tại Việt Nam.
    *

    image009.jpg
      Đại tướng Vơ Nguyên Giáp (1912 – )

    Thành lập Đội Vơ trang Tuyên truyền 34 người tại chiến khu Bắc Việt ngày 22-12-1944 và chỉ huy Quân đội Nhân dân trong hai cuộc chiến tranh chống lại quân đội viễn chinh Pháp và Mỹ sau nầy.
    *

      image010.jpg

    Giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc (1893-1956)*và đội Hộ Vệ Quân trước Ṭa Thánh Thất tại Tây Ninh
    *

    image011.jpg
    Tướng Trịnh Minh Thế

    Tư lệnh Quân đội Quốc gia Liên Minh Cao Đài
    Bị tử nạn bí mật tại Cầu Chử Y (1955) Sài G̣n trong lúc* giao tranh với lực lượng vơ trang B́nh Xuyên.
    *

    image012.jpg

    Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đang đón tiếp Hồng Y Agagianan tại Sài G̣n (1959) nhân dịp Ṭa thánh Vatican nâng nhà thờ Đức Bà lên hàng Vương Cung Thánh Đường
    *

      image013.jpg

    Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, ngồi giữa Đại sứ Trần Văn Chương và Thượng Nghị sĩ Henry Cabot Lodge, trong chuyến công du Hoa Kỳ (1957)
    *

      image014.jpg

    H́nh nộm Cựu hoàng Bảo Đại trong chiến dịch hạ nhục do chính phủ Ngô Đ́nh Diệm tổ chức trong cuộc Trưng cầu Dân ư ngày 23-10-1955
    *

      image015.jpg

    Cuộc biểu t́nh vĩ đại tại Sài G̣n năm 1947 yêu cầu cựu hoàng Bảo Đại (đang ở Hồng Kông) hồi hương chấp chánh.
    *

    image016.jpg
    Luật sư Nguyễn Hữu Thọ

    Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trong một
    buổi lễ tuyên thệ tại mật khu ở miền Nam vào đầu thập niên 60’
    *

    image017.jpg
      Tướng Lê Quang Vinh (biệt danh Ba Cụt)

    Chỉ huy một lực lượng vơ trang Ḥa Hảo chống cả Việt Minh lẫn Pháp, trước Ṭa án Quân sự Cần Thơ năm 1956.* Từ chối không chịu phép Rửa Tội của Công giáo.
    Do đó, bị bác đơn xin ân xá nên bị chặt đầu và tử thi bị chặt nhỏ đem dấu biệt tích
    *

      image018.jpg

    Các Thượng tọa Thích Hộ Giác, Thích Thiện MinhThích Trí Quang(từ trái qua phải)
    *

      image019.jpg

    Tăng Ni và đồng bào Phật tử đang đấu tranh cho Tự do Tín ngưỡng và Công bằng Xă hội trong Mùa Pháp nạn 1963
    *

    image020.jpg

    Ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và để thức tỉnh cấp lănh đạo chế độ sớm hồi tâm.
    *

    image021.jpg

    Ngày 2-11-1963, một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến chiếm được Dinh Gia Long. Đông đảo dân chúng thủ đô ào ạt đến xem để khích lệ và hoan nghênh anh em quân đội.
    *

    image022.jpg

    Thanh niên và sinh viên thủ đô hân hoan chào mừng Trung tướng Trần Văn Đôn trên đại lộ Thống Nhất, Sài G̣n.
    *

    image023.jpg

    Trụ sở Báo chí gia nô của chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị dân chúng thủ đô đập phá, và các tàn tích bị quẳng đầy đường phố
    *

      image024.jpg

    Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Chính phủ Lâm Thời ra mắt đồng bào và báo chí ngày 6-11-1963 tại tiền đ́nh Bộ Tổng Tham mưu
    *

      image025.jpg

    Tác gỉa (trái), Trung tướng Dương Văn Minh và Trung tướng Tôn Thất Đính ngay sau ngày cách mạng 1-11-1963
    *

      image026.jpg

    Thượng tọa Thích Huyền Quang đọc diễn văn chào mừng quan khách trong lễ khai mạc Đại hội Phật giáo Thống nhất đầu tiên vào năm 1964.* Tác giả ngồi ở hàng thứ nh́, bên trái
    *

    image027.jpg

    Cuộc họp báo đầu tiên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ngày 6-11-1963.
    + Từ trái sang phải: Trung tướng Tôn Thất Đính, Bộ trưởng Nội Vụ; Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, tác giả và Ngoại trưởng Phạm Đăng Lâm.
    + Hàng thứ nh́: Bộ trưởng Kinh tế Âu Trường Thanh, Bộ trưởng Tài chánh Lưu Văn Tính, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Lưu Thành Cung, Bộ trưởng Giáo dục Phạm Hoàng Hộ và Bộ trưởng Y tế Vương Quang Trường
    *

    image028.jpg

    Họp báo với Trung tướng Nguyễn Khánh ngay sau cuộc Chỉnh lư ngày 30-1-1964
    *
    image029.jpg
    Thủ tướng Trần Văn Hương tŕnh diện Nội các với Quốc trưởng Phan Khắc Sửu
    *
    image030.jpg
    Tổng thống Đệ nhị Cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu trong một buổi kinh lư tại Quân Đoàn I
    *

     



    GÓP CÔNG XÂY DỰNG  NỀN MÓNG CHẾ ĐỘ

    Trong giai đoạn 1954-1955, tuy ông Diệm có nhiều kẻ thù nhưng tướng Nguyễn Văn Hinh vẫn là đối thủ nguy hiểm nhất trên cả hai mặt chính trị lẫn quân sự. Trước hết, trên mặt chính trị, tướng Hinh có tư cách hợp pháp của một vị Tổng Tham mưu trưởng của quân đội quốc gia, khác hẳn với những giáo phái vơ trang không được chính thức thừa nhận; ông lại có Quốc trưởng Bảo Đại nâng đỡ và người Pháp yểm trợ. Trên mặt quân sự, ông có một số thuộc cấp từ cấp tá đến cấp úy nắm giữ những nhiệm sở có quân nhân tác chiến, ông lại điều động được các cơ quan t́nh báo và an ninh với sự hợp tác hữu hiệu của cơ quan t́nh báo Pháp, và cuối cùng ông lại vận dụng được một số những bộ phận vơ trang của một vài giáo phái.
    Cho nên, nếu không kể những yếu tố khác th́ về mặt tương quan lực lượng, rơ ràng việc lật đổ Thủ tướng Diệm không lấy ǵ làm khó. Tuy nhiên, như đă tŕnh bày ở chương IV, đă có những yếu tố khác chi phối t́nh h́nh miền Nam lúc bấy giờ làm cho Tướng Hinh phải từ bỏ ư định dùng bạo lực lật đổ ông Diệm mà tôi có thể tóm tắt trong một ngoại lực duy nhất là sự yểm trợ tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ trên cả hai mặt chính trị lẫn quân sự. Những công hàm Washington-Paris, những Lansdale, Foster Dulles, những 300 triệu Mỹ kim quân viện..., chính những hoạt động và những nhân sự đó chứ không phải cái nội các nhiều nhiệt tâm nhưng c̣n tê liệt, cái chiến khu Đông của chúng tôi, hay cái công điện của ông Ngô Đ́nh Cẩn từ miền Trung đánh vào, đă giúp cho ông Diệm loại trừ được kẻ thù nguy hiểm nhất này.
    Tướng Hinh ra đi, cả thế cờ của Pháp và Bảo Đại sụp đổ. V́ tướng Hinh, bằng xương bằng thịt, là đại diện cho sức mạnh chính trị của Pháp và Bảo Đại tại Việt Nam lúc bấy giờ. Sự sụp đổ đó được biểu hiện rơ ràng nhất trong sự tan hàng tâm lư của lực lượng quân đội thuộc xu hướng của Tướng Hinh. Tướng Vận ở Nha Trang trốn vào Sài G̣n rồi biệt tích luôn. Đại tá Trương Văn Xương, Tư lệnh Quân khu Hai, người đă từng gây khốn khổ cho ông Ngô Đ́nh Cẩn và ông Đại biểu Chính phủ miền Trung cũng trốn vào Nam. Tại Đà Lạt, đội Ngự Lâm Quân do tướng Nguyễn Văn Vỹ điều động bị ông Phan Xứng và Thiếu tá Nguyễn Chánh Thi phần nào tê liệt hóa. Đại tá Linh Quang Viên, Tư lệnh Quân khu Ba ở Ban Mê Thuột, tuy là một phần tữ quốc gia đối lập với ông Diệm nhưng lại không theo Pháp và không phục Tướng Hinh, cuối cùng cũng hợp tác với Chính phủ. Đại tá Ṿng-A-Sang người Nùng, thuộc hạ của tướng Vanuxem, di cư vào Nam và đang là Sư đoàn trưởng Sư đoàn Nùng ở Phan Rí, thấy t́nh h́nh bất lợi cũng tuyên thệ thi hành kỷ luật của quân đội.
    Thế là sau khi Tướng Hinh ra đi, không kể tại miền Trung Trung Việt mà tướng Hinh không có một cơ sở vững mạnh nào, toàn bộ vùng Duyên Hải và Cao Nguyên Trung phần trở thành hậu thuẫn vững chắc cho ông Diệm để tiến hành những vận động cuối cùng quét sạch tàn dư của chế độ Pháp thuộc. Trung tá Nguyễn Quang Hoành từ Phan Thiết được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu Hai, Thiếu tá Thái Quang Hoàng được lệnh giải tán chiến khu Đông về làm Tỉnh tướng B́nh Thuận, ông Hồ Trần Chánh, một đảng viên Đại Việt từng ủng hộ chiến khu Đông, được chúng tôi đề nghị làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận. Trung tá Phạm Văn Đổng, tuy chưa bao giờ ủng hộ ông Diệm nhưng cũng khôn ngoan chưa bao giờ tỏ ra chống đối Chính phủ, được cử làm Tư lệnh Phân khu Duyên Hải. Chúng tôi mỗi người được thăng một cấp v́ đă bảo vệ được miền Trung: Hoành và Đổng lên Đại tá, Hoàng và tôi lên Trung tá. Và tuy c̣n ở trong dinh Thủ tướng, tôi đă được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Phân khu Duyên Hải, c̣n Đại tá Lễ th́ sẵn sàng để nhận chức Tổng giám đốc Cảnh Sát Công An một khi đuổi được B́nh Xuyên ra khỏi định chế này.
    Song song với và chính v́ việc tướng Hinh ra đi, Lansdale đă vừa dùng tiền bạc vừa sử dụng lư luận để lôi kéo thêm được tướng Nguyễn Giác Ngộ của Ḥa Hảo và tướng Nguyễn Thành Phương của Cao Đài đem lực lượng của họ về hợp tác với Chính phủ. Lansdale c̣n sử dụng kỹ thuật địch vận để dẫn dụ được Đại tá Thái Hoàng Minh, Tham mưu trưởng của lực lượng B́nh Xuyên, đứng lên chống Bảy Viễn. Tuy việc phản bội của Thái Hoàng Minh bị lộ và cuối cùng bị Bảy Viễn thủ tiêu, nhưng cái chết của ông ta đă gây một chấn động tâm lư sâu đậm trong hàng ngũ của lực lượng B́nh Xuyên.
    Tuy nhiên, dù ngần đó biến cố thuận lợi đă làm cho “Mặt trận Thống Nhất” của các giáo phái bị phân hóa và suy giảm sức mạnh rất nhiều, nhưng trong mùa Xuân năm 1955, ông Diệm vẫn c̣n gặp rất nhiều khó khăn v́ Thủ tướng Pháp Edgar Faure vẫn c̣n muốn xây dựng lại uy thế cho Quốc trưởng Bảo Đại để mong lật ngược thế cờ. Pháp vẫn c̣n muốn lợi dụng những lực lượng thù nghịch với ông Diệm c̣n sót lại như toàn bộ B́nh Xuyên, như Ḥa Hảo của Trần Văn Soái, Lâm Thành Nguyên, Lê Quang Vinh, như Cao Đài của Hộ pháp Phạm Công Tắc, như tướng Vỹ và một thiểu số Ngự Lâm Quân c̣n trung thành với Bảo Đại.
    Đặc biệt trong quân đội, mặc dù Thiếu tướng Lê Văn Tỵ đă được ông Diệm bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng nhưng vẫn c̣n nhiều sĩ quan cấp tá cao cấp chưa muốn hợp tác với ông Diệm như các Đại tá Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh, Lê Văn Kim, các Trung tá Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Là, Trần Tử Oai... Như vậy th́ riêng tại miền Nam, đặc biệt tại Sài G̣n-Chợ Lớn và vùng phụ cận, đứng trên mặt thuần túy vũ lực (vốn là yếu tố quyết định trong sự hỗn loạn của t́nh thế lúc bấy giờ) th́ phe Chính phủ và phe đối lập quả thật ngang ngửa.
    Từ đầu Xuân 1955, lực lượng B́nh Xuyên tiếp tục gây hấn, khiêu khích đô thành, tấn công những đơn vị của quân đội quốc gia đi lẻ tẻ và bắn súng cối vào dinh Độc Lập để chuẩn bị cho âm mưu đảo chánh Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 30/4/1955, sau khi thuyết phục được tướng Lê Văn Tỵ và một nhóm sĩ quan thuộc cấp cũ của tướng Hinh, tướng Nguyễn Văn Vỹ bèn vào dinh Độc Lập buộc ông Diệm phải đi Pháp ngay tức khắc theo lệnh của Quốc trưởng Bảo Đại, đồng thời tướng Vỹ ra lệnh cho đội Ngự Lâm Quân từ Đà Lạt di chuyển về Sài G̣n và thông báo cho Trung tá Đỗ Cao Trí, một bạn thân của Vỹ, biết. Trung tá Trí là Tư lệnh lực lượng Nhảy Dù, đang hành quân tiểu trừ B́nh Xuyên, nhưng thâm tâm vẫn muốn lật đổ ông Diệm.
    Cũng trong ngày 30/4 đó, “Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng” ra đời tại Ṭa Đô Chánh Sài G̣n. Đây là một lực lượng chính trị quần chúng được chuẩn bị từ trước để làm hậu thuận đấu tranh cho ông Diệm. Hội đồng này do ông Nguyễn Bảo Toàn, một lănh tụ Ḥa Hảo làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn, một viên chức của Cao Đài, làm phó chủ tịch và ông Nhị Lang (hiện ở Mỹ), thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là một phụ tá của tướng Tŕnh Minh Thế làm Tổng thư kư. Thành viên của Hội Đồng gồm nhiều thành phần đại diện cho mọi tầng lớp quần chúng mà đa số là thân hữu của ông Diệm, ngoài ra c̣n có một số do tôi tổ chức từ Phân khu Duyên Hải vào để đại diện cho miền Trung mà người cầm đầu là giáo sư Hà Huy Liêm (trường trung học Vơ Tánh), đang làm Ủy viên Tuyên Nghiên Huấn của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia tỉnh Khánh Ḥa.
    Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn là nhân vật uy tín nhất của Phật Giáo Ḥa Hảo lúc bấy giờ. Ông là một nhà cách mạng lăo thành từng bôn ba qua Pháp, Tàu, Nhật để đấu tranh cho nền độc lập quê hương. Ngay từ năm 1947, khi Pháp định thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại, ông Toàn đă cùng với cụ Nguyễn Hải Thần và ông Nguyễn Tường Tam thành lập “Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia” đ̣i hỏi Pháp chỉ thương thuyết với các lực lượng dân tộc mà thôi chứ không phải với Bảo Đại hay với Hồ Chí Minh. Từ ngày dấn thân hoạt động cách mạng, ông Nguyễn Bảo Toàn luôn luôn chủ trương một nước Việt Nam độc lập theo chế độ Cộng Ḥa với một h́nh thức sinh hoạt hoàn toàn dân chủ. Ông quan niệm sinh họat chính trị của quốc gia phải hoàn toàn dân chủ mới đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và mới có thể chiến thắng được Cộng Sản, do đó ông quyết tâm ủng hộ ông Diệm và truất phế Bảo Đại, mặc dù lúc bấy giờ tính mạng của ông có thể v́ thế mà bị nguy hiểm.
    Ngày 30, trong lúc tướng Vỹ và nhóm sĩ quan thân Pháp vào dinh Độc Lập ép buộc Thủ tướng Diệm phải đi Pháp (nghĩa là đi không trở về), th́ tại ṭa Đô Chánh Sài G̣n, “Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng” cũng thảo luận sôi nổi và Hội nghị ra tuyên ngôn truất phế Bảo Đại, ủy cho chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm tạm thời lănh đạo quốc gia trong lúc chờ đợi Hiến Pháp và Quốc hội định đoạt quy chế tương lai cho đất nước. Họp xong, Hội đồng đi bộ qua dinh Độc Lập để trao tuyên ngôn cho Thủ tướng Diệm. Không ngờ khi đến nơi th́ lại chạm trán với tướng Vỹ và các “sĩ quan phản loạn” đang làm áp lực ông Diệm. (Có thể cuộc đụng độ này là do dinh Độc Lập kịp thời thông báo cho Hội đồng để đến tăng cường). Thấy tướng Vỹ, tướng Tŕnh Minh* Thế (và h́nh như có cả tướng Nguyễn Thành Phương) bèn bắt giữ tướng Vỹ trong lúc ông Nhị Lang đưa súng lục ra hăm dọa tướng Vỹ. Thủ tướng Diệm sợ tái mặt, vội vă kéo tướng Vỹ vào pḥng riêng để bảo vệ sinh mạng cho tướng Vỹ, đồng thời yêu cầu Hội đồng đừng bắt hoặc giết tướng Vỹ. Không phải ông Diệm thương xót ǵ tướng Vỹ nhưng nếu tướng Vỹ bị giết th́ ắt hẵn những lực lượng yểm trợ tướng Vỹ, v́ t́nh chiến hữu, sẽ không tha thứ cho ông. Huống hồ ǵ Trung tá Đỗ Cao Trí lại gọi điện thoại cho ông Diệm đ̣i thả tự do cho tướng Vỹ ngay nếu không th́ Trí sẽ tấn công dinh Độc Lập. Cuối cùng, Hội đồng đạt được một thỏa hiệp chung là bắt tướng Vỹ phải kư giấy xin quy hàng Hội Đồng và ḥa ḿnh với nhân dân để đấu tranh cho đất nước, đổi lại Hội Đồng sẽ trả tự do cho ông ta.
    Tướng Vỹ đồng ư ra về và trong thâm tâm định phản bội lại lời cam kết đó, nhưng phần v́ Ngự Lâm Quân, chủ lực của ông ta đă bắt tay với quân đội, phần v́ phản ứng quyết liệt của lực lượng của tướng Tŕnh Minh Thế nên tướng Vỹ đành chịu thất bại. Trong lúc tướng Vỹ hoạt động ở Sài G̣n để lật đổ ông Diệm th́ tướng Nguyễn Văn Hinh ở Pháp cũng trên đường trở về Việt Nam để dự định giúp tướng Vỹ lật ngược thế cờ. Nhưng v́ tướng Vỹ đă thất bại, lại v́ t́nh h́nh mỗi ngày một thuận lợi cho ông Diệm cho nên tướng Hinh bay đến Nam Vang th́ dừng lại và bay ngược về Pháp.
    Về hành động rút súng và lột lon tướng Vỹ của Nhị Lang, tướng Trần Văn Đôn trong hồi kư “Việt Nam Nhân Chứng” (tr. 125, 126) ghi nhận rằng “v́ hành động quá khích của Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà t́nh thế trở nên rối rắm”.
    C̣n nhà văn Lê Nhật Thăng trên tạp chí “Ánh Sáng Dân Tộc” (số 2, ngày 15/11/1989) trong loạt bài “Thái Lân và Trần Minh Thế”, khi phê b́nh cuốn “Phong Trào Kháng Chiến Trần Minh Thế” đến đoạn ông Nhị Lang khoe khoang: “tôi nhanh nhẹn rút súng colt 45 trong chiếc cặp ra chĩa thẳng vào người tướng Vỹ và ra lệnh giơ tay lên không tôi bắn” đă mỉa mai ông Nhị Lang rằng:
    Ông Thái Lân ơi, mỗi khi nh́n thấy ảnh ḿnh đang rút súng đe doạ một sĩ quan có thấy bẽ bàng vô duyên không? Tôi xin nói để Nhị Lang biết nếu ông nổ súng là đám sĩ quan ở pḥng bên cạnh sẽ xé xác ông ngay lập tức, may cho ông lắm đó. Chúng ta thấy Diệm che chở cho Vỹ, trách mắng Nhị Lang và xác định quyền uy của ḿnh. Không biết Nhị Lang có biết vậy không? Tôi thiết nghĩ Diệm Nhu đă có kế sách nào đó để đối phó t́nh h́nh rối beng mà hành động trật búa, tài khôn của Nhị Lang chỉ làm Diệm thêm nhức đầu”.
    Như vậy hành động ngang tàng nhưng vô chính trị của ông Nhị Lang chỉ phản ảnh thái độ “luồng gió bẻ măng”, dựa thế các tướng Tŕnh Minh Thế và Nguyễn Thành Phương đang có mặt mới dám rút súng làm oai mà không biết rằng hành động đó có thể đưa đến tai họa cho cả hai ông Diệm Nhu.
    *
    -o0o-
    *
    Trong những ngày sôi động tại Sài G̣n mà bạo lực có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, ông Diệm không những đă lo sợ cho tương lai chính trị của ông mà con lo cho chính bản thân ông nữa. Chỉ quen đấu tranh theo kiểu quan trường, ông rất e ngại về súng đạn. Chỉ quen dựa vào những thế lực ngoại bang (như Pháp, Nhật, Mỹ, Vatican), vận dụng chính trị và cũng cố địa vị, ông thiếu tự tin khi phải đối phó với những quân nhân như Nguyễn Văn Vỹ, Trần Đ́nh Lan, Đỗ Cao Trí …mà vũ lực là lư luận. Nhưng điều làm cho ông lo sợ nhất là bức tường đồng để ông nương dựa là Hoa Kỳ sẽ có thể bỏ rơi ông, v́ không những ông chấp chánh được là nhờ sự ủng hộ của Hoa Kỳ mà c̣n nhờ chính cả những hoạt động t́nh báo và quân sự của Lansdale. Cho đến khi cả Đại tá Lansdale lẫn Đặc sứ Collins liên tục tái bảo đảm với ông là chính sách Mỹ đă quyết định yểm trợ miền Nam do ông lănh đạo, ông mới thật sự an ḷng để đối phó với t́nh thế.
    Thật vậy, một ngày trước buổi chạm trán với tướng Vỹ ở dinh Độc Lập, Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles đă thông báo cho Đại sứ Pháp Couve de Murville ở Hoa Thịnh Đốn, cũng như Đại sứ Mỹ Dillon đă thông báo cho Thủ tướng Pháp Edgar Faure ở Paris về quyết tâm của Mỹ nhất định ủng hộ ông Diệm vô điều kiện [1]. Kết quả cụ thể làm ông Diệm yên tâm nhất là cuối cùng, dưới áp lực của Mỹ, chính Pháp đă tiếp tế đạn dược cho quân đội để dẹp phiến loạn B́nh Xuyên trong khi chờ đợi một chương tŕnh quân viện dồi dào hơn sau này.
    Sau thất bại của tướng Nguyễn Văn Vỹ, quân đội mặc nhiên trở thành một lực lượng trọng yếu nhất trí ủng hộ ông Diệm. Thật ra, từ trước tại Sài G̣n, chỉ có hai sĩ quan cao cấp và có vị trí then chốt thật sự ủng hộ ông Diệm mà thôi, đó là Đại tá Dương Văn Minh và Trung tá Phạm Xuân Chiểu. Đại tá Dương Văn Minh giữ chức Quân Trấn trưởng Sài G̣n-Chợ Lớn, c̣n Trung tá Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tham mưu trưởng Quân khu I dưới quyền Đại tá Trần Văn Minh. Ông Dương Văn Minh tuy xuất thân từ trường vơ bị của Pháp ở Tông (Bắc Việt), tuy phục vụ trong quân đội Pháp nhưng ông vẫn giữ bản chất và phong độ của một người Việt Nam thuần túy, vẫn nặng t́nh tự với dân tộc quê hương. Người Pháp và tướng Hinh vốn không ưa ông Dương Văn Minh nên không giao cho ông chức vụ chỉ huy có quân sĩ, có đơn vị, để ngăn ngừa hậu họa. C̣n ông Phạm Xuân Chiểu là một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau khi bỏ học trường thuốc ở Hà Nội v́ biến cố Nhật đảo chánh Pháp 9-3-1945, bèn vào học trường Vơ bị Yên Bái do người Nhật tổ chức, rồi qua Trung Hoa học trường Vơ bị Hoàng Phố. Ở đây, ông gặp một nữ đảng viên của “Cách Mạng Đồng Minh Hội” của cụ Nguyễn Hải Thần, hai người trở thành vợ chồng và đều là nhân vật tham gia cách mạng, có tinh thần chống Cộng rất cao. Mấy năm sau ông về Phát Diệm và được mời giữ chức chỉ huy tiểu đoàn 2 trong lực lượng Tự Vệ của giáo phận này rồi trở thành sĩ quan quân đội quốc gia. Với thành tích đó nên ông Phạm Xuân Chiểu đă hết ḷng ủng hộ ông Diệm. Hai sĩ quan này, nhất là ông Dương Văn Minh, đă ủng hộ và hoạt động đắc lực cho ông Diệm ngay từ phút đầu, ngay từ khi tướng Hinh chống đối ông Diệm. Ngoài ra, cũng phải nói một trong những lư do ông Minh ủng hộ ông Diệm là v́ người bạn thân của ông là ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng là người bạn quư của ông Diệm. Hai ông Dương Văn Minh và Phạm Xuân Chiểu đều ở Sài G̣n, đều biết rơ vị trí, âm mưu hoạt động và những kế hoạch chuyển quân của B́nh Xuyên và Pháp nên đă giúp đỡ rất hữu hiệu ông Diệm trong vấn đề đối phó với quân của Lê Văn Viễn.
    Ngoài ra, ông Diệm c̣n có Đại tá Mai Hữu Xuân, một sĩ quan nhiều thủ đoạn và giỏi về t́nh báo ủng hộ. Ông Mai Hữu Xuân trước kia là một phần tử thân Pháp, từng là Tổng Giám đốc Công An và lúc bấy giờ là Giám đốc An ninh Quân đội, nhưng quan trọng hơn cả, ông Xuân vốn là kẻ thù của B́nh Xuyên. Kư giả Lucien Bodart trong cuốn “La Guerre d’Indochine” mô tả hai ông Bảy Viễn và Mai Hữu Xuân là hai lănh chúa tại Chợ Lớn và Sài G̣n, hai kẻ thù không đội trời chung, nay gặp cơ hội ông Diệm đánh B́nh Xuyên, Mai Hữu Xuân trở nên đồng minh của ông Diệm. Sự ủng hộ của ông Mai Hữu Xuân và Nha An Ninh Quân Đội lúc bấy giờ quả là một đóng góp t́nh báo hết sức lớn lao cho việc tấn công và tiêu diệt B́nh Xuyên để củng cố địa vị ông Diệm.
    Nói rơ ra, hai ông Dương Văn Minh và Phạm Xuân Chiểu ủng hộ ông Diệm là v́ quốc gia dân tộc, v́ tin tưởng ông Diệm là nhà lănh đạo chống Pháp, chống Cộng, có thể cứu được miền Nam, trong lúc ông Mai Hữu Xuân về với ông Diệm chỉ v́ hoàn cảnh, và nhất là v́ lư do cá nhân muốn trả mối thù cũ với B́nh Xuyên. Dù sao th́ điều đó cũng là một may mắn rất lớn cho ông Diệm.
    Trong những ngày đầu của tháng Năm năm 1955, quân đội quốc gia phối hợp với quân của tướng Tŕnh Minh Thế đánh bật được quân B́nh Xuyên qua bên kia cầu chữ Y. Tướng Thế trong khi đứng trên cầu Tân Thuận để quan sát địa h́nh đă bị một viên đạn bắn lén từ sau lưng trúng thái dương và không cứu sống được. Ngày 9 tháng 5, B́nh Xuyên bị đánh bật ra khỏi Sài G̣n và Chợ Lớn nên rút về vùng bùn lầy Rừng Sát sau khi đă đốt cháy nhiều phố xá, nhà cửa ở khu Nancy. Đại tá Dương Văn Minh được Thủ tướng Diệm cử giữ chức Tư lệnh chiến dịch Rừng Sát, và chẳng bao lâu, ông tiêu diệt toàn bộ quân B́nh Xuyên. Bảy Viễn và bộ hạ thân tín là Lai Văn Sang và Lai Hữu Tài phải trốn qua Pháp. Cùng lúc đó, Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ cũng đă nắm vững được Nha Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Việt Nam, và củng cố được lực lượng Công an Cảnh sát Đô thành mà trước đó vốn nằm dưới sự điều động của Lai Văn Sang.
    Đánh tan quân B́nh Xuyên, Đại tá Dương Văn Minh dẫn đầu đoàn quân đắc thắng tiến về thủ đô trên con đường Catinat để vào dinh Độc Lập giữa tiếng hoan hô vang dội của dân chúng. Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đứng tại thềm dinh Độc Lập đón chào người anh hùng chiến thắng Rừng Sát. Ông ôm hôn Đại tá Dương Văn Minh rồi một nữ sinh choàng ṿng hoa cho Đại tá. Mấy ngày sau, Thủ tướng Diệm vinh thăng Đại tá Minh lên Thiếu tướng, báo chí Sài G̣n đề cao Dương Văn Minh là “Anh hùng Rừng Sát”. Riêng ông Ngô Đ́nh Nhu, tuy vui mừng sung sướng thấy kẻ thù bị tiêu diệt, vẫn tỏ ra bất măn với báo chí và dư luận khi Dương Văn Minh được đề cao là “anh hùng”. Ông Nhu nói với nhiều người, nhất là những người thân tín ở trong dinh, rằng: “cả nước Việt Nam chỉ có một anh hùng mà thôi, đó là anh hùng Ngô Đ́nh Diệm”.
    Phải nói rơ rằng từ sau vụ thất bại của tướng Vỹ tại dinh Độc Lập, toàn thể quân đội đă đứng hẳn về phe ông Diệm và từ đó ông Diệm mới thật sự vững vàng trên ngôi vị. Robert Shaplen cũng như học giả Douglas Pike đă nói: “Cho đến khi quân đội ủng hộ ông Diệm, (trước đó) ông ta không có cách ǵ để thực thi được uy quyền của chính phủ” (until the Army opted for him, Diem had no means of enforcing a governmental order).[2]
    Tiêu diệt được B́nh Xuyên là Thủ tướng Diệm thu đạt thêm được một thắng lợi to lớn, một thắng lợi quyết định tương lai sắp tới huy hoàng của ông. Thắng lợi của ông Diệm đối với B́nh Xuyên cũng như đối với tướng Hinh, tướng Vỹ là biểu hiện thắng lợi của ảnh hưởng Mỹ đối với ảnh hưởng Pháp trong ván bài Đông Dương.
    Trong khi Sài G̣n và Rừng Sát đang mịt mù khói lửa th́ hội đàm giữa Pháp và Mỹ diễn ra tại Paris từ ngày 7 đến 12/5/1955. Ngoại trưởng Mỹ, ông Foster Dulles, đ̣i hỏi Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, phải rút toàn bộ quân viễn chinh Pháp (90.000) về nước. Chương tŕnh Pháp rút quân về nước gồm 3 giai đoạn: Một: Ngày 20/5/1955, quân đội Pháp phải bắt đầu rút ra khỏi Sài G̣n-Chợ Lớn, tập trung về Vũng Tàu. Hai: ngày 2/7/1955, quân đội Việt Nam hoàn toàn chấm dứt sự phụ thuộc vào Bộ Tư lệnh Pháp tại Đông Dương. Ba: ngày 28/4/1956 người lính cuối cùng của quân đội viễn chinh Pháp vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam [3]. Thế là nhờ quân đội, nhờ người Mỹ, từ nay ông Diệm bước lên đài danh vọng quyền quư tột đỉnh trong cuộc đời chính trị của ông.
    Sau chiến thắng Rừng Sát, một buổi lễ long trọng, hào hùng và cảm động đă được tổ chức tại Bộ Tổng tham mưu. Đại tá Trần Văn Đôn, Tham mưu trưởng quân đội, đại diện cho toàn thể quân đội Việt Nam đốt phù hiệu và cấp hiệu cũ để chấm dứt mối liên hệ với dĩ văng, một dĩ văng chua xót và đau thương. Quân đội Việt Nam từ nay là quân đội của một quốc gia độc lập để làm tṛn sứ mạng của nó là bảo vệ giang sơn và cùng với toàn dân làm chủ đất nước.
    Trong suốt gần 100 năm Pháp thuộc, chúng ta đă có 2 lần được nghe những lời tuyên bố về một nước Việt Nam độc lập: Vua Bảo Đại tuyên bố ngày 9/3/1945 và ông Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 2/9/1945. Nhưng 2 lần đó chỉ có giá trị của một lời tuyên bố v́ trên thực tế quân đội Nhật và Pháp vẫn c̣n đó. Nhưng ngày 28/4/1956, nghĩa là gần 2 năm sau Hiệp ước Genève, chữ Độc Lập mới thực sự có ư nghĩa và cuộc đấu tranh giành độc lập mới thực sự chấm dứt. V́ vào ngày đó, người lính Pháp cuối cùng, biểu tượng cụ thể cho chính sách và kỷ nguyên thực dân của Pháp, vĩnh viễn rời khỏi đất nước thân yêu.
    Ném một cái nh́n toàn diện và chân thực để soát xét lại quá tŕnh đấu tranh chống thực dân Pháp của dân tộc, ta phải, một lần nữa, xác định cho rơ ràng rằng lực lượng đă lănh đạo, đă tổ chức và đă tiến hành cuộc đấu tranh này cho đến ngày thắng lợi, chính là toàn bộ dân tộc ta. Những đứa con yêu xuất sắc của đất nước như Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Trần Cao Vân, Trương Công Định, Phan Đ́nh Phùng, Phan Thanh Giản, Phan Bội Châu của những ngày đầu; những Phạm Hồng Thái, Phạm Thái Học, Huỳnh Phú Sổ, Lư Đông A, Trương Tử Anh, Nguyễn Hải Thần... đă cùng với toàn dân hy sinh xương máu trong giai đoạn trực đối sống mái với kẻ thù để dồn chúng vào đường tuyệt lộ. Cuối đoạn đường và về phía những người không Cộng Sản là một Bảo Đại nhọc nhằn xây viên đá cho một Ngô Đ́nh Diệm đàng hoàng bước lên khóa lại cánh cửa tủi nhục của giai đoạn Pháp thuộc, và mở toang cánh cửa Độc Lập cho đất nước quê hương.
    Hang vạn anh hùng và liệt nữ vô danh đă âm thầm nằm xuống. Ánh sáng vinh quang của họ cũng phải rực rỡ như ánh sáng vinh quang của những lănh tụ khác, tấm ḷng son sắt của họ cũng phải được tôn vinh như tấm ḷng son sắt của những anh hùng khác.
    Tuy nhiên, nếu ngày 28/4/1956 đă chấm dứt phong trào giải thực trên đất nước Việt Nam th́ ngày đó cũng sẽ là ngày mở đầu cho phong trào Tân Đế Quốc, nếu những nhà lănh đạo của đất nước ta không khôn khéo và quyết tâm bảo vệ được hai chữ Độc Lập và Chủ Quyền. V́ ở một mặt nào đó, nếu chúng ta đă ghi nhận với ít nhiều thiện cảm những Eisenhower, Foster Dulles, Buttinger, Fishel, Lansdale, v.v... đă giúp chúng ta bằng cách áp lực người Pháp phải rời khỏi Việt Nam, th́ ở một mặt khác chúng ta không thể không đau ḷng v́ họ đă thô bạo và vụng về can thiệp vào Việt Nam qua một cá nhân Ngô Đ́nh Diệm thay v́ bằng sức mạnh thực sự của toàn khối dân tộc ta. V́ rơ ràng trong một cuộc chiến tranh dành độc lập và sau đó sẽ kéo theo một cuộc đấu tranh chống Cộng Sản th́ chính nghĩa và sức mạnh nằm trong ḷng quần chúng chứ không nằm ở giai tầng lănh đạo, lại càng không nằm ở một cá nhân, một gia đ́nh, một phe nhóm.
    Lá bài Ngô Đ́nh Diệm đúng là giải quyết được t́nh h́nh lúc đó. Nhưng là một giải quyết giai đoạn và tức thời chứ không trường kỳ và toàn diện. Mà hệ quả rơ ràng nhất là cuối cùng, chúng ta đành để Cộng Sản chiếm hết nửa phần của đất nước. Sức mạnh và chính nghĩa của dân tộc đă không được vận dụng đúng đắn th́ lấy ǵ mà đương đầu với Cộng Sản.
    *
    -o0o-
    *
    Sau chiến thắng B́nh Xuyên, những đối thủ c̣n lại của Thủ tướng Diệm tại miền Nam chỉ là lực lượng yếu kém và phân hóa.
    Về phía Cao Đài có Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc với một đơn vị Hộ vệ quân khoảng 300 tay súng. Theo một kế hoạch của ông Ngô Đ́nh Nhu, tướng Cao Đài bị mua chuộc Nguyễn Thành Phương dẫn đơn vị cũ đến Tây Ninh tước khí giới đám Hộ Vệ quân này, bắt giữ hai người con gái của Giáo chủ Cao Đài với tội “tham nhũng và bóc lột đồng bào”. Giáo chủ Phạm Công Tắc và một số bộ hạ thân tín trốn được qua Cao Miên và kéo dài cuộc đời lưu vong cho đến lúc ông tạ thế.
    Về phía Ḥa Hảo vơ trang th́ c̣n ba nhóm: Trần Văn Soái (tức Năm Lửa), Lâm Thành Nguyên và Lê Quang Vinh (thường được gọi là Ba Cụt). Cả ba nhóm này có căn cứ và có địa bàn hoạt động tại miền Hậu Giang. Vào giữa năm 1956, tướng Dương Văn Minh hành quân mở chiến dịch càn quét những căn cứ này. Trần Văn Soái và Lâm Thành Nguyên chống cự không nổi nên phải xin về quy hàng với Chính phủ. Riêng lực lượng Lê Quang Vinh với kỹ thuật du kích chiến để tránh hỏa lực hùng hậu của quân đội, đă cầm cự được khá lâu nhưng cuối cùng cũng bị bắt và xử tử.
    Theo thông cáo chính thức của Chính phủ Diệm th́ tướng Ḥa Hảo Lê Quang Vinh bị một tiểu đội Bảo An bắt được tại Chắc Cà Đao (Long Xuyên) cùng với năm tên hộ vệ. Trong một buổi lễ trao lệnh kỳ và huy chương, đại biểu Chính phủ đưa tặng một triệu đồng cho Liên Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn, Liên Đội đă có binh sĩ bắt được Lê Quang Vinh.
    Nhưng lúc bấy giờ nhiều người, đặc biệt là tướng Dương Văn Minh và Bộ Tham mưu của ông ta biết rằng, bắt được Lê Quang Vinh là nhờ ông Nguyễn Ngọc Thơ lừa Ba Cụt đến điều đ́nh trong lúc lính Bảo An đă bố trí 1 cuộc phục kích tinh vi nên mới bắt được người chiến sĩ nổi tiếng gan dạ và có tài đánh du kích đất miền Tây. Nếu không bị lừa th́ làm sao một tiểu đội Bảo An có thể bắt được tướng Ḥa Hảo đa mưu túc trí cùng với 5 hộ vệ quân của ông ta. Sự thật th́ ông Thơ chỉ muốn lừa ông Lê Quang Vinh về để đầu hàng Chính phủ cho yên miền Tây, nơi quê hương của ông, không ngờ ông Diệm phản lại những lời đă hứa, ra lệnh cho Ṭa án xử tử ông Lê Quang Vinh.
    Sau cách mạng ngày 1/11/1963 ông Thơ cho tôi biết sở dĩ ông Lê Quang Vinh bị bắt ngày 13/4/1956 mà Ṭa án Quân sự và Ṭa Thượng Thẩm Sài G̣n cứ xét đi phúc lại (đến 4 lần) cho đến ngày 6/7/1956, Ṭa án Quân sự Cần Thơ mới xét xử một lần chót là v́ ông Diệm đă nhiều lần dụ ông Lê Quang Vinh theo đạo Công giáo mà ông nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Công giáo th́ ông Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Sài G̣n và sẽ được trọng thưởng và tất nhiên sẽ được tha mạng. Nhưng vị tướng “Mạnh Hoạch” vùng linh địa Thất Sơn nhất định giữ lấy nền đạo của Đức Thầy, vị Giáo chủ mà ông vô cùng ngưỡng mộ và kính phục. Do đó ông ta đă bị ông Diệm ra lệnh cho Ṭa án Quân sự Cần Thơ phải: “Tuyên án tử h́nh, tước đoạt binh quyền và tịch thu tài sản”. Tướng Lê Quang Vinh bị hành quyết ngày 13/7/1956 tại nghĩa địa Cần Thơ. Lúc chết ông mới 32 tuổi, trối trăn dặn vợ nuôi con cái nên người và xin được chôn tại núi Sam, Châu Đốc.
    Phải chăng v́ cái chết của ông Lê Quang Vinh mà từ sau khi rời bỏ chính quyền, (vào thời mà Tôn giáo Ḥa Hảo được phục hồi), cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ở luôn Sài G̣n cho đến khi qua đời, không giám trở về Long Xuyên nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông có một ngôi biệt thư vô cùng huy hoàng và 100 mẫu ruộng.
    Dẹp yên được hai ông Năm Lửa và Lâm Thành Nguyên, diệt được tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh là chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động đối lập vơ trang nguy hiểm tại miền Nam trừ những toán vơ trang lẻ tẻ không đáng kể. Toàn bộ chiến dịch này được gọi là “đánh dẹp Giáo phái”. Sau này, ông Nguyễn Long Thành Nam, một nhân vật Ḥa Hảo có thẩm quyền về các vấn đề Giáo phái đă đánh giá như sau (Phật giáo Ḥa Hảo trong Gịng Lịch sử Dân tộc, tr 593-594):
    Ông Ngô Đ́nh Diệm đă tự hào dẹp được các “lănh chúa giáo phái”, nhưng sau đó, chính thể của ông cũng là một kiểu lănh chúa giáo phái. Các “lănh chúa giáo phái” trước kia chỉ có quyền hành giới hạn tại từng địa phương, trái lại chế độ lănh chúa giáo phái mới này oai quyền bao trùm trên toàn cả nước trong mọi địa hạt, chứ không chỉ riêng về quân sự như các lực lượng vơ trang giáo phái trước kia.
    Có người nói rằng ông Ngô Đ́nh Diệm tuy có độc tài độc tôn, nhưng đó là ḷng yêu nước, muốn cứu nước, muốn làm tṛn sứ mạng lịch sử của người chiến sĩ yêu nước trong một t́nh trạng rối ren, cho nên phải cứng tay lái để lănh đạo quốc gia. Lập luận này không được chứng minh bằng thực tế và thành quả. Sự ủng hộ của một thành phần thiểu số trong dân chúng không thể gọi là thành quả của chế độ, khi đem đối chiếu với sự bất măn và đau khổ của thành phần đại đa số. Các thành quả nhất thời và ngắn hạn không thể xem là thành công của chế độ, khi đem đối chiếu với những hậu quả lớn lao và lâu dài mà chế độ ấy đă gây ra cho quốc gia và dân chúng.
    Người ta cũng hay nói đến “độc tài sáng suốt”. Từ ngữ này không có nghĩa trong thời đại dân chủ. Không thể có một nhà độc tài sáng suốt trong thế giới phức tạp ngày nay. Lư thuyết tự do dân chủ không chấp nhận chế độ độc tài, và không cho rằng nhà độc tài có thể sáng suốt được.
    Ông Ngô Đ́nh Diệm đă dẹp các giáo phái và như thế có hẳn* là ông không có tinh thần giáo phái không ? nếu định nghĩa giáo phái thoát ra từ từ ngữ Sectarism, th́ rơ ràng là ông Diệm cũng rất nặng tinh thần giáo phái. Trong một xă hội đa tôn giáo như Việt Nam không thể có quốc giáo, cũng không thể chấp nhận ưu thế chính trị của bất cứ tôn giáo nào. Do đó, chánh quyền không thể nằm trong tay một tôn giáo, hoặc điều khiển, lănh đạo bởi một tôn giáo. Thực tế chánh trị dưới chế độ Đệ Nhứt Cộng Ḥa đă biểu lộ rơ ràng ưu thế của Công giáo. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là một tín đồ Công giáo, chánh sách cai trị của ông tạo ưu thế cho tôn giáo của ông, đưa các tôn giáo khác vào vị trí thất thế. Và như thế, là một t́nh trạng Sectarism, hoặc gọi là bè phái, hoặc gọi là giáo phái.
    Ông Diệm đă nêu cao khẩu hiểu “Dẹp lănh chúa, dẹp giáo phái”, nhưng khi ông nắm quyền cai trị, chế độ của ông lại trở thành một chế độ mang đầy đủ tính chất của lănh chúa và giáo phái trên một b́nh diện cao hơn, là b́nh diện toàn quốc, thay v́ b́nh diện địa phương như trước ông.
    Tuy nhiên, tại miền Trung, vấn đề trở thành phức tạp và khó khăn hơn nhiều v́ những lực lượng chống đối ông Diệm không phải là tay sai của Pháp mà là những đảng Cách mạng đă từng xả thân đấu tranh vừa chống Cộng vừa chống Pháp, và đă có lúc ủng hộ ông Diệm trong và sau những nỗ lực vận động nắm chính quyền của ông. Tuy nhiên, cuối cùng, chiến khu Ba Ḷng ở Quảng Trị của Đảng Đại Việt bị đánh tan. Chiến khu Nam Ngăi của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị ông Diệm ra lệnh cho sư đoàn Nùng càn quét dă man trong những năm 1955-1956 ở các quận Quế Sơn, Tiên Phước, Duy Xuyên nhưng vẫn không tiêu diệt được lực lượng có quá nhiều kinh nghiệm chiến trường và ḷng yêu nước sắt đá này. Ông Ngô Đ́nh Cẩn phải dùng thủ đoạn “Đoàn kết thỏa hợp” mới lôi kéo được đơn vị vơ trang gần 2.000 tay súng về hợp tác để rồi sau đó cấp lănh đạo chính trị, quân sự của họ đều bị tù đày.
    Ngoài ra phải kể đến vua Bảo Đại, người đă bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng, người đă từng một thời được ông Diệm tung hô vạn tuế khi ông c̣n làm quan Nam triều. Với Bảo Đại, ông Diệm đă phải dùng đến những h́nh thức đấu tranh có vẻ dân chủ hơn qua một cuộc trưng cầu dân ư (23/10/1955) để biểu diễn cho Chính phủ và Quốc hội Hoa Kỳ lúc bấy giờ đang thẩm định khả năng chính trị của ông. Ư nghĩa của cuộc truất phế này đă được ông Đoàn Thêm phân tích rơ ràng trong cuốn Những Ngày Chưa Quên nhưng tôi cũng xin sẽ bổ túc và triển khai trong chương VI v́ những oái oăm lịch sử của biến cố này.
    Như vậy, từ năm 1956, ông Diệm là một Tổng thống hợp hiến và hợp pháp của một quốc gia Việt Nam theo chế độ Cộng Ḥa (dù ngày 26/10/1955 mới chỉ ban hành Hiến ước tạm thời), có cường quốc số một thế giới là Hoa Kỳ ủng hộ và có đại đa số dân chúng miền Nam Việt Nam sẵn ḷng sống chết với ông. Thực dân Pháp đă biến mất, chính quyền Cộng sản miền Bắc là mối đe dọa minh nhiên và tức thời, cho nên toàn dân đoàn kết nhất trí sau lưng ông để đương đầu với mối họa mới. Công việc đầu tiên là cải tổ hai định chế lớn chi phối sinh hoạt quốc gia: bộ máy công quyền và bộ máy quân đội. Với sự yểm trợ về ngân quỹ và kế hoạch của Mỹ, ông biến quân đội Việt Nam Cộng Ḥa thành một thứ quân đội Hoa Kỳ bản xứ, ít nhất là trên mặt h́nh thức và điều hành. Hệ thống tổ chức, quân phong, quân kỷ, quân nhu, quân dụng cho đến những chi tiết nhỏ nhặt như cách chào, đôi giày, khẩu phần ăn,... đều đến từ và rập theo khuôn mẫu Hoa Kỳ.
    Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa ra đời, hiến pháp có 1 điều bất hủ rất phản dân chủ là “Tổng thống lănh đạo quốc gia” cũng đă quy định tính cách phân quyền và xác định những định chế ở thượng tầng để quản trị đất nước. Viện trợ Hoa Kỳ và sự yểm trợ của các nước trong thế giới tự do đă nâng uy tín của ông lên cao, kết quả cuộc trưng cầu dân ư với tỷ số phiếu thắng 98.16% (kết quả chính thức của Bộ Nội vụ: 5.721.735 phiếu cho ông Diệm trên 5.828.907 tổng số phiếu) đă, dù sao, xác định sự kiện toàn dân sẵn sàng hợp tác với ông. Quả thật, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă nắm được đầy đủ yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Ḥa, tức là cả thời, cả thế và cả lực, đă nắm được cơ hội ngàn vàng để đưa quê hương xứ sở đến phú cường và hùng mạnh. Lịch sử và dân tộc chỉ cần ông quyết liệt khước từ mọi liên hệ xấu xa với quá khứ, chỉ cần ông thành thật đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi gia đ́nh, chỉ cần ông thực hiện dân chủ và đoàn kết thực sự, th́ chỉ với ba điều kiện đó mà thôi, ông Diệm đă trở thành anh hùng dân tộc, cứu tinh dân tộc rồi.
    Đau xót thay, ông đă không những không tôn trọng ba điều kiện đó mà chính ông và thành phần lănh đạo cao cấp nhất của đất nước là các anh em ông, cũng không ư thức được điều này. Cho nên bánh xe lịch sử đă quay lại nghiền nát ông, cho nên dân tộc đă đứng lên khước từ chế độ ông. Hệ quả đó không phải chỉ chấm dứt khi chế độ ông bị tiêu diệt mà c̣n kéo dài cho đến mùa Xuân năm 1975, điều mà tôi sẽ nói ở các chương sau.
    *
    -o0o-
    *
    Trở lại ngày 19/11/1954, sau khi tướng Nguyễn Văn Hinh từ giă Việt Nam về Pháp, tướng Vận trốn khỏi Nha Trang, và miền Trung đă hoàn toàn tự chủ, tự quản, tôi rời Sài G̣n về Nha Trang giữ chức Tư lệnh phó Phân khu Duyên Hải dưới quyền của Đại tá Phạm Văn Đổng. Trước khi rời pḥng của ông Vơ Văn Hải trong dinh Độc Lập, nơi mà Đại tá Lễ và tôi đă tạm trú gần hai tháng trời, bác sĩ Bùi Kiện Tín, lúc bấy giờ đă là Bộ trưởng Bộ Thông tin, trao cho tôi một xấp tài liệu nói về điều lệ, mục đích và hệ thống tổ chức của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia để nhờ tôi về tổ chức Phong trào này tại các tỉnh thuộc quyền tôi trách nhiệm. Bác sĩ Tín tŕnh bày cho tôi biết việc tổ chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia là do sáng kiến của các ông Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Trần Quốc Bửu, Bùi Kiện Tín... muốn đưa ra một phong trào nhân dân làm hậu thuẫn chính trị cho ông Diệm. Theo bác sĩ Tín th́ phong trào này ủng hộ chế độ ở mặt nổi và đảng Cần Lao Nhân Vị th́ điều động phong trào ở mặt ch́m, cũng như Việt Minh là đoàn thể mặt nổi mà đằng sau th́ có đảng Cộng Sản Đông Dương chỉ đạo trong 10 năm kháng Pháp.
    Lúc bấy giờ, vẫn c̣n một số người Pháp ở Việt Nam mà đa số có liên hệ đến mạng lưới t́nh báo Pháp để yểm trợ cho các tổ chức chống đối Thủ tướng Diệm. Ở Nha Trang vẫn c̣n Ṭa Đại diện Pháp, vẫn c̣n sĩ quan cố vấn ở các trường hải quân và không quân, vẫn c̣n một tiểu đoàn Sénégalais đóng ở Colona gần phi trường. Tại Cam Ranh, cách Nha Trang 50 cây số, vẫn c̣n hải quân Pháp và cơ quan y tế thuộc quân đội Pháp. V́ người Pháp c̣n hiện diện và c̣n ngấm ngầm phá hoại Thủ tướng Diệm nên các Tỉnh trưởng, Trưởng ty, Công chức Việt Nam vẫn c̣n e sợ người Pháp. (Như Tỉnh trưởng Nguyễn Trân ở Khánh Ḥa, mỗi lần tôi tổ chức biểu t́nh chống Pháp th́ ông lại t́m cớ đi Phan Rang hoặc đi Sài G̣n để lẩn tránh; hoặc như Phó tỉnh trưởng Lưu Văn Châm, khi nghe Trung tá Thái Quang Hoàng, Tỉnh trưởng B́nh Thuận, đọc diễn văn đả kích người Pháp th́ lắc đầu tỏ vẻ sợ sệt).
    V́ kẻ thù trực tiếp và thực sự của ông Diệm lúc bấy giờ là người Pháp, mà các giới chức dân sự địa phương lại vẫn c̣n e dè nên tôi phải lấy quân đội làm chủ lực ṇng cốt và phát động để đi tiên phong trong việc xây dựng Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, với hy vọng có thể gây được sự phấn khởi và tin tưởng cho phía dân sự cũng như quần chúng. Đại tá Phạm Văn Đổng, vị chỉ huy trực tiếp của tôi vốn là một sĩ quan thân Pháp nhưng ông là một người khôn ngoan thâm trầm cho nên vẫn để tôi hoạt động chính trị, hoạt động tổ chức Phong trào mà không can thiệp ngăn cấm, ông Đổng chọn thái độ đứng ngoài chính trị và chỉ lo hoạt động quân sự thuần túy.
    Chẳng bao lâu, tôi đă tạo dựng được một phong trào chính trị rầm rộ trong hàng ngũ quân nhân tại Nha Trang với những cơ cấu nhịp nhàng. Thấy anh em quân nhân gồm có hàng vạn người hăng say hoạt động cho Phong trào với những buổi học tập, xuống đường, những buổi công tác xă hội, lại thấy anh em quân nhân rất dứt khoát thái độ khi đi tháo gỡ những bảng hiểu, tên phố, tên đường, tên cơ quan bằng tiếng Pháp, c̣n các cổng trại đơn vị quân đội th́ treo đầy những biểu ngữ “Bài Phong”, “Đả Thực”, “Diệt Cộng”, những biểu ngữ hoan nghênh Thủ tướng Diệm cùng với cờ quốc gia và cờ Phong trào hiên ngang tung bay trước gió, các “ông dân sự” và quần chúng bấy giờ mới bớt sợ người Pháp. Có hậu thuẫn quân đội rồi và thấy quần chúng bắt đầu giác ngộ rồi, tôi bèn bắt đầu phát động Phong trào Cách Mạng Quốc Gia về phía dân sự. Lúc bấy giờ, trong giới trí thức và công chức tại Nha Trang đă có một số người tin tưởng vào Thủ tướng Diệm và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia như các bác sĩ Nguyễn Đ́nh Ḱnh, Đỗ Cao Minh (hiện ở Pháp), giáo sư Hà Huy Liêm,... tôi bèn mời ông Vơ Văn Trưng, Trưởng ty học chánh, làm Chủ tịch Tỉnh bộ Phong trào ở Khánh Ḥa và Nha Trang. Phong trào phát triển nhanh chóng làm cho ngân quỹ trở nên dồi dào, do đó mà chẳng mấy chốc trụ sở Tỉnh bộ Phong trào được dựng lên và mang lại niềm tin cụ thể cho đồng bào, công chức và cán bộ. Đă thế, giáo sư Hà Huy Liêm (trường trung học Vơ Tánh, Nha Trang) và kỹ sư Nguyễn Mạnh Hoàn (hiện ở California), những ủy viên tuyên nghiên huấn của phong trào lại là những nhân vật có kinh nghiệm đấu tranh, có tài hùng biện động viên và kích thích được quần chúng trong các buổi thuyết tŕnh hoặc biểu t́nh, nên khí thế của Phong trào mỗi ngày càng một tăng, tổ chức của Phong trào một ngày càng trưởng thành trên cả hai mặt lượng lẫn phẩm. Tôi có thể nói mà không ngại ngùng rằng ngoại trừ thời Việt Minh mới cướp chính quyền năm 1945, chưa khi nào tỉnh Khánh Ḥa và thị xă Nha Trang có một phong trào chính trị bừng bừng lửa cách mạng như thời 1955, 1956, dưới ngọn cờ của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia do tôi lănh đạo tại miền thùy dương cát trắng, dù nơi đó dân chúng vốn hiền ḥa và không hiếu động. Một vài kỷ niệm mà tôi nhắc lại sau đây tuy chỉ có tính cách địa phương, không gây được những chấn động to lớn, nhưng quả thật đă là những chứng tích cách mạng của một phong trào nhân dân mà động cơ thúc đẩy lớn lao và duy nhất là t́nh cảm giải phóng sau những năm dài áp bức. Những kỷ niệm đó bây giờ chỉ là những vang bóng của một thời xa xưa nhưng chắc chắn vẫn c̣n là những âm vang rộn ràng trong ḷng những chiến hữu của tôi hiện c̣n sống nơi hải ngoại hay kẹt lại trong nước, mà tôi vẫn luôn ghi nhớ rằng không có họ th́ không thể có được cao trào cách mạng đó.
    Nào là lúc vận động quần chúng tấn công đơn vị Tây Đen Sénégalais ở Colona, khiến Pháp đặt toàn căn cứ trong t́nh trạng báo động tác chiến và dùng xe cứu hỏa và quân khuyển để phản công lại khiến một số học sinh bị thương. Nào là lúc bao vây Trụ sở Ủy Hội Quốc Tế để cuối cùng huy động dân chúng xông vào trụ sở ném đá gây thương tích trầm trọng cho hai đại tá Việt Cộng (đi điều tra về việc cán bộ ở Phú Yên bị dân chúng nổi lên giết chết), khiến họ phải nhờ máy bay Pháp trốn về Sài G̣n tức khắc.
    Tôi cũng muốn nhắc lại vụ Phong trào cầm đầu đoàn biểu t́nh kéo đến khách sạn Beau Rivage để áp lực sĩ quan Pháp phải giữ thái độ khách quan, và buộc các thành viên Ấn Độ và Ba Lan phải gửi một cái chổi và cục đá và một bản án ra Hà Nội cho ông Hồ Chí Minh. Và chắc chắn các chiến hữu cũ của tôi cùng đồng bào ở Nha Trang không thể nào quên được lễ tưởng niệm tướng Tŕnh Minh Thế tại công viên trước ga xe lửa của thành phố Nha Trang, một buổi lễ vừa cảm động vừa hào hùng để tôn vinh người chiến sĩ cách mạng thực sự hy sinh cho tổ quốc tại cầu Tân Thuận Sài G̣n. Sau buổi tưởng niệm, toàn thể quân dân đă đồng thanh yêu cầu ông tỉnh trưởng Nguyễn Trân đổi tên công viên thành ra công trường Tŕnh Minh Thế và nhờ vậy mà tên tuổi cũng như h́nh bóng của vị lănh tụ Cao Đài Liên Minh, xuất thân từ núi Bà Đen (Tây Ninh), đă sống với người dân Nha Trang tại miền đất thùy dương cho đến tháng 4/1975. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không quên được ḍng nước mắt của vị đại diện Cao Đài khi đọc diễn văn ca ngợi người anh hùng áo vải, 5 năm trời thân cô thế yếu mà dám đương đầu với hai kẻ thù của dân tộc: Cộng Sản và Thực Dân, người anh hùng đă chết tức tưởi trong một trường hợp mà cho đến ngày nay vẫn c̣n nằm trong ṿng bí ẩn của lịch sử.
    Sở dĩ cái chết của tướng Thế cho đến ngày nay vẫn c̣n nằm trong ṿng bí ẩn của lịch sử v́ chưa có một chứng nhân nào hay một nhà viết sử nào chứng minh được một cách xác quyết kẻ nào, hay tổ chức nào, đă chủ trương giết tướng Thế. Kư giả Brown (trong The New Face of War) cho rằng cái chết của tướng Thế ở vào một trường hợp có thể đưa đến nhiều nghi vấn về một vụ ám sát. Ông Nhị Lang (trong hồi kư: Phong Trào Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế) th́ gán cho tướng Mai Hữu Xuân đă giết tướng Thế. C̣n tướng CIA Lansdale, người bạn chí thiết của tướng Thế, người đă lôi kéo ông về với ông Diệm, th́ không nói ai là kẻ chủ mưu giết tướng Thế. Trong hồi kư In The Midst of War, Lansdale kể lại rằng ngày 3/5/1955, ông đang ngồi trong dinh Độc Lập, trong lúc ông ta đang tỏ lời giận dữ Tổng thống Diệm v́ ông Diệm có những lời lẽ khinh mạn và vong ân đối với tướng Thế th́ bỗng ông Nhu đi vào cho biết tướng Thế đă từ trần trên tàu Tân Thuận trong lúc đang chỉ huy trận tấn công B́nh Xuyên. Nghe được tin này, ông Diệm khóc và xin lỗi Lansdale. Lansdale nắm vai ông Diệm và ngỏ lời an ủi. Lansdale là bạn chí thân của tướng Thế, lại là một nhân vật CIA tài ba vậy mà không điều tra nổi ai đă ám hại vị tướng Cao Đài Liên Minh. Trong lúc đó th́ dư luận Sài G̣n lại cho rằng ông Ngô Đ́nh Nhu là kẻ chủ mưu giết tướng Thế. Sở dĩ có dư luận ấy v́ Nhu nổi tiếng là người thủ đoạn “ăn cháo đá bát” và đă phản bội lại bạn bè từ sau khi cầm được chính quyền, huống ǵ ông Nhu lại không muốn bất kỳ ai có thể trở thành anh hùng để có thể qua mặt được anh em ông Diệm.
    Về phần tôi th́ đoán rằng cái chết của tướng Thế chỉ có thể là do người Pháp chủ mưu. Tôi đoán vậy v́ lúc bấy giờ chỉ có một đơn vị quân đội Pháp đang đóng rất gần nơi tướng Thế chỉ huy, ngoài đơn vị đó ra không c̣n một lực lượng quân sự nào khác nữa (tướng Thế bị một viên đạn xuyên từ tai này sang tai kia). Người Pháp hết sức căm thù tướng Thế v́ trải 5 năm kháng chiến, tướng Thế đă nhiều phen làm đảo điên người Pháp, đặc biệt vụ bỏ bom tại Nhà hát lớn Sài G̣n ngày 9/2/1952 sát hại hơn 50 người cả Pháp lẫn Việt.
    Cũng v́ cảm phục tấm ḷng yêu nước, ư chí cao cả và hành động gan dạ của người chiến sĩ Cao Đài Liên Minh nên tôi đă tổ chức một buổi lễ kỷ niệm hết sức long trọng để tôn vinh vị anh hùng núi Bà Đen 5 năm nằm gai nếm mật. Cũng từ đó trước mặt tôi, trên bàn giấy tại văn pḥng Tư lệnh Phân Khu Duyên Hải (Nha Trang), chân dung tướng Tŕnh Minh Thế đă thay chổ chân dung thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm.
    Cuối cùng, tôi muốn kể lại chuyện trực diện ngăn cấm viên Tổng Tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương lúc đó là Đại tướng Jacquot, không được di chuyển trong lănh thổ Phân khu Duyên Hải, dù lúc bấy giờ quân đội Việt Nam vẫn c̣n phụ thuộc vào Bộ Tư lệnh Pháp. Nguyên vị tướng Tổng Tư lệnh này muốn đi kinh lư thăm các đơn vị khác đóng ở Nha Trang và Cam Ranh. Từ Đà Lạt xuống, tướng Jacquot đi xe mang cờ tam tài và cờ hiệu 4 sao, có một trung đội nhảy dù Pháp và một Đại úy chỉ huy hộ tống. Nhưng đến Tháp Chàm th́ đoàn xe bị Trung úy Trần Văn Đại bố trí một đại đội chặn lại và bắt ông ta phải quay lui (Trung úy Đại nay là Đại tá, hiện ở Mỹ). Quả là một việc hết sức bất ngờ và mất thể diện cho quân đội Pháp, v́ vậy tướng Jacquot giận lắm nhưng không giám ra lệnh nổ súng nên cuối cùng, tuy ông ta đă đổi từ thái độ trịch thượng hùng hổ đến ôn ḥa năn nỉ, nhưng ông vẫn bị khước từ không thể tiếp tục lộ tŕnh. Trung úy Đại cho ông ta biết Trung úy đang làm theo lệnh của tôi, nghĩa là thể hiện ư chí của cao trào cách mạng của quân dân vùng duyên hải, rằng tất cả người Pháp, dù ở bất cứ tư thế nào cũng phải chịu luật “nội bất xuất ngoại bất nhập”. Ngày hôm sau, tôi nhận được công điện của Tổng Tham mưu Việt Nam (do Đại tá Trần Văn Đôn kư) khiển trách tôi tại sao lại vô lễ với vị Đại tướng “Tổng Tư lênh quân đội Liên Hiệp Pháp”. Tôi liền đánh công điện trả lời không ngại ngùng: “Tôi chỉ biết có một vị Tổng Tư lệnh là Thiếu tướng Lê văn Tỵ mà thôi”. Sau này, khi Thủ tướng Diệm đến Nha Trang có hỏi lại tôi về vấn đề đó, vấn đề mà tướng Jacquot khi về Sài G̣n đă đến dinh Độc Lập trách móc thủ tướng, tôi bèn tŕnh bày: “Thưa Cụ, chúng tôi coi người Pháp là kẻ thù v́ họ phá rối Cụ, họ muốn lật đổ Cụ tức là chống lại dân tộc Việt Nam, th́ chúng tôi đương đầu với họ là lẽ tất nhiên. Tôi làm cho tướng Jacquot suy nghĩ và hy vọng nhờ đó mà ảnh hưởng phần nào đến đường lối chính trị của người Pháp”. Ông Diệm gật gù nở nụ cười thỏa măn.
    Tôi nhắc lại vài hoạt động “Bài Phong, Đả Thực, Diệt Cộng” tại vùng Phân khu Duyên Hải đó là v́ muốn nhắc lại sự đóng góp của dân và quân vùng này cho sự thành công của ông Diệm khi ông phải đương đầu với ba kẻ thù của ông ta mà cũng là kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Đă đành rằng “Chiến khu Đông” đặt tại Phan Rang và những hoạt động của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia vùng Duyên Hải không có tầm vóc đủ lớn để có ảnh hưởng chính trị sâu đậm bằng những biến cố xảy ra ngay tại thủ đô Sài G̣n, nhưng âm vang của nó như là một biểu hiện ư chí của quần chúng có làm cho quân dân toàn quốc lên tinh thần, có làm họ quyết liệt hơn trong việc ủng hộ thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm hay không; thái độ của ba anh em ông Diệm sau đó mấy tháng đối với Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia tại Nha Trang sẽ chứng minh điều này.
    Những hoạt động đó, dù bây giờ chỉ c̣n là kỷ niệm trong tận đáy cùng của kư ức, và dù kư ức đó đang phai nhạt dần v́ năm tháng và v́ đời sống ly hương nơi đất người, tôi vẫn muốn trang trải lên trang sách này để một lần trong đời được tạ ơn và tạ tội với các đồng chí bạn bè ngày xưa trong Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia miền duyên hải. Nếu cuộc biểu t́nh do bà Ngô Đ́nh Nhu tổ chức vào năm 1956 đă được nhóm bồi bút của ông Diệm sau đó (và đến tận bây giờ) tâng bốc lên đến tột đỉnh những ǵ mà ngôn ngữ ma quái có thể diễn tả được, th́ tại sao tôi lại không chân thành viết ra đây như viết về những anh hùng lặng lẽ nhưng sừng sững, những nỗ lực không đo lường được bằng ngôn ngữ của các bạn bè đồng chí của tôi. Tại Sài G̣n, bà Nhu có ông anh chồng làm tổng thống với một bộ máy công quyền, có cả bóng lẫn h́nh đồ sộ của Mỹ đè nặng trên t́nh h́nh chính trị Việt Nam lúc bấy giờ, có sẵn cả một khối lượng của người Công giáo di cư để làm hậu thuẫn. C̣n tại Khánh Ḥa, nơi mà cái tên Ngô Đ́nh Diệm nghe không kêu bằng và không được biết bằng tên của ông Hồ Chí Minh, nơi mà phong trào phải tự lực cánh sinh không có được một hậu thuẫn hay yểm trợ nào, nơi mà đảng Con Ó của tướng Hinh và quyền lực của đại tá Trương Văn Xương đang tê liệt hóa ông Ngô Đ́nh Cẩn và các thuộc hạ người Công giáo tại miền Trung, và nơi mà người dân chỉ biết dùng ḷng yêu nước chân thành để phân định thời cuộc và đo lường ḷng người... th́ những hoạt động của chúng tôi, ở một kích thước nào đó, quả thật là không thể đo lường được bằng ngôn ngữ mà chỉ có thể kể lại như những hoài niệm mà thôi.
    Tôi cần viết ra đây những hoài niệm đó là cũng để tạ tội với những anh em Đại Việt tỉnh bộ Phan Rang do ông Hồ Trần Chính cầm đầu, và những Phật tử bốn tỉnh đă v́ thấy chuyện tôi làm, nghe lời tôi hô hào khích động mà dấn thân hoạt động hăng say để rồi sau đó mấy năm lại thành nạn nhân của đảng Cần Lao phóng tay phát động chính sách chia rẽ kỳ thị. Viết ra đây để tạ tội với nhóm các bác sĩ trong Quân y viện Nguyễn Huệ, những giáo sư Vơ Tánh như các ông Lê Tá, Nguyễn Mậu, Vơ Hồng... những giáo sư Bồ Đề như các ông Lê Bá Chẩn, Ưng Thi, Quách Tấn chỉ v́ mấy năm sau chống đối ông Diệm (có người c̣n giám tổ chức buổi kịch “Tần Thủy Hoàng” để lên án ông Diệm) mà, lúc bấy giờ, đang quá say mê lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, tôi đă nghĩ rằng những vị ấy là Việt gian. Nhưng rơ ràng là họ đă sáng suốt hơn tôi, đă nh́n xa thấy rộng hơn tôi. (Giáo sư Lê Tá, hiệu trưởng trường Vơ Tánh Nha Trang, bị đổi vào Phan Thiết khác với ông Lê Tá tỉnh trưởng Phú Yên. Hai cụ Lê Tá hiện sống ở Mỹ và đều là những nhân chứng của thời đại. C̣n gia đ́nh Cụ Lê Bá Chẩn, ngoài việc dạy học ở trường Bồ Đề, c̣n là Phó Tỉnh trưởng Nha Trang, bị ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân gán cho cái tội “Cộng Sản” mặc dù ai cũng biết Cụ Chẩn đă từng là kẻ thù của Cộng Sản).
    Xây dựng xong cả thượng tầng lẫn hạ tầng cơ sở của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia tại Khánh Ḥa để làm thí điểm gương mẫu, tôi bèn đi khắp bốn tỉnh thuộc phân khu Duyên Hải, từ Phú Yên đến B́nh Thuận, để thành lập các tỉnh bộ khác của Phong trào cho những tỉnh đó. Dân chúng bốn tỉnh miền cực Nam Trung Việt cũng như dân chúng trên toàn quốc sau gần 10 năm chiến chinh khói lửa dưới chế độ cũ đă chán nản chiến tranh, đă mất niềm tin vào những lời hứa hẹn, bỗng bừng dậy nh́n về chân trời mới, một chân trời vinh quang và rất nhiều hy vọng nhờ khí thế cách mạng đang dâng tràn từ thành thị đến thôn quê. Khí thế đó có được nội dung cách mạng là nhờ ư thức và tâm chất của những người như ông Lê Tá, nguyên Tỉnh trưởng Phú Yên, ông Hồ Trần Chánh, bác sĩ Nguyễn Trọng Thiện, bác sĩ Đỗ Cao Minh... những bằng hữu và chiến hữu đă cùng tôi hoạt động cho Phong Trào Cách Mạng Quốc gia, và đă trở nên hội viên Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng hay Dân biểu Quốc Hội sau này. (Ba nhân vật trên hiện sống ở hải ngoại).
    Sau khi hoàn thành việc xây dựng bộ phận chủ yếu cho Phong trào tại bốn tỉnh miền Duyên Hải, tôi trở lại Nha Trang để trong một buổi đại hội quân dân chính gồm trên ba ngàn đại diện tham dự, tôi hô hào thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc do lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm lănh đạo để đương đầu với cuộc cách mạng vô sản chuyên chính ở miền Bắc do ông Hồ Chí Minh lănh đạo. Giữa hội trường đằng đằng chính khí mà khuôn mặt mỗi người đều biểu lộ một niềm tin sắt thép, tôi cho đồng bào biết rằng lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm đă từng cởi áo từ quan, đă từng hoạt động cách mạng chống Pháp, chống Cộng ngay thời 1930, một nhân vật chân thành yêu nước yêu dân, chỉ đặt quyền lợi tổ quốc và dân tộc trên phe phái, tôn giáo riêng tư... Tôi đă mang tấm ḷng son sắt của người cán bộ trung kiên, của người từng là chiến hữu của lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm từ 1942, tôi thề sống chết với ông, và nếu ông phản bội quốc dân, tôi sẽ là người đầu tiên đảo chánh ông. Riêng với anh em quân đội, tôi thề sẽ thực hiện đúng khẩu hiệu “Huynh đệ chi binh” mà tôi đă nêu ra để đưa cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đến thành công. Trước lời thề sắt đá của tôi, hội trường như nổ tung bởi những tràng pháo tay vang dội. Rất đông sĩ quan và binh sĩ quá hăng say và cảm động đă đứng bật dậy hô to khẩu hiệu “Bài Phong, Đả Thực, Diệt Cộng”, khẩu hiệu “Ngô Đ́nh Diệm muôn năm” và “Hoan hô Trung tá Đỗ Mậu”... Không khí hội trường như không khí hội nghị Diên Hồng của cha ông thủa trước, mà những đồng chí cũ của tôi là tướng Trần Văn Minh (Không Quân), tướng Nguyễn văn Thịnh (Pháo Binh), tướng Vũ Đức Nhuận (An Ninh Quân Đội), Đại tá Hà Quang Giác, Đại tá Đỗ Khắc Mai... (hiện sống tại hải ngoại) đă là những chiến sĩ tiền phong đầy ắp ḷng yêu nước và lửa cách mạng.
    Thật vậy, ḷng yêu nước và lửa cách mạng đó của quân dân bốn tỉnh Duyên Hải đă vang dội về Huế và vào Sài G̣n làm cho chủ tịch Phong Trào Cách Mạng Quốc gia Trung ương là ông Trần Chánh Thành, và ông Hà Đức Minh, đại diện đảng Cần Lao của ông Ngô Đ́nh Nhu, phải đến Nha Trang quan sát và nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn này. Ông Ngô Đ́nh Cẩn gửi thư yêu cầu tôi sát nhập phong trào miền duyên hải vào phong trào miền Trung và ủy nhiệm tôi làm đại diện chính trị cho ông ta. Ông Nguyễn Đôn Duyến, đại diện Chính phủ, phái người vào mời tôi ra Huế thuyết tŕnh về cuộc đời của Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm.
    Ngày 7/7/1955, tôi ra Huế thuyết tŕnh về đề tài “Chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm với chính nghĩa quốc gia”. Dân chúng và công chức kinh thành Huế vốn nghe tiếng tôi là cán bộ kỳ cựu và trung kiên của ông Diệm nên kéo nhau đến nghe tôi nói về cuộc đời của ông tại Hội trường Morin. Họ đứng chật hội trường và c̣n tràn ra các đường phố chung quanh. V́ Huế là địa phương biết khá rơ về dĩ văng của ông Diệm, biết cả điều xấu lẫn điều tốt, biết cả sở trường lẫn sở đoản, cho nên nội dung bài thuyết tŕnh của tôi gồm hai phần rơ rệt: Phần thứ nhất nhằm so sánh con người của ông Ngô Đ́nh Diệm và con người của ông Hồ Chí Minh, nhưng đặc biệt chỉ nhấn mạnh vai tṛ Cộng sản quốc tế của ông Hồ Chí Minh và đề cao tư cách “Cách mạng quốc gia” của ông Diệm; Phần thứ hai tôi xác định vai tṛ và vị trí tất yếu của ông Diệm trong cuộc đấu tranh Quốc-Cộng sắp tới giữa hai miền Nam Bắc. V́ vậy, sau lời giới thiệu rất ân cần và tâm huyết của Giáo sư Vơ Thu Tịnh, giám đốc Nha Thông tin Trung Việt (hiện sống ở Pháp), tôi đă cố t́nh bỏ qua những điều tiêu cực của chính cá nhân ông Diệm cũng như của t́nh h́nh chính trị tổng quát để chỉ nhằm đề cao ông Diệm như là một môn đồ Khổng Mạnh đầy đủ Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, như là một tín đồ Chúa Kitô bác ái, công bằng.
    Bài thuyết tŕnh sau đó được ông Ngô Đ́nh Cẩn cho phát thanh lại trên đài phát thanh Huế đến 7 đêm liền, được Bộ Thông tin Sài G̣n cho in thành sách phát cho các tỉnh để làm tài liệu học tập và, hân hạnh nhất cho tôi, là năm 1958 được Tổng thống Diệm gọi vào Dinh Độc lập để khen ngợi và cảm ơn sau khi ông đă đọc xong tập “Chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm với chính nghĩa Quốc gia”.
    Nhưng nếu sự lưu tâm của các ông Ngô Đ́nh Cẩn, Trần Chánh Thành trên đây là một khích lệ cho tôi trong việc xây dựng Phong trào Cách mạng Quốc gia vùng Duyên hải th́ chuyến viếng thăm Nha Trang của Thủ tướng Diệm sau đó mới thực sự là phần thưởng tinh thần và t́nh cảm giá trị hơn. Thủ tướng Diệm, từ ngày bị tướng Nguyễn Văn Hinh chống đối, đă tự giam ḿnh trong khuôn viên Dinh Độc lập, nhưng ngay sau khi đánh tan quân B́nh Xuyên ở rừng Sát và mặc dù công việc đa đoan, ông đă quyết định đi kinh lư mà địa điểm đầu tiên là Nha Trang, nơi tôi đang chịu trách nhiệm.
    Khi Thủ tướng Diệm đến Nha Trang, mặc dầu tôi chỉ là Tư lênh phó nhưng đại tá Phạm Văn Đổng vẫn đề nghị tôi, với tư cách Chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia vùng Duyên hải, đại diện cho quân dân đọc diễn văn chào mừng Thủ tướng. Tôi tổ chức một buổi mít-tinh của dân chúng và quân đội tại một công viên sát bờ biển để nghênh đón ông Diệm. Tôi muốn mượn cảnh trời cao biển rộng, cảnh bạch nhật thanh thiên, thay mặt quân dân Nha Trang đưa cao lời thề chết sống với Ông để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, xây dựng đời sống mới ấm no hạnh phúc cho đồng bào sau 100 năm quê hương đắm ch́m trong nô lệ dưới gót giầy sắt của thực dân. Có lẽ Đại tá Đổng và nhiều nhân chứng đă không quên có những bà già, trẻ em 15, 16 tuổi đă đến ôm chầm lấy vị Thủ tướng khả kính ngỏ lời hân hoan được thấy tận mắt nhà lănh đạo v́ dân v́ nước. Tôi c̣n nhớ ông Diệm đă nh́n tôi rơm rớm nước mắt như muốn chia sẻ nỗi cảm động hân hoan của ông. Sau buổi lễ đón chào, ông Diệm không chịu về ṭa Tỉnh trưởng ăn cơm trưa mà lại đ̣i về ăn cơm chung với các sĩ quan ở Câu lạc bộ. Ngồi giữa Đại tá Linh Quang Viên, Tư lệnh Vùng Ba, và Đại tá Đổng, Tư lệnh Phân khu Duyên hải, và trước độ 60 sĩ quan, ông Diệm nói với các sĩ quan hiện diện là ông rất biết ơn quân đội đă ủng hộ ông, đă hy sinh cho ông. Ông hứa sẽ trung thành với dân tộc và đưa nước nhà đến bến bờ vinh quang.
    Sau khi thăm Nha Trang, ông bảo tôi cùng đi theo ông lên Đà Lạt để tiếp tục chuyến kinh lư của ông. Cử chỉ ưu ái đó làm tôi cảm động. Đến Đà Lạt, ông cho biết sẽ thăng tôi lên đại tá và sẽ bổ nhiệm làm Tư lệnh Phân khu Duyên hải thay cho đại tá Phạm Văn Đổng giữ chức Tư lệnh Sư đoàn Nùng (Sư đoàn 3) ở Phan Rí. C̣n ông Thái Quang Hoàng lên chức thiếu tướng và sẽ giữ chức Tư lệnh Quân khu III thay cho đại tá Linh Quang Viên. Sau này tôi mới biết việc thăng cấp cho tôi và Thái Quang Hoàng... nằm trong chủ trương tưởng thưởng chung cho những người cả dân sự lẫn quân sự đă từng ủng hộ ông Diệm từ những ngày đầu và trong những ngày ông gặp khó khăn đối phó những kẻ thù thực dân và phong kiến. Chủ trương đó do các ông Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Trần Ngọc Liên... đề nghị lên ông Diệm. Mỗi người có công đều được thăng một cấp, ví dụ như ông Nguyễn Đôn Duyến, nguyên đốc sự hạng nh́ được thăng lên đốc sự hạng nhất; như ông Vơ Như Nguyện (hiện ở Pháp), từ Chánh thanh tra Công an hạng ba lên Chánh thanh tra Công an hạng nh́. Về vụ thăng thưởng, đến năm 1964, khi tướng Nguyễn Khánh làm Thủ tướng, ông hủy bỏ những nghị định thăng cấp cũ làm cho một số người vô cùng bất măn. (Vị giáo sư Hán học Vơ Như Nguyện biết rơ vấn đề này và có đến phàn nàn với tôi tại Sài G̣n).
    Như vậy, từ nay, nhiệm vụ của tôi trên toàn Phân khu Duyên hải (gồm bốn tỉnh Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh Thuận) sẽ gồm không những giữ ǵn an ninh địa phương này mà c̣n về mặt chính trị, phải xây dựng cho quần chúng một ư thức chính trị vững mạnh mà nội dung là chống Cộng và ủng hộ chế độ Cộng Hoà. Trước 1945, tôi có qua lại Nha Trang vài lần trong các chuyến đi công tác cho ông Diệm khi c̣n hoạt động cho phong trào Cường Để. Lúc bấy giờ, đầu óc c̣n suy tư về những hoạt động cách mạng bí mật và nguy hiểm, và lại tuổi trẻ nên tôi chưa nghĩ đến việc an cư lạc nghiệp cho gia đ́nh. Nhưng từ năm 1953, khi được đổi về miền thùy dương gió hiền cát trắng, làm đại diện cho Quân khu II, tôi có nhiều th́ giờ quan sát dân t́nh cảnh trí tỉnh Khánh Ḥa, và tôi có ư định sẽ chọn tỉnh lỵ Nha Trang làm quê hương. Ư định này trở thành quyết định v́ sau ngày chia cắt đất nước vào tháng 7 năm 1954, tôi linh cảm thấy ngày trở lại nơi chôn nhau cắt rốn vùng tả ngạn sông Gianh quả thật là xa vời. Sau những năm* lê gót khắp mọi nẻo miền đất nước, tôi thấy Nha Trang quả là nơi đất lành cho chim đậu, có thể làm nơi sinh sống vĩnh viễn cho vợ con, làm nơi thừa lương cho ḿnh khi tuổi đă về chiều. Tôi say mê Nha Trang, quyến luyến Nha Trang v́ Nha Trang không khép kín u trầm như cố đô Huế, không cô đơn lạnh lùng như Đà Lạt, không náo nhiệt xô bồ như Sài G̣n. Tôi yêu Nha Trang v́ cảnh non nước trời mây t́nh tứ. Nha Trang sống động mà không suồng să, mộng mơ mà không sầu năo, một thành phố trung b́nh nhưng thanh lịch như là nhà thơ Quách Tấn đă mô tả sau đây: [4]
    *
    Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang,
    Muốn t́m dấu cũ th́ sang Tháp Bà.
    Muốn trông trời biển bao la,
    Con thuyền nho nhỏ bơi ra Ḥn Chồng.
    Muốn xem cá lạ biển Đông,
    Xuống ṭa Hải Học trong vùng Trường Tây.
    Muốn vui cùng nước, cùng mây,
    Mây trùm suối ngơ, nước vầy suối tiên.
    Ba Hồ làm thú thiên nhiên,
    Qua Sơn là chốn thần tiên đi về.
    Ḷng mong nương bóng Bồ Đề,
    Lên chùa Hải Đức gần kề Nha Trang.
    Nha Trang trăng ngọc gió trầm,
    Anh về B́nh Định lệ dầm nhớ thương.
    Trách ai rắp nẻo ngăn đường,
    Non song gởi gấm can trường lại em.
    Ḥn Chữ chưa ch́m,
    Ḥn Trầm chưa ngă,
    Ngoài c̣n Vạn Giă,
    Trong c̣n Cam Lâm,
    Vẫn c̣n trăng ngọc gió trầm,
    Ngh́n thu nghĩa nặng t́nh thâm măi c̣n.
    *
    Ngay trước cả thời chúa Nguyễn mở mang bờ cơi, phong cảnh Nha Trang đă nổi tiếng là t́nh tứ với hàng dương liễu dịu dàng trên một bờ biển cát trắng nước xanh, dân t́nh Nha Trang đă nổi tiếng là hiền ḥa đôn hậu, chỉ biết khai thác đất cha biển mẹ làm phương kế sinh nhai. Vào đầu thế kỷ thứ 19, khi nhà bác học Yersin đến định cư tại đây thành lập viện Pasteur để nghiên cứu thêm về vi trùng học trên các bệnh của miền nhiệt đới, th́ Nha Trang được chỉnh trang lại vừa đủ như một cô gái quê xinh đẹp điểm thêm một chút phấn hồng để trở thành một thành phố có hấp lực lôi cuốn khách nhàn du.
    Nhưng từ khi đất nước qua phân, ông Diệm về nước, th́ Nha Trang bỗng vươn ḿnh và trở thành một “thành tŕ cách mạng” sôi động đến nỗi ông Ngô Đ́nh Nhu, cha đẻ và là lănh tụ đảng Cần Lao Nhân Vị, phải đích thân đến đây để tổ chức việc thành lập Quân ủy Trung Ương của đảng. Thật vậy, lúc bấy giờ, chỉ độ một tuần sau ngày thành lập nền Cộng ḥa (26-10-1955), cuộc truất phế Bảo Đại c̣n đang làm cho một số dân chúng miền Trung xao động, miền Hậu Giang c̣n khói lửa mịt mù, tân nội các c̣n chập chững đối phó với bao nhiêu việc trọng đại... thế mà ông Nhu đă bỏ thủ đô vội vă đến Nha Trang để xúc tiến công tác này trong vùng trách nhiệm của tôi. Quả là một vinh dự cho Nha Trang và cho riêng tôi.
    Không ai được biết đảng Cần Lao được thành lập vào lúc nào ngoại trừ một thiểu số rất nhỏ ṇng cốt của Đảng này, nhưng ai cũng biết là từ lúc chưa nắm được chính quyền, ông Nhu đă cổ xúy và nhiều lần đề cập đến một đảng bí mật làm rường cột cho chế độ. Là một người nghiên cứu và chịu ảnh hưởng phần nào lư thuyết của Mao Trạch Đông, ông Nhu cũng chủ trương quản trị và lănh đạo quốc gia theo phương tŕnh Lănh tụ Đảng - Nhà nước - Nhân dân, nhưng điều mà ông Nhu không ngờ tới là ông đă theo mô thức này một cách quá lư thuyết nên sau này thực tế đă cắt miền Nam thành hai vùng chính trị khác nhau, lúc th́ có ranh giới rơ ràng lúc th́ lẫn lộn vào với nhau với nhiều mâu thuẫn sâu đậm: Hai lănh tụ Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn, hai đảng Cần Lao miền Trung và Trung Ương, hai nhà nước có hai bộ máy công quyền với những nhân sự và phương thức quản trị khác nhau, và hai loại nhân dân chạy theo hay chống lại chế độ. (Sẽ nói rơ hơn trong chương IX: Đảng Cần Lao).
    Tôi nhận lănh nhiệm vụ Tư lệnh Phân khu Duyên hải được độ hai tháng th́ hai Trung úy Lê Quang Tung và Nguyễn Văn Châu từ Huế vào gặp tôi cho biết hai Cậu (lúc bấy giờ hai ông Tung và Châu gọi hai ông Nhu và Cẩn bằng Cậu) phái họ vào Nha Trang để thảo luận với tôi về việc tiến hành thành lập Quân ủy Trung Ương của Đảng Cần Lao. Tôi hỏi v́ sao không lập ở Sài G̣n để cho gần Trung Ương của đảng, hoặc ở Huế cho đông nhân sự ṇng cốt trung kiên mà lại ở Nha Trang, th́ ông Châu trả lời v́ “thượng cấp và anh em đều công nhận quân nhân Nha Trang có tŕnh độ giác ngộ chính trị sâu, có tinh thành đấu tranh cao, lại trung thành triệt để với lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm”. Rồi họ không tiếc lời khen tôi là người có công lớn trong việc xây dựng “thành tŕ cách mạng” tại bốn tỉnh duyên hải miền Trung để làm thí điểm.
    Điều làm tôi thắc mắc lúc đó là tôi không biết ǵ về đường lối và sách lược chính trị của Đảng Cần Lao, lại càng không biết ǵ về vai tṛ và nhiệm vụ của bộ phận quân ủy trong sách lược của Đảng cũng như trong sách lược chung của quốc gia. Như vậy ba lư do mà họ trả lời trên kia thật ra chỉ gồm lại trong điều cuối mà c̣n bị giới hạn nữa, nghĩa là không phải toàn quân, toàn dân trong Nha Trang mà chỉ “cán bộ trung thành triệt để với lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm”. V́ tôi chỉ thấy đó là tiêu chuẩn duy nhất để nhận diện và kết nạp đảng viên nên sau ba ngày hội họp và đúc kết thành quả, khi toàn thể anh em bầu tôi là Chủ tịch Quân ủy đảng Cần Lao, tôi liền viện ra một số lư do, công cũng như tư, để nhất quyết từ chối chức vụ này cũng như từ chối bất kỳ chức vụ nào trong Trung ương Quân ủy.
    Cuối cùng, khi có sự can thiệp của ông Nhu và nhất là chính v́ sự hiện diện đặc biệt của ông, nên tôi đành phải nhận chức ủy viên Trung Ương cũng như Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân khu II và đại tá Tôn Thất Xứng (vắng mặt trong buổi họp!). Chủ tịch Quân ủy do Trung úy Nguyễn Văn Châu (sau này là Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lư, hiện sống ở Pháp) và Phó Chủ tịch do Trung úy Lê Quang Tung (sau này là Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt) đảm nhiệm. Đó là hai sĩ quan trẻ có những điểm chung rất nổi tiếng trong quân đội về tinh thần địa phương quá khích, về thái độ mộ đạo cuồng tín, và về quyết tâm phục tùng vô điều kiện mệnh lệnh của anh em ông Ngô Đ́nh Diệm mà từ nay tất cả quân nhân của Quân đội - từ Đại tướng đến binh nh́ - sẽ bị chi phối về mặt lập trường chính trị và sẽ bị điều khiển về mặt công tác chính trị.
    Sau buổi họp, ông Nhu trở lại Sài G̣n, các đồng chí về nhiệm sở cũ. Kết quả của buổi họp và h́nh thức cũng như nội dung của buổi họp không gây được một xúc cảm đặc biệt nào ngoại trừ cái t́nh cảm to lớn mà tôi đă có từ lâu là dân tộc ta, suốt cả thế kỷ này, đă chịu biết bao thống khổ điêu linh, nay được sống và được tham dự vào công cuộc xây dựng một nền Cộng ḥa có tự do, có dân chủ và có phúc lợi cho toàn dân. Có quân ủy hay không có quân ủy, có đảng hay không có đảng, th́ ông Diệm cũng được sức mạnh của dân yểm trợ để ông thực hiện những ước mơ tối thiểu và chính đáng của họ. Từ nay, hết rồi những tủi nhục của quá khứ. Từ nay, trong vận hội mới, những ai đă lầm đường theo Tây theo Cộng để sát hại đồng bào sẽ được tha thứ lỗi lầm như lời bác ái của Chúa dạy; những ai đă nuôi căm thù v́ bị áp bức đàn áp trong chế độ cũ, sẽ quên hết oán thù như lời hỉ xả của Phật dạy, để người người nắm tay nhau vun xới cho trăm hoa đua nở khắp xóm làng, chào mừng chế độ Ngô Đ́nh Diệm khai mở một cuộc cách mạng cho quê hương dân tộc.


    [1] William Henderson, South Vietnam Finds Itself, trong “Foreign Affairs” (số XXXV) và Christian Science Monitor (Số ngày 30-4-55).
    [2] Douglas Pike, Vietcong, tr. 58
    [3] Joseph Buttinger, Vietnam A Vietnam, A Political History, tr. 411, 412 và “The New York Times” (số ngày 30-5-55).
    [4] Quách Tấn, Xứ Trầm Hương, tr. 154, 157.
  1. BẢO ĐẠI
    ****************** ******** * VÀ NGÔ Đ̀NH DIỆM
    *
    Sau khi lực lượng B́nh Xuyên bị đánh tan vào đầu tháng 5 năm 1955, nh́n vào t́nh h́nh chính trị miền Nam lúc bấy giờ ta thấy không c̣n một cá nhân hay một tổ chức nào đủ uy tín quần chúng và thực lực chính trị hoặc quân sự để hồi phục lại được t́nh trạng cũ, nghĩa là t́nh trạng của những chính phủ thân Pháp. Hướng đi của thời đại và vận động lịch sử đă chuyển hóa nước ta vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của người dân đích thực làm chủ nước ḿnh.
    Trên mặt lư thuyết, lúc bấy giờ Việt Nam có thể trở thành một nước theo chế độ quân chủ lập hiến (như Anh, Nhật, Ḥa Lan, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Thái Lan…) nghĩa là giữ lại thực thể hoàng gia như một biểu tượng quốc gia vô quyền và vô hại để tránh một biến đổi quá độ trong xă hội đóng kín và bảo thủ như xă hội ta, hoặc có thể trở thành một nước theo chế độ Cộng Ḥa Đại Nghị (như Mỹ, Pháp…) để dứt khoát hẳn với nền quân chủ quá khứ và trao quyền làm chủ cho người dân. Đó là trên mặt lư thuyết. Trên thực tế, quần chúng đă chọn lựa rồi vào ngày 30 tháng 4 năm 1955 tại Ṭa Đô Chánh Sài G̣n qua nghị quyết của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, nghị quyết đ̣i truất phế Bảo Đại và tạm thời trao quyền lănh đạo đất nước cho ông Diệm trong lúc chờ đợi Hiến Pháp và Quốc Hội định đoạt chế độ tương lai của đất nước. Đó là một nghị quyết lịch sử, phát xuất trung thực từ ước vọng của quần chúng.
    Tuy nhiên v́ cái nghị quyết hợp ḷng dân và hợp thời đại nhưng lại không hợp ư anh em ông Diệm nên anh em ông Diệm và mưu sĩ Trần Chánh Thành phải dùng đến thủ đoạn phân hóa, bẻ gẫy và hạ uy tín Hội Đồng hầu cướp lấy chính quyền mà không cần chờ đợi những quy định của Hiến Pháp và Quốc Hội. Ngày 10 tháng 5, anh em ông Diệm đơn phương thành lập chính phủ chính thức, gồm toàn người thân tín và những kẻ đầu hàng, không cần hỏi ư kiến của Hội Đồng, cũng không có một nhân vật nào của Hội Đồng được mời tham dự chính phủ đó.
    Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng do ông Nguyễn Bảo Toàn làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn làm Phó, và ông Nhị Lang giữ chức Tổng thư kư, nhưng Hội Đồng c̣n có một ban Thường Vụ cũng do ông Toàn kiêm chức Chủ tịch với các ủy viên là: Văn Ngọc, Hà Huy Liêm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh Ư, Đoàn Trung C̣n, Nguyễn Văn Quyền. (Bốn nhân vật Nhị Lang, Hoàng Cơ Thụy, Huỳnh Minh Ư, Nguyễn Hữu Khai hiện đang có mặt tại Mỹ và Pháp ).
    Để đạt mục đích nắm chặt chính quyền, anh em ông Diệm bèn ra lệnh cho nhóm ủy viên thân tín là các ông Hà Huy Liêm, Huỳnh Minh Ư, Nguyễn Hữu Khai, … cầm đầu thành phần thân ông Diệm trong Hội Đồng gây mâu thuẫn, chống đối nội bộ. Đồng thời anh em ông Diệm kết tội Hội Đồng qua Tổng thư kư Nhị Lang là đă thâm lạm biển thủ số tiền trên một triệu đồng, số tiền mà ông Diệm (qua Bộ Thông Tin) đă cấp cho Hội Đồng hoạt động.
    Kẻ viết không dám nói rằng ông Nhị Lang và Hội Đồng đă thâm lạm biển thủ tiền bạc, nhưng trong bối cảnh loạn lạc lúc bấy giờ th́ sự chi tiêu của Hội Đồng thật khó mà chứng minh bằng giấy trắng mực đen. Huống chi số tiền dù có bị thất thoát th́ cũng đă chủ yếu sử dụng cho việc cứu văn địa vị ông Diệm qua cơn sóng gió ngặt nghèo.
    Trước hành động phản bội của anh em ông Diệm, ông Nguyễn Bảo Toàn bèn từ chức Chủ tịch Hội Đồng để phản đối ông Diệm. Bị hăm dọa, ông lui vào bóng tối trong lúc Phó chủ tịch Hồ Hán Sơn trốn về Tây Ninh và bị giết một cách bí mật. Dư luận lúc bấy giờ cho rằng ông Nhu đă mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương để ông này cho thuộc hạ hạ sát ông Hồ Hán Sơn. (Sau này tướng Nguyễn Thành Phương cũng bị ông Ngô Đ́nh Diệm mua chuộc để phản lại giáo chủ Phạm Công Tắc mà rồi cuối cùng ông Nguyễn Thành Phương cũng bị Ngô Đ́nh Nhu phản bội). C̣n Tổng thư kư Nhị Lang, người đă từng cầm súng dọa bắn tướng Nguyễn Văn Vỹ để cứu ông Diệm, bị công an của tướng Nguyễn Ngọc Lễ và Bộ Thông Tin của ông Trần Chánh Thành đ̣i bắt bớ và làm khó dễ. Tuy các mưu sĩ Ngô Đ́nh Nhu, Trần Chánh Thành có hạ nhục ông Nhị Lang (nghĩa là gián tiếp hạ nhục Hội Đồng) nhưng rồi cũng nương tay v́ sợ mang tiếng phản bội quá trắng trợn. Tuy nhiên ông Nhị Lang vốn là người có kinh nghiệm đấu tranh và có lẽ vẫn c̣n bị ám ảnh v́ cái chết khả nghi của tướng Tŕnh Minh Thế, lại sợ ông Ngô Đ́nh Nhu lắm thủ đoạn nên vội vă trốn lên Cao Miên, làm kẻ lưu vong để cùng với những người lưu vong khác hoạt động chống nhà Ngô. Ngoài ra, luật sư Hoàng Cơ Thụy vốn hết ḷng ủng hộ ông Diệm từ khi ông Diệm mới về nước, nhưng trước thủ đoạn của ông Ngô Đ́nh Nhu, cũng trở thành người đối lập quyết liệt với chế độ Diệm.*
    Phê b́nh những biến cố trên đây, nhà viết sử Buttinger, vốn có mặt tại Sài G̣n lúc bấy giờ và thường gặp gỡ các ông Diệm, Nhu, đă cho ta một bức tranh đầy h́nh ảnh rối rắm, xảo quyệt, giành giật, biến ảo ly kỳ mà tôi muốn ghi chép lại nguyên văn bằng tiếng Anh để cho những sự kiện lịch sử được tŕnh bày trung thực:
    In other tenebrous phases of these power struggles in South Vietnam, the truth can be glimpsed through the tightly woven screen of intrigues. This is not the case in the chain of events that began in the afternoon of April 30, 1955, when a gathering of some 200 persons at the Saigon town hall constituted itself as a General Assembly of Democratic and Revolutionary Forces of the Nation. Although the outcome of these events is known, what actually happened at various critical stages is not. The picture that emerges from the available conflicting reports is that of a weird kaleidoscope made up of hate, lust for power, greed, cowardice, and treachery.[1]
    (Tạm dịch: Trong những giai đoạn tối tăm khác của những màn tranh giành quyền lực tại miền Nam Việt Nam th́ sự thật vẫn có thể thoáng thấy được qua những màn mưu mô đan dệt chặt chẽ vào nhau. Nhưng rất khó để biết rơ sự thật của những chuỗi biến cố đă bắt đầu vào chiều ngày 30 tháng 4 năm 1955, khi một nhóm khoảng 200 người họp nhau tại ṭa Đô Sảnh Sài G̣n tự gọi là “Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng”. Mặc dầu ta đă biết rơ kết quả của chuỗi biến cố này, nhưng chuyện ǵ đă thật sự xảy ra trong những giai đoạn quan trọng đó th́ không ai biết được. Những tường tŕnh mâu thuẫn về những biến cố này cho thấy một h́nh ảnh loạn xạ như nh́n qua kính vạn hoa, đầy màu sắc thù ghét, tranh quyền, tham lam, hèn hạ, và gian lận).
    C̣n kư giả Francis J. Corley cho ta biết như sau:
    V́ thành phần lănh đạo của Hội Đồng gồm một số nhân vật thoát thai từ nhân dân mà ra với đầy ắp tâm chất cách mạng như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Nhị Lang, Tŕnh Minh Thế… và v́ nội dung của nghị quyết chỉ cho ông Diệm cái quyền tạm thời chứ chung kết vẫn dành cho Quốc Hội, tức là nhân dân, định đoạt, cho nên đă làm cho những người có truyền thống chính trị phong kiến và có tham vọng lănh tụ như anh em ông Diệm phải bất măn, nổi giận và cảm thấy bị đe dọa” [2].
    Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng với tên tuổi của lănh tụ Ḥa Hảo Nguyễn Bảo Toàn và trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ quả thật là một tổ chức đầy uy tín, một tổ chức “làm lịch sử”. Hội Đồng đưa ra một quyết nghị vừa tạo chính nghĩa cho quốc gia, vừa cứu ông Diệm qua cơn khó khăn nguy hiểm, nhưng v́ sự phản bội của anh em ông Diệm mà Hội Đồng tan ră, chết yểu. C̣n những người muốn làm cách mạng để cải đổi xă hội th́ thân thế gặp phải cảnh lao lung đầy bất trắc, với một tương lai mịt mờ. Hội Đồng giải tán rồi, anh em ông Diệm bèn lật lá bài chính trị cuối cùng để qui thiên hạ về một mối, tức là lá bài truất phế Bảo Đại, vị Quốc trưởng hợp pháp, sự kiện mà tôi sẽ đi vào chi tiết trong phần sau của chương này.
    Tuy nhiên trước khi tiếp tục nói về cuộc cờ oan trái giữa hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm, tôi muốn mở một dấu ngoặc ở đây để có mấy lời nói về ông Nhị Lang và tác phẩm Phong Trào Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế (PTKCTMT) của ông.
    PTKCTMT ngoài phần chính yếu nói về cuộc đời và sự nghiệp của tướng Thế, tại chiến khu cũng như lúc về Thành, ngoài phần nói về hoạt động đấu tranh của ông Nhị Lang, tác giả c̣n muốn làm nổi bật một số biến cố mà tôi cần phải có những lời chất chính:
    - Nguyên nhân nào buộc ông Nhị Lang phải lấy quyết định bỏ nước ra đi sang Cao Miên lưu vong để sống cuộc đời cơ cực và tủi nhục.
    - Những phân trần dài ḍng về điểm ông bị nghi ngờ đă hoạt động cho Việt Cộng tại Cao Miên.
    - Thái độ chống Cộng hung hăn quá khích của tác giả.
    - Cái chết của tướng Tŕnh Minh Thế và của tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh.
    - Ḷng ngưỡng mộ vô biên của tác giả đối với hai ông Diệm – Nhu.
    Rất tiếc là trong tác phẩm PTKCTMT tác giả đă không ghi lại một số biến cố vốn đă được nêu ra trong bài hồi kư Nguồn gốc nền Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam được đăng trên tuyển tập Quê Hương số Xuân năm 1977 xuất bản tại Costa Mesa, Hoa Kỳ, những biến cố có thể làm sáng tỏ thêm thái độ chính trị của tác giả dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa Việt Nam.
    … Năm 1956, ông (Nhị Lang) phải lưu vong qua Cam Bốt. Đến năm 1960, ông bí mật trở về nước, nửa đường bị quân Giải phóng bắt tại Đồng Tháp Mười, sau đó được thả ra rồi lại bị chính phủ Diệm bắt lại trong cuộc đảo chánh Nhảy Dù ngày 11-11-1960. Ông ngưng hoạt động một thời gian cho đến năm 1970, ông lại được bầu làm Tổng thư kư Ủy Ban Phối Hợp Hành Động các Chính Đảng…
    Với sự hiểu biết của cá nhân tôi về Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, về chế độ Ngô Đ́nh Diệm lúc bấy giờ, nay phối hợp với những lời phân trần của ông Nhị Lang trong tác phẩm PTKCTMT cùng với lời giới thiệu trên tuyển tập Quê Hương tôi muốn nêu lên những ư kiến sau đây:
    - Ông Nhị Lang bảo rằng sở dĩ ông phải lưu vong sang Cam Bốt là để tránh sự tranh chấp giữa hai ông Văn Thành Cao và Nguyễn Thành Phương, và v́ chán nản bởi thái độ bất thân thiện của một số người của chế độ Diệm, đặc biệt là Bộ trưởng Trần Chánh Thành và tướng Nguyễn Ngọc Lễ, c̣n đối với anh em Tổng thống Diệm th́ ông Nhị Lang trước sau vẫn một ḷng kính phục. Trái lại, theo tôi th́ ông Nhị Lang ra đi v́ khiếp sợ và thâm thù anh em ông Diệm, ra đi với mưu đồ hợp tác với kẻ thù của Việt Nam Cộng Ḥa để lật đổ chế độ Ngô Đ́nh Diệm. C̣n hai ông Nguyễn Ngọc Lễ và Trần Chánh Thành chẳng qua chỉ là kẻ thừa hành, kẻ nhận mệnh lệnh của anh em ông Diệm để hạ nhục ông Nhị Lang trong lúc hai ông Diệm–Nhu bề ngoài vẫn tỏ ra c̣n ưu ái ông ta.
    Sau khi Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng bị giải tán, chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn phải lui vào hoạt động bí mật để chống nhà Ngô, hai ông Tŕnh Minh Thế và Hồ Hán Sơn bị chết một cách bí ẩn th́ ông Nhị Lang đâm ra lo sợ cho tương lai, số phận của ḿnh. Đă thế, ông Nhị Lang c̣n bị điều tra về thâm lạm tiền bạc, bị hai ông Thành và Lễ làm nhục, ông Nhị Lang đâm ra uất hận và căm thù tự cho là đă bị phản bội. Ngoài ra, ông Nhị Lang c̣n bất măn việc anh em ông Diệm nâng tướng Văn Thành Cao, một kẻ đối thủ của Nhị Lang, lên thay thế tướng Tŕnh Minh Thế làm cho ông ta càng ganh ghét và thù hận anh em ông Diệm hơn.
    Ngoài ra, sự việc mà ông Nhị Lang từ Cam Bốt trở về Việt Nam một cách bí mật trước khi biến cố Nhảy Dù xảy ra để rồi sau biến cố đó, lại bị chế độ Diệm bắt bớ và suốt thời gian c̣n lại của chế độ Diệm, ông Nhị Lang phải sống âm thầm không có một hoạt động nào, càng cho thấy mối căm thù to lớn của ông ta đối với anh em ông Diệm.
    Tôi lại c̣n nghi ngờ trong những ngày sống lưu vong tại Cam Bốt, có thể ông Nhị Lang đă có liên hệ với Việt Cộng (qua một cán bộ Cộng Sản tên là Ngô Điền) và đă cộng tác với chính quyền Sihanouk trong mưu đồ lật đổ chế độ Diệm. Những lời phân trần dài ḍng của ông về cuộc sống tại Cam Bốt, sự lưu tâm của Quốc trưởng Sihanouk đối với ông, sự trở về nước của ông trước khi biến cố Nhảy Dù xảy ra (biến cố mà tôi nghĩ rằng gián điệp Pháp đă cho Sihanouk biết trước), rồi lại vụ Việt Cộng bắt ông tại Đồng Tháp Mười để rồi lại thả ra, cho phép tôi nghi ngờ ông Nhị Lang đă có liên hệ với Cộng Sản và đă cộng tác với Sihanouk.
    Một người già dặn đấu tranh như ông Nhị Lang há lẽ bỏ nước ra đi lưu vong chỉ v́ bất măn với hai ông Nguyễn Ngọc Lễ và Trần Chánh Thành? Một người có thành tích đấu tranh chống Cộng như ông há lẽ Việt Cộng bắt được rồi thả ra một cách dễ dàng? Ngoài ra ông liên hệ với chính quyền Sihanouk làm ǵ khi mà Sihanouk đang coi Việt Nam Cọng Ḥa là kẻ thù?
    Vấn đề c̣n lại là tại sao ông Nhị Lang căm thù chế độ Diệm đến như thế mà trong tác phẩm PTKCTMT và trong bài Hồi kư đăng trên tuyển tập Quê Hương ông lại hết lời ca ngợi anh em Tổng thống Diệm và tuyên dương “Phong trào phục hồi tinh thần Ngô Đ́nh Diệm”. Tiếc thương hai ông Diệm Nhu tại sao măi đến năm 1970 Nhị Lang mới vào nghĩa trang thăm mộ hai ông?
    Số là từ sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, cũng như giới báo chí, giới chính trị đảng phái đă tố cáo lẫn nhau. Dư luận đă lên án ông Nhị Lang chạy theo nhà Ngô năm 1955 phản bội lại các đảng phái, phản bội Việt Nam Quốc Dân Đảng mà ông Nhị Lang từng là một đảng viên kỳ cựu, giúp cho nhà Ngô củng cố được địa vị và làm cho các đảng phái bị tiêu diệt. Từ đó, Nhị Lang thay đổi lập trường, trở lại đề cao và bênh vực nhà Ngô để chính nghĩa hóa việc làm của ḿnh vào thời 1955. Ngoài ra, Nhị Lang c̣n bị dư luận tố cáo là đă hoạt động cho Sihanouk và Việt Cộng như Bộ trưởng Trần Chánh Thành đă từng lên án, v́ thế ông Nhị Lang lại càng phải tỏ ra ḿnh vẫn là người chống Cộng quyết liệt. Muốn thế, ông Nhị Lang phải dựa vào uy thế nhóm Công giáo Cần Lao đang là hậu thuẫn chính trị chính yếu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và đang tổ chức phong trào “Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đ́nh Diệm” mà cao điểm là vào năm 1970, năm mà ông Nhị Lang tái xuất giang hồ.
    Trong mưu đồ xóa tội cho ông Diệm và để tỏ ra ḿnh tiếc thương Tổng thống Diệm và ông Nhu một cách ngoạn mục hơn, ông Nhị Lang đă hư cấu ra việc ông Nguyễn Ngọc Thơ v́ có bà con hoạt động cho Việt Cộng nên đă làm áp lực Tổng thống Diệm sát hại tướng Lê Quang Vinh. Nếu quả ông Thơ thân với Việt Cọng như ông Nhị Lang tố cáo th́ tại sao suốt 9, 10 năm trời, ông Diệm lại giao cho ông Thơ những chức vụ quan trọng trong chính quyền, đặc biệt là chức Phó Tổng thống kiêm nhiệm Kinh Tế và Tài Chánh. Ông Thơ quê ở Long Xuyên, vùng sinh sống và ảnh hưởng của Ḥa Hảo, ông Thơ lại có nhà cửa đồ sộ, có hàng trăm mẫu đất, có bà con mồ mả cha ông, ông Thơ dại ǵ mà gây thù oán với một lực lượng giáo phái đông đảo, can trường và quyết liệt sẵn sàng trả thù cho Đức Thầy, cho các đồng chí đồng đạo. Huống ǵ tướng Lê Quang Vinh lại là bà con gần của ông Thơ, việc này cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh (hiện ở Mỹ) biết rơ. Chẳng qua ông Thơ cũng như đại đa số nhân dân miền Nam lúc bấy giờ tin tưởng vào tương lai thanh b́nh hạnh phúc của đất nước do ông Diệm lănh đạo, nên ông đă nhận lời chiêu dụ tướng Ba Cụt về đầu hàng cũng như đă chiêu dụ tướng Nguyễn Giác Ngộ và rất nhiều phần tử Ḥa Hảo khác để giúp ông Diệm ổn định miền Tây. Ông Thơ có ngờ đâu ông Diệm lại ra lệnh cho ṭa án xử tử người anh hùng Ḥa Hảo của quê hương ông. Bảo rằng ông Thơ làm áp lực với ông Diệm giết Lê Quang Vinh, vậy th́ ai đă áp lực ông Diệm để ông Nguyễn Bảo Toàn, một lănh tụ Ḥa Hảo, bị ông Diệm ra lệnh sát hại? Không cần phải dài ḍng mà chỉ cần đọc “PTKCTMT” cũng thấy rằng ông Nhị Lang không đưa ra những chứng cớ cụ thể nào, chỉ có những suy luận một chiều mà lại dám xác quyết việc ông Thơ làm áp lực ông Diệm để sát hại tướng Lê Quang Vinh cũng như việc Mai Hữu Xuân giết tướng Tŕnh Minh Thế.
    Cũng trong mục đích muốn đánh tan dư luận nghi ngờ ḿnh có liên hệ với Việt Cộng, ông Nhị Lang tỏ ra hung hăn hơn khi đưa ra nhiều nhận xét, nhiều kế hoạch chống Cộng vô lư như trường hợp ông đă chê trách Tổng thống Truman hay trường hợp dùng du kích đánh chiếm hai tỉnh địa đầu của Bắc Việt.
    Hết ḷng đề cao Tổng thống Diệm ưu ái thủy chung với tướng Tŕnh Minh Thế, ông Nhị Lang bỏ lơ việc ông Diệm đă có lời lẽ khinh thị tướng Thế trước mặt Lansdale làm cho Lansdale nổi giận bảo ông Diệm đừng có những lời lẽ khinh chê tướng Thế như vậy nữa [3].***
    Hai anh em ông Diệm–Nhu trong bước đường nguy khốn đă phải đích thân lên tận núi Bà Đen thỉnh cầu tướng Thế đem quân về thành cứu giúp, hành động đó có khác ǵ ba anh em Lưu Quan Trương đến Ngọa Long Cương thỉnh cầu Khổng Minh về pḥ tá, thế mà ông Diệm nỡ khinh thị tướng Thế khi quân đội B́nh Xuyên đă bị đánh bật qua bên kia cầu chữ Y. Như vậy ông Diệm có phải là người vong ân bội nghĩa không hở ông Nhị Lang?
    Phê b́nh tác phẩm PTKCTMT, bà Linh Bảo trong tạp chí Việt Nam Hải Ngoại (San Diego) của luật sư Đinh Thạch Bích đă viết như sau nơi mục Giữa Chúng Ḿnh:
    ... Theo LB biết th́ Hùng vào chiến khu ra mắt tướng Thế với một cuốn sách tên là “Con đường tranh đấu của chúng ta”. Tướng Thế đă cho in cuốn ấy để làm tài liệu lư luận căn bản của phong trào kháng chiến quốc gia. Nghe đâu anh (Nhị Lang) lúc vào khu với tướng Thế đă ra mắt với một bài thơ ca tụng lănh tụ, có câu đầu là: “Tŕnh Minh Thế, đấng anh hùng cứu quốc!” Hai cách ra mắt tương phản nhau như thế không thấy anh nói đến. Điều LB ngạc nhiên là: anh Hùng chẳng những là một chiến sĩ hữu danh, không những có tên mà lại có đến ít nhất là ba tên; trong cuốn sách anh viết anh Hùng thành ra một… chiến sĩ vô danh! Các anh em khác ở đây cũng đă chuyền tay đọc cuốn sách của anh. Đọc xong, những ai từng ở chiến khu Tŕnh Minh Thế cũng như những ai tuy không vào khu nhưng đă sống trong thời kỳ ấy, đều có những ư kiến khá… ly kỳ. H́nh như có một vài người bỗng đâm… ngứa ngáy định viết thêm, hay viết những “lịch sử kư sự” cùng một giai đoạn để bổ túc hay bổ khuyết, hay điều chỉnh, hay.. và… , hầu giúp người đời sau có thêm tài liệu mà so sánh… “lịch sử” và “kư sự”. LB hỏi anh ĐTB về 10 điều luật tử h́nh trong chiến khu Tŕnh Minh Thế. Anh ấy chỉ nhớ có 5 điều. Anh có nhớ đủ không? [4]
    Những lời phê phán trên đây chẳng những cho thấy tác phẩm lịch sử kư sự của ông Nhị Lang có rất nhiều sai lầm khiếm khuyết mà quan trọng hơn, c̣n lên án ông Nhị Lang thiếu tác phong cách mạng và đă có những hành động đáng phải xử tử.
    Ngoài nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại ra, nguyệt san Thanh Niên Hành Động số ra mắt ngày 1-10-1985 phát hành tại San Jose, trong mục Điểm Sách đă có những phân tách tỉ mỉ hơn về tác phẩm PTKCTMT. Thanh Niên Hành Động c̣n so sánh sách ông Nhị Lang với sách của một kư giả Mỹ và của Lansdale, và đă cho thấy nhiều sự kiện trái nghịch. Để kết luận, Thanh Niên Hành Động viết như sau:
    … V́ vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi đối chiếu giữa cuốn hồi kư của Nhị Lang và của Lansdale có những sự kiện được viết ra rất trái nghịch…
    Chúng ta đọc để có một cái nh́n chín chắn cho hành động và sự hy vọng. Cái nh́n chín chắn đó là biết rơ hơn nữa, ai là những thành phần bán đứng dân tộc… Một cuộc cách mạng có chính nghĩa phải phát xuất từ nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Phải đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết. Một lực lượng cách mạng thể hiện được con đường chính nghĩa này không thể “hợp tác” với những bọn người thối nát nhưng luôn mang danh nghĩa “quốc gia”, một chế độ phi dân tộc như Ngô Đ́nh Diệm. Đó là bài học cần được rút tỉa…[5]
    C̣n ông Lê Nhật Thăng (trên tạp chí Ánh Sáng Dân Tộc) th́ viết thẳng rằng:
    Tác phẩm “Phong Trào Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế” chỉ đem lại một thông điệp đáng chú ư là tích cực chống Cộng Sản, c̣n lại chỉ là sự tập họp những khen ngợi bốn người. Đó là Tŕnh Minh Thế, Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu và “Le Moi” (cái Ta) c̣n ai ai cũng bị tác giả chê trách, sỉ vả hết thảy.
    Riêng đối với tôi, sau khi tác phẩm PTKCTMT ra đời, ông Nhị Lang và ông Phan Xứng đă có nhă ư gởi tặng tôi một cuốn với lời đề tặng đầy thân t́nh gọi tôi là cố tri. Sau khi đọc xong sách, tôi bèn gởi thư để cám ơn tác giả đồng thời nêu lên một số sự kiện mà tôi không đồng ư với ông Nhị Lang. Nói rơ ra như thế để thấy rằng viết lại đoạn hồi kư trên này tôi không có ác ư với người bạn cũ mà tôi chỉ muốn làm sáng tỏ lịch sử để hậu thế khỏi hiểu lầm cha ông.
    Rất tiếc, tấm ḷng chân thành của tôi đă bị ông Nhị Lang phản ứng hết sức hạ cấp và thô bạo. Ông viết báo để nhục mạ tôi, gán cho tôi là Cộng Sản và kích thích những thành phần Công giáo cuồng tín ở hải ngoại chống phá tôi. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, nhiều độc giả đă viết bài đăng báo, viết sách để vạch trần tâm địa xấu xa và hành xử không lương thiện của ông Nhị Lang: như bà Yến Vân và cụ Vũ Trọng Kỳ trên báo Viet Press, như cụ Nguyễn Duy Hiệp trên báo Chấn Hưng, như ông Trương Thiện trên báo Tia Sáng, như nhà văn Lê Nhật Thăng trên báo Saigon Bolsa và Ánh Sáng Dân Tộc, như nhóm ông Vũ Đăng Quư và nhà văn Xuân Tước trên tờ Văn Hóa Colorado và đặc biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những Con Tḥ Ḷ Chính Trị” của ông Lê Trọng Văn. Tất cả đă lột trần thủ đoạn gian trá và thiếu đạo đức của ông Nhị Lang và cuốn “Phong Trào Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế” của ông ta.
    *
    -o0o-
    *
    Trở lại biến cố truất phế Bảo Đại, một biến cố lớn đă lột cả xác lẫn hồn của đất nước để biến thiên từ kỷ nguyên quân chủ qua kỷ nguyên dân chủ, tôi xin có vài hàng về thân thế và sự nghiệp của hai nhân vật tiêu biểu cho hai kỷ nguyên đó: ông Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn; và ông Ngô Đ́nh Diệm, vị Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Ḥa.
    Triều đại nhà Nguyễn bắt đầu kể từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 cho đến khi chấm dứt dưới triều Bảo Đại năm 1945, đă trải qua 10 đời vua, mà gác qua một bên tội ác đă “rước voi về giày mả tổ” th́ nhà Nguyễn vẫn có nhiều vị vua đă có công tô điểm vàng son cho lịch sử nước nhà.
    Trước hết tôi xin sơ lược về vua Gia Long, vị vua sáng lập ra triều Nguyễn, qua cái nh́n của nhà viết sử Phạm Văn Sơn:
    Ở vua Gia Long, từ con người quân nhân đến con người chính trị có nhiều điểm đặc biệt khiến ta phải coi vua Gia Long cũng là một nhân vật kỳ liệt của lịch sử trên nhiều phương diện. Nhân vật này có nhiều điều hay mà cũng có nhiều điều dở.
    Chiếu theo cội rễ th́ Gia Long thuộc về một ḍng họ có nhiều danh tướng, giàu mưu cơ, đảm lược, nhẫn nại, cần cù, thông minh, trác lạc, nhờ vậy mà trong thời trung suy, Nguyễn Ánh mới 17 tuổi đă cầm đầu được binh tướng, nắm vững được ḷng dân, bốn phen vinh nhục ở đất Gia Định, nhiều lần xiêu bạt ngoài khơi, trôi giạt cả vào đất Xiêm, nương nhờ triều đ́nh Vọng Các, có lúc phải hy sinh cả tính mạng (diệt trừ giặc Miên và Mă Lai cho Xiêm La) để mua chuộc thiện cảm của người ḥng có chỗ nương thân. Trên 20 năm ṛng, vua Gia Long xông xáo khắp các chiến trường, từ vùng Đồng Nai ra Thuận Hóa, vượt biển trèo non trong vùng khói lửa mịt mùng mà vẫn không bao giờ lui bước, con người ấy thật đáng là một chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể không vỗ tay khen ngợi Thế Tổ nhà Nguyễn.
    Về chính trị, khi sức cùng lực tận, Gia Long đă cho giám mục Bá Đa Lộc đem con ḿnh là Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu với nước Pháp và luôn luôn giao thiệp khéo léo với các lân bang để lấy ngoại viện, nhờ đó mà chẳng những người Âu Châu mà cả các quân Xiêm, Miên, Lào thường qua lại đánh Tây Sơn giúp ḿnh. Ngoại giao đến thế là khéo léo tuy rằng mang người ngoài về đánh anh em trong nhà là làm một hành động không đẹp so với việc 12 Sứ quân trên tám thế kỷ về trước. Nhưng đến khi sự nghiệp đă thành, ngôi quốc chủ đă vững, Gia Long thay đổi luôn thái độ, lên tiếng kẻ cả với Xiêm, đặt Miên, Lào vào ṿng lệ thuộc. Tiến thoái kinh quyền đến thế quả thật là mau lẹ, quỉ quyệt… Tuy vậy, vua Gia Long cũng có một ít sở đoản như bạc bẽo và tàn nhẫn với các trung thần, như hành động trả thù dă man với đối thủ cũ là anh hùng Nguyễn Huệ, như đă biết dă tâm của cường quốc Tây phương mà không có kế sách để giữ cho nước khỏi bị “Bạch Họa”.[6]
    Sau vua Gia Long, tuy các đế quốc Tây phương (đặc biệt là Pháp) bắt đầu phát động âm mưu thôn tính nước ta mà các vũ khí ban đầu là các dịch vụ buôn bán và sự phối hợp chặt chẽ với sinh hoạt truyền bá đạo Công giáo La Mă, nhưng dưới thời ba vị vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, quốc gia vẫn c̣n hoàn toàn độc lập và nắm giữ chủ quyền.
    Ba vị vua này, nếu không phải là anh quân thời loạn th́ cũng đă chứng tỏ là minh vương thời b́nh, một ḷng v́ nước thương dân, phát huy được những thành quả của cha ông để lại dựa trên nền luân lư nhân nghĩa của nền Tam giáo. Chỉ tiếc rằng trên mặt phát triển kinh tế và vận dụng nhân tài vật lực của đất nước, họ vẫn c̣n nặng tinh thần bảo thủ, chủ trương bế môn tỏa cảng không chịu tiếp nhận những trào lưu văn hóa và kỹ thuật của nước ngoài để ḥa hóa trong một chính sách cải cách duy tân cho nước nhà thêm hùng mạnh. Đặc biệt dưới triều vua Tự Đức, ảnh hưởng Tống Nho của “Thiên Triều Trung Hoa” lại được dịp phát triển mạnh mẽ trong một xă hội tương đối ổn định, mà những ước lệ từ chương trở thành những mẫu mực đo lường sức mạnh văn hóa của quốc gia.
    Cũng dưới triều đại của ba vị vua này, tuy có gửi một số phái đoàn (Bùi Viện đi Mỹ là một) để nghiên cứu nước ngoài, nhưng tinh thần bài ngoại triệt để biểu hiện qua chính sách cấm đạo, giết đạo đă vừa mắc mưu các cố đạo vừa tạo ra cái cớ cho đế quốc Pháp nắm được chính nghĩa (tại Pháp) để xua quân xâm lấn giang sơn. Đă có nhiều người của đời sau, hoặc v́ những xúc động chủ quan hoặc v́ những thiên kiến bè phái, đă nh́n chính sách này một cách phiến diện và đơn giản để lên án nặng nề ba vị vua trên mà không chịu đặt ḿnh vào khung cảnh của thời đại đó để suy nghiệm và phê phán cho khách quan hơn.**
    Theo ư kiến riêng của tôi th́ trên mặt chính trị, và đặc thù hơn trên b́nh diện phát triển quốc gia và giao hệ quốc tế, quả thật các ông vua này đáng bị phê phán khắt khe. Nhưng ngược lại, trên mặt nhân văn, th́ các vị vua đó chỉ phản ánh ư nguyện của tuyệt đại đa số quần chúng mà thôi. Bốn chữ “B́nh Tây, Sát Tả”trong những bài hịch của các phong trào Văn Thân và Cần Vương do các sĩ phu chủ xướng là một trong những chủ điểm đấu tranh của các bản cương lĩnh chính trị này, để thể hiện cái ước vọng lớn lao và đại chúng của nhân dân là “giết Đạo trước rồi đánh Tây sau”.
    Nếu trên mặt chính trị, các vị vua đó có một chính sách khôn khéo hơn th́ Công giáo La Mă đă được du nhập vào Việt Nam và may ra được ḥa hóa thành một thứ Công giáo Việt Nam như trường hợp đạo Phật cách đây hai ngàn năm. Lỗi lầm chính trị của các vị vua này, sự cấu kết giữa chính quyền Pháp và Giáo hội La Mă Vatican lúc bấy giờ, những tham vọng mở mang nước Chúa của hội truyền giáo, và truyền thống chống ngoại xâm thể hiện chính đáng nhưng không đúng mức của dân ta. Đó là bốn yếu tố chính chi phối trạng huống lịch sử lúc bấy giờ và làm cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp quên đi chức năng rao truyền đức tin của Chúa trong nhân ái, để chỉ c̣n tiến hành nhiệm vụ cao cả của ḿnh như một trận chiến xâm thực văn hóa. Sự cố t́nh phê phán hệ quả của chính sách cấm đạo chỉ dựa trên mặt chính trị mà không đặt nó trong bối cảnh nhân văn của thời đại lúc bấy giờ, là một thái độ thiếu trách nhiệm và thiếu lương thiện của một số nhà viết sử muốn trốn tránh sự thật mà thôi!
    Bây giờ th́ lịch sử đă chứng minh một cách quá rơ ràng và quá đầy đủ rằng chính cái tham vọng xâm thực văn hóa của Hội Truyền Giáo Pháp đă là nguyên nhân chủ yếu và lợi khí hữu hiệu của chính sách xâm lăng quân sự chính trị của đế quốc Pháp lúc bấy giờ. Trong tiến tŕnh cấu kết này, những khuôn mặt của Alexandre de Rhodes, Pigneau de Béhaine, Puginier, Pellerin, Taberd… đă là những chính trị gia lăo luyện khoác áo tu sĩ để tiến hành một thủ đoạn chính trị cổ điển nhất nhưng cũng hữu hiệu nhất: chia để trị. Họ chia dân ta thành hai khối lương giáo bất khả ḥa và bất khả dung.
    Lịch sử của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại gắn liền một cách chặt chẽ với lịch sử bành trướng ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương. Một trong những sáng lập viên của Hội, ông Pallu, đă đóng vai tṛ liên lạc giữa hai triều đ́nh Pháp và Huế. Vị giáo sĩ nổi tiếng nhất của Hội, Giám mục Adran Pigneau de Béhaine, đă chính thức gia tăng mối quan hệ này: Sự can thiệp của các hội viên của Hội Truyền Giáo vào chính t́nh Việt Nam đă dẫn đến hành động xâm lược vơ lực đầu tiên (của Pháp) [7].
    Một số trí thức Thiên Chúa giáo Việt Nam như các ông Nguyễn Văn Trung, Lư Chánh Trung… hơn một trăm năm sau, trong khi suy nghiệm về sự bế tắc nhân văn của nền văn minh Tây phương và trong nỗi niềm khổ hận của một người Việt Nam lận đận, cũng đă nh́n thấy và nêu lên rơ sự thật này:
    Tuy nhiên lịch sử đă cho thấy rằng từ khi Giáo Hội (La Mă) trở thành “Quốc Giáo” th́ cây gươm tinh thần của thánh Phao Lồ đă luôn luôn bị cám dỗ để biến thành cây gươm thép thật sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đă không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá các đền thờ “Tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn người bị xem là “Lạc Đạo” nếu không chịu sửa sai [8].
    Cái hoàn cảnh không may đó đă đến với dân ta từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, để dân Việt trở thành đối tượng, nạn nhân của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và đoàn quân xâm lăng Pháp. Cho nên ông Lư Chánh Trung mới hạ bút viết mấy lời tâm huyết như là lời thú tội:
    Ngày nay, mọi người đều đồng ư rằng việc cấm đạo dưới các nhà vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt ḿnh vào địa vị các nhà vua ấy, vào cái khung cảnh tâm lư thời đó, th́ có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn [9].
    Khó có thể làm khác hơn” đó chỉ là thái độ “t́m về dân tộc” của những người Công giáo Việt Nam kiểu Nguyễn Văn Trung, Lư Chánh Trung. C̣n đối với anh em ông Diệm, đối với nhóm Công giáo Cần Lao th́ lời than trách của Lư Chánh Trung chỉ làm cho anh thêm mang tội: cái tội “lạc đạo”, cái tội “thân Cộng”, cái tội “bênh vực hành động những kẻ ngoại đạo”. May thay, Lư Chánh Trung vô t́nh được nhà trí thức Công giáo Etienne Vũ Đức Hạnh gián tiếp trưng bày bằng cớ về cái tội thực dân của các giáo sĩ ngoại quốc và cái tội làm tay sai cho kẻ xâm lăng của giáo dân Việt Nam dưới thế kỷ 19. Trong tác phẩm La place du Catholicisme dans les relations entre la France et le Viet-Nam de 1851 à 1870, dựa vào những tài liệu của một số tác giả Pháp và một số giáo sĩ ngoại quốc, Etienne Vũ Đức Hạnh đă viết như sau:
    Sous Tự Đức, un grand nombre de catholiques Vietnamiens sont d’intelligence avec les Francais, certes, mais cette collaboration est plus materielle que formelle. Comment expliquer cet état de fait sans ajouter aux raisons précédentes les circonstances politiques à la fois troublées et troublantes de l’époque?
    Les ambitions des Chúa Trịnh dans le Đàng Ngoài, des Chúa Nguyễn dans le Đàng Trong et celles momentanées des frères Tây Sơn ne connaissent plus de limites. Le peuple qui en souffre, surtout celui du Bắc Kỳ a la nostalgie des rois Lê dont it garde un souvenir ineffaceable. Bien que Chúa Nguyễn Phúc Ánh ait unifié l’Empire, la dynastie des Nguyễn n’est pas aimée; elle est à jamais considérée comme l’engeance d’insurpateurs.* La fidèlité des populations appelle la résurrection des Lê et à la recherche d’un rejeton royal. Ce qui explique le succès du prétendant catholique Lê Duy Phụng.
    Au jour de Tự Đức, chrétiens et non chrétiens à l’instigation des missionnaires, résistent ici sourdement, là ouvertement au roi régnant mieux à la dynastie des Nguyễn pour plusieurs motifs. Les Nguyễn ont volé le trône des rois Lê. Leurs descendants actuels ont manqué le mandat du ciel pour avoir traité avec les envahisseurs et cédé à l’ennemi une portion du territoire national. Une seule différence: les chrétiens font cause commune avec les francais, les non chrétiens, les combattent”[10].
    Tạm dịch:
    Dưới triều Tự Đức, một số đông người Thiên Chúa giáo Việt Nam quả đă làm t́nh báo cho Pháp, nhưng sự cộng tác ấy chỉ có tính cách thực tiễn hơn là quy thức. Làm sao có thể giải thích được t́nh trạng ấy nếu không thêm cho những nguyên do ấy, những hoàn cảnh chính trị rối rắm đáng phải lo âu?
    Tham vọng của chúa Trịnh Đàng Ngoài, chúa Nguyễn Đàng Trong và cả anh em Tây Sơn đều vô giới hạn. T́nh trạng ấy làm cho nhân dân đau khổ, nhất là nhân dân Bắc Kỳ vẫn hoài vọng nhà Lê mà họ đă có những kỷ niệm khó xóa mờ. Dù chúa Nguyễn Phúc Ánh đă thống nhất giang sơn, nhưng nhà Nguyễn không được thương mến và măi măi bị coi là những kẻ cướp quyền. Ḷng trung thành của dân chúng đ̣i hỏi sự phục hồi nhà Lê và t́m kiếm một hậu duệ. Lư do đó giải thích cho sự thành công của Lê Duy Phụng, kẻ tự nhận là người hậu duệ Thiên Chúa giáo của nhà Lê.
    Dưới triều đại Tự Đức, theo sự xúi dục của các giáo sĩ ngoại quốc, người Thiên Chúa giáo và người không Thiên Chúa giáo kẻ th́ chiến đấu âm thầm, kẻ th́ công khai để chống lại những nhà vua đang tại vị hơn là chống lại nhà Nguyễn v́ nhiều nguyên nhân. Nhà Nguyễn đă cướp ngôi vua nhà Lê. Những vua nối quyền hiện tại th́ không c̣n thiên mệnh để kư kết với quân xâm lăng và nhượng một phần lănh thổ cho kẻ thù. Chỉ khác nhau là: người Thiên Chúa giáo th́ hợp tác với Pháp trong một mục tiêu chung, c̣n người không Thiên Chúa giáo th́ chiến đấu chống lại.
    Gác một bên việc Etienne Vũ Đức Hạnh cố t́nh xuyên tạc lịch sử dân tộc, chúng ta thấy rơ ràng ông ta đă hân hoan vinh danh hành động làm tay sai cho thực dân của người Công giáo Việt Nam dưới thế kỷ 19.
    Với cái tội phản quốc đó của giáo sĩ ngoại quốc và giáo dân Việt Nam th́ làm sao vua chúa nhà Nguyễn lại không “cấm đạo, giết đạo”.
    Nói cho rơ ra th́ từ ngày đạo Chúa du nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 cho đến đời Tự Đức gần 300 năm trời, vua chúa nước ta với truyền thống hiếu ḥa và bản chất hiếu khách đă biết bao phen mở rộng ṿng tay để cho giáo sĩ và giáo dân tự do hành đạo. Khốn nỗi, các cố đạo “cứ được đằng chân lại lân đằng đầu” trong mưu đồ thôn tính Việt Nam cho nên mới có t́nh trạng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, các vua chúa nhà Nguyễn phải cấm đạo, giết đạo, sĩ phu Việt Nam phải phất cờ “B́nh Tây Sát Tả”. Những hành động đó tuy tàn ác nhưng lại là những biện pháp bắt buộc để cứu nước cứu dân trong t́nh thế quê hương lúc bấy giờ, một quê hương loạn ly tang tóc do chính các giáo sĩ và giáo dân gây ra mà nhà trí thức Công giáo Etienne Vơ Đức Hạnh lại cố t́nh để cao và bênh vực họ.
    Vào cuối đời vua Tự Đức, đất nước từ từ mất dần về tay người Pháp. Rồi đến năm 1884, với hiệp ước kư kết giữa đại diện Pháp là Patenôtre và đại diện triều đ́nh An Nam là Nguyễn Văn Tường và Phạm Trọng Duật, th́ nước Việt Nam bị chia thành ba kỳ: Nam kỳ thuộc địa có quy chế như một tỉnh hạt của Pháp quốc do một Thống đốc Pháp cai trị, Bắc kỳ Bảo hộ do một thống sứ Pháp cai trị, và Trung kỳ Bảo hộ do một khâm sứ Pháp đứng đầu. Đối với xứ Bảo hộ Trung kỳ từ Thanh Hóa đến Phan Thiết, Pháp vẫn giữ lại nền quân chủ có vua và triều đ́nh với chút hư quyền, hư danh. (V́ vậy, từ đây, kẻ viết xin gọi nhà Nguyễn từ thời nước nhà bị đô hộ là nhà Mạt Nguyễn).
    Thời Mạt Nguyễn, trừ vua Đồng Khánh là một ông vua hiền hậu nhưng chỉ ngồi trên ngai vàng được có ba năm rồi chết, c̣n những vị vua khác, có ông th́ là vua cách mạng, có ông th́ thuộc loại vua bù nh́n.
    Về cách mạng th́ có:
    Vua Hàm Nghi (1884) bỏ kinh thành ra Tuyên Hóa (Quảng B́nh) lập chiến khu, phất cao ngọn cờ Cần Vương chống Pháp. Rồi v́ thân cô thế yếu, lại bị một tên Mường (Trương Quang Ngọc) phản bội bắt Ngài giao cho Pháp nên bị Pháp đem đày ở Algérie.
    Vua Thành Thái (1888-1920), lên ngôi khi mới 10 tuổi, là vị vua thông minh uyên bác, thấm nhuần tư tưởng cách mạng Trung Hoa và Nhật Bản, muốn thực hiện công cuộc cải cách quốc gia, đưa dân tộc đến con đường tân tiến. Nhưng tất cả việc làm của ông đều bị người Pháp ngăn trở, Vua tức giận giả cách điên rồ, ngấm ngầm xướng xuất đưa thanh niên ra nước ngoài cầu học để dùng vào đại cuộc sau này. Chính nhà vua cũng âm mưu xuất ngoại nhưng sự không thành nên năm 1907, khi Pháp ḍ biết được vua liên lạc với Phong Trào Đông Du để cầu viện Nhật Bản, bèn bắt* ép vua thoái vị và đày qua đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.
    Vua Duy Tân (trị v́ từ 1907-1916) là con vua Thành Thái, c̣n nhỏ tuổi mà đă nhiều phen bộc lộ nỗi căm thù thực dân Pháp. Nhân một buổi bơi thuyền câu cá ở cửa Tùng (Quảng Trị), nhà vua ra một câu đối cho thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người của Pháp, để ḍ xem ḷng dạ ông này như thế nào:
    Ngồi trên nước khôn ngăn được nước,
    Trót buông câu đă lỡ phải lần.
    Đáp lại, thượng thư Nguyễn Hữu Bài khuyên nhà vua nên nhắm mắt chịu thua thời cuộc:
    Ngẫm việc đời mà ngán cho đời,
    Liều nhắm mắt tới đâu hay đó.
    Vua Duy Tân liền phán: “Thầy th́ hay liều thôi chứ không bao giờ nghĩ cách đương đầu với nghịch cảnh”. Tất nhiên, làm sao ông Nguyễn Hữu Bài, con đẻ của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại, có thể đương đầu với thực dân Pháp được.
    Tuy nhiên, vua Duy Tân vốn ư chí bất khuất nên quyết tâm đợi thời cơ để làm cách mạng phục hồi nền độc lập cho đất nước. Thế chiến thứ nhất xảy ra đă là một cơ hội tốt đẹp, rồi lại gặp được các đồng chí yêu nước như hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên hết ḷng hỗ trợ, nên Ngài bèn quyết định phất cờ khởi nghĩa. Chẳng may quốc vận c̣n gặp lúc truân chuyên, việc đại nghĩa của vua Duy Tân thất bại, Ngài bị bắt và bị đày qua đảo Réunion lúc mới 17 tuổi.
    Trong thế chiến thứ Hai, hoàng tử Vĩnh San (tức là vua Duy Tân) có một thời gian mang cấp bậc Thiếu tá của Pháp. Ngày 10 tháng 6 năm 1945, Ngài đă lên tiếng trên đài phát thanh Brazzaville thuộc Pháp, đại ư hô hào toàn dân Việt Nam nên nghe theo tiếng gọi của tổ quốc mà đứng lên xây dựng nước nhà, nêu cao danh dự cho giống ṇi.
    Ngày 26 tháng 12 năm 1945, Ngài bị chết trong một tai nạn máy bay ở xứ Bangui thuộc Trung Phi. Theo dư luận hồi đó th́ cái chết thê thảm này có nhiều chi tiết bí ẩn, có giả thiết cho rằng chính thực dân gây nên để chặn đường về nước của một nhà ái quốc được toàn dân tín nhiệm [11].
    Thế là nhà Mạt Nguyễn có ba vị vua yêu nước và có tinh thần cách mạng bị Pháp bắt đi đày ở Châu Phi. Sự kiện đó đă phần nào trực tiếp đóng góp cho quyết tâm đấu tranh chống Pháp của sĩ phu trong nước và trở thành đề tài gây xúc động cho nhiều văn nghệ sĩ yêu nước lúc bấy giờ. Nhà Nho Phan Quốc Quang, hiệu là Thượng Tân Thị, quê ở Thừa Thiên, cảm xúc cảnh cha con vua Thành Thái v́ nước v́ dân mà bị đọa đày, ông bèn thác lời vợ vua làm ra mười bài thơ nhan đề là Khuê Phụ Thán được truyền tụng trong nhân gian mà vào thời Pháp đô hộ, ai đọc lên cũng không cầm được nước mắt. Bài thơ nói lên nỗi ḷng cô đơn lẻ bóng của một người khuê phụ nơi quê nhà ngày đêm mỏi ṃn đợi chồng trông con:
    Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
    Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
    Nỗi đau xót của một người đàn bà trước thảm cảnh quê hương dâu bể, tử biệt sinh ly, đă làm cho sông núi cỏ cây, vốn là vật vô t́nh mà cũng phải “giọt lệ đầy vơi, can trường khô héo”.
    Sau những vùng vẫy tuyệt vọng của vua Duy Tân, các vị vua c̣n lại của nhà Mạt Nguyễn chỉ là những đóm lửa le lói của một triều đại đang đến hồi suy tàn, nhất là lúc đó chính quyền thực dân đă đủ thời gian và lực lượng để củng cố bộ máy bảo hộ của họ, cũng như lúc đó quần chúng đă ư thức được nhiệm vụ năng động đích thực của ḿnh để đứng lên thay vua mà cứu nước.
    Cho nên hai vị vua c̣n lại là Khải Định và Bảo Đại chỉ hành xử như những vị vua bù nh́n, hoặc cúi đầu tuân phục lệnh người Pháp như vua Khải Định, hoặc cô đơn buông xuôi theo số mệnh như vua Bảo Đại mà thôi.
    Thật vậy, vua Khải Định (trị v́ từ 1916–1925) bị sĩ phu lên án là Việt gian, bù nh́n, khoán trắng việc nước vào tay thực dân Pháp. Cụ Phan Chu Trinh đă từng gọi vua Khải Định là “Dân Tặc”, và năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự cuộc triển lăm quốc tế, cụ Phan đă gởi một lá thư trách nhà vua bảy điều: Tôn bậy quân quyền, Lạm hành thưởng phạt, Thích chuộng hư văn, Xa xỉ quá mức, Phục sức lố lăng, Chơi bời vô độ, và Hành động ám muội trong việc bang giao với Pháp.
    C̣n cụ Nghè Ngô Đức Kế, hiệu là Tập Xuyên, chủ bút báo Hữu Thanh, năm 1924 th́ lại châm biếm bằng bài thơ lên án Khải Định như sau: [12]*
    HỎI GIA LONG
    *********** Ai về địa phủ hỏi Gia Long,
    Khải Định thằng này phải cháu ông?
    Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ,
    Trăm gia ba chục khổ nhà nông.
    Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến,
    Năm ngoái sang Tây ỉa văi cùng.
    Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ,
    Vua thời c̣n đó, nước thời không.
    Vua Bảo Đại (1925–1945), vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, là con trai độc nhất của vua Khải Định, nhưng đặc biệt diện mạo cùng phong độ lại khác hẳn vua cha. Ông có nét mặt chữ điền, đi đứng nghiêm trang, ăn nói đàng hoàng, dáng điệu đường bệ chững chạc. Rất nhiều tài liệu cho thấy ông Bảo Đại không phải là con ruột của vua Khải Định, v́ vua Khải Định mang bịnh bất lực không thể gần gũi đàn bà.
    Vua Bảo Đại húy là Vĩnh Thụy, sinh năm 1913 (Quư Sửu) tại kinh thành Huế. Ngày 28 tháng 4 năm 1922, ông được vua cha tấn phong làm Đông Cung Hoàng Thái Tử, nghĩa là tước vị của một thái tử sẽ được quyền nối ngôi vua. Ngày 15 tháng 5 năm 1922, khi ông mới lên chín tuổi, th́ được vua cha và chính phủ Bảo Hộ cho đi Pháp du học. Trong thời gian ở Pháp, ông được vua Khải Định gởi gấm cho ông Charles (một vị cựu khâm sứ Trung kỳ) để giám hộ như một người cha nuôi săn sóc trông coi. Năm 1925, khi vua Khải Định băng hà, Bảo Đại về nước để chịu tang và để làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng Đế. Sau đó, ông trở lại Pháp để tiếp tục việc học cho đến năm 1932 th́ về nước vĩnh viễn, và chính thức tức vị để điều khiển triều đ́nh An Nam.
    Nhân dân ta từ ngày bị Pháp đô hộ vẫn liên tục kiên cường chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lăng. Ngay cả dưới triều Khải Định mà việc nước hầu như đă khoán trắng cho thực dân Pháp và cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp qua ông Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài (nhất là trong khoảng thời gian 1925–1932, từ khi vua Khải Định băng hà cho đến ngày ông Bảo Đại về nước chấp chánh), lửa cách mạng vẫn hừng hực cháy trong ḷng dân tộc Việt. Ngọn lửa đó đă được đốt bừng lên và được nuôi dưỡng mạnh nhờ ảnh hưởng của bản án tử h́nh chí sĩ Phan Bội Châu. Lửa cách mạng mănh liệt đến nỗi trước cao trào đấu tranh của toàn dân phản kháng bản án này, thực dân đành phải hủy bản án và đem Cụ về quản thúc tại kinh thành Huế (1925). Trong khoảng thời gian đó, những phong trào cách mạng và những biến động quan trọng đă liên tiếp xảy ra: đảng Tân Việt Cách Mạng gồm đa số là những trí thức trẻ ra đời tại Huế, phong trào Sô Viết nổi lên ở Nghệ Tĩnh và cuộc nổi loạn đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Bắc Việt do anh hùng Nguyễn Thái Học cầm đầu. Lại c̣n ảnh hưởng của phong trào Cường Để tại hải ngoại, của Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục, của cuộc tranh đấu đ̣i dân quyền của chí sĩ Phan Chu Trinh… tất cả đă là những hỏa sơn ầm ĩ cháy trong ḷng dân tộc. V́ vậy, trước ư chí đối kháng của nhân dân để bày tỏ sự bất măn đối với chế độ bảo hộ và nhất là đối với triều đ́nh mục nát già nua, người Pháp bèn lợi dụng việc vua trẻ Bảo Đại hồi loan để trẻ trung hóa triều đ́nh, và hứa sẽ để cho nhà vua thực hiện một số cải cách mong xoa dịu ḷng dân, mà việc đầu tiên là sa thải lớp quan lại già cả về hưu trí để thay thế bằng một lớp người trẻ trung hơn.
    Những quan lại lớn tuổi này chẳng những là lớp người lạc hậu không hợp thời để theo kịp với dân trí mỗi ngày một tiến bộ, mà đa số những vị quan này là những nịnh thần tham nhũng, làm tay sai cho Pháp. Bài thơ của Cụ Nghè Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư cách của lớp quan lại áo măo xênh xang mà thật ra chỉ là những con bung xung làm gai mắt mọi người:
    Cu li đành phận chớ ra oai,
    *********** Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài.
    *********** Quân chủ cờ bay vui trước mắt,
    *********** Dân quyền trống đánh chán bên tai.
    *********** Bài, Liêm giảo hiểm khoe tài trí
    *********** Huề, Thụ thông minh gọi bất tài.
    *********** Cấm hết công môn tiền hối lộ,
    *********** Ngoài ra Tiềm Để mặc ḷng ai. [13]
    (Bài, Liêm, Huề, Thụ là tên bốn vị Thượng thư mà Bài tức là ông Nguyễn Hữu Bài người đỡ đầu cho ông Diệm, và Huề tức là ông Thân Trọng Huề, ông ngoại của bà Ngô Đ́nh Nhu).
    Trong lớp quan lại già nua đó, người nổi tiếng nhất là ông Nguyễn Hữu Bài. Nổi tiếng v́ ông đă là tay sai đắc lực nhất của hai thế lực Thực Dân lúc bấy giờ. Một là hệ thống cai trị của Pháp, và một là hội Truyền giáo Hải ngoại Pháp. Ông cũng nổi tiếng v́ với tư cách đó, ông lại là vị tể tướng cầm đầu triều chính trong thời gian vua Bảo Đại du học tại Pháp, quả thật ông Nguyễn Hữu Bài là một thứ vua không ngai. Thời bấy giờ, số phận quan lại từ trên xuống dưới đều nằm trong tay ông, đời sống nhân dân cũng nằm trong tay ông qua những chính sách ông đề nghị với chính phủ Bảo Hộ.
    Theo giáo sư Nguyễn Văn Xuân th́ ông Nguyễn Hữu Bài có đến 5 đồn điền chung quanh Huế, có đồn điền rộng đến cả 1.000 mẫu ruộng. Phê b́nh ông Nguyễn Hữu Bài, vị giáo sư đại học Huế đă viết:
    Đối với chúng ta, ngày nay có thể công kích Nguyễn Hữu Bài, ông gia của Ngô Đ́nh Khôi và ông gia hụt của Ngô Đ́nh Diệm, cho rằng chỉ là một thứ “bồi Tây” dù ông được liệt vào hạng “Đày vua không Khả, đào mả không Bài”, và những nhàn điền (đồn điền) của ông chỉ theo phương thức bóc lột tư bản Tây phương tàn nhẫn và trong sự thật cũng đáng gọi là tên chủ đồn điền quỷ quyệt [14].
    Ngoài ra trong tác phẩm “Hoàng Tử Vĩnh Sang” của sử gia Vũ Ngự Chiêu (tr. 113–114) có trích đăng một lá thư của vua Thành Thái từ Saint Denis gởi về cho vợ, tố cáo Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài – trong cuộc nổi dậy của vua Duy Tân – đă lập kế xúi dục vua Duy Tân bỏ Đại nội ra ngoài Hoàng thành để Tây bắt.
    Với một thành tích tay sai đắc lực của hai thứ thực dân như thế, và với sự tích lũy tài sản lớn lao như thế mà lại tự xưng là người có ḷng yêu nước yêu vua, dám “đày vua không Khả, đào mả không Bài” th́ quả thật là một sự lạ đối với người có hiểu biết về tâm lư t́nh báo và lư luận chính trị. C̣n ông Ngô Đ́nh Khả th́ lại là người đă theo đại Việt gian Nguyễn Thân cầm quân đánh phá chiến khu Phan Đ́nh Phùng, đào mả Cụ lên rồi lấy thuốc súng trộn với thi hài Cụ bắn đi cho mất tích (tài liệu của tạp chí Lên Đường số ra mắt, Houston, trong phần phụ lục E). Ngoài ra, qua bức thư gởi cho Toàn quyền Decoux, giám mục Ngô Đ́nh Thục (xem phần phụ lục) xác nhận Cụ Ngô Đ́nh Khả và hai con Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Diệm đều là tay sai đắc lực của thực dân Pháp.
    C̣n trường hợp ông Nguyễn Hữu Bài không kư giấy đào mả vua cần được phân tách kỹ càng hơn. Theo tác phẩm “Hồ sơ Vua Duy Tân” mà cụ Hoàng Trọng Thược, một nhân sĩ người Huế và cũng là một nhà viết sử, th́ Nguyễn Hữu Bài là người mà vua Duy Tân không ưa mấy, nhất là lúc ông Nguyễn Hữu Bài cho đào đất t́m vàng trong Đại nội. Vua hỏi:
    - Đại nội nầy thuộc về ai rứa thầy?
    - Tâu: của Vua.
    - Vậy tôi có bảo đào đâu?
    - Tâu: v́ kho ta thiếu tiền và người Pháp đang đánh nhau với Đức.
    - Nước Pháp bị xâm lăng chứ nước ta không bị xâm lăng đó sao?
    Nguyễn Hữu Bài vâng đầu bái phục. Song v́ t́nh thế, Ấu Chúa cũng không làm sao ngăn được việc làm của người Pháp.
    Đất cấm địa nơi vua đang ở và vua c̣n sống, mà ông Nguyễn Hữu Bài dám cho đào lên để t́m vàng dâng cho Tây, th́ câu “Đày vua không Khả, đào mả không Bài” có c̣n ư nghĩa là câu truyền tụng để “vinh danh” cho ông Nguyễn Hữu Bài nữa hay không?!
    Để những nhà Sử học có thêm tài liệu nghiên cứu về tội làm tay sai cho thực dân Pháp và cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp của ông Nguyễn Hữu Bài và cha con ông Ngô Đ́nh Khả, tôi xin đề nghị quư vị đọc thêm các tác phẩm khác như “Hồ Chí Minh Con Người và Huyền Thoại” của Chính Đạo, như “Hoàng Tử Vĩnh Sang” của Vũ Ngự Chiêu, như “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí” của Chính Đạo do nhà xuất bản Văn Hóa (Houston, Texas, Hoa Kỳ) phát hành.
    Trong kế hoạch trẻ trung hóa triều đ́nh này, vua Bảo Đại đă đồng ư trọng dụng hai nhân vật nổi tiếng là hai ông Ngô Đ́nh Diệm và Phạm Quỳnh. Ông Ngô Đ́nh Diệm là một vị Tuần Vũ 32 tuổi của một tỉnh nhỏ (B́nh Thuận), được Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài tiến cử giữ chức Thượng thư Bộ Lại đầu triều. Và ông Phạm Quỳnh là một học giả chủ nhiệm báo Nam Phong, nhưng đồng thời cũng là bạn thân của Marty (Giám đốc sở Chính trị của Phủ Toàn quyền), được cử giữ chức Thượng thư Bộ Giáo dục kiêm Ngự tiền văn pḥng của Hoàng Đế. Khi chấp nhận hai vị Thượng thư này, rơ ràng trong sự chọn lựa chính trị của vua Bảo Đại, yếu tố “trẻ” không phải là yếu tố quyết định nhất mà chính v́ với một Ngô Đ́nh Diệm trung quân, rường mối nhà Nguyễn sẽ vững vàng không lo hậu họa, và với một Phạm Quỳnh thân Pháp, tương quan Pháp Việt sẽ dễ dàng hơn để có thể thực hiện những cải tổ cần thiết. Hai vị đại thần đó sẽ bổ túc cho nhau để giúp cho vua Bảo Đại vận hành triều đ́nh An Nam để có thể thực hiện những cải cách xă hội mà người Pháp đă hứa hẹn với ông.
    Nhưng bao nhiêu lời hứa hẹn của thực dân đều như nước chảy qua cầu, dân bị trị vẫn là dân bị trị, vua bù nh́n vẫn là vua bù nh́n. Vua Bảo Đại bất lực bó tay để đi từ bất măn đến chán nản, Thượng thư Ngô Đ́nh Diệm xin từ quan, việc triều chính nằm trong tay ông Phạm Quỳnh và người Pháp. Do đó, trong thời gian làm vua, ông Bảo Đại chỉ c̣n biết săn bắn và thể thao, thường sống ở đồn điền Quảng Trị, ở Bạch Mă, Đà Lạt hơn là giam ḿnh trong bốn bức tường thành nội cung với cỏ mọc rêu phong. Từ khi chấp chánh cho đến ngày 9 tháng 3 năm 1945 (ngày Nhật Bản đảo chánh), ông cố giảm thiểu càng ít càng tốt mối ràng buộc với Pháp trong những chính sách thất nhân tâm. Công việc của ông chỉ là công việc tế lễ, như lễ ở Nam Giao, cúng kỵ các tiên vương, ban phát sắc bằng huy chương cho hàng quan lại, c̣n mọi việc cai trị ông giữ thế mắt đui tai điếc. Thần dân chỉ biết ông Bảo Đại là một vị vua bù nh́n mà có ai hiểu nỗi tâm sự thầm kín của ông đâu.
    Ông Bảo Đại làm vua bù nh́n nhưng nếu những ai đă từng sống đồng thời với ông, chịu khó quan sát cảnh ngộ của ông ta đều phải nhận rằng nếu ta ở vào địa vị của ông th́ cũng khó thể làm ǵ được khác hơn. Vua Bảo Đại hoàn toàn bị bao vây kềm kẹp, nhất cử nhất động của ông ta đều bị thực dân theo dơi kiểm soát gắt gao. Họ đặt quan hầu người Pháp bên cạnh, họ lập cho ông một đội lính khố vàng (Ngự Lâm Quân) do viên Đại úy Bond trực tiếp chỉ huy, đóng ngay trong Hoàng thành để canh chừng những hành động chống đối của nhà vua. Họ đặt các vị Thượng thư toàn là tay chân thân tín của họ để ngăn cản vua mưu đồ thực hiện những cuộc cải cách, hay những âm mưu nổi loạn như các vua tiền triều. Thế mà người Pháp vẫn chưa vừa ḷng, họ c̣n đặt những viên cố vấn người Pháp gọi là Hội lư bên cạnh các vị Thượng thư để kiểm soát các vị này, và để triều đ́nh An Nam thi hành cho đúng những chỉ thị do Toàn Quyền và Khâm Sứ ban bố.
    Vừa không đủ khả năng và điều kiện nhân tâm cũng như điều kiện hoạt động để phát khởi một cuộc đấu tranh, vừa phải khôn khéo hóa giải những áp lực chính trị có thể làm sụp đổ vĩnh viễn triều đại nhà Nguyễn, vua Bảo Đại chỉ c̣n hai chọn lựa: hoặc làm một vị vua tay sai mang tội với lịch sử, hoặc làm một vị vua bù nh́n bất lực cho hậu thế chê cười. Và ông đă chọn lựa. Hậu thế chỉ có thể chê cười mà không thể kết ông tội bán nước hay tay sai.
    Hăy nh́n vào cuộc hôn nhân của ông Bảo Đại để thấy chính sách cai trị thâm độc và chặt chẽ của thực dân, để nh́n thấy những kế hoạch đường dài và những toan liệu kỹ lưỡng của sự cấu kết giữa chính quyền thực dân Pháp và Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp.
    Trong những năm cuối cùng của Bảo Đại ở Pháp vào lúc đă ở tuổi trưởng thành, họ cho một nữ sinh tên là Marie Thérèse Nguyễn Thị Lan, con một nhà phú hộ theo Công giáo là ông Nguyễn Hữu Hào ở Nam Kỳ, đi Pháp du học. Tất nhiên cô Marie Thérèse phải là một tiểu thư dù không hoàn toàn sắc nước hương trời th́ vẫn có được cái đẹp kiều diễm đài các để có thể làm rung động trái tim của một nhà vua trẻ đang đến tuổi rạo rực t́nh yêu đôi lứa. Trong thời kỳ ông Bảo Đại c̣n bận học hành, họ chưa cho đôi trai tài gái sắc gặp nhau, mà đợi đến khi ông xuống tàu về nước chính thức cầm đầu triều đ́nh, đến khi ông thấy ḿnh đă trưởng thành và có trách nhiệm với quốc dân th́ họ mới tổ chức cho Marie Thérèse Nguyễn Thị Lan gặp ông Bảo Đại. Ban đầu họ cho cô Lan lân la gần ông mỗi khi ông đứng một ḿnh trên boong tàu nh́n ngắm sóng nước trùng dương. Cho đến khi hai người đă vượt khỏi giai đoạn khách sáo sơ giao th́ họ bắt đầu tổ chức cho đôi uyên ương khắng khít nhau hơn trong những buổi dạ hội trên chuyến tàu xuyên đại dương bất tận.
    Chỉ tội nghiệp cho bà Từ Cung Thái Hậu, v́ trong lúc con ḿnh ở nơi đất khách quê người th́ bà đă lo nghĩ đến tương lai của ḍng họ, đă nghĩ đến việc t́m bạn trăm năm cho con. Tại Huế, Bà đă cho ḍ xét thân thế, phẩm hạnh, sắc đẹp của bao nhiêu tiểu thư khuê các, con những vị đại thần để Bà có thể lựa chọn một nàng dâu cho Hoàng tộc, một Hoàng Hậu tương lai cho nước An Nam. Bà đă chọn được một nữ sinh con một vị đại quan có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà bà mẹ của tiểu thư đó cũng sùng mộ đạo Phật như Bà. (Tiểu thư này sau lấy chồng họ Phạm, giáo sư trường Quốc học Huế). Bà chỉ đợi con ḿnh ngự giá hồi loan chính thức điều khiển việc nước là làm lễ thành hôn cho đôi lứa. Cuộc đời của Bà xuất thân từ nơi dân giả, phúc đức cha ông đẩy đưa Bà được tiến cung làm Hoàng Hậu nên Bà cố học hỏi cho thành người đài các chốn vi cung, cố trau dồi đức hạnh cho thành người vợ hiền dâu thảo. Nhưng chẳng may chồng mất sớm, Bà lại chỉ có một mụn con trai nên Bà thiết tha mong cho con trưởng thành để nối nghiệp vua cha và nối dơi tông đường. V́ thế, đối với Bà, việc t́m kiếm một nàng dâu đức hạnh mọi bề là điều quan trọng thiết yếu nhất. Quan trọng v́ không phải chỉ thương con mà c̣n v́ danh dự triều đại nhà Nguyễn nữa.
    Bà không ngờ rằng trong lúc Bà đang sống những giây phút rộn ràng của bất kỳ một người mẹ nào đang lo chuyện trăm năm cho con th́ người Pháp, ở trong những văn pḥng của các thế lực giáo quyền và thế quyền, cũng âm thầm thực hiện âm mưu vượt quyền hạn và giết giấc mơ của Bà để cưới vợ cho vua Bảo Đại dựa vào những tiêu chuẩn chính trị của chính sách bảo hộ lâu dài.
    Vua Bảo Đại về nước được một thời gian, việc triều chính tạm yên th́ vợ chồng ông Charles, người giám hộ, bắt đầu lo chuyện thành hôn cho ông. Vào khoảng cuối năm 1933, ông bà Charles rủ vua Bảo Đại đi Đà Lạt, tại khách sạn Lang Biang huy hoàng tráng lệ, bà Charles dẫn tiểu thư Marie Thérèse chính thức giới thiệu với nhà vua trẻ tuổi trước sự chứng kiến của quan Toàn quyền Pierre Pasquier. Tất nhiên khi đă có phù phép của chúa tể thực dân tại Đông Dương th́ cuộc hôn nhân chính trị giữa vua Bảo Đại và cô Nguyễn Thị Lan nhất định phải thành. Nó phải thành trên nỗi đau khổ cay đắng của Bà Từ Cung, của những vị đại thần trong Tôn Nhân Phủ và của cả Hoàng gia. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, triều đ́nh Việt Nam có một vị Hoàng Hậu theo Công giáo La Mă qua sự sắp đặt của các thế lực phương Tây. Sau 400 năm, công tác truyền giáo đạt đến cao điểm bằng sự có mặt của một nữ tín đồ trong chốn thâm cung của triều đ́nh Việt Nam. Và cô Marie Thérèse từ nay được mang danh hiệu là Nam Phương Hoàng Hậu.
    Lịch sử đế quốc thực dân Pháp đă cho thấy rằng Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp luôn luôn chủ trương Công giáo hóa Việt Nam, không chỉ là đối với người Việt Nam thuộc hàng dân dă mà chủ yếu là hạng người Việt Nam thuộc đẳng cấp cao nhất của triều đ́nh. Thời Nguyễn Ánh, Pigneau de Béhaine đă khuyến dụ được Hoàng Tử Cảnh, nay đến thời vua Bảo Đại họ đặt một hoàng hậu người Công giáo th́ tất nhiên trong tương lai vị vua kế vị ông Bảo Đại cũng sẽ là một ông vua đă được rửa tội từ lúc mới sinh ra để tô bồi cho “la fille ainée de l’Eglise en Extrême Orient” (Trưởng nử cuả Giáo hội tại Viễn đông)
    Chẳng thế mà vị đại diện ṭa Thánh ở Đông Dương, Đức Khâm Mạng Drapier, đă tôn vinh cuộc hôn nhân Bảo Đại - Nguyễn Thị Lan trong cuốn Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Trong bài đề tựa cuốn sách, sau khi ca ngợi sự bành trướng của đạo Công giáo La Mă trên mảnh đất thuộc địa màu mỡ, Đức Khâm Mạng Drapier huênh hoang viết:
    “… Việc kể ra cũng đi theo một thứ tự với lịch sử thế tục v́ đời sống của Công giáo đă lẫn với đời sống xă hội Việt Nam từ bốn trăm năm nay. Trong khoảng thời gian ấy, có hai việc cách nhau hàng trăm năm đă tỏ rằng Công giáo bao giờ cũng “trung thành với đế quốc Việt Nam”(sic). Việc đức giám mục D’Adran giúp nhà Nguyễn và việc đức Bảo Đại phong (?) lên ngôi Hoàng Hậu một thiếu nữ ḍng dơi vọng môn Công giáo hồi đầu chiến tranh* [15].
    Tuy nhiên đây là một cuộc hôn nhân dị giáo trái với giáo luật thời bấy giờ nhưng tại sao Bảo Đại vẫn cưới được Nguyễn Thị Lan. Th́ ra thực dân đă có kế hoạch sẵn. Theo cuốn “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí” của Chính Đạo (tr. 36, 37) th́:
    Năm 1934: Lấy Nguyễn Hữu Thị Lan, con gái một đại điền chủ miền Nam. V́ Thị Lan có đạo Kitô, gây nhiều trở ngại. Ngô Đ́nh Thục cực lực chống đối v́ theo đúng phéo đạo Kitô, Bảo Đại phải “rửa tội” rồi mới được thành hôn. Sau đó, Pháp dàn xếp cho một giáo sĩ ngoại quốc bí mật làm lễ cưới theo phép đạo. Như thế Bảo Đại trở thành vua Kitô đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
    Cũng trong cuốn sách này, Đức Khâm Mạng lại trách móc những phản kháng của người Việt Nam mà đại diện là giới sĩ phu nho sĩ: “Núp ḿnh sau bức thành chữ Nho, các nhà cựu học không thể nhận được Tin Lành Cứu Thế. Các nhà tân học chịu ảnh hưởng một nền giáo hóa thế tục cố t́nh không muốn biết đến đạo lư Gia Tô”.[16]
    Lúc nêu lên hai sự kiện lịch sử của thời Gia Long và thời Bảo Đại, cũng như lúc chê bai giới sĩ phu VN, Đức Khâm Mạng Drapier muốn chứng tỏ một cách công khai rằng quá tŕnh phát triển của Công giáo tại Việt Nam luôn luôn gắn liền với giai cấp triều đ́nh quư tộc ở mức độ cao nhất, và có cả “Thế” lẫn “Lực” mạnh nhất trên đất nước Việt Nam này mà thể hiện rơ ràng nhất (của sự liên tục này) là Thượng thư đầu triều Nguyễn Hữu Bài khi từ chức đă đề cử (và đă được chấp thuận) một vị khác thế ḿnh, ông Ngô Đ́nh Diệm, mà cả hai người, cũ cũng như mới, đều có những liên hệ chặt chẽ trên cả hai mặt đức tin lẫn sự tuân phục với Hội Truyền Giáo Hải Ngoại.
    Nói cho đúng, từ khi gặp cô Marie Thérèse trên chuyến tàu hồi hương cho đến tận khi lập thành Hoàng Hậu, ông Bảo Đại không cảm thấy bị ép buộc và t́nh yêu đôi lứa hẳn phải có sự đồng thuận của cả hai bên. Tuy nhiên, điểm đáng nhấn mạnh ở đây là t́nh yêu đó được tác thành trong một thủ đoạn chính trị vượt hẳn sự sáng suốt của một người thanh niên đang ngụp lặn trong t́nh yêu, như Lư Bạch ngày xưa ngây ngất nhảy xuống nước ôm trăng mà không biết ḿnh sẽ vùi thân dưới ḍng sông lạnh.
    Trường hợp hôn nhân của vua Bảo Đại và cô Marie Thérèse chỉ là một trong rất nhiều h́nh thái kiểm soát, vận dụng, khai thác một vị vua của các thế lực thế quyền và giáo quyền Pháp. Tôi muốn nêu lên trường hợp đó là để chứng minh rằng ông Bảo Đại dù có muốn cũng không thể làm ǵ hơn được, dù có lúc ông đă muốn có những cải cách, những vận động để cứu triều đại nhà Nguyễn và cứu chính nước Việt Nam của ông. Trôi nổi trong một hoàn cảnh như thế, sự bất lực chính trị đă biến sự bất măn thành ra một sự chán nản tâm lư và sinh lư. Ông chỉ c̣n biết mượn những thú thể thao để khuây khỏa cho phù hợp với thói quen phóng khoáng của cuộc sống Paris mà ông đă bị điều kiện hóa từ ngày ông du học ở Pháp.
    Năm 1945, sau khi được tiếp xúc nhiều lần với vua Bảo Đại, học giả Trần Trọng Kim đă có nhận xét: “Vua Bảo Đại thông minh, am hiểu t́nh h́nh. Trong thời Bảo hộ của nước Pháp, h́nh như Ngài chán nản không làm ǵ cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Ngài có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đứng đắn”[17]. Học giả Trần Trọng Kim quả thật đă mô tả đúng tâm sự của một con người bất đắc dĩ phải làm vua bù nh́n, làm một vị vua không nổi loạn được v́ bị kềm kẹp, không làm tay sai được v́ ḷng yêu nước nồng nàn, và nhất là không tự xử thân mạng được v́ trách nhiệm duy tŕ ḍng dơi nhà Nguyễn.
    Khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, ông Bảo Đại đă biết lợi dụng vận hội mới đó để khước từ dĩ văng đau thương, ông đă tuyên bố Độc Lập cho Việt Nam, xé bỏ mọi hiệp ước liên hệ với nước Pháp, chấm dứt nền đô hộ gần trọn thế kỷ. Có lẽ sẽ có người cho rằng súng đạn và sức mạnh của quân đội Nhật Bản đă giúp cho ông Bảo Đại có ḷng yêu nước. Nói thế quả thật tội nghiệp cho ông ta bởi v́ ngày 16 tháng 8 năm 1945, khi Nhật Bản sửa soạn đầu hàng Đồng Minh và nước Pháp của De Gaulle đang sửa soạn đổ bộ để tái chiếm Việt Nam, ông vẫn có can đảm và sáng suốt gởi thông điệp cho Tổng thống Truman để nhờ Tổng thống Mỹ gởi lời phản kháng đến Tổng thống De Gaulle:
    Hoàng Đế Bảo Đại
    Gởi Tổng Thống Truman
    Được tin Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Pháp sẽ yết kiến Các hạ để giải quyết t́nh thế tương lai của Đông Dương, Quả nhân xin tin Các hạ biết rằng các nước Đông Dương đă tuyên bố độc lập và quả quyết giữ vững nền độc lập ấy.
    Riêng về phần dân tộc Việt Nam, chúng tôi không coi kiều dân Pháp là kẻ thù, lại trọng nhân mạng và tài sản của họ, nhưng chúng tôi sẽ cực lực phản kháng việc nước Pháp lập lại nền thống trị của họ trên đất nước Việt Nam bất cứ theo một chế độ nào.
    Chính sách thực dân nay không hợp thời nữa! Một dân tộc Việt Nam đă có bốn ngàn năm lịch sử và một dĩ văng vẻ vang không thể chịu ở dưới quyền một dân tộc khác.
    Nước Pháp nên cúi đầu theo lẽ công bằng ấy, mà Mỹ quốc là một nước hào hiệp đă từng công khai tuyên bố và bảo vệ điều đó.
    Nước Pháp phải vui ḷng thừa nhận chân lư đó để tránh khỏi tai vạ và để cho chiến tranh đừng xảy ra trên đất nước chúng tôi. Trong cuộc chiến tranh vừa kết liễu, dân tộc chúng tôi tuy không tham chiến mà cũng đă chịu bao nhiêu nỗi khổ, nên chúng tôi chỉ mong tham dự vào một cuộc kiến thiết mới: kiến thiết một nền ḥa b́nh với công lư trên toàn thế giới.
    Quả nhân nhờ Các hạ chuyển đạt thư này sang quư chính phủ của hai nước Anh Quốc và Trung Hoa.
    Bảo Đại
    Đồng thời với bức thông điệp gởi cho Tổng Thống Truman, vua Bảo Đại cũng đă gởi cho tướng De Gaulle một bức thư với lời lẽ hết sức nhă nhặn mà cũng vô cùng cứng rắn. Ông báo cho tướng De Gaulle biết là nếu nước Pháp vẫn quyết tái lập nền thuộc địa trên đất nước Việt Nam th́ “… dân tộc Việt Nam không muốn và cũng không thể chịu đựng một cuộc đô hộ nào nữa, mỗi làng sẽ là một ổ kháng chiến, mỗi người cộng sự cũ của Pháp sẽ là một kẻ thù…” [18]
    Những lời tuyên bố nồng nàn t́nh yêu nước và sự bày tỏ thái độ quyết liệt đối với Pháp khi quân đội Pháp sắp sửa tái xâm chiếm Việt Nam, đă nói lên quyết tâm của vua Bảo Đại nhất định khước từ quá khứ, dù quá khứ ấy đă được đan bằng những sợi dây liên hệ giữa ông và nước Pháp.
    Nhưng chẳng may cho vận nước c̣n phải chịu cảnh ngửa nghiêng nên toàn dân lại hướng về cuộc kháng chiến của Việt Minh, và thêm vào đó ông Bảo Đại lại không tham quyền cố vị, không luyến tiếc điện ngọc ngai vàng, vui vẻ từ bỏ ngôi báu để tránh cho quốc dân một cuộc huynh đệ tương tàn. Ông đă tuyên bố:
    Hạnh phúc của dân Việt Nam,
    Độc lập của nước Việt Nam,
    Muốn đạt được mục đích ấy, Trẫm đă tuyên bố hy sinh tất cả mọi phương diện và cũng v́ phương diện ấy, Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải bổ ích cho tổ quốc.
    … trong giờ phút nghiêm trọng này, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết.
    … cho nên mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua 20 năm, mới gần gũi dân được mấy tháng, chưa làm được ích lợi ǵ cho quốc dân như ḷng Trẫm mong muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc gia cho một chính phủ dân chủ cộng ḥa.
    … c̣n về phần Trẫm, sau 20 năm ngai vàng bệ ngọc đă biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân Tự Do của một nước Độc Lập, chứ Trẫm nhất quyết không để ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của Hoàng gia mà lung lạc quốc dân nữa…
    (trích một đoạn trong chiếu thoái vị của vua Bảo Đại nhân dịp trao bảo kiếm, ngọc tỷ cho ông Trần Huy Liệu, đại diện Việt Minh tại lầu Ngọ Môn ngày 25 tháng 9 năm 1945)
    Chính tấm ḷng hy sinh cao cả của vua Bảo Đại, hy sinh quyền uy tối thượng, hy sinh bệ ngọc ngai vàng, hy sinh cả sự nghiệp mấy trăm năm trời của vua chúa nhà Nguyễn mà lúc bấy giờ vào thời điểm quân Pháp đang lăm le tái chiếm Việt Nam, quốc dân đă quên hết cái dĩ văng 20 năm trời làm vua bù nh́n của vua Bảo Đại để chỉ thấy nơi ông một công dân Vĩnh Thụy đầy ḷng yêu nước.
    Năm 1946, khi Cựu Hoàng đang thong dong với đời sống tự do của một công dân th́ ông Hồ Chí Minh, v́ gặp nhiều khó khăn chống đối, nên muốn nhường quyền lại cho ông để ông hứng chịu những hậu quả đen tối của t́nh thế. Tuy nhiên ông Bảo Đại đă không tham quyền tham danh để bị mắc mưu. Ông kể chuyện này cho ông Phạm Văn Bính nghe khi ông Bính đến gặp ông ở một biệt thự tại đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội. (Lúc bấy giờ, ông Bính đang là cộng sự viên của ông Nguyễn Tường Tam và đang hoạt động cho phong trào Ngũ Xă, một phong trào chống Cộng do bác sĩ Phan Quang Đán cầm đầu).
    *********** Cựu Hoàng mỉm cười bảo tôi:
    Tôi đă nhă nhặn nhưng cương quyết từ chối. Cụ Hồ khôn ngoan quá mức. Một là Cụ thử ḷng tôi c̣n ham chính quyền không, hai là Cụ muốn trút lên đầu tôi những sự khó khăn hiện tại.
    Cụ thấy sinh viên, thanh niên và dân chúng biểu t́nh đ̣i Việt Minh trả lại chính quyền cho tôi. Cụ làm như Cụ dân chủ tột bực. Cụ biết nội các nào cũng không qua nổi mặt Việt Minh, và một khi nội các Vĩnh Thụy không làm được ǵ cho quốc dân đồng bào, th́ sinh viên, thanh niên đang ủng hộ tôi sẽ chán nản và không c̣n tín nhiệm tôi nữa.
    Tôi đă thoái vị để được hưởng tự do của một người công dân, chẳng lẽ tôi tham một chức Thủ tướng làm bù nh́n cho Cụ Hồ hay sao? [19]
    *Vai tṛ Cộng Sản quốc tế của ông Hồ Chí Minh lần lần hiện rơ nên lợi dụng chuyến đi Trùng Khánh, khi trở về, vua Bảo Đại đă ở lại luôn Hồng Kông. Sau đó, theo lời kêu gọi của người Quốc gia, ông đứng ra thương thuyết với đại diện của Pháp, ông Bollaert, Cao ủy của Pháp tại Đông Dương.
    Kể về giai đoạn này, ông Đoàn Thêm, một nhà văn nổi tiếng, một cựu Đổng lư Văn pḥng của Bộ Phủ Tổng Thống Việt Nam Cọng Ḥa, đă viết:
    Ngày 15-5-1947 và ngày 10-9-1947 tại Hà Đông, ông Ballaert đọc diễn văn hứa hẹn thừa nhận trên nguyên tắc sự độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Y cũng biết rằng những nhân vật được mời ra hợp tác đều mắc tiếng bị mua chuộc nên không được ủng hộ, nên y kêu gọi tất cả đoàn thể các gia đ́nh tinh thần (famille spirituelle).
    Khốn nỗi, các gia đ́nh ấy lại chia rẽ, lục đục, hoặc chưa có dịp xum họp để t́m đường lối chung. Nếu nói chuyện với từng nhà th́ chỉ thấy những thành kiến, những ư niệm cố chấp, những quyền lợi tương phản. Vậy phải t́m một nhân vật nào sẵn uy tín, được toàn quốc biết tên tuổi, đứng trên các đảng phái để liên lạc, quy tụ các phe nhóm địa phương rồi chính thức đàm thoại với Pháp. Tất nhiên người đó lại phải có thái độ ôn ḥa, có dĩ văng đáng tin cậy, thực ḷng thừa nhận cho Pháp những quyền lợi quan trọng mà Pháp phải huy động toàn lực để duy tŕ.
    Đủ các điều kiện ấy th́ ai cũng thấy chỉ có Cựu Hoàng Bảo Đại… Tại Việt Nam, báo Thời Sự của nhóm Nghiêm Xuân Thiện, Trần Trung Dung ở Hà Nội là một trong những tờ báo đầu tiên đưa ra ư kiến thỉnh Cựu Hoàng về nước lănh đạo quốc gia và để chống Cộng. Rồi nhiều cuộc biểu t́nh khá lớn đă tiếp diễn như ở Huế ngày 12-8-1947, ở Hà Nội ngày 1-9-1947, và cả ở Sài G̣n để ủng hộ và yêu cầu Cựu Hoàng đứng ra cứu văn thời cuộc…
    Trước sự ủng hộ nồng nhiệt của quốc dân và của mọi giới nhân sĩ, Bảo Đại mới lên tiếng với phóng viên ngoại quốc: “Nếu quả thật quốc dân c̣n tín nhiệm th́ ông sẵn sàng đàm phán với Pháp”. Kế đó, ông nhận lời mời của Bollaert tới gặp Cao ủy tại vịnh Hạ Long (6-12-47) trao đổi ư kiến rồi lại trở về Hương Cảng…
    Sau một thời gian trả giá, cuộc thương thuyết ngày 5 tháng 6 năm 1948 đi đến một thỏa thuận: “Bollaert nhân danh chính phủ Pháp long trọng tuyên bố thừa nhận Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp”. Cựu Hoàng xác nhận chính thức hóa việc điều đ́nh với Pháp trên căn bản đó và chính phủ trung ương lâm thời của tướng Nguyễn Văn Xuân ra đời [20].
    Mặc dầu đă xác nhận chính thức đứng ra thương thuyết với Pháp, nhưng vua Bảo Đại cũng tự biết những nhược điểm và ưu điểm của ḿnh cho nên ông đă tỏ ra rất khôn ngoan cẩn trọng trong việc đấu tranh cho đất nước. Ông biết người Pháp cần ông ta làm người đối thoại, nhưng ông cũng biết người Pháp sẵn sàng phản bội để quay về thỏa hiệp với lực lượng của ông Hồ Chí Minh. Ông biết chống Cộng Sản là điều tối quan trọng của phe quốc gia, nhưng ông cũng biết phải làm thế nào để thỏa măn ư nguyện tối thiểu của quốc dân, cho nên sau thỏa ước vịnh Hạ Long, ông tiếp tục ráo riết đấu tranh với Pháp một cách can đảm (bravely) và khôn khéo (skillfully) để tạo cái thế đứng vững chắc cho ông và cho phe quốc gia chống Cộng sau này như Buttinger đă nói rơ [21].
    Dù chính phủ Nguyễn Văn Xuân ra đời (27-5-48), vua Bảo Đại vẫn chưa chịu về nước mà tiếp tục kiên nhẫn đấu tranh để đạt cho bằng được hai mục tiêu: thứ nhất là thống nhất ba kỳ mà đặc biệt là sát nhập Nam Kỳ vào cộng đồng quốc gia (là điều kiện mà lực lượng hữu phái của Pháp và “nhóm ly khai Nam Kỳ quốc” vẫn ngoan cố chống đối), và việc thứ hai là nước Pháp phải chính thức thừa nhận nền thống nhất và độc lập của Việt Nam. Ông đi Pháp và qua bao nhiêu vận động khó khăn, cuối cùng, một hiệp ước chính thức ra đời (kư kết ngày 8-3-1949) giữa ông và Tổng thống Pháp Vincent Auriol. Dù vậy, ông vẫn chờ đợi cho việc thống nhất ba kỳ thật sự hoàn thành rồi ngày 13-6-49 ông mới chịu trở về nước và chính thức giữ chức quốc trưởng.
    Khách quan nh́n lại khung cảnh phức tạp của lịch sử lúc bấy giờ với hai lực lượng ưu thế nhất đang tranh giành quyền làm chủ nước Việt Nam mà một bên là bộ máy viễn chinh Pháp có binh hùng tướng mạnh, có một tập đoàn tay sai bản xứ trung thành, có một mẫu quốc to lớn yểm trợ… và một bên, lực lượng kháng chiến Việt Nam có đảng Cộng Sản lănh đạo, có đại đa số quần chúng sẵn ḷng hy sinh, có thế lực Cộng Sản quốc tế làm hậu phương lớn… th́, trong cái thế gọng ḱm nghiệt ngă đó, nếu không có vua Bảo Đại với ư thức trách nhiệm (dù chưa thật sự toàn vẹn), với khả năng ngoại giao (dù chưa thật sự đủ khôn khéo) để đấu tranh với cả Pháp lẫn Việt Minh để tạo một thế đứng cho phe quốc gia, để khai sinh lá cờ vàng ba sọc đỏ, th́ thử hỏi số phận những người chống Cộng sẽ đi về đâu? Vào bưng th́ bị Cộng Sản vận dụng, dinh Tề th́ trở thành Việt gian, nhắm mắt bịt tai làm kẻ đui điếc th́ mang tội hèn nhát với lịch sử trong khi Việt Minh đă giành lấy mất chánh nghĩa dân tộc, trong khi thực dân Pháp đang giành độc quyền chống Cộng để thực hiện chủ trương tái xâm lăng của De Gaulle như lời tuyên bố của ông ta trong bài diễn văn đọc tại Brazzaville (Congo) năm 1944. Cho nên lá cờ chống Cộng của vua Bảo Đại phất lên, cho nên chính quyền Việt Nam (quốc gia) mà vua Bảo Đại là biểu tượng, nếu chỉ thực sự phản ánh đúng đắn mà chưa đầy đủ ước nguyện và vị thế của các lực lượng th́ ít nhất, trong giai đoạn đó, cũng đă đặt nền móng và cũng đă phân định biên cương cho sự hiện diện của một lực lượng “đả Cộng chống Pháp” mà, ít nhất trên mặt quốc tế, đă được các cường quốc và ṭa thánh La Mă Vatican công nhận.
    Nếu cho rằng không có ông Bảo Đại th́ cũng sẽ có một nhân vật khác thoát thai từ lực lượng này để điền vào chỗ trống đó của lịch sử, th́ xin hỏi nhân vật đó là ai? Những chánh khách thân Pháp ư ? Những chính trị gia trong “gia đ́nh tinh thần” được khối Thiên Chúa giáo quốc tế công nhận ư? Ông Đoàn Thêm đă trả lời rồi nhưng ở đây tôi cũng xin liệt kê thêm một số nhân vật mà lập trường và tư thế có nhiều triển vọng để xem họ có đóng được vai tṛ lịch sử đó không?
    Đó là các lănh tụ cách mạng, các lănh tụ đảng phái đă lần lượt bị sa lưới Việt Minh hay đă bị tê liệt chính trị, không c̣n một phương thế nào tạo nổi một chủ lực, một hậu thuẫn để đương đầu với ông Hồ Chí Minh hoặc với Pháp, hoặc với cả hai. Cụ Nguyễn Hải Thần, lănh tụ Việt Cách, các ông Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, lănh tụ Việt Quốc, đều đă bỏ sang Tàu khi không chống nổi Việt Minh dù có quân Lư Hán yểm trợ. Lănh tụ Đại Việt Trương Tử Anh đă bị Việt Minh sát hại ngay tại Hà Nội năm 1946, lănh tụ Duy Dân Lư Đông A cầm quân kháng Cộng một thời gian ngắn rồi mất tích luôn ở vùng Ḥa B́nh Bắc Việt. Lănh tụ Đệ Tứ Quốc Tế, ông Tạ Thu Thâu, bị Việt Minh âm mưu sắp đặt cho dân quân Quảng Ngăi giết trên đường vào Nam. Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ của lực lượng Ḥa Hảo từng tỏ thiện chí hợp tác với Việt Minh cũng bị lừa và bị giết trong chiến khu Nam Bộ năm 1947. Lănh tụ Cao Đài, ông Nguyễn Văn Sâm, th́ bị Việt Minh giết ngay khi họ vừa cướp chính quyền năm 1945. C̣n Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, giáo chủ Cao Đài, th́ bị Pháp đày ra đảo Comores từ 1940, mới được thả về năm 1946 và vẫn bị Pháp canh chừng. Những trí thức nhân sĩ có thể làm lănh tụ hàng nh́ th́ hoặc là đă chạy theo Việt Minh hoặc là giữ thái độ trùm chăn, cầu an, chờ thời. Ngay như ông Ngô Đ́nh Nhu có thù máu với Cộng Sản mà cũng chỉ t́m đường trốn về Thanh Hóa rồi qua Lào để cuối cùng về sống an nhàn ở Đà Lạt, và làm một chính khách xa lông đợi thời. Ông Ngô Đ́nh Diệm, lănh tụ của phe Công giáo, là người có tên tuổi thế mà sau khi được ông Hồ Chí Minh trả tự do, dù có mối thù không đội trời chung với ông Hồ Chí Minh và Việt Minh, cũng chỉ biết về sống tại Sài G̣n, Đà Lạt, trong vùng Pháp chiếm đóng cho đến cuối năm 1947 mới qua lại Hồng Kông để yết kiến Cựu Hoàng mong chống Cộng bằng giải pháp Bảo Đại. Theo giáo sư Buttinger, th́ chính ông Ngô Đ́nh Diệm lần đầu tiên đă đứng chung trên một mặt trận do ông Lê Văn Hoạch thành lập vào năm 1947, gồm nhiều nhân vật Cao Đài, Ḥa Hảo, Việt Quốc, Đại Việt, Công giáo và một số người Phật giáo để ủng hộ vua Bảo Đại. Buttinger lại c̣n cho biết rằng trước khi Cựu Hoàng Bảo Đại thành công trong việc xây dựng những cơ sở pháp lư và các điều kiện chính trị thuận lợi cho một nước Việt Nam qua thỏa ước Vịnh Hạ Long vào tháng 5 năm 1948, ông đă phái ông Ngô Đ́nh Diệm về Sài G̣n ngày 30 tháng 3 năm 1948 để thương thuyết trước với Pháp mà ông Diệm không hoàn thành nổi công tác này.
    Ngoài các lănh tụ trên đây c̣n phải kể đến bác sĩ Phan Quang Đán và Đức Giám mục Lê Hữu Từ.
    Trong những năm đói (trước và sau năm Ất Dậu), bác sĩ Đán cầm đầu phong trào khất thực để cứu giúp đồng bào. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông dám ngang nhiên thành lập Phong Trào Ngũ Xă gần hồ Trúc Bạch Hà Nội để chống lại lực lượng vơ trang Việt Minh. Phong Trào Ngũ Xă không theo Pháp, không dựa vào quân đội Trung Hoa, chỉ là một phong trào nhân dân chống Cộng. Tờ báo Thiết Thực của Phong Trào đă gây phấn khởi cho nhiều người quốc gia, đă phổ biến vào tận miền Trung. Khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp xảy ra vào tháng Chạp năm 1946 th́ Phong Trào mới tan ră.
    C̣n Giám mục Lê Hữu Tư, lúc đầu làm Cố vấn Tôn giáo cho ông Hồ Chí Minh nhưng sau đó đă viết thư luân lưu lên án Việt Minh là Cộng Sản, rồi giữ vùng Phát Diệm trong thế tự trị cho đến ngày Quốc trưởng Bảo Đại về nước cầm quyền năm 1949, ông mới xin sát nhập vùng Phát Diệm vào cộng đồng quốc gia và triệt để ủng hộ Quốc trưởng.
    Nêu tên tuổi và trường hợp tất cả các lănh tụ ra, nhất là trường hợp ông Ngô Đ́nh Diệm, người sau này truất phế vua Bảo Đại, là để chứng minh rằng ông Bảo Đại quả thật là một con cờ, nhưng là một con cờ cần thiết độc nhất cho giai đoạn 1948-1954 không ai thay thế được. Chỉ tiếc rằng con cờ đó đă không được lực lượng quốc gia sử dụng một cách khôn khéo. Nếu không muốn nói rằng ông Bảo Đại là vị cứu tinh cho phe quốc gia trong giai đoạn và bối cảnh đất nước lúc bấy giờ th́ ít nhất ông cũng đă có công làm kẻ lót đường cho người quốc gia có đất đứng để tiếp tục cuộc hành tŕnh chống Cộng sau 1954. Vua Bảo Đại đă đóng đúng vai tṛ cần thiết và bi hùng của ông trong một giai đoạn lịch sử khó khăn đến vậy.
    Mặc dù mang tiếng là người thân Pháp, nhưng trong thời gian làm Quốc trưởng, ông vẫn tỏ rơ phong cách và thái độ một lănh tụ quốc gia. Ông trọng dụng những phần tử cách mạng, các nhân sĩ có thành tích yêu nước, các nhân tài trí thức, ông không phân biệt chia rẽ đảng phái, không kỳ thị tôn giáo. Gia đ́nh của ông không mang tiếng tham nhũng khủng khiếp như các chế độ sau ông. Ông đă tỏ rơ tư thế một vị Quốc trưởng của một quốc gia độc lập, làm cho chính tướng De Lattre De Tassigny vừa là Cao ủy vừa là Tổng Tư lệnh quân đội Pháp, tuy hết sức bất măn nhưng vẫn kính trọng.
    Sau năm năm lănh đạo quốc gia, ông Bảo Đại đă xây dựng được những ǵ? Theo ông Đoàn Thêm th́ chế độ Bảo Đại đă để lại nhiều thành quả, nhiều định chế mà giá trị vẫn c̣n được các chế độ sau mặc nhiên thừa nhận, nghĩa là thừa hưởng, và duy tŕ như:
    - Từ 1949, sau khi được một số khá đông cường quốc công nhận, Việt Nam mới bước chân ra chính trường ngoại giao và tuy chưa thể vào Liên Hiệp Quốc v́ sự ngăn trở của Nga Sô, nhưng cũng đă được gia nhập vào 35 cơ quan quốc tế.
    - Hoa Kỳ đặt phái bộ viện trợ quân sự từ ngày 6-3-50 và kư hiệp ước tương trợ với Việt Nam ngày 7-9-1951, đồng thời viện trợ kinh tế và cứu trợ cho Việt Nam.
    - Quân đội quốc gia được thành lập và phát triển mau lẹ: Từ 5 tiểu đoàn (1950) lên 26 tiểu đoàn (1951) và vào năm 1953 gồm 167.000 binh sĩ với 3.500 phụ lực quân. Các cấp chỉ huy được đào tạo tại các trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, khai giảng ngày 5-11-1950, trường Cao Đẳng Vơ Bị thành lập ngày 25-6-1950, trường Quân Y ngày 7-8-1950, trường Không Quân ngày 24-6-1951, và Hải Quân ngày 1-1-1952. Các tổ chức khác cũng được thành lập như Ṭa Án Quân Sự, Bộ Tổng Tham mưu, nhiều luật lệ quân sự cũng được ban hành như: Quy chế quân đội, chế độ quân dịch, thể thức sát nhập các lực lượng giáo phái vào quân đội quốc gia (10-4-1954).
    - Tổ chức Tư Pháp và các ṭa án.
    - Hành chánh địa phương.
    - Giáo dục, Văn hóa: Trường đại học Văn Khoa, Sở Bảo Tồn Cổ Tích, trường Cao Đẳng Sư Phạm, Văn Hóa Nguyệt San.
    - Kinh tế, xă hội: Bộ Luật Lao Động, Bộ Luật Cải Cách Điền Địa.
    - Các tổ chức chuyên môn: Viện Thống Kê, Việt Nam Thông Tấn Xă, Quốc gia Kiến Ốc Cục và Vé số Kiến Thiết Quốc Gia, Sở Du Lịch Quốc Gia, Công ty Hàng Không Việt Nam, trùng tu Điện Lực Cuộc, trường Quốc Gia Hành Chánh.
    - Quy chế Nghiệp Đoàn, Chế độ Bảo vệ quyền phát minh và sáng chế công nghệ, chế độ Phim ảnh và Quay phim.
    - Các thiết bị và Quy chế quan trọng: Bảo Quốc Huân Chương, Anh Dũng Bội Tinh, ngày Phụ Nữ Việt Nam, Quy Chế Công Chức Quốc Gia, Quy Chế các Hiệp Hội, Quy Chế Thể Thao, Thanh Niên, Quy Chế Hàng Hải, Chế độ Thuê nhà và quyền lưu cư. Bộ Luật thuế Trực thu và Gián thu.
    Ông Đoàn Thêm cho rằng người ta đă vô t́nh hay hữu ư thổi phồng những khuyết điểm, những thất bại của ông Bảo Đại một cách quá đáng, đă mô tả cuộc đời và sự nghiệp của ông Bảo Đại một cách lố lăng mà không nghĩ đến hoàn cảnh khó khăn của đất nước dưới thời ông Bảo Đại, so với hoàn cảnh dễ dàng hơn của thời ông Ngô Đ́nh Diệm. Thậm chí người ta đă dễ dàng gắn cho Bảo Đại là trụy lạc dâm ô, trong lúc Bảo Đại lấy vợ hầu chỉ là để đền ơn trả nghĩa cho một người đàn bà đă từng giúp đỡ ông trong khi ông đang bôn ba ở Hồng Kông.
    Theo ông Đoàn Thêm, người ta chỉ trích vua Bảo Đại mà quên đi công lao to lớn của ông ta. Trước hết, nếu không có vua Bảo Đại th́ người Quốc gia chưa chắc đă c̣n hiện diện trong cuộc tranh chấp Pháp – Cộng, lại nữa, trong lúc đầu, tuy ông chỉ giành được một nền độc lập trong Liên Hiệp Pháp, nhưng trước khi Việt Nam bị chia đôi bởi hiệp ước Genève, ông đă cương quyết đ̣i cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập và b́nh đẳng với nước Pháp qua hai Hiệp ước Độc lập (Traité d’Indépendence) và Hiệp ước Liên kết (Traité d’Association). Nhờ hai hiệp ước đó mà ông Ngô Đ́nh Diệm thừa hưởng chủ quyền trọn vẹn trên một nửa đất nước sau này.
    Nói tóm lại, sau 8 năm đấu tranh và 5 năm lănh đạo, vua Bảo Đại đă tạo dựng cho phe quốc gia, phe chống Cộng ba thành quả cơ bản to lớn: (1) Một quốc gia với thế đứng hợp pháp, (2) Một nền độc lập và thống nhất toàn vẹn, (3) Nhiều cơ sở về ngoại giao, hành chánh, kỹ thuật, văn hóa làm nền tảng cần thiết cho sinh hoạt quốc gia.
    So sánh hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm, ông Đoàn Thêm sau khi nói về công tội của vua Bảo Đại, đă chê trách ông Diệm nhiều điều mà điều quan trọng nhất là thiếu đạo đức và tài trí để làm một nhà lănh đạo.
    Phê phán những nhà lănh đạo là một việc làm hết sức tế nhị mà nếu nhầm lẫn th́ hậu quả sẽ không những nguy hiểm cho ḿnh mà c̣n cho hậu thế nữa. Muốn tỏ tấm ḷng vô tư và tinh thần khách quan của ḿnh, sau khi nêu lên những sự kiện lịch sử, những dẫn chứng rơ ràng, ông Đoàn Thêm đă đưa ra những phân trần để tránh ngộ nhận: “… Song đối với kẻ đem tâm thành mà t́m hiểu việc nước, thiết nghĩ “b́nh tĩnh nhận xét” là điều kiện ưu tiên để tới gần sự thật. Nên tôi đă lặng lẽ kiểm điểm một ḿnh công cuộc của ông (Bảo Đại) và của một lớp người, để tự soi sáng cho tôi. V́ đối với bất cứ nhân vật nào, chánh thể nào, tôi không muốn nghĩ ác v́ tưởng lầm, hoặc nói ác v́ không biết rơ” [22].
    *Ông Đoàn Thêm là một nhà hành chánh kinh nghiệm và có thực tài, một công chức cao cấp đă từng làm việc với nhiều chế độ từ thời Pháp thuộc, qua chế độ Quốc trưởng Bảo Đại, đến chế độ Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Ông không thuộc một đảng phái nào mà chỉ là một công chức tận tâm và kỷ luật, liêm chính và cương trực, đứng trên những mâu thuẫn phe phái để ghi nhận các biến cố lịch sử. Nhưng quan trọng hơn cả, ông cũng là một nghệ sĩ đa tài, cả văn lẫn thơ lẫn hội họa, vốn là những chất liệu hun đúc nên một tâm hồn luôn luôn đối nghịch với cái ǵ xấu xa, bất thiện. Tôi không quen biết nhiều ông Đoàn Thêm nhưng vốn có ít nhiều hiểu biết về ông Bảo Đại, về ông Ngô Đ́nh Diệm và đă từng sống và làm việc dưới cả hai chế độ, nên tôi nhận thấy tác phẩm “Những Ngày Chưa Quên” sẽ giúp ích rất nhiều cho những ai muốn biết về giai đoạn lịch sử 30 năm Việt Nam chiến tranh Quốc Cộng, viết bởi một người quốc gia mang nhiều tâm tư cố t́m hiểu lịch sử. Ông không cố t́nh bóp méo lịch sử như ông Cao Thế Dung hay bà Margueritte Higgins, ông không lợi dụng viết hồi kư để xuyên tạc và bôi lọ người khác như Linh mục Cao Văn Luận, ông Nhị Lang, ông Nguyễn Văn Chức, ông* Nguyễn Trân…
    Để tóm tắt lại trường hợp của ông Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, của chế độ quân chủ tại Việt Nam, th́ kể từ lúc tức vị (1932) cho đến năm bị truất phế (1955) là 24 năm chịu trách nhiệm trước quốc dân và trước lịch sử, ông Bảo Đại quả thật đă mang đầy đủ vóc dáng của một vị nguyên thủ quốc gia vào lúc mạt vận, nghĩa là có đầy đủ khuyết điểm của một vị lănh đạo không có thực quyền và không có thực tài để hoán chuyển định mệnh. Nhưng ông cũng có đầy đủ những công lao của một nhân vật lịch sử trong giai đoạn giao thời, là xây dựng cơ sở cho giai đoạn kế tiếp chứ không đạp đổ những nền móng cơ bản để gây xáo trộn cho kẻ thừa kế.
    Khi công dân Vĩnh Thụy đứng dậy, ông đă chứng tỏ được ḷng yêu nước và ư thức trách nhiệm đối với cộng đồng dân tộc và tiền đồ tổ quốc. Khi trở thành kẻ thất bại (dù là thất bại trước đối thủ thực dân Pháp hay cựu thần Ngô Đ́nh Diệm) ông vẫn giữ được cái phong thái lănh đạo trong cách hành xử chững chạc cũng như trong thái độ quân tử an nhàn. Giai đoạn nào th́ có nhân vật đó, chỉ khen vua Bảo Đại mà không biết đến tội của ông hay chỉ chê mà không biết đến công của ông th́ quả thực bất công. Tôi không có khả năng và cũng không có ư định phê phán ông, nhưng chẳng qua v́ muốn bắt chước người xưa, nói thẳng những điều ḿnh biết để đóng góp vào sự thật cho những người làm công việc viết sử sau này mà thôi.
    V́ thật ra, có lẽ chính ông Bảo Đại cũng không màng những lời phê phán đó khi mà hoàn cảnh của ông cũng như của đất nước đă là những thảm trạng tột cùng của sự đau khổ.
    *
    -o0o-
    *
    Song song với nhân vật Bảo Đại trong thời gian đó là nhân vật Ngô Đ́nh Diệm, người từ tư cách là một thần tử của nhà Mạt Nguyễn, với thời thế và nỗ lực, đă đi đến hành động quyết liệt nhất của mối liên hệ vua tôi bằng cách truất phế vị Hoàng đế của ḿnh.
    Ḍng họ Ngô Đ́nh vốn quê làng Xuân Dục, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng B́nh và theo đạo Công giáo La Mă từ thế kỷ thứ 17. Trong giai đoạn quân Pháp đánh chiếm Trung Kỳ và Bắc Kỳ (khoảng 1870), khi phong trào Văn Thân nổi lên chống Pháp cứu nước và phát động chiến dịch chống Đạo th́ ḍng họ Ngô Đ́nh phải bỏ làng Xuân Dục phủ Quảng Ninh mà di cư về làng Đại Phong thuộc huyện Lệ Thủy của cùng tỉnh Quảng B́nh, nơi có nhiều làng Công giáo hơn tại Quảng Ninh.
    Theo những bô lăo ở Quảng B́nh th́ nội tổ của ông Diệm thuộc vào hàng bần dân khốn khổ. Kư giả Robert Shaplen xác định rơ ràng hơn rằng nội tổ của ông Diệm sinh sống bằng nghề chài lưới [23], cho đến đời thân phụ của ông Diệm là ông Ngô Đ́nh Khả, nhờ quân Pháp đánh chiếm và b́nh định được tỉnh Quảng B́nh, nên liên hệ được với các vị Cố đạo để được các giáo sĩ cho đi học chữ Hán và chữ Pháp tại một trường ḍng ở Penang (Mă Lai). Trong đám du học sinh này c̣n có ông Nguyễn Hữu Bài, người Công giáo quê Quảng Trị, một nhân vật thủ đoạn và có cùng một cảnh ngộ thơ ấu bần hàn như cụ Ngô Đ́nh Khả.
    Hai ông Khả và Bài sau khi học xong, được người Pháp đưa về nước và cho làm thông dịch viên ở ṭa Khâm sứ Huế. Thời bấy giờ số người Việt nói và viết được tiếng Pháp c̣n rất hiếm hoi, nhất là ở Trung Kỳ, hai ông lại được Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp đặc biệt nâng đỡ nên đă được các viên chức cai trị Pháp trọng dụng và được triều đ́nh An Nam phong chức tước và phẩm hàm rất mau.
    Năm 1885, khi phong trào Cần Vương ở Quảng B́nh nổi lên pḥ vua Hàm Nghi chống Pháp, ông Ngô Đ́nh Khả được quân Pháp và triều đ́nh An Nam cử giữ chức An Phủ Sứ về tỉnh nhà lo việc b́nh định và chiêu an dưới quyền điều khiển của Đại tá Pháp Duvilllier, ủy viên chính phủ vùng Bắc xứ Trung Kỳ (Commissaire du Gouvernement pour le Nord Annam) [24].
    Ông Thái Văn Kiểm chuyên nghiên cứu về phong thổ miền Trung thuộc nhà Nguyễn, năm 1945, lúc đang ở Quảng B́nh, thâu thập được một tờ báo cáo viết tay của ông Ngô Đ́nh Khả gởi cho công sứ Pháp Quảng B́nh tŕnh bày kết quả của cuộc b́nh định tỉnh này. Năm 1956, nhân làm việc tại Nha Văn hóa Bộ Giáo dục, ông vào dinh Độc Lập tặng tờ báo cáo đó cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Nh́n thấy bút tích của thân phụ, ông Diệm mừng lắm, ngỏ lời khen ngợi và cám ơn, ông Diệm c̣n nói thêm: “Trong việc b́nh định tỉnh Quảng B́nh, thầy tôi không dùng đến quân sự mà chỉ đem theo gạo lên núi chiêu dụ những kẻ chống đối về với chính phủ”. Dù b́nh định bằng vơ lực hay bằng chiêu dụ th́ hành động của ông Ngô Đ́nh Khả cũng là làm tay sai cho Pháp trong việc đàn áp Phong Trào Kháng Chiến chống thực dân xâm lăng của dân tộc.
    Thật thế, ông Ngô Đ́nh Khả không phải làm tay sai hạng thường mà là thứ tay sai cao cấp của Thực dân. Ông Ngô Đ́nh Khả đă từng làm bộ tướng cho đại Việt gian Nguyễn Thân cầm quân đánh phá chiến khu Phan Đ́nh Phùng. Năm 1944, Giám mục Ngô Đ́nh Thục cũng viết thư cho Toàn quyền Decoux kể lể công lao của cha và cũng gọi nhà anh hùng Phan Đ́nh Phùng là giặc. (Xem thư Ngô Đ́nh Thục gửi cho Toàn quyền Decoux ở phần Phụ Lục). Quả thật tội ác của ông Ngô Đ́nh Khả đối với Dân Tộc không bút nào tả hết.
    Năm 1888, vua Đồng Khánh băng hà sau ba năm trị v́ ngắn ngủi, người Pháp thành lập Liên Bang Đông Dương (gồm bốn đơn vị hành chánh: Cochinchine, Annam, Tonkin, và Cambodge. Vương quốc Lào được sát nhập sau đó vào năm 1893) để thống nhất các cơ cấu hành chánh, đồng thời áp lực với triều đ́nh An Nam để lập con của ông Dục Đức là Bửu Lân lên làm vua, hiệu là Thành Thái.
    Vua Thành Thái lên ngôi khi mới 10 tuổi nên triều đ́nh cử hai vị đại thần là Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang Đáng làm Phụ Chánh. Riêng cụ Ngô Đ́nh Khả, nhờ có công dẹp được các cuộc nổi loạn chống Pháp ở tỉnh Quảng B́nh và Hà Tĩnh, nhờ có liên hệ chặt chẽ với các giới chức Pháp cả bên chính quyền lẫn bên Hội Truyền Giáo, nên được cử vào chức Tổng Quản Cấm Thành (Superintendent du Palais) có lẽ là Lưu Kinh Đại Thần và có ảnh hưởng với vua Thành Thái, đồng thời người Pháp cũng vận động đề cử Nguyễn Hữu Bài làm Thượng thư Bộ Công. Hai nhân vật này dù không xuất thân từ nơi khoa giáp và không thăng chức theo hệ thống quan trường mà vẫn một bước nhảy vọt nắm giữ những chức vụ tối quan trọng với những phẩm hàm cao cấp nhất là v́ người Pháp, với sức mạnh toàn quyền trong tay, muốn có những người thân tín là cụ Khả để kiểm soát nhà vua và cụ Bài để kiểm soát triều đ́nh.
    Tuy nhiên, trong lúc con đường quan trường của ông Nguyễn Hữu Bài kéo dài cho đến thời già cả (trên 70 tuổi), mà chức vụ cuối cùng là Thượng thư đầu triều hàm Vơ Hiển Đại học sĩ, th́ công danh của ông Ngô Đ́nh Khả lại nửa đường đứt gánh. Theo Tổng thống Diệm kể lại cho kư giả Shaplen trong một cuộc phỏng vấn dài sáu tiếng đồng hồ tại dinh Gia Long năm 1962, th́ thân phụ của ông mất chức v́ người Pháp nghi ngờ cụ Khả có liên hệ đến một âm mưu chống Pháp, v́ cụ Khả đă chống lại việc người Pháp đă truất phế và đày vua Thành Thái [25]. Nhưng theo bạn của tôi và những vị cựu quan lại, những nhân vật thuộc Nguyễn Phước tộc kể lại, th́ việc ông Khả bị mất chức thật ra là v́ lúc c̣n làm Cận thần, ông đă tự động dựng một ngôi giáo đường trong Hoàng thành trái với bầu không khí và màu sắc hoàn toàn Tam giáo nơi cung cấm của nhà Nguyễn, và bất cần những lời phản đối của các vị quan khác và Hoàng gia. V́ thế mà nhân cơ hội vua Thành Thái bị truất phế, triều đ́nh hạch tội ông Ngô Đ́nh Khả đă khinh mạn Hoàng gia, giáng ông xuống ba cấp và cho về hưu non. Thật ra th́ vụ xây ngôi giáo đường chỉ là một cái cớ, cái cớ cuối cùng và cụ thể nhất của một chuỗi dài những mâu thuẫn và xung khắc của nhiều thế lực. Nguyên Khâm sứ Trung kỳ lúc bấy giờ là Lévêque, thuộc hội Tam Điểm (Franc–Macon), có khuynh hướng chống sự bành trướng quyền lực của Hội Thánh Công giáo La Mă và cũng thường có thái độ khinh mạn nhà vua và triều đ́nh An Nam. Với tư cách là Khâm sứ Trung kỳ, y có toàn quyền trực tiếp hay gián tiếp quyết định bổ nhiệm, thay đổi hay cách chức các quan lại An Nam [26]. Ông Ngô Đ́nh Khả hội đủ hai yếu tố cho Lévêque khinh ghét: “quan lại” và “Công giáo”, lại không được các bạn đồng liêu bênh vực, nên khi vua Thành Thái bị truất phế ông không c̣n tư cách ǵ để làm Cận thần, và Hội Truyền Giáo cũng không đủ sức mạnh để cứu ông khỏi bị Lévêque vận động với một triều đ́nh sẵn sàng đuổi ông về.
    Do đó, ngôi giáo đường trong Đại Nội chỉ là cái cớ có thật cuối cùng. Và cũng do đó, tiếng đồn rằng v́ “Đày vua không Khả” nên ông Ngô Đ́nh Khả bị mất chức cũng chỉ là tiếng đồn được phóng đại thêm v́ rơ ràng chính cụ Nguyễn Hữu Bài, vừa không chịu kư giấy đào mồ vua (Đào mả không Bài), lại vừa công khai bênh vực Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, một hoàng thân quốc thích có khuynh hướng và hành động chống Pháp rơ rệt, mà vẫn thăng quan tiến chức mau lẹ và nắm giữ giềng mối triều đ́nh mấy chục năm trời.
    (Tuy nhiên, phải nói thêm rằng quyết định ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để của ông Bài lúc đó, và cả ông Diệm của những năm 40 sau này, chỉ phản ánh chiến lược chính trị của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại muốn phục hồi chi hệ của Hoàng Tử Cảnh, vị hoàng tử đă được Giám mục Pigneau de Béhaine đỡ đầu theo Công giáo La Mă và bị vua Minh Mạng biếm vị từ cả gần thế kỷ rưỡi trước).
    Những “tiếng đồn” loại “đày Vua không Khả, đào mả không Bài” nầy cần phải được kiểm chứng bằng những tài liệu khả tín chứ không thể mù quáng tin theo một cách nhẹ dạ được. Cũng như trường hợp Linh mục Trần Lục dưới thời Pháp thuộc được vinh danh là “Nam Tước, Quốc Công”, là “Phúc tinh, anh hùng vang danh bốn bể”, lại được đặt tên cho một trường Trung học dưới thời đệ I Cộng Ḥa. Chỉ đến sau này, nhờ tài liệu như cuốn “Những trận đánh Pháp” của học giả Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, “Thập Giá và Lưỡi Gươm” của Linh mục Trần Tam Tĩnh, ta mới biết rơ Trần Lục là một tên Việt gian đă từng bị cụ Phan Đ́nh Phùng lúc c̣n làm Tri phủ Yên Khánh, nọc ra đánh tại Phát Diệm. Trần Lục đă cùng với 5.000 giáo dân Phát Diệm, Kẻ Sở, Điền Hộ, Bố Xương giúp quân Pháp đánh phá chiến khu Ba Đ́nh của anh hùng Cần Vương Đinh Công Tráng (xin xem thêm “Hội hè của đồng bào Thiên Chúa giáo” của giáo sư Toan Ánh trong phần Phụ Lục).
    Theo cụ Trương Văn Huế, một nhân sĩ lăo thành Công giáo tại Phú Cam, nơi gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Khả trú ngụ, th́ khi bị giáng chức rồi về hưu sớm, cụ Khả thường mặc đồ nâu, quần ống cao ống thấp, chân đi guốc gỗ và thường đến ngồi trước sân nhà thờ Phú Cam, miệng lẩm bẩm chửi bới đích danh các vị quan tại triều. Thái độ hằn học một cách sống sượng với các vị đại thần này phản ánh một t́nh cảm căm thù v́ quyền lợi mất mát, đường tiến thủ bị bế tắc hơn là, và đáng lẽ là, một t́nh cảm kiêu hănh v́ giữ tấm ḷng trung trinh không chịu ... đày ải vị vua của ḿnh.
    Khi về hưu, cụ Ngô Đ́nh Khả tạo được một ngôi nhà lầu tại Phú Cam, một cảnh vườn khá rộng và mấy mẫu ruộng ở cánh đồng An Cựu gần thành phố Huế. Cụ Khả có chín người con: 6 trai và 3 gái. Con trai là các ông: Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Thục, Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn và Ngô Đ́nh Luyện. Ba người con gái là các bà Ngô Thị Giao, Ngô Thị Hiệp, thân mẫu của đức cha Nguyễn Văn Thuận, và bà Ngô Thị Hoàng, nhạc mẫu của Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Trần Trung Dung.
    *
    -o0o-
    *
    Ông Ngô Đ́nh Diệm sinh tại Huế ngày 3 tháng Giêng năm 1901 (Canh Tư), ra đời khi thân phụ c̣n làm quan tại triều, nhưng lại trưởng thành khi gia đ́nh không c̣n được sung túc v́ cụ Khả đông con mà lại về hưu sớm. Lớn lên, ông Diệm vào học trường tư thục Công giáo Pellerin tại Huế, đỗ bằng Thành Chung tức là bằng Trung Học Đệ Nhất cấp sau này, rồi thi vào trường Hậu Bổ dưới triều vua Khải Định, một vị vua nổi tiếng Việt gian.
    Trường Hậu Bổ là hậu thân của trường Quốc Tử Giám, nơi đào tạo ra ngạch thuộc quan để phục vụ cho Nam triều. Từ thời vua Duy Tân trở về trước, trường Quốc Tử Giám ở Huế c̣n giữ được ít nhiều truyền thống và thực chất giai đoạn mà định chế này mới được thiết lập lần đầu tiên vào đời vua Lư Nhân Tông (1072–1127) tại kinh thành Thăng Long. Nghĩa là trường được điều khiển bởi một vị đại khoa giáp mang chức Tế Tửu, và sĩ tử cũng là hạng người đă đỗ đạt, khi ra trường sẽ là “dân chi phụ mẫu”. Trái lại, dưới thời vua Khải Định (1916–1925) kể từ năm 1918, trường Hậu Bổ do một viên Công Sứ Pháp được ṭa Khâm sứ ủy nhiệm làm hiệu trưởng, dưới quyền viên Công sứ th́ có vị Thượng thư Bộ Học (Nam triều), Thủ hiến học chánh Trung Kỳ (người Pháp) và Học chính hội lư (người Pháp) là các hội viên lo việc quản trị và giáo huấn của nhà trường. Nói cách khác, trường Hậu Bổ dưới triều Khải Định đă bị Tây hóa trong tinh thần Bảo Hộ, và không c̣n cái nho phong của các thời tiền triều mặc dù vẫn c̣n một số các ông Tú, ông Cử Hán học theo đ̣i hoạn lộ qua con đường trường Hậu Bổ.
    Muốn được vào trường Hậu Bổ thí sinh chỉ cần có học lực ngang cấp tiểu học nhưng phải có tŕnh độ căn bản về Hán học. Thời gian học là ba năm có nghỉ hè, nghỉ lễ theo niên khóa của các trường phổ thông. Khi ra trường, thí sinh phải có tŕnh độ ngang với cấp bằng trung học đệ nhất cấp, ngoại trừ có thêm môn Kinh Nghĩa, thi phú và môn luật bằng Hán văn. (Xem thêm “Văn Hóa nguyệt san” do các học giả Nguyễn Khắc Kham, Thái Văn Kiểm, Bùi Đ́nh San, Nguyễn Văn Ninh biên tập, hiện lưu trữ tại thư viện Sorbonne, Paris).
    Đọc trong Tản Đà bát cú bài thơ Thi Hậu Bổ Trượt Kỳ Vấn Đáp của Nguyễn Khắc Hiếu nói về trường Hậu Bổ Nam Định ở Bắc, một trường đào tạo ngạch quan lại đồng thời với trường Hậu Bổ ở Huế, ta sẽ có một khái niệm rơ ràng hơn về giá trị của một ông quan thời vua Khải Định như thế nào:
    Hồi Pháp thuộc lập trường Hậu Bổ, trường Nam Định học chữ quốc ngữ, chữ Pháp, qua lớp dự bị thi vào lớp chánh ngạch, học ba năm ra làm quan. Những người muốn đỗ phải đút lót mới được. Tản Đà tiên sinh v́ không có tiền lo lót nên làm ra bài thơ sau đây:
    *
    THI HẬU BỔ TRƯỢT KỲ VẤN ĐÁP
    *
    Mỗi năm Hậu Bổ một kỳ thi,
    Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi,
    Cử, Tú, Ấm sinh vài chục kẻ,
    Tây, Ta, Quốc ngữ bốn năm kỳ.
    Đĩa, nghiên, lọ mực, b́a bao sách,
    Thước kẻ, đinh găm, ngọn viết ch́.
    Lại đến o-ran là bước khó,
    Ḿnh ơi! Ta bảo có th́ đi.
    *
    Rơ ràng vua Khải Định, một ông vua nổi tiếng Việt gian, đă cùng với thực dân Pháp trong buổi giao thời Hán–Việt Tây–Ta lẫn lộn, cải đổi trường Quốc Tử Giám, nơi đào tạo quan trường theo tinh thần “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”của đạo lư Khổng Mạnh thành ra trường Hậu Bổ, nơi khai sinh một lớp người thừa hành của Nam triều để phục vụ cho bộ máy cai trị của chế độ bảo hộ Pháp. Từ thời đó cho đến ngày tàn của thực dân vào năm 1945, việc thăng quan tiến chức của một ông quan An Nam tùy thuộc vào ba yếu tố: Thứ nhất là phải có ḷng trung thành tuyệt đối với mẫu quốc Pháp, lập được nhiều công trạng cho chế độ Bảo Hộ. Thứ hai là phải có liên hệ thân thiết với nhà vua và các vị đại thần. Thứ ba là phải có tiền lo lót cho cấp trên. Lịch sử c̣n cho thấy dưới triều vua Khải Định có nhiều ông quan dâng vợ dâng con gái cho quan Tây để mau lên chức, mau làm quan to.
    Lẽ dĩ nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt mà một vị quan, dù ở bậc Thượng thư hay chỉ có hàm Cửu phẩm, thu đạt được địa vị của ḿnh không nhờ ba yếu tố kể trên mà nhờ chính thực tài và sự ngay thẳng của ḿnh. Tuy nhiên, biệt lệ này quả thật hiếm hoi.
    Ông Ngô Đ́nh Diệm xuất thân từ trường Hậu Bổ đó và được bổ làm quan dưới triều Khải Định. Cụ Tôn Thất Toại, vị Thượng thư trí sĩ bạn vong niên của kẻ viết, từng hoạt động hăng hái cho Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ở Nha Trang và là cựu Dân biểu khóa I thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, cho biết rằng Cụ và hai ông Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Diệm vốn là bạn chí thân cùng học ở trường Pellerin và trường Hậu Bổ. Nhưng khi học xong th́ tất cả các sĩ tử chỉ được bổ vào các ngạch tập sự, riêng một ḿnh ông Diệm là được bổ ngay vào chức Tri huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên. Trong ngạch quan lại thời đó, mỗi chức vụ phải qua ba bốn cấp, mỗi cấp phải có ít nhất ba năm thâm niên, thế mà ông Diệm lại thăng quan tiến chức mau như diều gặp gió, một đặc cách vượt bực không ai có trừ những nhân vật làm quan tắt như ông Phạm Quỳnh chẳng hạn. Năm 23 tuổi, ông Diệm làm tri huyện Quảng Điền (Thừa Thiên), lên tri phủ Hải Lăng (Quảng Trị), lên Quản Đạo Ninh Thuận (tỉnh trưởng hạng nhỏ), lên Tuần Vũ B́nh Thuận (tỉnh trưởng hạng trung). Năm 1933, lúc ông mới 32 tuổi, được thăng lên Thượng thư Bộ Lại, nghĩa là chức vụ đầu triều đứng trên hết hàng quan lại An Nam. Chỉ trong ṿng mười năm mà ông Diệm vượt hết mọi nấc thang hoạn lộ, việc mà những quan lại khác phải mất ít nhất là 30 năm trời. Ông Diệm chưa bao giờ ra Hà Nội học trường Luật hay trường Quốc Gia Hành Chánh như văn pḥng báo chí phủ Tổng Thống đă đưa ra để huyễn hoặc một số kư giả Việt Nam và ngoại quốc lầm lẫn ghi vào sách báo của họ. Tuy nhiên, ông Diệm là một ông quan nổi tiếng cần mẫn thanh liêm.
    Thời làm quan huyện quan tỉnh, ông bận áo gấm đội nón chóp đeo bài ngà, mỗi lần đi hành hạt thường cỡi ngựa để về các làng quê. Ông vừa là quan cai trị vừa là quan Tư pháp, vừa làm nhiệm vụ cảnh sát giữ ǵn trật tự an ninh cho địa phương do ông cầm đầu dưới sự giám sát của quan công sứ Pháp và theo chánh sách của chế độ bảo hộ Pháp. Nhiệm vụ đặc biệt của ông quan huyện tỉnh lúc bấy giờ là đốc thúc dân chúng trong việc nạp thuế má và ngồi ở công đường xét xử các vụ kiện cáo của dân trong quản hạt. Thời làm quan, ông Diệm đặc biệt có tài khám phá nhiều tổ Cộng Sản hoạt động bí mật nên được chính phủ Bảo Hộ rất tín nhiệm, do đó mà mới 29 tuổi ông đă được thăng lên chức Tuần Vũ B́nh Thuận và sau đó ông thăng chức Thượng Thư Bộ Lại như đă nói trên kia.
    Nhưng trong lúc ông Diệm là một vị quan lại thanh liêm th́ người anh ruột là ông Ngô Đ́nh Khôi làm Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam, một tỉnh lớn thứ hai của triều đ́nh An Nam, của xứ Trung Kỳ, lại là một vị quan mang tiếng tham quan ô lại và có tác phong bê bối. Dư luận c̣n nói rằng ông Khôi tằng tịu với vợ con thuộc cấp. Dư luận c̣n nói rằng sở dĩ ông Khôi thích ăn hối lộ, kể cả những món tiền rất nhỏ, v́ ông rất cần tiền để gởi cho hai người em ăn học ở Pháp. Những dư luận trên đây vẫn c̣n được các bậc cao niên quê tỉnh Quảng Nam hiện nay ở hải ngoại kể lại mỗi khi nhắc đến chuyện xưa cũ nơi quê nhà… Ông Ngô Đ́nh Cẩn, thời ông Diệm chưa cầm chính quyền cai trị miền Nam, có kể lại cho chúng tôi nghe rằng sau khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại, ông Diệm thường vào Quảng Nam ở chơi với ông Ngô Đ́nh Khôi, có lần thấy tư cách bất chính của anh ḿnh ông giận lắm, bèn đi bộ từ Hội An ra Đà Nẵng (40 cây số) lấy tàu hỏa để về Huế rồi gửi thư trách móc anh ḿnh thiếu tác phong của một bậc “dân chi phụ mẫu”.
    Việc thăng quan tiến chức vượt bực của anh em nhà họ Ngô Đ́nh làm cho giới quan trường vừa ganh tức vừa khinh bỉ. Họ làm thơ để chế giễu “vây cánh” nhà Ngô sở dĩ tiến mau trên đường lợi danh là chỉ nhờ thế thần vây cánh:
    *
    ************************ LÀM QUAN NAM TRIỀU
    *
    *********************** Lênh đênh chiếc bách buổi ba đào,
    *********************** Chèo lái xem chừng khó biết bao.
    *********************** Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
    *********************** Quan thầy mấy kẻ nặng hầu bao.
    *********************** Chật trong bể hoạn thêm ḿnh nữa,
    *********************** Theo hết rừng “Hàn” biết kiếp nao.
    *********************** Vây cánh Ngô Đ́nh ghê gớm thật,
    *********************** Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao.
    *
    (ghi chú: “rừng Hàn” là hệ thống phẩm trật “Hàn Lâm” trong ngạch văn giai của quan lại Nam triều).[27]
    Những ai đă từng chịu khó theo dơi không khí và khung cảnh quan trường thời Mạt Nguyễn đều biết rằng tất cả các hàng quan lại, nhất là hàng quan cao cấp từ Tuần Vũ trở lên, không mấy ai thân yêu kính phục anh em nhà họ Ngô Đ́nh. Thời bấy giờ, những ḍng họ có người làm quan to như họ Phạm, họ Vơ, họ Thân Trọng, Hồ Đắc, Trương Như, Nguyễn Khoa, Tôn Thất… đều coi anh em nhà họ Ngô Đ́nh như người xa lạ, nếu không muốn nói là như kẻ thù. Sở dĩ có t́nh trạng đó là v́ ḍng họ Ngô Đ́nh vừa theo đạo Thiên Chúa vừa không xuất thân từ hàng khoa giáp, không có tŕnh độ học vấn cao mà chỉ dựa vào thế lực của các cố đạo và các quan cai trị Pháp để được thăng thưởng mau lẹ. Đă thế, v́ anh em họ Ngô lại khép kín, cao ngạo, nên rất tự nhiên mà giới quan lại ngấm ngầm chia rẽ ra hai phe, phe Phật giáo và phe Công giáo.
    Nếu tổng hợp sự kiện cụ Khả bị triều đ́nh cách chức cho về hưu sớm, sự kiện có những bài thơ phổ biến trong nhân gian để chế giễu “phe” Ngô Đ́nh, với lời phê phán của giáo sư Nguyễn Văn Xuân về tính thâm hiểm của cụ Bài, và nhận định của Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí về con người “thâm” của ông Ngô Đ́nh Diệm [28] ta có thể h́nh dung ra được nếp sống cách biệt với lề lối hành xử thiếu giao cảm của nhà Ngô Đ́nh, cũng như t́nh cảm nghi kỵ và ganh ghét của các bạn đồng liêu lúc bấy giờ.
    Sở dĩ bước đường công danh của anh em ông Diệm ông Khôi thênh thang dễ dàng và thăng tiến mau lẹ là nhờ vào cột trụ Nguyễn Hữu Bài, vị tể tướng đứng đầu triều đ́nh An Nam, người đă được thực dân Pháp hun đúc từ ngày mới đi học ở trường đạo Penang về, từ thời c̣n là thông ngôn ở ṭa Khâm sứ Huế. Vơ Hiển Nguyễn Hữu Bài lại c̣n là nhạc phụ của ông Ngô Đ́nh Khôi và là người đỡ đầu cho ông Ngô Đ́nh Diệm. Chỉ có vị quan đầu triều thế lực tột đỉnh như Nguyễn Hữu Bài, người nắm toàn quyền giềng mối triều đ́nh An Nam trong lúc vua Bảo Đại c̣n bận du học ở Pháp, mới có đủ quyền lực hóa phép cho ông Diệm mang đôi hia bảy dặm trên con đường hoạn lộ, để chỉ trong 10 năm mà từ Tri Huyện lên đến chức Thượng Thư. Cũng chỉ có Nguyễn Hữu Bài mới có đủ uy thế để tiến cử ông Diệm với Bảo Đại làm Thượng Thư Bộ Lại thay thế ḿnh về hưu, dù ông Diệm tuổi c̣n rất trẻ, dù ông Diệm mới chỉ là Tuần Vũ một tỉnh nhỏ. Cái ǵ đă tạo cho ông Nguyễn Hữu Bài uy quyền và sức mạnh để khuynh loát triều đ́nh An Nam lúc bấy giờ? Cái ǵ đă cho phép ông Nguyễn Hữu Bài một bước nhảy vọt lên làm Thượng Thư đầu triều, quán xuyến mọi sinh hoạt triều chính để có thể đạp mọi thủ tục mà nâng người này lên hay đè người khác xuống, trong khi khả năng thực sự và quá tŕnh đóng góp cho triều đ́nh của ông không đáng kể? Câu trả lời mà nhiều người biết gồm hai phần: Phần thứ nhất là cái trạng huống chung của đất nước thời Bảo Hộ mà định chế được gọi là “triều đ́nh” chỉ là một cơ quan bất lực và vô quyền, ai có sức mạnh th́ thao túng được. Và phần thứ hai là chính Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp đă trao cho Nguyễn Hữu Bài cái sức mạnh vô địch của giáo quyền phối hợp với thế quyền của kẻ chiến thắng để, xuyên qua lá bài này, tiến hành chính sách Công giáo hóa Việt Nam (gli affari publici).
    Lịch sử Hội Truyền Giáo Hải Ngoại gắn liền với lịch sử bành trướng của Pháp ở Đông Dương. Một sáng lập viên của Hội, Giáo sĩ Pallu, đă làm gạch nối giữa hai triều đ́nh Pháp-Việt. Giáo sĩ Pigneau de Béhaine sau đó thắt chặt thêm sợi dây liên hệ: sự can thiệp của những thành viên của Hội đưa đến cuộc can thiệp quân sự của Pháp tại Việt Nam.[29]
    Nếu từ thế kỷ thứ tư, lịch sử Giáo Hội La Mă đă có những vị Giáo hoàng như Silvester cấu kết với Hoàng đế Constantine để xây dựng Giáo hội (năm 314) [30], đă có những Giáo hoàng như Léo khi chết để lại một chúc thư (năm 461) rằng “Hội Thánh Công giáo th́ bất phân ly với đế quốc La Mă và khi tốt cũng như khi xấu, chính là đế quốc La Mă” [31]… th́ Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp, trong giai đoạn của một chính quyền Pháp c̣n sống với những ảo tưởng vàng son của một đế quốc oai hùng xa xưa, cũng đă hành xử với đầy đủ uy lực trên mảnh đất Việt Nam nghèo nàn xa xăm để phối hợp chặt chẽ chính sách thực dân (chính trị) với chính sách truyền giáo (tôn giáo).
    Hăy đọc bản báo cáo của toàn quyền Beau gởi tŕnh cho chính phủ Pháp nhân dịp t́m người kế vị vua Thành Thái th́ đủ thấy thế lực của ông Nguyễn Hữu Bài, dù chỉ là một con cờ ủy nhiệm bản xứ, nhưng cũng đă mạnh như thế nào:
    Ngày 3 tháng 9 năm 1907, tôi đến Huế để chứng kiến lễ thoái vị của vua Thành Thái. Viên chánh văn pḥng của tôi liền đi thăm các quan đại thần của triều đ́nh Huế để ḍ la cho biết tư tưởng của họ đối với thời cuộc. Các vị này đều công kích kịch liệt tất cả các nhân vật đưa ra, nhưng họ thận trọng không đề nghị một ai cả, chỉ cùng thốt câu sáo ngữ: “Chúng tôi sẽ đồng ư và hoan nghênh bất kỳ một ông vua nào mà chính phủ Bảo hộ tuyển chọn”.
    Riêng có Nguyễn Hữu Bài, Công bộ Thượng Thư, có nói đến cái tên Cường Để và tỏ thái độ thẳng thắn ủng hộ. Ông ta làm tôi lưu ư v́ ông có đạo Thiên Chúa, ư kiến của ông có thể được đoàn thể thế lực ấy tán đồng [32].
    Nếu “ư kiến của ông có thể được Hội Truyền giáo tán đồng” th́ điều chắc chắn là ư kiến của Hội Truyền giáo cũng sẽ được phản ánh qua lập trường và hành động của ông Nguyễn Hữu Bài, mà chính quyền bảo hộ Pháp cần lưu tâm đến.
    Thế lực Hội Truyền giáo mạnh mẽ như thế để cho ta thấy rơ v́ sao khi mà ông Nguyễn Hữu Bài đă muốn là có thể xây dựng được uy thế cho một Ngô Đ́nh Diệm từ thời ông Diệm c̣n là một sinh viên trường Hậu Bổ, v́ sao vua Bảo Đại phải chấp nhận cho ông Ngô Đ́nh Diệm làm Thượng Thư Bộ Lại, và v́ sao Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp khi đă muốn là có thể sắp đặt được để có một bà Hoàng Hậu theo Công giáo.
    Về triều giữ chức Thượng Thư Bộ Lại, ông Diệm đ̣i hỏi người Pháp phải thực hiện những cải cách xă hội như họ đă hứa với vua Bảo Đại. Những cải cách xă hội đại để gồm có những mục như:
    - Triều đ́nh An Nam có toàn quyền bổ báo, thưởng phạt trong vấn đề nhân sự của Nam triều.
    - Triều đ́nh An Nam có ngân sách riêng, có tài chánh riêng, tư pháp riêng.
    - Mở rộng nền giáo dục.
    - Thiết lập Viện Dân Biểu.
    - Người Pháp phải thực thi đứng đắn Ḥa Ước 1884, nghĩa là Ḥa Ước vẫn c̣n để cho Triều đ́nh An Nam (Trung kỳ) một ít quyền hành nội bộ, dù Ḥa Ước vẫn công nhận nền Bảo Hộ Pháp là điều kiện chính yếu.
    Điều cần phải nói rơ là những dự định cải cách trên đây là do vua Bảo Đại đ̣i hỏi khi ông mới về nước và đă được người Pháp hứa hẹn. Những dự định cải cách này cũng đă được ông Phạm Quỳnh, nguyên chủ bút báo Nam Phong, đề nghị từ năm 1931 khi vua Bảo Đại chưa hồi loan. Ông Phạm Quỳnh c̣n đi xa hơn là đ̣i hỏi việc sát nhập Bắc kỳ và Trung kỳ, vốn là hai xứ Bảo hộ riêng biệt, thành một vương quốc có hiến pháp hẳn ḥi, nghĩa là chủ trương một nước Việt Nam theo chế độ quân chủ lập hiến tự trị trong một Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp [33].
    C̣n ông Diệm th́ vẫn trung thành với chính sách của người Pháp từ ngày ông làm Tri Huyện cho lên đến chức Tuần Vũ tỉnh B́nh Thuận. Cho đến khi được vua Bảo Đại cử làm Thượng Thư Bộ Lại và được chỉ định cầm đầu “Ủy Ban Cải Cách”, ông mới đ̣i hỏi việc thi hành những cải cách mà người Pháp đă hứa với nhà vua.
    Nhưng ông Diệm gặp phải phản ứng quyết liệt của ông Phạm Quỳnh, người của Sở Chính Trị Pháp (Service Civil). Ông thất bại trong việc tranh chấp với ông Quỳnh nên chỉ làm Thượng thư Bộ Lại được 4 tháng th́ phải xin từ chức.
    Để giải thích sự tranh chấp có vẻ khó hiểu của hai vị Thượng thư cùng được đỡ đầu và bảo vệ từ một nguồn thế lực là Pháp, ta cần phải thấy rơ bản chất thật sự của sự cấu kết giữa Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và chính quyền thực dân Pháp. Sự cấu kết đó dựa trên căn bản hỗ tương quyền lợi và quân phân trách nhiệm: Thực dân Pháp phải núp đàng sau những chiếc áo chùng thâm mới có được cái chính nghĩa “nhiệm vụ khai hóa” (mission civilisatrice); các tu sĩ Thiên Chúa giáo phải được che chở bằng súng đạn của bộ máy xâm lược mới b́nh định được các cuộc chống ngoại xâm bản xứ để rao truyền đức tin của Chúa Kitô. Đó là quyền lợi hỗ tương giữa Giáo truyền và Thế quyền mà lịch sử Giáo hội La Mă và đế quốc La Mă đă tiến hành từ thế kỷ thứ 4 và hiện vẫn c̣n là mối đe dọa lớn cho sự sinh tồn của Giáo hội, và chính Đức Giáo Hoàng John Paul II vào năm 1978 đă phải lên tiếng cảnh cáo rằng “khói lửa của quỷ Satan đă tràn vào Giáo hội”[34]. Tuy nhiên, trong tiến tŕnh cấu kết này, vấn đề quân phân trách nhiệm không phải lúc nào cũng minh bạch và được tôn trọng, Giáo hội đă có lúc vượt hạn chế để hành xử thế quyền cũng như các đế quốc cũng đă có lúc uy hiếp Giáo hội để khuynh loát giáo quyền.
    Những va chạm dễ hiểu đó đă chạy dài suốt quá tŕnh phát triển của Giáo hội La Mă và các đế quốc Địa Trung Hải, và ở một kích thước nhỏ hơn nhưng rơ rệt hơn, đă thể hiện rơ ràng trong cuộc xâm thực văn hóa–chính trị trên đất nước ta trong những triều đại nhà Nguyễn. Ví dụ hiển nhiên nhất là chính sách ngu dân của Pháp t́m đủ mọi cách để duy tŕ và khuyến khích các truyền thống và h́nh thái cổ tục của dân ta, trong khi các vị truyền đạo lại t́m đủ mọi cách để đả phá và bài trừ những tục lệ cổ truyền đó của văn hóa dân tộc để dễ dàng len lỏi giáo lư Thiên Chúa giáo vào tín ngưỡng dân ta.
    Chính Giám mục Puginier đă chủ trương trong 30 năm phải thực hiện cho xong công cuộc Công giáo hóa toàn bộ Bắc kỳ để biến miền này thành một tỉnh quận của Pháp gồm toàn người Việt theo đạo Công giáo, trong khi đó th́ Toàn quyền Đông Dương Lanessan lại t́m cách gây cảm t́nh với người Việt, đối đăi với người Việt theo lễ phép và phong tục địa phương, nhiều khi c̣n long trọng đến dự lễ khánh thành các chùa đền, lăng miếu. Chính sách của Lanessan đă làm cho các giáo đoàn e sợ, v́ thế giáo đoàn phải vận động để Lanessan bị mất chức và bị triệu hồi về Pháp.
    V́ các viên chức cai trị Pháp ở Đông Dương không thể chịu đựng măi sự thao túng của các vị cố đạo, nên nhân dịp triều đ́nh An Nam chỉnh đốn nội bộ lúc vua trẻ Bảo Đại mới về nước, họ bèn đặt ông Phạm Quỳnh là người thân tín của họ vào để cản trở những kế hoạch của Hội Truyền giáo mà ông Ngô Đ́nh Diệm là đại diện. Trong cuộc tranh chấp này, Sở Chính Trị không những chỉ phải lo đối phó với ông Ngô Đ́nh Diệm mà c̣n muốn nắm vững bà Nam Phương Hoàng Hậu vốn cũng là con bài của Hội Truyền Giáo, họ bèn đặt cạnh bà một người thân tín khác của họ làm bí thư, đó là ông Nguyễn Tiến Lăng, một người của toàn quyền Robin. Thật ra, không phải chỉ v́ không đ̣i hỏi được những cải cách mà ông Diệm xin từ chức ngay, chứng cớ là hơn mười năm làm quan Huyện quan Tỉnh, ông vẫn thi hành chính sách của người Pháp một cách yên lặng. Đă vậy, trong các cuộc tranh luận công khai, ông Diệm lại bị đàn áp về lư luận cũng như về ngôn ngữ trước tài hùng biện và kiến thức uyên bác của một Phạm Quỳnh vừa là nhà báo vừa là học giả lại kém phẩm hàm hơn ông. Theo dơi cuộc đời chính trị của ông Diệm, ta thấy số mạng đă an bài cho ông luôn luôn nắm giữ những chức vụ chỉ huy, an định ở những vị trí lănh đạo. Làm quan triều Nguyễn hai đời vua, ông không hề giữ những chức vụ thừa hành ở các Viện hay các Bộ mà chỉ làm Tri Huyện, Tri Phủ, Quản Đạo, Tuần Vũ rồi cuối cùng là làm một vị Thượng Thư giang sơn một cơi. Sau này, th́ làm Thủ tướng toàn quyền cho một vị vua biệt xứ để rồi cuối cùng trở thành một vị Tổng thống mà không bị Tư pháp và Lập pháp phân quyền hoặc kiểm quyền. Quan niệm lănh đạo của ông Diệm là luôn luôn đ̣i cho được toàn quyền dù khả năng không đủ để cáng đáng, dù t́nh h́nh phức tạp khó khăn đ̣i hỏi một sự tản quyền và phân quyền hợp lư.
    Thời làm Thủ tướng (1954–55), ông Diệm đ̣i Bảo Đại trao cho ông toàn quyền và thề sẽ bảo vệ lănh thổ toàn vẹn dù sau đó trở nên lúng túng và tê liệt, đành phải bỏ rơi Bắc Việt. Trước đó, thời làm Thượng Thư Bộ Lại (1933), ông cũng đă đ̣i toàn quyền để cải cách xă hội mà không biết rằng những cải cách đó, nếu thực hiện được, chỉ làm đẹp thêm vai tṛ thực dân và làm mạnh thêm vị trí bảo hộ của người Pháp tại Việt Nam. Huống ǵ là người của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp, ông làm sao đi ngược lại được chính sách thực dân của Hội, làm sao lên án và tiêu trừ được những hành vi áp bức quá khích của các vị cố đạo đối với lương dân.
    Trong Việt Nam Pháp Thuộc Sử của giáo sư Phan Khoang, trong Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam của giáo sư Tạ Chí Đại Trường, trong rất nhiều lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu, ta đă biết rơ ràng và đầy đủ việc các vị Cố đạo dựa vào bạo lực của quân đội viễn chinh Pháp để bênh vực con chiên mà áp bức người lương [35]. Ở đây, tôi xin dẫn chứng thêm nhận định của học giả Đào Trinh Nhất khi phê phán những tệ hại do các Cố đạo gây ra:
    Thật thế, các ông ấy giảng đạo, song nếu “con chiên” có chuyện ǵ kiện cáo với lương dân, tức thời các ông mang bộ “áo dài thâm” vào rồi thân hành lên quan Phủ, quan Huyện kêu nài, và dọa nạt quan Phủ, quan Huyện phải xử cho con chiên được kiện. Nếu quan không bênh vực theo ư muốn của các ông th́ các ông hăm dọa lên nói với quan Công sứ t́m cách ám hại. Các ông cố đạo gọi dân đến dụ dỗ, hễ đứa nào chịu theo Đạo th́ lănh sáu đồng bạc. Những đứa đă ngửa tay lấy tiền để đi Đạo th́ c̣n có ra hồn ǵ đâu. Lấy tiền xong chúng về làng dọa nạt anh em đồng bào ḿnh: “Bây liệu hồn, chúng tao đây đă có Tây đỡ đầu, nếu bây dám chửi tao, gây gổ với tao là tao nướng xác của bây và lấy hết của cải của bây”. Đêm tối, chúng nó chụm lửa tự đốt tiêu nhà tranh vách nát của chúng để rồi la làng giá họa vu oan cho bọn Văn Thân, bọn dân lương. Thế là chúng vừa lấy được tiền của nhà nước mà bọn lương dân kia th́ phải tù tội [36].
    Với một t́nh trạng xă hội “quan tha ma bắt” như thế, với một triều đ́nh bạc nhược thối nát như thế, thử hỏi ông Diệm dù có đ̣i hỏi thật sự th́ làm sao ông có thể thực hiện những cải cách được. Dưới thời Cộng Ḥa, là một Tổng thống toàn quyền mà ông c̣n để cho các Linh mục và nhóm Cần Lao khủng bố áp bức lương dân th́ dưới thời Pháp thuộc, ông làm sao có thể chống lại chính sách của Hội Truyền giáo và chống lại cái bổn phận tông đồ của ông, khi chính ông là một vị quan tay sai của Pháp, tay chân của Giáo Hội. Cho nên năm 1933, dù người Pháp có để cho ông Diệm thực hiện những cuộc cải cách th́ ông Diệm cũng chỉ làm được công việc tô vẽ cho chiếc lồng đẹp đẽ hơn, nặn đúc cho cái chậu rộng lớn hơn, nhưng dân Việt Nam vẫn là thứ dân cá chậu chim lồng, thứ dân bị ru ngủ để thực dân Pháp củng cố và kéo dài nền đô hộ. Dưới thời quân Nhật chiếm đóng (1941-45), Toàn quyền Decoux v́ sợ dân ngă theo Nhật Bản đă đưa ra nhiều cải cách rộng lớn như mở viện “Nhân Dân đại biểu”, như b́nh đẳng hóa nhiều ngạch công chức Pháp–Việt, ngạch sĩ quan Pháp–Việt, như mở thêm trường đại học… Thế mà chính phủ Bảo Hộ vẫn vững vàng, dân Việt Nam vẫn là dân thuộc địa cho đến khi có cuộc cách mạng của chính dân Việt nổi lên th́ mới thực sự được giải thoát khỏi gông cùm.
    Như vậy, việc ông Diệm từ chức Thượng thư rơ ràng phần lớn là do áp lực của người Pháp và Phạm Quỳnh. Riêng Bảo Đại, khi cho thu hồi bằng sắc, huy chương của ông Diệm chẳng qua cũng chỉ như ông Diệm, nghĩa là v́ áp lực của thực dân mà chính vua Bảo Đại, trong công việc này, cũng tỏ ra bất măn với người Pháp, tỏ ra luyến tiếc sự ra đi của một trung thần mà ḍng họ đă ba đời khuông pḥ nhà Nguyễn, mà thế hệ anh em ông Diệm đă là thần tử tận tụy với tiên vương. Thế mà sau khi từ chức, ông Diệm lại pḥ Cường Để với ư đồ nhờ quân đội Nhật Bản lật đổ ngai vàng của Bảo Đại. Trước sự phản bội của ông Diệm, vua Bảo Đại vẫn không thù oán, vẫn nhớ đến kẻ cựu thần, hai lần đánh điện vào Sài G̣n mời ông Diệm về lập chính phủ. Không ngờ người Nhật đă bỏ rơi lá bài Cường Để và Ngô Đ́nh Diệm, và do đó không chịu trao điện tín lại làm cho cuộc tái hợp vua tôi không thành tựu, và cũng do đó mà vua Bảo Đại phải mời học giả Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng. Nhưng rồi Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại từ bỏ ngai vàng trở thành một công dân, rồi làm Tối cao Cố vấn cho ông Hồ Chí Minh trong lúc ông Ngô Đ́nh Diệm bị Việt Minh đày ải nơi miền sơn cước, gần biên giới Hoa–Việt.
    Chính trị đúng là tấn tuồng muôn mặt v́ có ai ngờ việc quân Pháp trở lại Việt Nam lại gián tiếp giải thoát được cả cho hai ông Bảo Đại lẫn Ngô Đ́nh Diệm khỏi ṿng kềm kẹp của ông Hồ Chí Minh để Bảo Đại đi Hồng Kông và hai năm sau trở thành đối thủ của ông Hồ, c̣n ông Ngô Đ́nh Diệm trở về Sài G̣n để một lần nữa quay về với vị Vua mà ḿnh đă hai lần bội phản.
    Năm 1947–1948, khi Pháp bỏ giải pháp Hồ Chí Minh để quay về thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo Đại trong âm mưu sử dụng ông vua bù nh́n cũ hầu tái lập nền thuộc địa, th́ ông Diệm, hơn ai hết, đă nhận biết được Bảo Đại chính là người của thời cuộc, chính là tụ điểm cần thiết cho lực lượng quốc gia trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ. V́ vậy, cùng với một số chính khách thuộc nhiều khuynh hướng và tổ chức khác nhau, ông Diệm đă qua Hồng Kông hội kiến và thảo luận với vua Bảo Đại để t́m một giải pháp chống Cộng cứu nước.
    Kết quả của những thảo luận này là sự mâu thuẫn về mục tiêu đấu tranh giữa ông Diệm và các chính khách khác, dù sách lược đấu tranh của cả hai phía hoàn toàn giống nhau. Nghĩa là trong cái thế tam phân lực lượng lúc bấy giờ (Việt Minh kháng chiến, Pháp bảo hộ và Bảo Đại quốc gia), mà lực lượng chính trị chống Cộng của người Việt Nam th́ không có được một hậu thuẫn nhân dân và một sức mạnh vơ lực đáng kể, th́ phương thức đấu tranh c̣n lại duy nhất là những vận động ngoại giao. Tuy nhiên, trong khi các chính khách khác chủ trương vận động cho một nước Việt Nam Độc Lập dần dần th́ ông Diệm chủ trương vận động cho một Việt Nam độc lập theo quy chế Dominion (tương tự như Khối Thịnh Vượng Chung của Anh). Được sự đồng ư của vua Bảo Đại và được ủy thác thi hành công tác này, ông trở về Sài G̣n và bắt đầu vận động theo chiều hướng đó. Nhưng ông đă hoàn toàn thất bại trong nỗ lực này và do đó, quyết định ở lại Sài G̣n để tiếp tục hoạt động chính trị qua các phương tiện truyền thông và báo chí để chống lại vua Bảo Đại và Pháp.
    Năm 1949, ông bảo trợ cho nhật báo Hoa Lư do một người đồng hương là ông Đinh Xuân Tiếu, tự là Thiết Mộc, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút mà hai cộng sự viên thân tín nhất là Huỳnh Hoài Lạc và Phan Xứng ở trong ban biên tập và ông Hồ Sĩ Khuê là giám đốc chính trị. Ông Diệm chủ trương thân thiện với Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và đối lập với các chính khách khác. Đến thời ông Trần Văn Hữu giữ chức Thủ Hiến Nam Phần (1948-49), ông Đinh Xuân Tiếu bị ám sát, nhật báo Hoa Lư tự ư đ́nh bản vĩnh viễn. Song song với nhật báo Hoa Lư, ông Diệm c̣n được sự yểm trợ của tuần báo Tinh Thần của nhóm các bác sĩ Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Huỳnh Kim Hữu.
    Tôi xin mở một dấu ngoặc để nói thêm rằng trụ sở của nhật báo Hoa Lư ở tầng giữa của ngôi biệt thự lầu số 152 đường Général De Gaulle, tức là đường Công Lư sau này. Tầng trên do một người Pháp làm việc cho Pḥng Nh́ Pháp chiếm cứ, c̣n tầng dưới th́ thuộc về văn pḥng và gia đ́nh của luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Lúc bấy giờ v́ cả ông Diệm lẫn luật sư Nguyễn Hữu Thọ đều là những nhân vật chính trị chống Pháp và chống những chính phủ đương thời cho nên hai người liên hệ với nhau rất tương đắc. Nhưng đến năm 1954, 1955, khi ông Nguyễn Hữu Thọ ở trong Phong trào Ḥa B́nh, anh em ông Diệm bắt ông Thọ quản thúc ở Tuy Ḥa, từ đó ông Thọ trở nên con người cho Hà Nội khai thác. Thật ra Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cũng như Dược sĩ Trần Kim Quan và tiến sĩ Âu Trường Thanh (hiện ở Pháp)… không phải là Cộng Sản, nếu anh em ông Diệm khôn khéo hơn, không chủ trương độc tài mà thực hiện một chính sách cởi mở hơn với mọi thành phần quốc gia th́ ắt hẳn ông Nguyễn Hữu Thọ đă không theo Hà Nội làm Chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau này.
    Lại cũng phải nói thêm rằng, sau này, khi ông Diệm làm Tổng thống được một thời gian, hai cộng sự viên của ông trong ban biên tập nhật báo Hoa Lư là các ông Phan Xứng và Huỳnh Hoài Lạc cũng trở thành những phần tử bất măn với chính ông và chế độ của ông. C̣n ông Đinh Xuân Tiếu, người đă hy sinh tính mạng ḿnh cho ông Diệm, có người chú là luật gia Đinh Xuân Quảng th́ cũng trở thành đối lập với ông Diệm nên bị bắt giam một thời gian, sau đó ông lại có chân trong Mặt Trận Dân Chủ Tự Do của bác sĩ Phan Quang Đán nên bị chế độ ông Diệm bắt giam vào tù thêm một lần thứ hai nữa.
    Giữa năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại về nước lănh đạo quốc gia, đặt văn pḥng tại Đà Lạt để tránh cái nghênh ngang của Cao ủy Pháp đang ngự trị tại dinh Norodom Sài G̣n. Không lẽ Quốc trưởng mà lại ở dinh Gia Long, sao c̣n thể thống?
    Người ngoài không ai biết được giữa ông Bảo Đại và ông Ngô Đ́nh Diệm có liên lạc công khai hay bí mật nào không, nhưng có một điều chắc chắn là ông bà Ngô Đ́nh Nhu (vốn ở đường Hoa Hồng tại Đà Lạt) vẫn giao du với Quốc trưởng, đặc biệt là bà Nhu, mỗi tuần ba bốn lần, có khi cả ban đêm, thường đến Biệt điện số Một, nơi Quốc trưởng trú ngụ, để dạy Quốc trưởng đàn dương cầm. Việc này th́ nhân viên văn pḥng đức Quốc trưởng và ngự lâm quân không mấy ai không biết.
    Môi trường và các thế lực chính trị lúc bấy giờ tại Việt Nam quả thật không thuận lợi cho những nỗ lực hoạt động của ông Diệm. Ngoài kẻ thù Cộng Sản đang điều động kháng chiến, các lực lượng chống Cộng khác như chính quyền Pháp th́ không tin tưởng ở ông, chính phủ Việt Nam mà thể hiện rơ ràng là thành phần lănh đạo th́ chống ông, các đảng phái và giáo phái th́ nghi ngờ ông, đại đa số giáo dân và giám mục Lê Hữu Từ cũng không đặt kỳ vọng hay dành thiện cảm cho ông. Triển vọng của ông Diệm để xây dựng một thế đứng chính trị thoát dậy từ một trạng huống như vậy để tiến lên áp lực vua Bảo Đại hầu được ủy nhiệm làm Thủ tướng nắm chính quyền, tỏ ra rất mong manh, nếu không muốn nói là vô vọng.
    Lượng giá đúng như vậy cho nên lối thoát c̣n lại cho ông Diệm để khai thông bế tắc sự nghiệp chính trị của đời ḿnh là nương dựa vào ngoại lực để áp đảo và san định t́nh h́nh trong nước. Đối với ông Diệm, phương thức này không phải là mới mẻ. Thời đô hộ, ông dựa vào Hội Truyền giáo và thực dân Pháp để làm quan; thời Nhật chiếm đóng, ông dựa vào người Nhật để hoạt động, cho nên bây giờ, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Pháp–Việt, với một chính thể quốc trưởng Bảo Đại không thuận lợi cho ông, ông bèn, dĩ nhiên, t́m một thế lực quốc tế khác để nhờ cậy. Cuối năm 1950, ông xuất ngoại măi cho đến năm 1954, nhờ thế lực của Ṭa Thánh La Mă, của Hồng Y Spellman, của phong trào Cộng Ḥa B́nh Dân Thiên Chúa giáo Pháp (MRP), và đặc biệt là nhờ Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp cùng Bảo Đại, và cũng nhờ vận động ngầm của Nam Phương Hoàng Hậu, cuối cùng ông Diệm đă được Quốc trưởng chỉ định làm Thủ tướng.
    Bác sĩ Phan Huy Quát, nguyên Bộ trưởng trong nội các của ông Bửu Lộc, đă cho tôi biết rằng sau ngày Nội các Bửu Lộc họp lần chót ở lâu đài Thorence dưới quyền chủ tọa của Quốc trưởng Bảo Đại, nhiều vị Bộ trưởng đă tỏ ra bất măn về việc đề cử ông Diệm làm Thủ tướng, nhưng vua Bảo Đại đă gạt đi:
    “Tôi là Việt gian của Pháp, Ngô Đ́nh Diệm là Việt gian của Mỹ. Nay thời của Pháp đă hết mà Mỹ th́ đang lăm le nhảy vào Việt Nam, tại sao ta lại không giao chánh quyền cho Ngô Đ́nh Diệm để nhờ Mỹ bảo vệ Việt Nam”.
    Đó là lời nói chí t́nh tha thiết muốn bảo vệ quê hưong trước một t́nh thế khó khăn của một Bảo Đại không hẹp ḥi và cố chấp, mà ngược lại, lại có tinh thần trách nhiệm của một cấp lănh đạo quốc gia. Vua Bảo Đại trao trọn quyền hành chánh và quân sự cho ông Ngô Đ́nh Diệm mà chỉ đổi lấy một lời thề, lời thề trước Chúa, phải bảo vệ quê hương. Lời thề này cũng hàm ư phải trung thành với Quốc trưởng, v́ trước ông Diệm cũng đă có 5 vị thủ tướng nhưng không có một vị nào bị vua Bảo Đại bắt thề trước khi nhận chức vụ và quyền hành cả (ngoại trừ lễ tŕnh diện chính phủ).
    Sau lời thề “tận trung báo quốc” năm 1954 đó, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm lên đường về nước để lèo lái con thuyền quốc gia trước cơn sóng gió, trong lúc Quốc trưởng Bảo Đại c̣n ở lại Pháp để theo dơi cuộc Hội đàm Genève định đoạt số phận đất nước và tranh đấu quyết liệt với Pháp để giành lại trọn vẹn chủ quyền quốc gia [37].
    Như vậy, sau 6 năm trời xa lánh Quốc trưởng mà trong đó có hơn 4 năm “lê gót nơi quê người”, 6 năm xa lánh trong tư thế đối lập với cá nhân vị Quốc trưởng chứ không phải với chế độ của Quốc trưởng, cuối cùng ông Diệm lại quay về để nhận chức Thủ Tướng do chính Quốc trưởng bổ nhiệm. Dù sự bổ nhiệm đó có dưới áp lực của Mỹ th́ nó cũng mang cùng bản chất với những bổ nhiệm dưới áp lực của Pháp của ba vị thủ tướng tiền nhiệm là các ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm. Với tư cách Thủ tướng, ông Diệm đă kư tất cả các văn kiện chính thức dưới ḍng chữ “Thừa lệnh Đức Quốc Trưởng”, ông đă đứng dưới ngọn cờ vàng ba sọc đỏ do vua Bảo Đại khai sinh để chống Cộng Sản, ông cũng đă trông cậy hoàn toàn vào quân đội quốc gia của vua Bảo Đại, lực lượng mà ông từng chê bai là “lính đánh thuê cho Pháp”, để dẹp B́nh Xuyên và các giáo phái hầu xây dựng và củng cố quyền lực lẫn địa vị cho ông.
    Tuy nhiên, cuộc tái hợp giữa Cựu Hoàng và vị cựu thần nhà Nguyễn chỉ là một hệ quả tạm thời của cuộc tranh chấp chính trị Mỹ–Pháp, nên chỉ sau mấy tháng phải tan vỡ. Hồi cuối cùng của tấn tuồng trăm năm đô hộ là những diễn viên tận t́nh múa may cho vừa ḷng các đạo diễn nhiều phù phép: Diễn viên Hồ Chí Minh khoác áo dân tộc, lănh đạo cuộc kháng chiến; diễn viên Bảo Đại đóng vai quốc gia bám vào lực lượng người Pháp để kháng Cộng; và diễn viên Ngô Đ́nh Diệm dựa vào thế lực Mỹ để t́m cách thay thế Bảo Đại trong cuộc tương tranh Quốc–Cộng. Trên mặt lịch sử và hiển hiện trong thực tế, đó là cuộc đấu tranh quyền lực của những tay sai bản xứ, mà dân tộc, đau đớn thay, lại là nạn nhân bất lực bị cuốn hút vào. Trong chiều dài của cuộc đấu tranh sống mái Quốc–Cộng, nếu phía Cộng Sản chỉ có một hậu phương lớn là khối Cộng Sản quốc tế, một cấp lănh đạo duy nhất là đảng Cộng Sản Việt Nam, th́ ngược lại, phía những lực lượng gọi là quốc gia, v́ không đủ tư cách và khả năng vận dụng được sinh lực của dân tộc nên liên tục thay thầy đổi tớ. Trong những năm từ 1953 đến 1956, mà cao điểm là cuộc Trưng Cầu Dân Ư vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đ́nh Diệm phải thay Bảo Đại cho phù hợp với ông thầy Pháp đă nhường quyền cho ông chủ Mỹ trên quê hương ta.
    Cuộc Trưng Cầu Dân Ư do chính quyền đương nhiệm của ông Diệm đứng ra tổ chức và cũng do chính quyền đương nhiệm (dưới h́nh thức Quốc Hội Lập Hiến) kiểm soát. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, dân chúng miền Nam Việt Nam đến pḥng phiếu để chọn lựa giữa hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm theo khẩu hiệu đă được chính quyền và Phong trào Cách mạng Quốc gia giáo dục trước: “Xanh bỏ giỏ, Đỏ bỏ b́”, hoặc:
    *********** Phiếu đỏ ta bỏ vô b́
    *********** Phiếu xanh Bảo Đại ta th́ vất đi.
    Kết quả chính thức cuộc Trưng Cầu Dân Ư được đăng vào công báo là 5.721.735 phiếu đỏ có h́nh ông Diệm (98.2%) và 63.107 phiếu xanh có h́nh vua Bảo Đại (1.1%). Tại Sài G̣n, tổng số cử tri là 450.000 người mà số phiếu bỏ cho ông Diệm lên đến 650.000, nghĩa là số phiếu gian lận là 200.000. Giữa thủ đô Sài G̣n có tai mắt quốc tế mà c̣n gian lận trắng trợn đến thế, thử hỏi tại các tỉnh, tại thôn quê th́ sự gian lận đến mức độ nào?
    Buồn cười là sự gian lận này đă bị đại tá CIA Lansdale, cố vấn Mỹ của ông Diệm, đoán trước thế nào cũng sẽ xảy ra nên đă cảnh cáo ông Diệm. Sau khi giúp ông Diệm đánh dẹp được B́nh Xuyên rồi, Lansdale khuyên ông Diệm phải tổ chức “Trưng cầu Dân Ư” để truất phế Bảo Đại cho có chánh nghĩa. Trước ngày lên đường về Mỹ để lánh mặt cuộc “Tổng Tuyển Cử”, Lansdale c̣n dặn ông Diệm: “Trong lúc đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin ông thắng 99.99 phần trăm, v́ biết đó là âm mưu sắp đặt trước”[38]. Và ông Diệm đă vâng lời để chỉ thắng… 98.2 phần trăm!
    Lansdale bảo ông Diệm nên tỏ ra công bằng và chỉ cần thu lượm được một đa số phiếu tương đối là tốt đẹp rồi, không nên tham lam quá. Nhưng với bản chất muốn cho ḿnh cái ǵ cũng “Nhất”, anh em ông Diệm bèn tổ chức bầu cử gian lận. Khốn nỗi, việc gian lận quá lộ liễu xảy ra ngay tại thủ đô Sài G̣n để cho ngoại giao đoàn và báo chí quốc tế biết được.
    Nói cho cùng th́ nếu không tổ chức bầu cử gian lận chưa chắc ông Diệm đă đắc thắng vẻ vang. Thật thế, nh́n vào bối cảnh đất nước vào mùa Thu 1955, lực lượng nhân dân hướng về ông Bảo Đại vẫn c̣n đông đảo: Cao Đài, Ḥa Hảo, Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Nguyễn Phước tộc, khối người miền Nam không ưa người miền Bắc, khối người miền Nam c̣n nhớ ơn nhà Nguyễn, khối dân tộc thiểu số của Hoàng Triều Cương Thổ, số người thân Pháp v.v… có thể làm lệch cán cân “Trưng cầu Dân Ư”. Nhưng quyền lực trong tay, thủ đoạn gian lận và tiền bạc của Mỹ đă giúp ông Diệm đánh ngă vị cựu Quốc trưởng của ông một cách dễ dàng.
    Tuy nhiên, dù gian lận th́ kết quả cuộc đầu phiếu, riêng đối với ông Diệm, cũng đă giúp ông đạt được hai mục tiêu mà ông đă nhắm đến là tŕnh diện được một bề mặt dân chủ với chính quyền lẫn Quốc hội Hoa Kỳ, và nâng cao uy thế cá nhân của ông lên đến mức độ tôn sùng như một vị cứu tinh anh minh của dân tộc [39]. Riếng đối với dân tộc Việt Nam, ngày 23 tháng 10 năm 1955 có một ư nghĩa lịch sử quan trọng hơn hẳn những mục tiêu chính trị giai đoạn của ông Diệm. Đó là ngày chấm dứt triều đại nhà Nguyễn và chế độ quân chủ tại Việt Nam và trao lại quyền quản trị đất nước để chống Cộng, và quan trọng hơn cả, để xây dựng nền móng cho kỷ nguyên dân chủ sau này. Chính sách và chế độ ông Diệm 9 năm sau đó có làm cho nền móng đó thui chột và có làm cho Cộng Sản mạnh thêm là tội của ông và gia đ́nh ông đă phản bội lại những lá phiếu tín nhiệm của nhân dân Việt Nam thể hiện trong ngày 23 tháng 10 lịch sử này.
    Bên lề của biến cố này có hai nhận định tôi cần ghi lại ở đây như tiếng thở dài chán chường của nhân thế vẫn thường vang vọng trong những nổi trôi của lịch sử. Nhận định thứ nhất về ông Ngô Đ́nh Diệm của Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí chỉ một năm trước ngày trưng cầu dân ư: “Ông Diệm là người đạo gốc, lại mấy đời thờ nhà Nguyễn, chắc chắn là tôn quân bảo hoàng và hết ḷng với Quốc trưởng Bảo Đại, tài cán ông Diệm th́ chưa ai rơ nhưng trung thành với Ngài th́ tôi có thể tin” [40].
    Và nhận định thứ hai về ông Bảo Đại của kư giả Stanley Karnow gần một phần tư thế kỷ sau: “… Khi cử ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo Đại có ngờ đâu chính quyết định của ḿnh lại là một hành động tự ư đào huyệt chôn vùi sự nghiệp chính trị của ḿnh” [41]. Thế là ông Ngô Đ́nh Diệm từ chủ trương cho Việt Nam quy chế “quân chủ lập hiến” với một Bảo Đại là nhà vua, một Ngô Đ́nh Diệm là Thủ tướng, đă đưa miền Nam Việt Nam đến một thể chế “Cộng Ḥa” mà ông là vị Tổng thống đầu tiên, c̣n vị vua đă từng bổ nhiệm ông làm Thủ tướng, từ nay trở thành kẻ lưu vong biệt xứ, ngậm đắng nuốt cay nơi đất khách quê người.
    *
    -o0o-
    *
    Năm 1955, với vị thế là cán bộ chính trị trung kiên của Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm, với tư cách là chủ tịch phong trào Cách Mạng Quốc gia của bốn tỉnh duyên hải miền Nam Trung phần, tôi đă hăng say hoạt động cho chiến dịch truất phế vua Bảo Đại mà tôi cho là không c̣n đủ khả năng lănh đạo cuộc đấu tranh chống Cộng, và không c̣n đủ vóc dáng để khai mở một kỷ nguyên dân chủ cho đất nước nữa.
    Thật ra th́ dân ư đang đ̣i hỏi và hướng về một cuộc thay đổi gốc rễ để đáp ứng với biến đổi mới của thời đại. Nhưng những tài liệu do Bộ Thông Tin Sài G̣n gởi ra cũng như những chỉ thị mật của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia từ Huế gởi vào cho tôi đều chủ yếu tập trung vào việc lên án những tội lỗi của vua Bảo Đại vô đức vô tài… Lên án không chưa đủ, chỉ thị c̣n bắt phải khơi dậy ḷng căm thù ông Bảo Đại trong quần chúng nữa!
    Cả một chiến dịch bao trùm từ Cà Mâu đến Bến Hải do chính quyền yểm trợ trên cả hai mặt nội dung lẫn phương tiện, hung hăng và rầm rộ t́m cách đạp Bảo Đại xuống bùn dơ của lịch sử. Cả nước được vận động để phỉ nhổ Bảo Đại như là một hiện thân xấu xa nhất hơn cả Lê Chiêu Thống và Lê Long Đĩnh. Hai đài phát thanh Sài G̣n và Huế, phối hợp với báo chí trong gần một tháng trời, liên tục mạt sát ông Bảo Đại và thúc dục dân chúng quất roi và đốt lửa những h́nh nộm Bảo Đại. Chiến dịch to lớn của một nhân vật quốc gia chống Cộng (theo Mỹ) để truất phế một nhân vật quốc gia khác cũng chống Cộng (nhưng theo Tây) c̣n tàn độc và khủng khiếp hơn chiến dịch hạ bệ Bảo Đại của kẻ thù là Cộng Sản Việt Minh thời 1948, 1949, khi giải pháp Bảo Đại mới ra đời để đối phó với ông Hồ Chí Minh.
    Sau biến cố đó, nghĩa là khi kết quả chính thức đă được công bố và thể hiện tượng trưng là việc thu hồi chiếc du thuyền của vua Bảo Đại và ngôi biệt thự một tầng ở đường Công Lư của bà Từ Cung, vị Cựu Hoàng âm thầm lui vào bóng tối để kéo dài cuộc sống tha hương, c̣n bà Từ Cung th́ được phép trở về An Định Cung An Cựu ở ngoại Hoàng thành Huế để sống nốt chuỗi ngày già lăo. Trong thảm cảnh đau thương đó, có lẽ đêm đêm bà đă ngậm ngùi ngâm câu thơ cũ, khóc thương cho một triều đại suy tàn để nhớ tiếc triều đại nhà Nguyễn của Bà:
    *********************** Cung miếu triều xưa đâu vắng ngắt,
    *********************** Trăng mờ khắc khoải quốc kêu thâu.
    ************************* ************************* ********* (Chu Mạnh Trinh)*****
    *
    Trong gần mười năm kể từ biến cố đó, cho đến khi ông Diệm bị lật đổ và giết chết năm 1963, rồi ông Hồ Chí Minh từ giă cuộc đời vào năm 1969, quê hương đă trải qua bao độ thăng trầm và dân tộc đă nhận chịu biết bao thống khổ. Gần mười năm đọa đày trong tang tóc và binh lửa mà ba nhân vật lịch sử đă từng hằn in dấu tích của ḿnh trong ḍng sông lịch sử, th́ nay mỗi người một ngả, mỗi người một số phận: Hai ông Hồ Chí Minh và Ngô Đ́nh Diệm đă ra người thiên cổ để lại rất nhiều nợ nần oan trái cho dân tộc, c̣n cựu hoàng Bảo Đại th́ kéo dài cuộc sống tha hương vô vị mà ngày trở về quê cũ chỉ c̣n có thể có trong giấc mộng mà thôi.
    Tôi không dám bắt chước tiền nhân làm công việc “cái quan định luận” về giai đoạn truân chuyên này của lịch sử nước ta, tôi cũng không muốn phê phán ông Hồ Chí Minh v́ cả nước đều đă biết công tội của ông ta, mà tôi chỉ muốn để ḷng ḿnh lắng xuống trong những ngày tháng c̣n lại của cuộc đời biệt xứ, để tự tâm nh́n về hai nhân vật Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm bằng cái nh́n của người không những đă kinh qua cả hai chế độ trong tư thế của một cán bộ đấu tranh, mà c̣n bằng cái nh́n nghiêm khắc của một người dân khốn khổ nhưng vẫn luôn luôn là chủ nhân của đất nước.
    Rất nhiều tài liệu, quá nhiều tài liệu, bằng giấy trắng mực đen hay bằng những chứng tích đau nhục trên các thân thể tàn phế v́ bị tra tấn đă phê phán lên án ông Diệm cũng như chế độ của ông: Lịch sử của sinh viên Việt Nam, lịch sử của các đảng phái Việt Nam, lịch sử của quân đội Việt Nam, lịch sử của các tôn giáo lớn và nhỏ tại Việt Nam, lịch sử của văn học Việt Nam… nói tóm lại lịch sử Việt Nam trước, sau, và trong chín năm ông Diệm cầm quyền đă làm xong cái công việc phán quyết tối hậu và chung kết rồi, nhưng điều đó không ngăn cản nổi những cố gắng tội nghiệp của một thiểu số cuồng tín và ngoan cố vẫn muốn t́m cách đánh tráo lịch sử để phục hồi lại vị trí “cứu tinh dân tộc” và “lănh tụ anh minh” của một ông Diệm đă nằm trong ṿng xích sắt của lịch sử.
    Đến đây không thể không nêu ra hai sự kiện mà nhờ ánh sáng thời gian đă được lột trần ra trước lịch sử để nhân dân đi từ mất niềm tin đến chống đối ông Diệm. Đó là yếu tố Tham Nhũng và yếu tố Dâm Ô được phe nhóm ông Diệm sử dụng để hạ nhục Bảo Đại trong chiến dịch truất phế Cựu Hoàng. Nhưng khi ông Diệm nắm vững được chính quyền rồi th́ nền tham nhũng của anh em ông ta c̣n tệ hại gấp trăm lần thời Bảo Đại. C̣n cái huyền thoại “Cụ Ngô không vợ không con để hiến thân cho đại cuộc” đă trở thành câu chuyện cười ra nước mắt.
    Bêu xấu Bảo Đại nào là dâm ô nào là vợ nọ con kia mà chính ông Ngô Đ́nh Diệm lại dấn thân vào những cuộc t́nh bất chính.
    Ông Phạm Văn Nhu, bạn thân ông Diệm và là cựu chủ tịch Quốc Hội, đă viết trên nhật báo Ḥa B́nh (Sài G̣n) rằng thời gian làm nhà đối lập với chế độ Bảo Đại, chính ông Ngô Đ́nh Diệm đă dan díu với một gái me Tây (xem “Làm thế nào để giết một Tổng thống” của Cao Thế Dung). Nhưng trước đó, vào năm 1945, thời Nhật chiếm đóng, cũng chính ông Ngô Đ́nh Diệm đă lừa gạt một người con gái nhẹ dạ đến mang thai. Năm 1958, hai mẹ con đến Sài G̣n xin gặp nhưng bị ông Diệm từ chối nhất định không thừa nhận đứa con trai huyết thống của ḿnh, và cũng không phụ cấp cho người đàn bà khốn nạn một đồng xu cắc bạc nào.
    Tài liệu này (thư và ảnh) do tướng Trần Văn Đôn sưu tầm được trong Hồ sơ mật dinh Gia Long sau biến cố 1-11-1963, và năm 1989 được ông giao cho một số báo chí đăng tải. Chúng tôi cũng trích đăng vào phần Phụ Lục cuốn sách nầy.
    Về phần Bảo Đại th́ cũng đă có rất nhiều, nếu không muốn nói là quá nhiều tài liệu viết về ông do các bộ phận tuyên truyền của chế độ Ngô Đ́nh Diệm xuất bản. Sau đó th́ cá nhân của ông cũng như vai tṛ chính trị của ông hoàn toàn bị quên lăng. Phê phán về ông, một cách đại chúng và một cách thuận lợi, th́ có những cuốn Một Cơn Gió Bụi của học giả Trần Trọng Kim, Phong Trào Ngũ Xă của Kư giả Phạm Văn Bính, Việt Nam Máu Lửa của nhà cách mạng lăo thành Nghiêm Kế Tổ. Cũng một cách thuận lợi với rất nhiều cảm phục là ư kiến riêng tư mà tôi nghe được của Giám mục Lê Hữu Từ, linh mục Hoàng Quỳnh, của các ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Hữu Phiếm, Trần Quang Vinh, sử gia Phan Khoang v.v… những nhân vật tiêu biểu cho các đảng phái, tôn giáo.
    Về phía quốc tế, dư luận thường gán cho Bảo Đại là ông vua bù nh́n, chơi bời trụy lạc. Những lời phê phán đó không phải là sai lầm nếu chỉ nh́n vào cuộc sống bên ngoài của ông Bảo Đại mà không chịu t́m hiểu sâu sắc tâm tư thầm kín của ông, không chịu phân tách những hoàn cảnh khó khăn mà ông đă phải chịu đựng. Chẳng hạn như dư luận Pháp thường chê trách vua Bảo Đại mà không nhớ rằng chính người Pháp đă không để cho ông tự do hành động, không để cho ông cầm quyền theo ư riêng. Họ không có cái nh́n về con người Bảo Đại như học giả Trần Trọng Kim, như kư giả Phạm Văn Bính đă từng tiếp xúc và sống gần gũi với ông trong những giờ phút phức tạp khó khăn. Tuy nhiên vẫn có những người Mỹ dày công nghiên cứu t́nh h́nh Việt Nam như nhà viết sử Joseph Buttinger hay Thiếu tá Archimedes L. Patti, từng tham dự vào những biến động tại Việt Nam vào những năm 1945, 1946 nên đă có những cái nh́n lịch sử vô tư hơn.
    Thiếu tá Patti từng chỉ huy một nhóm OSS nhảy dù xuống miền Việt Bắc và giúp đỡ cho ông Hồ Chí Minh thời c̣n quân đội Nhật Bản tại Đông Dương. Ông đă ghi chép chi tiết những biến cố về thời đó, khi về Mỹ ông vẫn tiếp tục theo dơi sát t́nh h́nh Việt Nam và bắt đầu viết sách, nhưng cho đến năm 1980, khi mà nhiều bí ẩn lịch sử đă được tiết lộ, ông mới cho xuất bản tác phẩm nhan đề là “Why Vietnam?” để nói lên những sự thật mà ông biết được. Ông hết sức khâm phục ông Hồ Chí Minh và Mặt Trận Việt Minh, nhưng ông vẫn ca ngợi Bảo Đại là nhà chính trị lăo luyện, là một người thành tâm yêu nước.
    Patti tiết lộ rằng:
    Năm 1947, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp của phe chống Cộng (do bác sĩ Lê Văn Hoạch cầm đầu có sự tham dự của ông Ngô Đ́nh Diệm như giáo sư Buttinger đă kể) đề xướng ra giải pháp Bảo Đại. Người Pháp bèn bỏ chủ trương thương thuyết với Việt Minh và muốn sử dụng lá bài Bảo Đại mà họ cho là một ông vua “Playboy” dễ sai khiến. Họ dự định chỉ để cho Bảo Đại giành lấy một nền độc lập giả hiệu cho Việt Nam v́ họ biết rằng Bảo Đại không thể b́nh định được xứ sở mà quân lực Pháp tại Đông Dương mỗi ngày phải một gia tăng.
    Người Pháp bèn thúc giục Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp đ̣i hỏi Bảo Đại phải đứng ra thành lập một chính phủ quốc gia, nhưng Bảo Đại từ chối v́ lẽ ông không muốn cầm đầu một chính phủ do người Pháp bảo trợ. Huống chi ông lại quan niệm rằng Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia không tiêu biểu đại diện cho ai cả, trong lúc Mặt Trận Việt Minh mới là lực lượng chính yếu. Bảo Đại chỉ bằng ḷng đứng ra thương thuyết với Pháp nếu có sự thỏa hiệp nào đó của Việt Minh.
    Cho đến mùa hè năm 1947, khi Bảo Đại biết chắc chính phủ Pháp do đảng Cộng Ḥa B́nh Dân cầm đầu cương quyết bỏ hẳn việc đàm thoại với Việt Minh, Bảo Đại mới công khai tuyên bố chống lại Việt Minh. Dư luận đồn rằng việc Bảo Đại đưa ra lập trường chống Cộng rơ rệt là có ư khuyến khích Hoa Kỳ giúp đỡ Bảo Đại chống lại tham vọng của Pháp, như Hoa Kỳ đă ảnh hưởng Ḥa Lan giúp Nam Dương độc lập. Việc hy vọng vào Hoa Kỳ không phải là một ảo tưởng v́ sau đó mấy tuần lễ, đại sứ Mỹ tại Pháp, ông William Bullit tuyên bố chiến tranh Đông Dương của người Pháp là thứ “chiến tranh bẩn thỉu nhất”. Lời tuyên bố của Đại sứ Bullit được mọi người quan niệm như là một lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Bảo Đại (sau này khi Bảo Đại chính thức cầm quyền, Hoa Kỳ liền công nhận quốc gia Việt Nam và viện trợ cho chính phủ Bảo Đại).
    Với hy vọng được Hoa Kỳ giúp đỡ, Bảo Đại mới chịu gặp Bollaert, Cao ủy Pháp tại Đông Dương. Nhưng khi gặp Bollaert rồi, Bảo Đại nhận thấy rằng đại diện nước Pháp chỉ đưa ra những lời hứa hẹn mù mờ, do đó ông không chịu chấp nhận thương thuyết với Pháp. Ông trở về Hồng Kông rồi đích thân đi Pháp để thăm ḍ t́nh h́nh. Tại Pháp ông cũng nhận thấy rằng người Pháp vẫn ngoan cố, chỉ muốn tái lập nền đô hộ nên ông không muốn tự cột ḿnh vào âm mưu của thực dân.*
    Thái độ cứng rắn của ông đă buộc Bollaert phải nhiều lần đến diện kiến với Bảo Đại tại Cannes và Genève, nơi Bảo Đại trú ngụ. Bollaert đă phải hứa thỏa măn những điều kiện của ông trong những cuộc thương thuyết sắp tới, do đó hai nhân vật này mới gặp nhau lần thứ hai vào ngày 5 tháng 6 năm 1948 tại vịnh Hạ Long. Lần này th́ Pháp long trọng tuyên bố để cho Việt Nam độc lập nhưng ngoại giao và quốc pḥng vẫn do Pháp kiểm soát. Thỏa ước Hạ Long đă làm cho cả thực dân Pháp lẫn Việt Minh căm tức. Thực dân th́ cho rằng Pháp đă đầu hàng Bảo Đại, trong lúc Việt Minh chửi rủa Pháp (cried foul) v́ tại Hội Nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh đă thất bại không giành được những điều kiện như Pháp đă thỏa thuận với Bảo Đại.
    Nhưng dù thỏa ước Hạ Long ra đời, Bảo Đại vẫn muốn thỏa ước ấy phải được chính thức hóa, do đó Bảo Đại phải đi Pháp và kư kết với Tổng Thống Auriol hiệp ước ngày 8 tháng 3 năm 1949, thường được gọi là hiệp ước Elysées. Tuy vậy, Bảo Đại vẫn không chịu về nước v́ ông muốn phải thực hiện cho xong nền thống nhất ba kỳ. Thái độ cứng rắn của ông làm cho thực dân tức giận la ó lên rằng: “Nó đă bắt đầu coi chúng ta không ra ǵ” (ll commence vraiment à se foutre de nous). Nhưng tại sao Bảo Đại lại chịu kư vào một hiệp ước mà ông ta chưa thỏa măn. Có ba lư do: Một là v́ sợ nếu không kư, người Pháp sẽ tái lập nền đô hộ; hai là sợ ảnh hưởng của Việt Minh sẽ lan rộng làm cho phe chống Cộng mất cơ hội thiết lập một chính quyền quốc gia; và ba là ông hy vọng sẽ được Hoa Kỳ viện trợ kinh tế đồng thời giúp ông chống Pháp.[42]
    Qua những biến cố trên đây, ta thấy rơ như Patti đă nhận định rằng ông Bảo Đại quả là một nhà ái quốc, một chính trị gia khôn ngoan, sáng suốt, thâm trầm, độ lượng, và cả cuộc đời chính trị của ông cho thấy ông không phải là thứ người tham quyền cố vị. Khác với vua cha là Khải Định được thực dân đẩy ra sân khấu làm bù nh́n th́ múa may quay cuồng, thỏa măn với địa vị bù nh́n của ḿnh. Trái lại ông Bảo Đại dù được đẩy ra sân khấu làm bù nh́n, nhưng trên sân khấu, ông chẳng chịu làm tṛ mà chỉ đứng ù ĺ cho qua buổi, bất cần lệnh lạc của thầy tuồng.
    Vua Bảo Đại là bù nh́n nhưng gia đ́nh họ Ngô lại không có quyền gọi Bảo Đại là bù nh́n. Mười năm làm quan, ông Diệm chẳng đă là thần tử của vua Bảo Đại đó sao? Được làm Thủ Tướng chẳng là ơn mưa móc của vua Bảo Đại đó sao?
    Thật thế, tuy ông Ngô Đ́nh Diệm nhờ thế lực Thiên Chúa giáo quốc tế và Mỹ đẩy trở lại chính trường, khốn nỗi muốn được làm Thủ tướng th́ ông ta bắt buộc phải qua cửa ải Bảo Đại, phải thần phục vua Bảo Đại.
    Mùa hè năm 1953, ông Diệm theo lời chỉ dẫn của em là Ngô Đ́nh Luyện, rời Hoa Kỳ về Paris và ăn ở tại nhà ông Tôn Thất Cẩn, một người bà con của vua Bảo Đại. Về đây, dù đă nhiều lần vận động xin yết kiến Quốc trưởng nhưng Quốc trưởng vẫn chưa chịu tiếp. Nhân dịp có linh mục Cao Văn Luận được ông Ngô Đ́nh Cẩn nhờ đưa thư mật và tiền bạc qua, anh em ông Diệm bèn nhờ ông Luận lấy t́nh quen biết cũ đến vận động với ông Nguyễn Đệ, Đổng lư văn pḥng của Bảo Đại. Ông Nguyễn Đệ hứa sẽ giúp nhưng lời hứa vẫn trôi xuôi. Sau năm 1963, những bí ẩn được tiết lộ dần dần cho biết sở dĩ vua Bảo Đại không chịu tiếp ông Diệm v́ hai lư do: một là vua Bảo Đại thấy năm 1953 chưa phải là thời của ông Ngô Đ́nh Diệm, và lư do thứ hai mà là lư do chính yếu: Ông Bảo Đại vốn là con người thâm trầm, cao ngạo, lại cũng đă biết ông Diệm là người cứng đầu đă nhiều phen quay quắt, nên Bảo Đại cần phải làm khó dễ để ông Diệm khỏi qua mặt, khỏi phản bội sau này (cũng như khi chính thức cử làm Thủ tướng, Bảo Đại đă bắt ông Diệm thề).
    Cho đến mùa hè năm 1954, những vận động của gia đ́nh họ Ngô, của những người thuộc Nguyễn Phước tộc và nhất là của các thế lực quốc tế giúp ông Diệm làm Thủ tướng đă chín mùi nhưng vua Bảo Đại vẫn không lay chuyển. Ông chờ cho người Mỹ, kẻ đỡ đầu cho ông Diệm, đến năn nỉ vua Bảo Đại mới vừa ḷng. Thật thế, một tháng trước ngày kư kết hiệp ước Genève, t́nh thế đă quá sôi động làm cho Ngoại trưởng Foster Dulles phải xin yết kiến vua Bảo Đại và yêu cầu vua cử ông Diệm làm Thủ tướng, lúc bấy giờ, ông mới bằng ḷng. Đổi lại việc đề cử ông Diệm làm Thủ tướng để thỏa măn người Mỹ, ông đ̣i hỏi Ngoại trưởng Dulles phải cam kết giúp phe quốc gia tiếp tục chống Cộng (gián tiếp đuổi Pháp) và viện trợ dồi dào cho Việt Nam, nghĩa là viện trợ cho chính quyền Bảo Đại. Tiếc rằng những bí ẩn trên đây, ông Bảo Đại đă không viết vào hồi kư, phải chăng v́ thể thống ngoại giao buộc ông muốn nói mà không nói nên lời.
    Ông Bảo Đại là bù nh́n vậy th́ ông Ngô Đ́nh Diệm là ǵ? Ta hăy nghe Thiếu tá Patti tiết lộ trong cuốn Why Vietnam?:
    Sau khi Ngô Đ́nh Diệm được Mỹ nâng đỡ giúp cho cầm quyền th́ miền Nam rối loạn, bị các giáo phái và đảng phái chống đối, tướng Collins Đặc sứ của Tổng thống Eisenhower phần v́ nghe lời xúi giục của Pháp, phần v́ sợ Bắc Việt tấn công trước khi có hiệp ước SEATO, nên đă mất thiện cảm đối với ông Diệm. Nhưng Ngoại trưởng Foster Dulles vẫn cương quyết ủng hộ ông Diệm, đă thế Hồng Y Spellman, Nghị sĩ Mansfield, Kennedy đều chống lại việc thay thế Diệm, nên Collins phải chịu theo lập trường của Ngoại trưởng Hoa Kỳ. T́nh h́nh khó khăn và sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Pháp đă buộc Ngoại trưởng Mỹ phải đưa ra lời hăm dọa: “Hoa Kỳ sẽ cắt bỏ viện trợ nếu ông Diệm không c̣n cầm quyền”. Để giải quyết tranh chấp, tướng Collins đ̣i Mỹ phải viện trợ cho đội quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam 100 triệu đô la, bấy giờ Cao ủy Ely mới chịu chấp thuận”.
    Đó là chưa kể những tháng tiếp theo, người Mỹ, đặc biệt là Ngoại trưởng Dulles, làm áp lực nặng nề với Pháp để ông Diệm được tiếp tục cầm quyền như đă tŕnh bày ở đoạn trước.
    Hai biến cố trên đây đă nói lên rơ rệt nếu Bảo Đại là bù nh́n của Pháp th́ Ngô Đ́nh Diệm là con nuôi của Mỹ không hơn không kém. Nếu có khác là vua Bảo Đại đă khôn ngoan, sáng suốt, kiên nhẫn đấu tranh cho phe chống Cộng có một quốc gia, trong lúc ông Ngô Đ́nh Diệm là người chỉ nhờ thế lực ngoại bang mà được lên cầm quyền, thụ hưởng những kết quả do Bảo Đại để lại.
    Nói tóm lại, những sự kiện lịch sử trên đây đă cho thấy ông Diệm cầu xin vua Bảo Đại để được làm Thủ tướng, nhưng chỉ một năm sau nhờ áp lực của Hoa Kỳ mà ông đă tặng cho vị Quốc trưởng của ông hai chữ Bù Nh́n khi bắt đầu mở chiến dịch truất phế Bảo Đại.
    Ông Bảo Đại là một vị vua bù nh́n do cái thế lịch sử tạo nên từ cả mấy chục năm trước, tư thế bù nh́n đó không cho phép ta đặt ông vào vùng hào quang vinh dự của những anh hùng đă xả thân dựng nước. Ông Bảo Đại là một vị vua bất lực do cái t́nh trạng bị trị của một đất nước bị đô hộ cả gần trăm năm trước, khả năng yếu kém đó lại cũng không cho phép ta đặt ông vào đài tưởng niệm huy hoàng của những hiền nhân quân tử đă đóng góp và xây dựng nên sự nghiệp Việt Nam. Ta có thể phê phán cái tư cách bù nh́n và cái khả năng yếu kém đó như một lỗi lầm lớn không thể tha thứ được ở một nhà lănh đạo quốc gia, nhưng ta cũng phải công nhận cái quyết tâm bảo tồn sinh lực dân tộc của ông trong mục đích nuôi dưỡng để tính kế lâu dài: Thời làm Quốc trưởng, ông biết và có những hành động bênh vực các thành phần quốc gia vừa chống Cộng vừa chống Pháp, nâng đỡ những nhân vật có thành tích yêu nước và tinh thần cách mạng dù có bất đồng chính kiến với ông [43]. Cũng trong ư định tính kế lâu dài đó, ông đă cống hiến cho quốc gia những định chế cơ bản để làm cơ sở nền móng cho bất kỳ một chế độ nào có hay không có ông sau này được dễ dàng phát triển. Đối với các viên chức đại diện cho chính quyền Pháp, ông kiêu hănh giữ thể thống và phong độ của một vị Quốc trưởng, không để cho họ xem thường như Lansdale đă đối xử với ông Diệm. Lucien Bodard, một kư giả ngưỡng mộ danh tướng Pháp là De Lattre de Tassigny, đă chê bai và đả kích vua Bảo Đại v́ ông đối xử với vị Toàn Quyền Cao ủy này như một viên chức cấp dưới trong cuốn La Guerre d’Indochine.
    *Nói như vậy không có nghĩa là vua Bảo Đại tránh được những tội lỗi lịch sử lớn lao mà ông phải gánh chịu. Những tội lỗi đó, trước ṭa án lương tâm và đạo đức tối hậu của con người, lại không phải là những tội ác như của chế độ Ngô Đ́nh Diệm.
    Thật vậy, so sánh với chế độ Ngô Đ́nh Diệm, chế độ Bảo Đại đâu có độc tài nắm giữ hết mọi quyền lực của quốc gia, đâu có gia đ́nh trị, đâu có tiêu diệt đảng phái sát hại người đối lập, đâu có dựng nhà tù P-42 ở sở thú Sài G̣n, trại Chín Hầm ở Huế để tra tấn giam cầm hoặc thủ tiêu người* quốc gia. Chế độ Bảo Đại đâu có kềm kẹp, đóng cửa, bỏ tù báo chí, đâu có phản bội bạn bè, ân nhân. Ông Bảo Đại tuy có lấy tiền của Bảy Viễn nhưng đâu có buôn thuốc phiện lậu kinh khủng như ông Ngô Đ́nh Nhu, đâu có bắt những nhà giàu tra tấn đến chết để làm tiền như ông Ngô Đ́nh Cẩn. Bà Từ Cung vẫn sống khiêm tốn thanh đạm ở Huế, không ỷ vào con làm Quốc trưởng mà hối mại quyền thế, mua tước bán quan. Bà Nam Phương Hoàng Hậu vẫn sống âm thầm cách biệt ở ngoại quốc, bà Mộng Điệp vẫn không ảnh hưởng chồng trong việc lănh đạo quốc gia như bà Ngô Đ́nh Nhu ở Sài G̣n và mụ Luyến ở Huế, và như toàn thể anh em ông Diệm mỗi người một chức vị, một giang sơn, một triều đ́nh, một cơ quan mật vụ, một tổ chức thanh niên, một lực lượng đặc biệt, một cơ quan kinh tài. Chê vua Bảo Đại là lười biếng không đi thăm dân mà quên đi mỗi lần Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đi kinh lư, dân phải dậy từ 4, 5 giờ sáng, cơm đùm cơm bới, phơi nắng 7, 8 tiếng đồng hồ đợi Tổng thống đến để hoan hô, quên đi ông Ngô Đ́nh Diệm ngồi chễm chệ trên thuyền bắt sĩ quan đẩy và lính sắp hàng dưới nước mà dàn chào như vua chúa thời Trung Cổ. Cho nên thà không đi thăm dân như ông Bảo Đại c̣n hơn là mỗi lần ông Ngô Đ́nh Diệm đi kinh lư là làm khổ cho quân dân. Ông Bảo Đại cũng đâu có xây nhà cửa riêng tư như năm sáu anh em ông Diệm tạo dựng không biết bao nhiêu là đồn điền, ruộng đất, khách sạn, nhà lầu, hăng xưởng, biệt thự. Ông Ngô Đ́nh Cẩn c̣n bắt cả công binh, công chánh xây lăng cho ḿnh tốn kém trên hàng trăm triệu bạc công quỹ. Điều trớ trêu là trong khi nhà Ngô rêu rao tuyên truyền ông Bảo Đại dâm ô trụy lạc th́ chính ông Ngô Đ́nh Cẩn lại dâm loạn vô luân [44]. Ông Vơ Văn Hải, chánh văn pḥng đặc biệt thân tín nhất của ông Diệm cũng đă không ngần ngại công nhận với nhóm lănh đạo Nhảy Dù trong cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 là “trong dinh Độc Lập có một bọn đĩ điếm” [45].
    Ông Lê Nguyên Long, một chiến sĩ cách mạng, một nhân sĩ miền Trung, một chứng nhân thời đại, sống giữa ḷng dân tộc trên 30 năm trời quê hương khói lửa, chứng kiến bao cuộc thay ngôi đổi chủ, thấm thía với bao thế sự nhân t́nh, đă nghiêm khắc lên án rằng:
    Chưa có chế độ quốc gia nào tại Việt Nam tàn bạo như chế độ Ngô Đ́nh Diệm, trừ chế độ Cộng Sản. Nếu nói chống ông Bảo Đại th́ ai cũng có quyền chống trừ Ngô Đ́nh Diệm, v́ cha anh ông Diệm và cả ông Diệm nữa vốn là “tôi con” nhà Nguyễn. Ông Bảo Đại trên nguyên tắc đă tín nhiệm ông Diệm và ông Diệm đă phục mệnh. Trước và sau khi truất phế Bảo Đại, ông Diệm, qua Bộ thông tin, đă thuê bọn bồi bút (hầu hết báo chí thời Diệm) mở một chiến dịch dài hạn đả kích, bêu xấu, vu cáo, nhục mạ ông Bảo Đại hết sức tàn tệ. Thiết nghĩ người có lương tâm tối thiểu không ai nỡ hành xử như thế, Ngô Đ́nh Diệm là người đại phản phúc”[46].
    Tuy nhiên, trong biến cố anh em ông Diệm truất phế vua Bảo Đại, người cay đắng bẽ bàng nhất có lẽ là ông Tôn Thất Cẩn, người bạn thân thiết của gia đ́nh họ Ngô, người đă nuôi ông Diệm ăn ở tại Paris, người đă đôn đáo ngược xuôi vận động với Quốc trưởng và bà Nam Phương, đă đem tinh thần nhà Nho của ông Diệm, đă đem ba đời thần tử của ḍng họ Ngô Đ́nh, đă đem chức giám mục của ông Ngô Đ́nh Thục, toàn là những thứ cao trọng thiêng liêng để bảo đảm tấm ḷng tôn quân trung thành của anh em nhà Ngô… Không ngờ Quốc trưởng Bảo Đại lại bị truất phế để cho ông Tôn Thất Cẩn mang tiếng làm hại cho cả nhà vua lẫn nhà Nguyễn. Không riêng ông Tôn Thất Cẩn mà cả anh ruột của ông, ông Tôn Thất Toại, một bạn thân của ông Diệm từ thời niên thiếu, cũng mang tâm sự đắng cay của một người Tôn Thất lỡ pḥ ông Diệm mà làm buồn ḷng cho Nguyễn Phước tộc, việc mà tôi sẽ nói đến trong một chương sau.
    Nói tóm lại, cả hai ông Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm đều có tội trước lịch sử và dân tộc. Nhưng cái tội của Bảo Đại là do cái lỗi gây ra, c̣n cái tội của Ngô Đ́nh Diệm th́ do cái ác gây ra.
    Năm 1969, một năm sau tết Mậu Thân, khi t́nh h́nh miền Nam bắt đầu đi vào tuyệt lộ v́ Tổng thống Johnson mật đàm với Hà Nội để mở màn cho Ḥa đàm Ba Lê và để cứu văn nội t́nh một nước Mỹ đang bị rối nát, khi chế độ Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn bất lực trong việc điều động quân dân miền Nam đối kháng với Cộng Sản đang càng ngày càng lớn mạnh, th́ tuy đă về hưu trí từ năm 1965 và quyết định đứng ngoài mọi sinh hoạt chính trị, tôi vẫn theo dơi thời cuộc và nh́n thấy rơ cái thảm họa chênh vênh của đất nước bên bờ vực thẳm. Đă thế, cũng trong năm đó, ông Hồ Chí Minh mắc bệnh mà qua đời, lại chợt nhắc tôi nhớ đến ông Bảo Đại, người đă xây dựng một thế đứng hợp pháp và một lực lượng cơ bản cho người quốc gia chống Cộng lúc đó và sau này. V́ vậy, tôi bèn viết một bài tham luận dài đăng trên nhật báo Độc Lập của kư giả Anh Quân mà nội dung nhằm cảnh giác chính giới Việt Nam về viễn tưởng người Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam với hệ quả là miền Nam có thể rơi vào tay Cộng Sản Hà Nội. Đồng thời, tôi cũng đóng góp một số sử liệu và khai triển một số nhận định về công và tội của ông Bảo Đại để trả ông lại đúng vị trí trong lịch sử, cũng như lấy đó làm những suy nghiệm cho t́nh h́nh miền Nam lúc bấy giờ, vốn có nhiều điểm tương đồng cơ bản như lúc Pháp gần rút khỏi Việt Nam 15 năm về trước.
    Tôi không ngờ bài báo đó của tôi trên tờ Độc Lập lại đến tay Cựu Hoàng tại Paris và bà Từ Cung tại Huế. Cựu Thủ tướng Bửu Lộc, đại diện cho Cựu Hoàng đă gởi một tấm thiệp ngỏ lời cảm ơn tôi đă dám nói lên một số sự thật vốn bị người ta chôn vùi từ nhiều năm nay, và nhờ tôi đem ḷng vô tư viết lại những trang sử thuộc về nhà Nguyễn, và về Cựu Hoàng Bảo Đại với chứng minh công tội rơ ràng. Đồng thời Đức Từ Cung cũng phái cụ Ưng An, đại diện cho Nguyễn Phước tộc và ông Trần Quang Vinh một lănh tụ Cao Đài (người cầm thiệp của ông Bửu Lộc từ Pháp về), đến nhà tôi chuyển lời cảm tạ của Bà. Rất nhiều nhân vật thuộc ḍng dơi Nguyễn Phước tại Sài G̣n và nhiều địa phương cũng ghé đến thăm tôi tỏ t́nh giao hảo (như ông Vĩnh Thọ hiện ở Hoa Kỳ chẳng hạn).
    Từ đó, tôi được mời đến tham dự những buổi hội họp cúng kỵ Đức Thế Tổ và các vị tiền triều tại trụ sở của Hội Nguyễn Phước tộc ở đường Công Lư, tại ngôi biệt thự đă bị ông Diệm tịch thu và nay được ông Thiệu trả lại. Nhờ vậy, tôi có dịp lặng lẽ t́m hiểu thêm và kiểm điểm lại những biến cố chính trị liên hệ đến hai ông Ngô Đ́nh Diệm và Bảo Đại mà trong những thời gian đó, v́ c̣n trẻ và v́ đam mê chỉ biết một lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, tôi đă không đủ khôn ngoan và sáng suốt để thấy được sự thật.
    Bây giờ, viết lại theo kư ức những kết quả đă được đúc kết từ 15 năm trước, trong sự thiếu thốn mọi sử liệu, tôi đành chỉ viết những ǵ ḿnh c̣n nhớ chắc chắn và chỉ giới hạn những nhận định trong tương quan giữa hai nhân vật Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm mà thôi. Tuy nhiên, có một điểm tôi cần nói lên ở đây là đối tượng thúc đẩy tôi viết lại chương này không c̣n là các thành viên của ḍng họ Nguyễn Phước tộc nữa mà mở rộng cho thế hệ thanh niên hiện tại, trong cũng như ngoài nước, để mong đóng góp được thêm cho họ những sự thật và những quan điểm đă ít được đề cập từ trước.
    Khi so sánh ông Hồ Chí Minh và những lănh tụ quốc gia trong giai đoạn đó, cụ Hoàng Văn Chí phê phán rằng:
    Cựu Hoàng Bảo Đại mà người Pháp tái phong làm Quốc trưởng năm 1949 (và viên cựu quan lại Ngô Đ́nh Diệm), những kẻ măi quốc cầu vinh, no lưng ấm cật, những kẻ bất chánh đó không tài nào địch nổi Hồ Chí Minh…”[47].
    Lời phê phán đó, đứng trên quan điểm cách mạng và áp dụng như một nguyên tắc tiên quyết cho cuộc đấu tranh cứu nước kể từ sau thảm trạng mùa Xuân năm 1975, th́ hoàn toàn đúng. Tuyệt đối đúng.
    Nhưng đặt nó vào bối cảnh của 20 năm từ 1945 đến 1965, giai đoạn mà ba nhân vật Hồ Chí Minh, Bảo Đại và Ngô Đ́nh Diệm nắm giữ những trục vận động chính của lịch sử nước ta, th́ tôi e rằng lời phê phán đó có phần quá khắt khe cho trường hợp của vua Bảo Đại.
    Từ 1945 đến 1954, chúng ta có nhiều nhà cách mạng đấu tranh chống cả Pháp lẫn Cộng nhưng không một ai đủ lực, đủ thế và đủ thời để vận động được toàn dân khởi phát cuộc cách mạng đó cả. Và trước cơn băo dữ của cuộc chiến tranh Pháp–Cộng, trong đống bùn nhơ của một triều đ́nh lơ láo dưới chế độ bảo hộ, ông Bảo Đại ít ra cũng đă vun xới được một cánh sen màu vàng ba sọc đỏ để làm tụ điểm cho những thành phần chống Cộng, để làm căn bản cho miền Nam Việt Nam sau này có cơ sở tiếp tục chống lại miền Bắc Cộng Sản. Điều bất hạnh thê thảm nhất cho dân tộc là người thừa hưởng cánh sen đó, ông Ngô Đ́nh Diệm, lại phong kiến như vua và độc tài như Cộng Sản nên mới “không tài nào địch lại Hồ Chí Minh”.
    Chữ Quốc Gia mà chúng ta sử dụng hôm nay, ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà chúng ta c̣n dùng hôm nay quả thật đă thuộc về lịch sử và dân tộc. Nhưng nếu nó cần được duy tŕ như một biểu tượng lịch sử cần thiết tạm thời cho cuộc đấu tranh giải phóng đất nước hiện tại, th́ hẳn ngoài cái giá trị thời đại không chối căi của nó, ta cũng nên suy nghiệm một cách lương thiện và đứng đắn hơn về cả giá trị của một vị vua đă âm thầm cay đắng mang tiếng bù nh́n để khai sinh và nuôi dưỡng nó trong những tháng ngày chập chững non nớt đầu tiên.


    [1] Joseph Buttinger, Vietnam A Political History, tr. 408, 409.

    [2] Francis Y. Corley, Vietnam Since Geneva Talk, trong nguyệt san Foreign Affairs (số 131 năm 1958), tr. 546.
    [3] Edward Lansdale, In the Midst of War, tr. 307, 308.
    [4] Bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại (Số 164 ngày 1-3-85), tr. 87, 88.
    [5]* Nguyệt san Thanh Niên Hành Động (số 1 ngày 1-10-85), tr. 19.
    [6] Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, tr. 596.
    [7] Charles Maybon, Histoire Moderne du Pays d’Annam, (do Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh trích in lại trong “Vietnam: Lotus In A Sea Of Fire”, tr. 16) và về mặt sử liệu xin xem thêm “Sổ tay Văn hóa Việt Nam ” (NXB Văn Hóa, Hà Nội), tr. 135, 137.
    [8] Lư Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc, tr. 74, 75.
    [9] Lư Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc, tr. 78.
    [10] Etienne Vũ Đức Hạnh, La Place Du Catholicisme Dans Les Relations Entre La France Et Le Vietnam de 1851 à 1870 (Tome I), tr. 260, 261.
    [11] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam, tr. 540, 542 và sách Vua Duy Tân của Hoàng Trọng Thược.
    [12] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 316.
    [13] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 317.
    [14] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, tr. 23, 24.
    [15] Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, tr. 4.
    [16] Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, tr. 5.
    [17] Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, tr. 49.
    [18] Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, tr. 114, 115.
    [19] Trần Tương, Biến cố 11-11-1960, tr. 277.
    [20] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 143.
    [21] Joseph Buttinger, Vietnam, A Political History, tr. 304, 305.
    [22] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 184.
    [23] Robert Shaplen, The Cult Of Diem, trong tuần báo The New Yorker (số ngày 14-5-72).
    [24] Tư liệu của ông Thái Văn Kiểm gửi cho tác giả ngày 4-4-1978 và theo lời kể của nhiều bô lăo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh.
    [25] Robert Shaplen, The Lost Revolution, tr. 106.
    [26]* Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, tr. 684.
    [27] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 273.
    [28] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 234.
    [29] Charles Maybon, Histoire Moderne du Pays d’Annam.
    [30] Malachi Martin, The Decline and Fall of The Roman Church, tr. 26.
    [31] Malachi Martin, The Decline and Fall of The Roman Church, tr. 57.
    [32] Thái Văn Kiểm, Đất Việt Trời Nam, tr. 489.
    [33] Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Thời Pháp Đô Hộ, tr. 339-342 và sách Le Dragon d’Annam, Bảo Đại, tr. 58, 59.
    [34] Malachi Martin, The Decline and Fall of The Roman Church.
    [35] Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, tr. 404 (Viết theo Jean Chesneau trong “Contribution à l’Histoire du Vietnam” và Notes du 13-71887 của cựu Toàn quyền Lanessan “Indochine Francaise”, Paris 1889, Archives du Ministère de la France d’Outre-Mer trong luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần, Đại học Sorbonne, Paris).
    [36] Đào Trinh Nhất, Phan Đ́nh Phùng, trong bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại (số 141), tr. 109-111.
    [37] Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, và sách Những Ngày Chưa Quên của Đoàn Thêm, tr. 171, 172.
    [38] Michael McClear, The Ten-Thousand-Day War, tr. 62.
    [39] Joseph Buttinger, Vietnam A Political History, tr. 414.
    [40] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 236.
    [41] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 218.
    [42] Archimedes L. Patti, Why Vietnam? tr. 395, 396, 397.
    [43] Danh sách những nhân vật chính trị, cách mạng tên tuổi hợp tác với Bảo Đại được kể trong Le Dragon d’Annam. (Danh sách nội các).
    [44] Thư ông Hoàng Đồng Tiếu gửi cho tác giả.
    [45] Trần Tương, Biến cố 11-11-1960, tr. 109.
    [46] Lê Nguyên Long, Bất Đắc Dĩ Khơi Đống Tro Tàn, trong báo Khai Phóng (số 7), tr. 38.
    [47] Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, tr. 58, 59.

  2. Khi đề cập đến thân thế và sự nghiệp của chí sĩ Phan Đ́nh Phùng, người đă trải bao khốn khổ cay đắng kháng Pháp trước khi tử tiết để được vinh danh trên bảng vàng bia đá của lịch sử nước nhà, học giả Đào Trinh Nhất đă được gợi ư từ một tư tưởng của Mạnh Tử để nhận định rằng: “Nhưng mà lẽ thường xưa nay, Trời muốn sắp giao phó một việc lớn lao hệ trọng cho ai, bao giờ trước hết cũng hành hạ người ấy phải đói khát khổ sở, gặp toàn những bước khốn đốn nguy hiểm, điên đầu rối trí thật năo nề chê chán đă sẽ hay. Thân thế cụ Phan ở trong cảnh đó”. [1]

    Chân lư đó phát xuất từ nhân sinh quan Đông Phương về Định Mệnh và đă được đối chiếu chặt chẽ với quá tŕnh lịch sử của nước ta, mà anh hùng liệt nữ tuyệt đại đa số là những vị xả thân nằm gai nếm mật để bảo vệ sơn hà xă tắc. Trường hợp ông Diệm từ ngày cởi áo từ quan vào tuổi trung niên, cũng trải qua một số hoạn nạn. Khi th́ phải trốn trong sở hiến binh Nhật Bản, khi th́ bị Việt Minh quản thúc ở núi rừng Thái Nguyên, và trước khi làm Thủ tướng lănh đạo chính quyền ở miền Nam c̣n phải lánh ra nước người gần năm năm trời. Nhưng tất cả những gian truân đó chỉ vừa đủ để xây dựng cho ông cái uy tín và huyền thoại để cho chính quyền Mỹ quyết định yểm trợ ông trong chín năm bèo bọt mà thôi nếu ta so sánh với những gian truân của các anh hùng liệt nữ khác của dân tộc mà tên tuổi và h́nh bóng măi măi là những ngọn lửa oai hùng đă vượt không gian và thời gia soi sáng ḍng sử Việt, mà máu xương đă thẩm thấu vào quê hương sơn hà gấm vóc.
    Các sử gia xem thành công của ông Diệm là hệ quả chính trị tất yếu của mâu thuẫn quyền lợi Pháp-Mỹ. Người dân Việt b́nh thường th́ cho rằng ông Diệm bước vào vận số tốt như hết cơn bĩ cực đến thời thái lai. Riêng ông Diệm và một thiểu số cộng sự viên Công giáo lúc bấy giờ (nhất là sau vụ mưu sát tại Ban Mê Thuột năm 1957) th́ lại tin rằng Trời (dù được gọi là Chúa hay Thượng Đế như ông vẫn thường dùng câu “xin Thượng Đế ban phước lành cho chúng ta” ở cuối mỗi bài diễn văn) đă ban phép lành cho ông và đă trao lại cho ông và gia đ́nh ông cái sứ mạng to lớn và thiêng liêng lănh đạo miền Nam Việt Nam. Niềm tin vừa có tính cách huyền bí tôn giáo vừa chứa đầy quan niệm Thiên Mệnh quân chủ đó đă chỉ đạo mọi suy tư và quyết định chính trị của ông suốt thời kỳ ông làm Tổng thống. Và cũng chính niềm tin thần bí chắc nịch đó đă xây dựng nên những đặc tính tâm lư nơi ông và gia đ́nh ông đă khiến cho chế độ sau đó bị nhân dân gán cho hai chữ “Ngô triều” xấu xa.

    Niềm tin đó, ngay từ những ngày tháng đầu tiên ông nắm chính quyền đă được hun đúc bằng một sự kiện thiêng liêng có liên hệ đến gia đ́nh ông. Đó là việc gia tộc Ngô Đ́nh t́m được xác của cha con ông Ngô Đ́nh Khôi mà sau hơn mười năm trời tốn nhiều công của t́m kiếm vẫn không đạt được kết quả. Nguyên năm 1944, sau khi ông Diệm bị Pháp bắt hụt trốn vào Sài G̣n th́ người anh ruột của ông đang làm Tổng đốc Quảng Nam là ông Ngô Đ́nh Khôi bị người Pháp và Thượng thư Phạm Quỳnh bắt phải về hưu. Khi Việt Minh cướp chính quyền, họ kết tội cả ông Ngô Đ́nh Khôi lẫn ông Phạm Quỳnh vào hàng đại Việt gian phản quốc và bắt đem đi mất tích. Cùng bị bắt với ông Khôi c̣n có người con trai độc nhất là Ngô Đ́nh Huân từng giữ chức Thanh tra Lao động của chế độ bảo hộ Pháp. Ngô Đ́nh Huân bị bắt v́ tội vừa làm tay sai cho Pháp vừa là cộng tác viên đắc lực cho Hiến binh Nhật Bản thời quân đội Thiên Hoàng chiếm đóng Việt Nam. Có người đă từng thấy Việt Minh áp giải cha con ông Khôi và ông Quỳnh rồi giết đi nhưng không biết chôn ở nơi nào. Năm 1955, nhờ có chính quyền trong tay, ông Ngô Đ́nh Cẩn bèn thiết lập một hệ thống cán bộ rộng lớn đặc trách đi t́m kiếm xác người thân và cuối cùng th́ t́m được tại địa phận huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên trong một cái hố chôn chung với nhiều người, trong đó có cả xác ông Phạm Quỳnh. Thật là trớ trêu: ông Quỳnh và ông Khôi khi c̣n sống là hai kẻ thù không đội trời chung mà khi chết th́ thân xác lại cùng vùi chung một hố. Xác ông Quỳnh được nhà chức trách quận Phong Điền trao lại cho thân nhân và được chôn cất một cách khiêm tốn như đám tang hàng dân dă. Trong lúc đó xác ông Ngô Đ́nh Khôi, nhờ có em đang làm Thủ tướng nên tang lễ được cử hành vô cùng trọng thể đầy đủ nghi thức quốc táng: có toàn bộ nhân viên cao cấp chính phủ tham dự, có quân nhân dàn chào từ huyện Phong Điền về đến nghĩa trang họ Ngô tại Phú Cam (Huế), có quốc kỳ phủ quan tài, có quân đội bồng súng theo hộ tống đi hai bên linh cữu, và có quân nhạc trổi bài quốc ca và Hồn Tử Sĩ. Ông Vơ Như Nguyện, một cộng sự viên của ông Ngô Đ́nh Diệm và cũng là một đồng chí của kẻ viết, được cử giữ chức trưởng nam của ông Ngô Đ́nh Khôi, cũng đội mũ rơm, mặc áo sổ gấu, cầm gậy tre đi theo linh cữu. (Ông Vơ Như Nguyện hiện ở Mỹ)

    Đối với dân tộc và lịch sử th́ ông Ngô Đ́nh Khôi chỉ là một cựu quan lại của chế độ bảo hộ và triều đ́nh mục nát, nhưng anh em ông Diệm lại bắt nhân dân coi anh ruột ḿnh như một nhà ái quốc đă hy sinh cho đất nước nên đă cử hành tang lễ cho ông Khôi như lễ quốc táng của một vị anh hùng. Cá nhân Tổng thống và gia tộc Tổng thống bỗng trở thành một trong quan niệm phong kiến “một người làm quan, cả họ được nhờ”, và gia tộc Tổng thống và quốc gia dân tộc bỗng trở thành một trong quan niệm phản dân chủ “lănh đạo là do Thiên Mệnh trao quyền”.

    Ông Ngô Đ́nh Khôi tuy chỉ là một quan lại thời thực dân phong kiến bị Việt Minh lên án phản quốc và đă được ông Diệm làm lễ quốc táng, thế mà anh em ông Diệm vẫn chưa hài ḷng c̣n muốn tôn vinh anh ḿnh lên hàng danh nhân vĩ đại của lịch sử. Họ lấy tên của ông Khôi đặt cho con đường lớn nối liền thủ đô Sài G̣n với phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất. Ngoài ra anh em họ c̣n muốn đổi tên trường trung học Khải Định Huế thành trường Ngô Đ́nh Khả. Thật ra việc xóa bỏ tên “Khải Định” là một việc làm hữu lư v́ ông Khải Định là một vị vua Việt gian, nhưng xóa bỏ tên của vua Khải Định mà lại thay vào tên của ông Ngô Đ́nh Khả, một vị quan lại của Pháp, th́ quả là một việc làm khinh thị nhân dân. Trong mục đích tôn vinh cha ḿnh, anh em họ Ngô đă định lừa dối quốc dân bằng cách phao tin rằng chính cha ḿnh là người sáng lập ra ngôi trường trung học đó, nhưng có lẽ v́ có nhiều bậc trưởng thượng và trí thức cố đô Huế biết rơ sự thật là không đúng như đă tuyên truyền nên anh em ông Diệm đành phải bỏ ư định đó và rồi đổi tên trường từ Khải Định ra Quốc Học. (Xin lưu ư rằng trong cuộc đàm luận với kư giả Robert Shaplen, ông Diệm đă nói rất nhiều đến sự nghiệp và thân thế của cụ Ngô Đ́nh Khả thế mà ông không hề đề cập đến chuyện cụ Khả là người xây dựng trường Quốc Học Huế được Pháp đặt tên là trường Khải Định. Trái lại theo “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí” của Chính Đạo (s.đ.d., tr. 304) th́ ông Ngô Đ́nh Khả theo ông Nguyễn Thân đi đánh phong trào Văn Thân của cụ Phan Đ́nh Phùng ở vùng Hà Tĩnh-Nghệ An. Năm sau khải hoàn, được cử làm Phó giám đốc trường Quốc Học, trước khi được thăng chức Tổng quản Cấm Thành).

    Sau sự vinh danh cho người anh trưởng đă khuất, dĩ nhiên ông Diệm bắt đầu lên ngôi cho những người c̣n sống trong gia đ́nh.

    Ông Ngô Đ́nh Thục, người anh trai thứ nh́, từ khi ông Khôi chết, được gia đ́nh tôn kính theo quan niệm “quyền huynh thế phụ”. Ông Ngô Đ́nh Thục là vị Giám mục thâm niên của hàng giáo phẩm đang giữ chức Tổng giám mục của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Mặc dù không giữ một chức vụ chính thức nào trong chính quyền, nhưng với địa vị anh trưởng trong gia đ́nh, với địa vị Tổng giám mục của Giáo hội, lại được các em, nhất là Tổng thống Diệm cung kính và vâng lời nên ông Thục trở thành một thứ tối cao cố vấn của chế độ. Ṭa giám mục Vĩnh Long, và sau này Ṭa giám mục Huế, nơi ông Thục cai quản bỗng trở thành một thứ triều đ́nh siêu vương quốc với đầy đủ mọi quyền lực làm cho chính ông Nhu cũng phải than phiền với một linh mục thân tín khi thấy các viên chức cao cấp của cả ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp chăm chỉ đến cung kính cầu cạnh Đức Cha. Giám mục Ngô Đ́nh Thục, trong cương vị đó, và với cung cách của những viên chức trong và ngoài chánh quyền như thế, lẽ tất nhiên đă nhiều lần trộn lẫn giáo quyền và thế quyền làm một để dính dự vào những quyết định quan trọng của sinh hoạt quốc gia không khác ǵ Giáo hoàng Boniface VIII vào ngày 18-11-1302 đă sống sượng tuyên bố “... cả hai quyền lực này đều nằm trong tay vị Giáo chủ La Mă”. [2]

    Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, ông đặt tên ḿnh cho đại lộ lớn nhất của thị xă này đến nỗi người bạn thân của gia đ́nh là Cụ Huỳnh Minh Ư cũng phải chê trách. [3]

    Ông Ngô Đ́nh Nhu là một Dân biểu Quốc hội không bao giờ biết đến dân chúng nơi địa phương ḿnh ra ứng cử, không bao giờ bước chân đến ṭa nhà Lập Pháp để tham dự sinh hoạt nghị trường và làm trách nhiệm dân cử, mà chỉ ngồi tại dinh Tổng thống để ra chỉ thị cho Quốc hội làm luật theo ư của anh em ông ta. Thực quyền như thế nhưng ông Ngô Đ́nh Nhu vẫn cần có chức Dân biểu có lẽ là chỉ để điều khiển và kiểm soát Quốc hội cho chính danh, nhưng thật ra chính cái chức vụ “Cố vấn Chính trị” của ông bên cạnh Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm mới thật sự là bộ năo của chế độ, nơi khai sanh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng quyền hành thực sự lại nằm trong tay Cố vấn Chính trị Ngô Đ́nh Nhu. Điều đặc biệt của chế độ Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm là chức Cố vấn Chính trị của ông Ngô Đ́nh Nhu lại không phải là một chức vụ chính thức của chính quyền như chức cố vấn được công khai hóa và quy chế hóa của các vị lănh đạo các nước dân chủ trên thế giới. Ông Nhu và gia đ́nh ông ta ở trong dinh Tổng thống, ông có văn pḥng riêng, ông giúp việc cho Tổng thống rồi bỗng nhiên người trong dinh gọi ông là “cố vấn”. Lời xưng hô lan rộng ra ngoài để rồi nhân dân, báo chí, người ngoại quốc đều gọi ông là cố vấn, một cố vấn không chánh danh mà lại nắm trọn quyền hành quốc gia trong tay.

    Bà Ngô Đ́nh Nhu, nhũ danh là Trần thị Lệ Xuân, cũng là một Dân biểu Quốc hội, bà c̣n được người ta xưng tụng là “Đệ nhất phu nhân”. Không biết danh từ “Đệ nhất phu nhân” xuất hiện từ đâu và từ khi nào, mà rồi báo chí, đài phát thanh, phim thời sự của các rạp chớp bóng đều gọi bà Nhu là “Đệ nhất phu nhân”. Do đó cả nước phải gọi bà là Đệ nhất phu nhân, dù danh từ đó trong truyền thống sử dụng ngôn ngữ Việt Nam không được chính xác v́ ông Tổng thống là người độc thân. Tuy đă hài ḷng với tước hiệu này v́ bà chưa bao giờ tỏ ư bất măn hay ra lệnh cấm đoán, nhưng bà Nhu vẫn chưa lấy thế làm thỏa măn. Danh xưng “Đệ nhất Phu nhân” c̣n bị trói buộc trong một chế độ và, trong tương lai xa xăm, c̣n có thể có nhiều Đệ nhất phu nhân khác, cho nên bà Nhu c̣n muốn đi xa hơn và cao hơn để được gọi là “Bà Ngô”, như lịch sử đă từng vinh danh các Bà Trưng, Bà Triệu.

    Theo ông Nguyễn Thái, cựu Tổng giám đốc Việt Tấn Xă, đă có lần bà Nhu ra lệnh cho ông phải ghi danh xưng “Bà Ngô” trên các bản thông tin của cơ quan Việt Tấn Xă nhưng ông Thái từ chối v́ làm như thế trên mặt luân lư sẽ có sự hiểu lầm vô cùng tai hại. Vào tháng Sáu năm 1961, khi ông bà Ngô Đ́nh Nhu đi viếng thăm Maroc, thông cáo chính thức của Bộ Ngoại giao gọi bà Nhu là “Bà Ngô” [4]. Cũng theo ông Nguyễn Thái th́ bà Nhu là bộ mặt then chốt của chính quyền (a key figure in the Diem regime). Không cần phải dài ḍng, cứ nh́n việc bà ta đưa ra Luật Gia Đ́nh bị dư luận và ngay cả nhiều Dân biểu phản đối quyết liệt mà Tổng thống Diệm cũng như ông Ngô Đ́nh Nhu đều tận t́nh bênh vực, cũng đủ nói lên uy quyền to lớn của Bà. Lại hăy nh́n hai lần đi dự hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ Quốc tế ở Rome và Rio de Janeiro, mặc dù không phải là trưởng phái đoàn, bà ta vẫn giành lấy quyền ăn nói. Ông Phạm văn Nhu vừa là Chủ tịch Quốc hội vừa là Trưởng phái đoàn đành chỉ biết ngồi nghe [5]. Uy quyền to lớn của bà Nhu c̣n được biểu lộ rơ rệt hơn vào dịp lễ Hai Bà Trưng hàng năm. Đây cũng là ngày lễ Phụ nữ Việt Nam và được tổ chức vô cùng long trọng tại công trường Mê Linh bến Bạch Đằng, do bà Ngô Đ́nh Nhu chủ tọa. Chủ tọa lễ này, bà Nhu có đủ mọi nghi thức trọng thể nhất dành cho một vị nguyên thủ quốc gia trong buổi lễ quốc khánh do Tổng thống Diệm chủ tọa, trừ 21 phát đại bác, cũng v́ thế mà dân chúng mới mỉa mai rằng Việt Nam có hai ngày Quốc Khánh. [6]

    Ông Ngô Đ́nh Cẩn, tự xưng là “Cố vấn Lănh đạo các Đoàn thể Chính trị miền Trung và miền Cao Nguyên”. Trên thực tế, ông là vị chúa tể ở cả hai miền đó v́ ông nắm hết mọi quyền hành nhất là quyền bổ nhiệm nhân sự, c̣n các đại biểu chính phủ và Tỉnh trưởng chỉ là những viên chức thừa hành mệnh lệnh của ông mà thôi. Ông Ngô Đ́nh Cẩn được nhân dân Việt Nam và sách sử, báo chí quốc tế tặng cho hỗn danh là “Lănh chúa miền Trung”, điều đó cũng đủ nói lên cái uy quyền sinh sát của ông ta rồi.

    Ông Ngô Đ́nh Luyện là người em trai chót, vào năm 1955, làm Đại sứ lưu động tại Âu Châu. Thật ra lúc bấy giờ ông Luyện ở Việt Nam nhiều hơn ở Âu Châu v́ ông Diệm cần ông ta ở bên cạnh để cùng lo đối phó với những khó khăn của thời cuộc, những chống đối quốc nội của tướng Nguyễn văn Hinh, B́nh Xuyên... Sau khi truất phế Bảo Đại xong, phần v́ sự bất đồng chính kiến giữa hai ông Nhu và Luyện, phần th́ Tổng thống Diệm muốn có một người ruột thịt ở Âu Châu nên ông Luyện được cử giữ chức Đại sứ Việt Nam* tại Anh Quốc. V́ vậy, trước khi lấy một quyết định ngoại giao quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào ở Âu Châu và Bắc Phi, ông Diệm cũng thường tham khảo ư kiến trước với ông Luyện. Từ đó ông Luyện trở thành một thứ siêu Đại sứ mà các vị đại sứ Việt Nam tại Âu Châu và Bắc Phi phải nể sợ và vâng lời.

    Về trường hợp của ông Ngô Đ́nh Luyện, Hillaire du Berrier đă đưa ra ánh sáng một bí ẩn lịch sử vào năm 1955 như sau đây:
    Thật ra chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu không cần thiết khi mà Việt Nam đă có một ông Đại sứ đặt văn pḥng tại số 47 bis đường Kleber ở Paris, nơi mà Đại sứ lưu động Ngô Đ́nh Luyện cũng đặt văn pḥng. Nhưng ông Diệm phải đặt ra chức Đại sứ lưu động Âu Châu, đặt ra trong lúc t́nh h́nh Sài G̣n vô cùng căng thẳng, là cốt để kịp thời phái ông Luyện đến yết kiến Bảo Đại để xin Bảo Đại một lời tuyên bố tín nhiệm ông Diệm trước khi sự bất tín nhiệm của cả Bảo Đại lẫn Đại sứ Collins tại Sài G̣n đến được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. [7]

    Quả đúng với lời tŕnh bày của Berrier v́ sau khi vua Bảo Đại bị truất phế, Đại sứ Collins bị triệu hồi về Mỹ, chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu cũng được băi bỏ, ông Luyện được cử giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Anh Quốc như tôi đă tŕnh bày trong đoạn trên.

    Bà Ngô thị Hoàng tức là bà Cả Lễ, em gái của Tổng thống Diệm chỉ là một nhà thầu khoán nhưng lại là một thứ Trùm thầu khoán. Nhờ ảnh hưởng và uy quyền của anh em, tất cả những vụ đấu thầu lớn đều về tay bà ta. Những nhà thầu đối thủ muốn cạnh tranh các dịch vụ đấu thầu tại miền Trung đều bị ông Ngô Đ́nh Cẩn khủng bố giam cầm hoặc áp lực nên tự động ngưng đấu, do đó bà Cả Lễ coi như độc quyền trong mọi dịch vụ đấu thầu lớn. Bà Cả Lễ chỉ có một người con gái tên là Kim Anh được gả cho ông Trần Trung Dung, Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, v́ thế mặc dầu bà Cả Lễ không có một chức tước nào cả cũng vẫn được lên ngôi vừa là em Tổng thống, vừa là nhạc mẫu của một Bộ trưởng quyền thế.

    Ông Nguyễn Hữu Châu là chồng bà Trần thị Lệ Chi, chị ruột của bà Ngô Đ́nh Nhu. Ông Nguyễn Hữu Châu giữ chức Bộ trưởng Bộ Phủ tổng thống kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

    Ông Trần văn Chương, luật sư, là nhạc phụ của ông Ngô Đ́nh Nhu giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Hoa Kỳ mà v́ lư do liên hệ chặt chẽ và sinh tử của hai quốc gia, chức vụ Đại sứ Việt Nam tại Mỹ là một chức vụ quan trọng vào hàng siêu đại sứ. C̣n bà Trần văn Chương th́ giữ chức “Quan sát viên” của Việt Nam Cộng Ḥa tại Liên Hiệp Quốc.
    Ngoài những nhân vật bà con nội ngoại của gia đ́nh họ Ngô trên đây giữ những địa vị then chốt trong guồng máy lănh đạo quốc gia đối nội cũng như đối ngoại, c̣n có những nhân vật tuy báo chí, sách sử không mấy đề cập đến tên tuổi, và tuy họ không mang một chức tước nào nhưng họ vẫn có quyền sinh sát làm run sợ nhiều người, kể cả những viên chức cao cấp trong chính quyền và quân đội. Tại Sài G̣n và Nam Phần th́ có luật sư Trần văn Khiêm, em ruột bà Nhu, một công tử chơi bời đàng điếm chuyên dựa thế chị ruột để làm tiền những thương gia giàu có [8]. Giới trí thức miền Nam gọi ông Trần văn Khiêm là “luật sư khùng” v́ tính t́nh bất thường và lối hành xử nửa khôn nửa dại cũng như tính khoe khoang phách lối quá độ của ông ta. Tổng thống Diệm rất ghét ông Trần văn Khiêm nhưng vào mùa Thu năm 1963, Khiêm được anh chị là vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu cử giữ chức Giám đốc Nha Nghiên cứu Chính trị thay thế Bác sĩ Trần Kim Tuyến bị hạ tầng công tác, đổi đi làm Tổng lănh sự tại Ai Cập để tê liệt khả năng chống đối của Bác sĩ Tuyến có thể nguy hiểm cho chế độ.
    Tại Huế và miền Trung có mụ Luyến, một người bà con trong họ Ngô Đ́nh, làm gia nhân hầu hạ thân mẫu Tổng thống Diệm từ thời c̣n trẻ. Mặc dầu có chồng và ba, bốn người con, nhưng mụ Luyến không ở riêng lại cùng chồng và con ở chung với ông Ngô Đ́nh Cẩn trong nhà tại Phú Cam. Từ ngày ông Diệm cầm quyền, người ta không c̣n dám gọi Mụ Luyến là Mụ nữa mà gọi là Bà. Dù không có một chức vụ nào ngoài nhiệm vụ quản gia nhưng nhờ sống cận kề lănh chúa Ngô Đ́nh Cẩn mà “Bà” ta có quyền sinh sát, một tiếng nói của “Bà” Luyến với ông Cẩn cũng đủ làm cho nhiều người lên voi xuống chó. Viên chức chính quyền cũng như quân đội ở miền Trung phải cung kính, sợ hăi, nịnh hót, bợ đỡ “Bà” Luyến cũng cùng mức độ như đối với ông Ngô Đ́nh Cẩn. Dư luận dân chúng Huế đă mỉa mai gọi mụ Luyến bằng cái hỗn danh “Đệ nhất phu nhân” của miền Trung.

    Nói tóm lại Việt Nam là một nước Cộng ḥa nhưng qua Hiến pháp (sẽ được phân tích ở một chương sau) và qua thực tế, người ta thấy ông Diệm không phải là một Tổng thống do dân bầu để cầm đầu ngành hành pháp mà là một vị vua của thời phong kiến và bà con anh em ông ta đều là “Hoàng thân Quốc thích”, thứ Hoàng thân Quốc thích có quyền hành nắm hết rường mối quốc gia. V́ thế nhân dân Việt Nam và báo chí quốc tế đă nặng lời chỉ trích chế độ Ngô Đ́nh Diệm và gọi chế độ ấy là chế độ “gia đ́nh trị”, một thứ h́nh dung từ sâu sắc và ám ảnh tâm trí mọi người đến độ chỉ cần nói ba tiếng ấy là người ta biết ngay nói đến chế độ nào.

    Nhưng chế độ “gia đ́nh trị” Ngô Đ́nh Diệm không phải chỉ ngừng lại ở sự việc toàn thể bà con, anh em, dâu rể, nội ngoại (và cả mụ Luyến, một người giúp việc nhà) nắm toàn quyền lănh đạo đất nước, nắm trọn quyền sinh sát nhân dân, nắm trọn tài nguyên quốc gia mà chế độ đó đang c̣n tự biến dần để trở thành một triều đại vua chúa như các triều đại Đinh, Lê, Lư, Trần, Nguyễn... Bởi v́ ngoài chuyện quốc gia hóa lễ Bổn Mạng Tổng thống Diệm mà ông Đoàn Thêm (trong “Hai Mươi Năm Qua”) đă tự hỏi ai đă đề nghị như vậy, chế độ đi dần đến việc tổ chức “Ủy ban Nhân dân lễ khánh thọ lục tuần” của Tổng thống Diệm, lễ đầu tiên được tổ chức vào ngày 28-12-1960 (8 ngày sau khi Mặt trận Giải phóng miền Nam ra đời). Hơn nữa, thứ nghi lễ vua chúa đó cũng không ngừng lại chỉ để dành riêng cho ông Tổng thống mà người ta c̣n đi xa hơn bằng cách tổ chức lễ “Cửu Tuần Khánh Thọ” cho bà Ngô Đ́nh Khả, mẹ của Tổng thống (ngày 18-9-1961). Nhiều đại diện các đoàn thể, nhiều nhân vật cao cấp của chính quyền phải về Huế để dâng lời chúc mừng lên “Thái Từ” trong lúc Bộ Nội vụ chính thức tổ chức Lễ Tạ Ơn tại Vương Cung Thánh Đường tại Sài G̣n.

    C̣n nghi ngờ ǵ nữa: anh em ông Diệm đang sửa soạn một số nghi thức, một số danh từ, sửa soạn dư luận để hoán chuyển từ chế độ Cộng ḥa trở thành chế độ quân chủ và chỉ đợi ngày ông Diệm tức vị đăng quang lên ngôi Hoàng Đế. Mà nếu không th́ ít nhất ông Diệm cũng đă trở thành một thứ “Tổng Đế” như ông Đoàn Thêm đă mỉa mai.
    Dù sao th́ Ngô triều đang làm sống lại những lễ nghi của Nguyễn triều chẳng hạn như “Lễ Khánh Thọ Tứ Tuần” của vua Khải Định, đang làm sống lại hai tiếng “Đức Từ” dành cho mẹ vua Bảo Đại mà thời gian chưa đủ lâu để xóa nḥa tâm trí nhân gian. Điều đáng nói là mẹ vua Bảo Đại tuy được xưng tụng là “Đức Từ” nhưng Bà lại không được con bà (một vị Quốc trưởng) và chính phủ của con Bà dành cho những vinh dự quá lớn lao như “Thái Từ” mẹ của anh em nhà họ Ngô Đ́nh.

    * * * * *

    Tuy nhiên trong những năm đầu tiên của chế độ, khi mà thời cuộc vừa chuyển đổi qua một giai đoạn mới với niềm tin vào tương lai mà động lực là hy vọng để toàn dân cùng với chính quyền bắt tay vào việc xây dựng đất nước, th́ những cảm nhận của quần chúng về chính sách “gia đ́nh trị” dễ dàng được tha thứ nhờ những thành quả ngoạn mục mà chế độ đă thực hiện được:

    Trước hết là việc chuyên chở và định cư cho hơn 860.000 người di cư trong đó có gần 700.000 người Công giáo. Việc chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam được kế hoạch và sử dụng phương tiện chuyên chở của Pháp và Mỹ, c̣n việc định cư th́ hoàn toàn chỉ do tiền viện trợ của Mỹ đài thọ. Công cuộc định cư sở dĩ hoàn thành mau chóng và tốt đẹp là một phần nhờ ông Diệm dành những vùng đất màu mỡ rộng lớn cho dân di cư. Ví dụ như ông Diệm đă lấy đất Cái Sắn màu mỡ cấp phát cho 45.000 nông dân; lấy bờ biển B́nh Tuy và đảo Phú Quốc, những nơi nổi tiếng nhiều hải sản cho dân chài lưới; lấy Long Khánh, Định Quán, Gia Kiệm, Hố Nai cho dân khai thác lâm sản và làm đồ mộc, lấy Ban Mê Thuột và Cao Nguyên vùng đất đỏ ph́ nhiêu cho dân trồng trọt hoa mầu để xuất cảng; lấy vùng Ngă Ba Ông Tạ, Tân B́nh, G̣ Vấp chung quanh Sài G̣n cho dân thương măi và kỹ nghệ... Nhờ tiền bạc dồi dào của Mỹ, nhờ chính quyền dành cho mọi sự dễ dàng, nhờ Tổng thống Diệm chú tâm nâng đỡ, chẳng bao lâu người dân di cư miền Bắc đă hội nhập dễ dàng vào cuộc sống của dân miền Nam mà trước đó họ coi là vùng đất xa lạ. Và cũng chẳng bao lâu, đời sống dân di cư đă đi từ ổn định đến trù phú c̣n hơn cả dân địa phương. Công cuộc định cư mau chóng và tốt đẹp cho hơn 700.000 người Công giáo di cư đă làm cho các quốc gia trên thế giới nhất là Hoa Kỳ phải khâm phục. Một bác sĩ trẻ của Hải quân Mỹ, ông Tom Dooley, một nhân vật rất mộ đạo Thiên Chúa từng tham gia vào việc chuyên chở người Bắc di cư vào Nam, nhận thấy tinh thần chống Cộng cao độ của người Thiên Chúa giáo Việt Nam đă t́nh nguyện ở lại miền Nam để thực hiện nhiều công cuộc nhân đạo, viết sách ca ngợi công tŕnh di cư và định cư làm cho nhân dân Mỹ càng thêm kính phục Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.

    Đây là một thành công lớn về mặt xă hội của chính quyền chỉ trừ một điều là trên mặt chính trị, và ở một khía cạnh nào đó, sự chọn lựa vào Nam của gần một triệu người miền Bắc đáng lẽ phải được coi như là một sự chọn lựa chính trị của quần chúng giữa tự do và Cộng sản th́, v́ sự vụng về trong chính sách, đă trở thành một sự lựa chọn chỉ của một khối lượng Thiên Chúa giáo, nghĩa là giữa hữu thần và vô thần. Do đó, đáng lẽ biến cố đó có thể tạo nên nhiều uy thế dũng mănh cho chính nghĩa của miền Nam, th́ nó lại bị giới hạn rất nhiều vào một bộ phận thiểu số của cộng đồng dân tộc. Đó là chưa nói đến những tác hại chính trị và nhân văn gây ra do sự vụng về này.

    Trong những năm 1955-56, ngoài công cuộc định cư cho dân Công giáo miền Bắc, nhiều cải cách xă hội cũng như những biến cố chính trị tốt đẹp khác càng làm tăng thêm uy tín của ông Diệm:
    - Ngày 15 tháng 2 năm 1955, ông Diệm ra lệnh đóng cửa ṣng bạc Kim Chung Đại Thế Giới của Bảy Viễn.
    - Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức Trưng cầu Dân ư, truất phế vua Bảo Đại.
    - Ngày 1 tháng 12 năm 1955, ông Diệm ra lệnh đóng cửa xóm B́nh Khang, nơi buôn bán măi dâm công khai do ông Bảy Viễn để lại, đồng thời ra lệnh cấm hút và cấm buôn bán thuốc phiện để lành mạnh hóa nhân dân miền Nam. Một chiến dịch đốt bàn đèn hấp dẫn vừa để làm gương cho dân chúng vừa để làm cho người ngoại quốc kính nể chế độ.
    - Ngày 4 tháng 4 năm 1956, chính phủ bắt ông Ưng Bảo Toàn, Tổng giám đốc Thương măi ở Bộ Kinh tế v́ tội bán gạo chợ đen (nhưng sau này mới biết đây là một vụ do ông Ngô Đ́nh Cẩn bắt ông Toàn làm vật tế thần).
    - Ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp xuống tàu về nước.
    - Ngày 13 tháng 7 năm 1956, xử tử tướng Ba Cụt, một vị lănh tụ nghĩa quân Ḥa Hảo, chấm dứt t́nh trạng mất ổn định tại miền Tây Nam phần.
    - Ngày 20 tháng 7 năm 1956, do sự khuyến khích và hỗ trợ của Hoa Kỳ, Tổng thống Diệm bác bỏ việc tổng tuyển cử hai miền theo quy định của Hiệp ước Genève.
    - Ngày 21 tháng 8 năm 1956, chính phủ bắt ông Vũ Đ́nh Đa và đồng bọn về tội biển thủ mấy triệu bạc của Ngân hàng Quốc gia.
    - Ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng ḥa.

    Tất cả những thành công trong hai năm đầu của chế độ được xem như là kết quả của những nỗ lực của một chính quyền tuy c̣n yếu kém về mặt quản trị nhưng lại được một sự quyết tâm cộng tác của toàn dân. Tuy nhiên những nỗ lực này, tự nó và nếu chỉ riêng nó, cũng chưa đủ để hoàn thành việc củng cố miền Nam nếu không có sự yểm trợ tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ mà đặc biệt là của ba người Mỹ đă từng liên hệ chặt chẽ với ông Diệm từ trước. Đó là một vị Hồng y, một giáo sư có đầu óc xă hội gốc người Áo và một nhân vật cao cấp CIA, ba nhân vật (từ đầu) đă hoán cải được quan niệm của Tổng thống Eisenhower vốn đă muốn bỏ rơi Việt Nam [9]. Vị Hồng y là ông Spellman, vị giáo sư là ông Buttinger và nhân viên CIA, ai cũng biết, là ông Lansdale.

    Trong ba nhân vật đó th́ Đại tá Lansdale đóng vai tṛ cố vấn trực tiếp bên cạnh Tổng thống Diệm. Ông ta nổi tiếng đến độ không một nhà viết sử nào khi nói đến sự nghiệp của ông Diệm mà không nhắc đến thân thế và hoạt động của ông ta. Đại tá Lansdale đến Đông Dương từ năm 1954, làm cố vấn phản du kích cho quân đội viễn chinh Pháp. Vào tháng Sáu năm 1954, trước t́nh h́nh khẩn trương của Việt Nam, Lansdale được Ngoại trưởng Foster Dulles phái đến Bắc Việt để điều nghiên t́nh h́nh và từ công tác đó đă đẩy đưa Lansdale trở thành bạn thân và cố vấn của ông Diệm, giúp ông Diệm trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa. Do đó nhiều sách sử, báo chí Mỹ gọi Lansdale là “Kẻ tạo nên những ông vua” (The Kingsmaker).

    Lịch sử dân tộc Việt có hai thời kỳ mà nhà lănh đạo Việt Nam có người Âu-Mỹ trực tiếp và công khai làm cố vấn, làm quân sư đặc biệt, đó là thời kỳ chúa Nguyễn Ánh Đàng Trong và thời kỳ miền Nam với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.

    Thật vậy, Giám mục Pigneau de Béhaine người Pháp trong suốt mười năm ở với chúa Nguyễn Ánh thực sự đă là một Thượng thư Bộ Binh và Bộ Ngoại giao, đêm ngày quên cả đọc kinh, lo dịch binh thư, lo giao thiệp với Pháp và các nước lân bang, lo chủ tŕ hội nghị các sĩ quan Pháp giải quyết việc quân sự, giúp chúa Nguyễn Ánh giải vây thành Quy Nhơn. Pigneau đă đóng góp cho chúa Nguyễn Ánh phần công lao to lớn trong việc đè bẹp được nhà Nguyễn Tây Sơn để sau này chúa Nguyễn Ánh thống nhất xứ sở. [10]

    Miền Nam Việt Nam vào những năm 1954, 55, 56 trước những khó khăn và nguy hiểm mà ông Diệm tưởng là khó ḷng vượt qua được (đến nỗi ông Diệm chán nản đă định bỏ nước ra đi vào cuối năm 1954) chính nhờ ông Edward Lansdale làm cố vấn giúp đỡ tận t́nh, ông Diệm đă chuyển bại thành thắng. Không có vấn đề chính trị, quân sự, xă hội nào mà không có ư kiến của ông Lansdale. Hàng ngày, ông Lansdale vào dinh Độc Lập gặp gỡ ông Diệm để thảo luận và đề nghị kế hoạch, ông cũng đă từng gọi ông Diệm là “Papa”, sự kiện này nói lên mối thâm t́nh thắm thiết giữa ông Lansdale và ông Diệm cũng như xác định vai tṛ tối cần thiết và tối quan trọng của ông Lansdale đối với ông Diệm.

    Không những chỉ cần thiết và quan trọng mà uy thế của Đại tá Lansdale c̣n to lớn đến độ đă có lần công khai to tiếng chỉ trích ông Diệm (là một hành động “phạm thượng” nặng nề nếu đó là một người Việt Nam khác) khi ông Diệm đă có những lời lẽ khinh thường tướng cách mạng Tŕnh Minh Thế. [11]

    Đă rất nhiều lần ông Diệm tỏ ra lo âu trước những quyết định của Hoa Thịnh Đốn có vẻ muốn chấm dứt sự ủng hộ của Hoa Kỳ th́ chính Lansdale đă đánh điện về Bộ Ngoại giao để trực tiếp thăm ḍ và can thiệp với Ngoại trưởng Foster Dulles. Khi đă nắm được mọi dữ kiện tích cực trong tay, Lansdale lại đến gặp ông Diệm để bảo đảm rằng chính sách của Hoa Kỳ không thay đổi và khích lệ ông Diệm hăy can đảm mà tiếp tục cầm quyền.

    Trong thời gian ông Diệm bị các giáo phái, B́nh Xuyên, và tướng Nguyễn văn Hinh chống đối, Lansdale và tiền bạc của Mỹ đă lôi kéo được một số tướng tá giáo phái về với ông Diệm và đă gây được sự chia rẽ trong hàng ngũ chống đối ông Diệm, củng cố địa vị cho ông ta và đưa ông ta đến thắng lợi cuối cùng. Đồng thời với việc ổn định t́nh h́nh miền Nam, Lansdale đă thiết định cho ông Diệm những kế hoạch trong việc tiếp thu các vùng B́nh Định và Cà Mâu do Việt Minh để lại. Lansdale giúp ông Diệm thành lập cơ quan Công dân vụ gồm thanh niên áo đen về thôn quê giúp đỡ đồng bào tái tạo đời sống mới. Ông ta c̣n khám phá ra và giới thiệu với ông Diệm vị trưởng cơ quan Đặc ủy Công dân vụ là ông Kiều Công Cung. Lansdale cũng đă giúp cho ông Diệm tổ chức hội Cựu Chiến Binh và nhà phát hành Thống Nhất để ông Diệm có một hậu thuẫn vững chắc gồm những người đă từng cầm súng chống lại Cộng sản. Lansdale lại c̣n đưa một phái đoàn Phi Luật Tân qua Việt Nam trong chương tŕnh y tế gọi là “chiến dịch huynh đệ” (Operation Brotherhood)... để giúp dân quê Việt Nam hướng về một đời sống tiến bộ hơn.

    Ngoài Lansdale ra c̣n có giáo sư Buttinger, giáo sư Fishel và một số người Mỹ khác giúp ông Diệm về những phương tiện kinh tế, giáo dục tạo sự phồn thịnh cho miền Nam. Họ đă giúp ông Diệm bành trướng Viện Đại học Sài G̣n, thiết lập Viện Đại học Huế, mở trường Quốc gia Hành chánh, trường Nông Lâm Súc, trường Kỹ Thuật Phú Thọ... mở các nhà máy than Nông Sơn, nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy đường Hiệp Ḥa, các cơ sở kỹ nghệ bông vải, ve chai... tạo công ăn việc làm cho dân lao động để mở mang kinh tế cho miền Nam...

    Người Mỹ cũng giúp ông Diệm tái tạo lại hệ thống đường sá, bài trừ nạn mù chữ, thiết lập chương tŕnh y tế nông thôn, đào giếng cho dân quê, và thành lập những đội xịt thuốc DDT để bài trừ nạn sốt rét.
    Nếu chúng ta đă không phủ nhận được quyết tâm của toàn dân và của chính quyền nhằm mau chóng và vững vàng xây dựng một miền Nam hồi sinh th́ chúng ta cũng không thể phủ nhận được chính người Mỹ, trên tất cả mọi mặt, đă yểm trợ cho chúng ta hoàn thành ước nguyện đó. Nhân, tài, vật, lực chảy vào miền Nam không ngơi nghỉ. Chính sách, kế hoạch, phương tiện, tài chánh đổ vào miền Nam không giới hạn.
    Và sau 10 năm trời chiến tranh ly loạn (1945-1955) trong khung cảnh ḥa b́nh an lành và với một viễn tưởng phồn vinh trước mắt, dân miền Nam đă cảm thấy cuộc đời ấm no hơn và tương lai tươi sáng hơn.
    Cũng trong những năm đầu của chế độ, về mặt đối ngoại, ông Diệm đă gây được nhiều uy thế to lớn. Nhiều quốc gia thuộc khối phi liên kết công nhận Việt Nam Cộng Ḥa, mà chuyến viếng thăm của ông U Nu (Thủ tướng Miến Điện) ngày 11 tháng 11 năm 1956 là một bông hồng vô cùng quư giá cho chế độ ông Diệm. Cao Miên vốn coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp thế mà nay phải kiêng nể Việt Nam Cộng Ḥa, c̣n Lào th́ kết thân với Việt Nam làm anh em dựa vào nhau theo cái thế môi hở răng lạnh.

    Trong ba năm đầu, tên tuổi ông Diệm vang lừng trên trường quốc tế nhờ những cuộc công du thăm viếng các quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Hoa Dân Quốc, Đại Hàn. Đặc biệt ông được ṭa Bạch Ốc mời viếng thăm chính thức nước Mỹ ngày 4 tháng 4 năm 1957. Ngược lại nhiều chánh khách và lănh tụ quốc tế tên tuổi như Ngoại trưởng Dulles nước Mỹ, Ngoại trưởng Couve de Murville của Pháp, ông Pinay cựu Thủ tướng Pháp, Tổng thống Lư Thừa Văn của Đại Hàn, Phó tổng thống Trần Thành của Trung Hoa Dân Quốc cũng đă đến viếng thăm Việt Nam.

    Cho đến mùa Xuân năm 1959, mặc dù Việt cộng đă hoạt động mạnh khiến t́nh h́nh an ninh nông thôn bắt đầu đáng lo ngại nhưng danh tiếng của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm vẫn c̣n sáng chói nhờ những quan hệ đặc biệt với Ṭa thánh La Mă Vatican và quốc gia Ấn Độ, một nước đang có nhân viên làm Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến tại Việt Nam. Ngày 16 tháng 2 năm 1959, Đức Hồng y Agagianian, đại diện Đức Giáo hoàng đến Sài G̣n chủ tọa lễ 300 năm thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam và tôn vinh nhà thờ Đức Bà Sài G̣n lên hàng Vương Cung Thánh Đường. Trong những ngày Đức Hồng y có mặt tại Việt Nam với những buổi lễ ngoài trời, cờ của Ṭa thánh chen lẫn với cờ quốc gia tung bay trước công viên dinh Độc Lập và khắp mọi tỉnh thị tạo nên một khung cảnh náo nhiệt rộn ră khắp miền Nam. Ngày 18 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Ấn Độ là ông Prasad viếng thăm Việt Nam mà lại đến Sài G̣n trước rồi mới đến Hà Nội sau, gây thêm vinh dự và tự hào cho chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 7 tháng 8, con đường xe lửa xuyên Việt nối liền Đông Hà với Sài G̣n được khánh thành trọng thể càng tạo nên cảnh thanh b́nh cho đất nước.

    Như vậy, kể từ khi hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước rồi ông Diệm về chấp chánh, ít ai nghĩ rằng ông Diệm có thể vượt thắng được những khó khăn, ít ai nghĩ rằng chế độ có thể tồn tại lâu dài. Nhưng miền Nam đă đứng vững, đă hồi sinh. Và ông Diệm đă duy tŕ được chế độ để bước lên đài vinh quang. Báo chí trong và ngoài nước ca tụng ông Diệm là người hùng của vùng Đông Nam Á và Tổng thống Eisenhower đă gọi ông Diệm là “người của phép lạ” (the miracle man).
    Nhưng bất hạnh thay cho dân tộc Việt Nam! Bức tranh màu sắc rực rỡ trên đây chỉ như cái ráng hồng của một chiều trời nắng quái trong buổi tàn thu, v́ chung quanh ráng hồng đó, mây đen đă bắt đầu vần vũ báo hiệu một cơn giông tố hăi hùng sắp xảy ra. Chính Đại tá Lansdale, người lạc quan nhất và nắm vững t́nh h́nh khá rơ, cũng đă bắt đầu nhận thấy nhiều hiện tượng bất ổn cho chế độ. Ông đă thấy sự ra đời của đảng Cần Lao, ông đă thấy cung cách lănh đạo độc tôn, độc tài của anh em ông Diệm, ông đă nghe nói đến những cuộc đi bắt người ban đêm của cán bộ đảng Cần Lao, đă chứng kiến việc bắt bớ thủ tiêu những người quốc gia đối lập... Trước khi từ giă Việt Nam để về Mỹ vào cuối năm 1956, ông Lansdale đem tâm t́nh khuyên bảo Tổng thống Diệm nên noi gương Tổng thống Washington đứng trên và đứng ngoài mọi tranh chấp tôn giáo và đảng phái để cứu nước và trở thành “vị cha già dân tộc”. Nhưng than ôi! Những lời khuyên chí t́nh của ông Lansdale đă theo gió mà bay về Mỹ, để lại sau lưng một chế độ ngày càng đi sâu vào tội lỗi mà chính ông cũng bị anh em ông Diệm phũ phàng quên hết công ơn... Cuối năm 1955, khi mối đe dọa và mối hiểm nghèo đă qua rồi, Thiếu tướng Trần văn Đôn không thấy ông Lansdale ngày ngày bên cạnh Tổng thống Diệm nữa, bèn hỏi lư do th́ được ông Diệm trả lời: “Lansdale CIA quá, ồn ào quá. Trong chính trị, không có chỗ cho t́nh cảm” [12]. Thế là sau tướng Tŕnh Minh Thế đến Đại tá Lansdale bị quên ơn.

    Chính v́ quan niệm “trong chính trị không có chỗ cho t́nh cảm” này, nghĩa là không đếm xỉa đến bản vị con người trong một triết lư hành động nhân trị, mà sau này, kể từ những năm 60, chế độ gia đ́nh trị của ông Diệm đi vào con đường bạo trị bạo quản. Nhưng đó là chuyện về sau, v́ trong những năm đầu chấp chánh, khi mà men quyền lực c̣n chưa làm say sưa cấp lănh đạo... th́ quả thật ḷng dân đều đặt hết vào ông Diệm niềm tin trọn vẹn. Thể hiện rơ ràng nhất là chuyến viếng thăm lần thứ nh́ 4 tỉnh miền Nam Trung Việt, nơi địa phương Duyên Hải mà tôi đang là Tư lệnh vào tháng 9 năm 1955.

    * * * * *

    Trước khi ông Diệm rời Sài G̣n, ông Vơ văn Hải gởi công điện cho tôi thông báo lộ tŕnh kinh lư gồm trước hết là tỉnh Phú Yên để khánh thành đập Đồng Cam, sau đó ông sẽ thăm ba tỉnh Khánh Ḥa, Ninh Thuận, và B́nh Thuận. Ngoài ra Hải c̣n gởi một lá thư riêng đề nghị tôi tổ chức thật trọng thể và thật có ư nghĩa chuyến kinh lư này v́ “kỳ này ông Cụ đi thăm dân c̣n có Ngoại giao đoàn và một số đông báo chí quốc tế tháp tùng”.

    Muốn buổi lễ trở nên “trọng thể và có ư nghĩa” th́ theo tôi không có cách nào hay hơn là biểu dương được niềm tin mạnh mẽ của quần chúng về vị lănh tụ của ḿnh. V́ vậy tôi bèn nhờ Phong trào Cách mạng Quốc gia huy động thêm nhân dân ở hai quận ngoại biên của thành phố Nha Trang là Diên Khánh và Vĩnh Xương tham dự vào cuộc nghênh đón vị nguyên thủ quốc gia. Chương tŕnh thăm viếng Nha Trang dự định bắt đầu vào lúc 4 giờ chiều, không ngờ cuộc lễ khánh thành đập Đồng Cam bị chậm trễ thành ra hơn 8 giờ tối ông Diệm mới tới phi trường Nha Trang. Dù bất ngờ, anh em quân dân cũng kịp thời mua nứa làm trên mười ngàn cái đuốc phát cho dân chúng để thắp sáng thêm thành phố.

    Khi ông Diệm đến nơi, cả một rừng người đứng chật dọc theo các đại lộ từ phi trường về đến trung tâm thành phố, nơi có “chợ phiên triển lăm kinh tế” do ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân (hiện ở Mỹ) tổ chức để đón mừng vị nguyên thủ quốc gia. Tiếng hoan hô vang dội và đèn đuốc sáng choang tưng bừng rộn ră một góc trời. Tôi đứng chung với ông Diệm trên chiếc xe Jeep đi giữa hai hàng dân chúng, thỉnh thoảng ông quay nh́n tôi với vẻ mặt vô cùng hoan hỉ, miệng luôn luôn nở nụ cười và hai tay dơ cao đáp lại lời tung hô của dân chúng. Trong cuộc kinh lư này c̣n có cả ông Ngô Đ́nh Luyện đi theo.

    Đêm đó tôi mời ông Diệm và các vị Bộ trưởng lên sân thượng khách sạn “Beau Rivage” để xem đoàn xe hoa 140 chiếc của quân đội diễn hành mừng quan khách. Trên bầu trời đen tối lấp lánh ánh sao, phi cơ L19 và phi cơ Dakota của Không quân (do Thiếu tá Oánh - hiện ở Mỹ - chỉ huy) bay theo đội h́nh và thả hỏa châu muôn màu biến trời cao biển rộng của Nha Trang thành một tấm thảm nạm kim cương lóng lánh. Cuộc tŕnh diễn của quân đội kéo dài từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng, các Bộ trưởng dần dần tỏ dấu mệt mỏi, riêng ông Diệm vẫn vui tươi ngồi nh́n đoàn xe hoa đi qua, thỉnh thoảng ông đứng thẳng dậy dơ hai tay cao vẫy chào tỏ ư khen ngợi và để đáp lại tiếng hoan hô của quân đội. Tôi nghĩ rằng từ ngày thành phố Nha Trang được thành lập có lẽ chưa bao giờ dân chúng được chứng kiến một đêm hoa đăng tưng bừng rộn rịp như đêm ông Diệm đến viếng thăm vào mùa Hè năm 1955 đó. Tôi cố gắng tạo một cuộc nghênh đón thật đông đảo, huy hoàng để chứng tỏ quân đội và nhân dân đang ngưỡng mộ nhà lănh đạo mà có thể c̣n nhiều nhân vật quốc tế c̣n nghi ngờ là uy tín vẫn chưa thật sự ăn sâu trong ḷng người Việt Nam.

    Cuộc kinh lư của ông Diệm kéo dài trong niềm hân hoan của mọi người và trong sự đắc ư của ông Diệm cho đến khi ông lên phi cơ ở phi trường Phan Thiết để trở về Sài G̣n. Trước khi phi cơ cất cánh, ông Diệm đă bắt tay tôi thật chặt và nói thật thiết tha: “Mậu gắng làm việc nghe”. Tôi biết đó không phải là một lời chào tạm biệt, lại càng không phải là lời cám ơn của một cấp chỉ huy với một cán bộ trung kiên đă chứng tỏ qua nhiều lần quyết tâm phục vụ cho đất nước và cho cá nhân ông từ gần 15 năm nay, mà rơ ràng đó là một lời kết ước sâu sắc mà ông thề nguyền. V́ cũng câu nói đó, tôi đă từng nghe dặn ḍ nhiều lần trong những giai đoạn gian nan của ông Diệm và tôi, trong những giờ phút vinh nhục của thời kỳ đấu tranh nguy hiểm.

    Tổ chức cuộc nghênh đón vô cùng long trọng sau ngày ông Diệm đă lật đổ một chế độ phong kiến, sau ngày ông Diệm đă bước lên đài vinh quang tột đỉnh, tôi tự cho đă chấm dứt giai đoạn mở đầu của chế độ, giai đoạn giới thiệu nhà lănh đạo với quốc dân đồng bào. Từ nay tôi chú tâm vào công việc đóng góp phần nhỏ mọn của ḿnh vào công cuộc kiến thiết và bảo vệ chế độ để phục vụ quốc gia. Tôi trở về với nhiệm vụ của người quân nhân, lo tảo thanh vùng rừng núi nghi ngờ c̣n Việt cộng ẩn nấp và lo việc huấn luyện binh sĩ. Một trong những cuộc hành quân quy mô được mở ra tại vùng rừng núi giáp giới ba tỉnh B́nh Định, Phú Yên và Pleiku. Bộ Tổng tham mưu biệt phái Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi làm Tham mưu trưởng cho cuộc hành quân đó. Nguyễn Huy Lợi (hiện nay ở Mỹ) là một sĩ quan trẻ tuổi, có tài, có kinh nghiệm, giỏi cả về tham mưu lẫn tác chiến. Tôi đă biết Lợi từ ngày c̣n chiến đấu ở Bắc Việt. Mấy tháng Lợi làm việc ở Nha Trang đă giúp tôi khám phá thấy Lợi là viên sĩ quan trẻ tuổi thông minh, có thể trở thành một tướng lănh ưu tú của quân đội sau này. Tiếc thay, cuối năm 1960, Lợi tham gia tích cực cuộc lật đổ chế độ nhà Ngô nhưng không thành nên phải mai một, cơ cực mấy năm trời lưu vong tại Cao Miên.

    Về phương diện huấn luyện binh sĩ th́ dưới quyền tôi có trường Bộ binh Đồng Đế, cách Nha Trang 3 cây số là trung tâm đào tạo hạ sĩ quan lớn nhất của quân đội. Một hôm, Thiếu tá Lê Cầm (do Thiếu tá Huỳnh văn Cao, Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ tổng thống, đặt để) chỉ huy trường Hạ sĩ quan, mời tôi và ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân cùng phái đoàn nhân sĩ và hành chánh Nha Trang đến thăm trường.

    Sau khi thăm xong các cơ sở doanh trại, Cầm mời chúng tôi đến chiêm ngưỡng một ngôi “giáo đường” to lớn và khang trang. Tôi khen ngợi Cầm có sáng kiến tốt, đồng thời cũng hỏi xem Cầm có thiết lập một ngôi chùa nào không. Cầm trả lời “chưa”. Tôi nổi nóng ngay và la Cầm: “Ở đây chỉ có vài trăm binh sĩ theo Công giáo th́ anh lo làm nhà thờ ngay, trong lúc đó đến trên 3.000 quân nhân theo đạo Phật th́ anh không chịu để ư lo phần thiêng liêng của họ, anh làm vậy binh sĩ sẽ ngờ rằng Tổng thống Diệm chủ trương kỳ thị tôn giáo, hơn nữa anh là cấp chỉ huy có đạo Thiên Chúa, anh sẽ mang tiếng bất công. Lại nữa việc làm của anh tỏ ra anh đă không tuân lệnh tôi. Rất nhiều lần trong các buổi học tập, tôi đă tuyên bố Tổng thống Diệm là nhà lănh đạo đặt tổ quốc lên trên tôn giáo... không bao giờ ông có thái độ kỳ thị, thiên vị, hẹp ḥi...”. Không ngờ những lời tôi la mắng Thiếu tá Lê Cầm đă đem lại hậu quả tai hại cho tôi liền ngay sau đó.

    Vào khoảng tháng 7 năm 1956, th́nh ĺnh tôi nhận được lệnh bàn giao lại Phân khu Duyên Hải cho Trung tá Nguyễn Vĩnh (thường được binh sĩ gọi là Vĩnh Hèo v́ ông hay cầm hèo đánh vào đầu binh sĩ mỗi khi có lầm lỗi). Tôi được thuyên chuyển về đơn vị quản trị Sài G̣n đợi lệnh mới. Nhận được lệnh, tôi liền bí mật vào Sài G̣n gặp Bộ trưởng Trần Trung Dung vốn quen biết với tôi từ năm 1953 tại Hà Nội, để hỏi duyên cớ v́ sao tôi bị mất chức một cách vô lư và bị thuyên chuyển như một h́nh phạt. Ông Trần Trung Dung cho biết việc đó là do lệnh trực tiếp của ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, v́ theo ông Nhu th́ tôi mang đầu óc công thần và có lời lẽ thất lễ đối với Tổng thống. Mấy ngày sau Trung tá “Vĩnh Hèo” cho tôi biết ông được lệnh mở cuộc điều tra về ngân quỹ của Bộ tham mưu Phân khu Duyên Hải do tôi sử dụng. Nhưng v́ Phân khu Duyên Hải không có ngân quỹ riêng nên cuộc điều tra không đưa đến kết quả nào. Tiếp đến là một phái đoàn đảng Cần Lao gồm có Thiếu tá Công giáo Vũ Hùng Phi và một cán bộ của Tổng Liên đoàn Lao công (mà tôi quên tên) đến Nha Trang để tiếp xúc với các cơ quan quân dân chính để điều tra tôi về tội “phá Công giáo”. Những hiện tượng trên cho tôi thấy ḿnh bắt đầu trở thành đối tượng chống phá của nhóm Công giáo và Cần Lao mà nguyên do chỉ v́ sự mâu thuẫn giữa tôi và ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân, người thuộc phe Công giáo Nha Trang.

    Ông Nguyễn Trân khởi nghiệp là một vị quan lại Nam triều, c̣n tôi xuất thân từ một quân nhân trong một quân đội bảo hộ. Nếu thế nước ḷng dân mà cứ êm đềm như ḍng sông Hương th́ có lẽ tôi và ông Nguyễn Trân không có cơ hội gặp gỡ như lời của chí sĩ Phan Sào Nam: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai!”. Nhưng cuộc đời lại không bẳng phẳng măi cho nên tôi mới gặp ông Nguyễn Trân để bị đố kỵ, kéo bè, kết đảng cố t́nh làm hại tôi.

    Tôi biết ông Nguyễn Trân lần đầu tiên vào năm 1949-1950 khi tôi c̣n làm việc tại Bộ Tham mưu Việt binh đoàn ở Huế. Ông Trân đến nhà tôi để nhờ tôi vận động với Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ cho ông ta được gia nhập Việt binh đoàn với cấp bậc “Chuẩn úy”. Nhưng ông Lễ từ chối v́ biết ông Trân đang bí mật làm việc cho công an Pháp tại Huế (Sureté Féderale). Tôi cũng có gặp ông Trân vài lần tại nhà ông Ngô Đ́nh Cẩn ở Phú Cam. Nhưng như tôi đă nói ở chương trước, ông Trân đến với ông Cẩn chỉ để ḍ la t́nh h́nh. Thật ra ông Trân khinh ông Cẩn dốt nát, c̣n ông Cẩn th́ chê ông Trân là một cựu quan lại tham nhũng; thế mà tôi không hiểu v́ lư do nào ông Trân lại được cử làm Tỉnh trưởng Khánh Ḥa khi ông Diệm vừa được Bảo Đại cử làm Thủ tướng. Mấy tháng sau, ông Tôn Thất Toại c̣n cho tôi biết dĩ văng không đẹp của ông Trân v́ ông Trân đă có thời làm Tri huyện dưới quyền ông Toại khi ông Toại c̣n làm Tuần vũ Phú Yên. Lúc c̣n làm Tri phủ Tỉnh Gia (Thanh Hóa) ông Trân bị liên hệ vào một vụ bông vải thời kỳ Nhật chiếm đóng. Nhiều người c̣n ví ông Nguyễn Trân là một thứ Trần Mậu Trinh thứ nh́, v́ ông này làm Tri huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), nhân khi ông Khâm sứ Pháp đi xe hỏa ra Hà Nội, ông Trần Mậu Trinh bèn cho trồng chuối dọc hai bên đường rầy suốt dọc huyện Hương Khê v́ biết viên Khâm sứ đó thích trồng chuối. Ông Nguyễn Trân không trồng chuối nhưng lại thích mở chợ phiên. Đến Nha Trang hai năm, ông mở hai chợ phiên: chợ phiên Kinh tế năm 1955 và chợ phiên Trung thu năm 1956. Vào Mỹ Tho, ông ta lại mở chợ phiên luôn mấy tháng và bày tṛ đấu lư với những cán bộ Cộng sản đang bị giam.

    Thời gian ở Nha Trang, cứ mỗi lần tôi tổ chức biểu t́nh chống Pháp, chống Cộng th́ ông Trân cùng với c̣ Dần lẩn tránh vào Phan Rang hay “đi công tác trong Phủ tổng thống” v́ lúc bấy giờ vẫn c̣n người Pháp, Nha Trang vẫn c̣n ṭa Đại diện Pháp (Délégation Francaise). Nhưng hễ cuộc biểu t́nh đưa đến kết quả mỹ măn th́ ông ta lại khoe khoang với dinh Độc Lập là mặc dù đi vắng nhưng ở nhà, dân chúng Nha Trang vẫn tự động biểu t́nh chống Pháp, chống Cộng, để khoe “dân của ông” có tinh thần rất cao.

    Tôi biết rơ sở dĩ ông Trân đố kỵ và muốn tôi rời khỏi địa phương của ông v́ cái t́nh cảm ghen tức và vị kỷ rất thường bám rễ chặt trong một số cấp quan lại thời phong kiến. Tôi là cán bộ tiền phong của chế độ mà ông Trân th́ không; tôi là người đứng đầu sóng gió mà đấu tranh c̣n ông th́ vào Dinh mà kể công, cho nên, đối với ông, tôi là một thứ gươm Damocles trên đầu. Ngoài ra, và trực tiếp hơn, tôi là một Phật tử chỉ biết ông Diệm là cấp chỉ huy duy nhất của ḿnh, c̣n ông Trân lại là một tín đồ Công giáo đang góp phần xây dựng một pháo đài Công giáo chung quanh những người anh em ông Diệm. Tôi nghĩ rằng chính điểm này, điểm then chốt này, đă là lư do cuối cùng và mạnh mẽ nhất làm cho ông Trân t́m cách và đă thành công trong việc thuyên chuyển tôi ra khỏi địa phương mà tôi đă xây dựng.

    Từ đầu, tôi không muốn có mâu thuẫn với ông ta v́ dù sao chúng tôi đều là cấp lănh đạo địa phương, nếu trầm trọng hóa và công khai hóa th́ có thể mất uy tín của chế độ và làm buồn ḷng ông Diệm. Gặp ông Trân tôi chỉ than phiền một số cử chỉ thiếu thành thực của ông ta, không ngờ ông ta vẫn ôm chặt mối hận thù đối với tôi. Ông dùng nhóm Cần Lao Công giáo địa phương, cầm đầu bởi linh mục Nguyễn Sồ và ông Vơ Sĩ, báo cáo về ông Nhu để xuyên tạc tôi.

    Ngày tôi chính thức từ giă Phân khu Duyên Hải lên đường vào Sài G̣n, quân dân chính Nha Trang tổ chức một cuộc tiễn đưa vô cùng cảm động và trọng thể. Quân nhân và đoàn viên Phong trào Cách mạng Quốc gia tập trung đầy cả sân ga và đầy cả công trường Tŕnh Minh Thế với vô số cờ của Phong trào và biểu ngữ mang khẩu hiệu biểu lộ nỗi mến tiếc sự ra đi của một người anh đầu đàn. Nhiều binh sĩ đă ôm lấy tôi mà khóc v́ ái mộ một cấp chỉ huy đă thực hiện t́nh “huynh đệ chi binh” bằng những chính sách cụ thể. Trước hôm tôi ra đi, quân dân chính Nha Trang mở một bữa tiệc tiễn hành, nhiều người đă thay phiên nhau lên máy vi âm ngỏ lời chào tiễn biệt. Vẫn chưa đủ khoái trá với thành công, ông Trân bắn phát đạn cuối cùng: Ông mượn một câu thơ của Thế Lữ để mỉa mai tôi “Đi là chết trong ḷng một ít”. Một nhân viên của tôi là Trung úy Nguyễn Thiện thuộc Đại đội Truyền tin, không thể im lặng được bèn đứng dậy xin phát biểu ư kiến. Thiện mượn tích Liêm Pha và Lạn Tương Như để mỉa mai ông Trân là không có tinh thần đoàn kết, chỉ biết dùng thủ đoạn để hại người hiền.

    Ngày nay, ông Trân và tôi đều làm thân kẻ lưu vong biệt xứ, ăn nhờ ở đậu nơi xứ người, c̣n có sung sướng hănh diện ǵ mà kể lại chuyện tranh chấp xa xưa, hơn nữa ông Trân và tôi đều là người lăo giả, đều đă gần đất xa trời, chẳng qua v́ không những tôi muốn kể lại một ít chuyện của đời ḿnh, mà quan trọng hơn thế nữa, tôi c̣n muốn trang trải kinh nghiệm đời cho thế hệ tương lai nên mới phải trung thực đề cập đến chuyện của ông Nguyễn Trân. Huống chi tư cách ông Nguyễn Trân như thế nào th́ những cựu quan lại và công chức miền Trung, những đồng hương nơi vùng ông Trân ở đều biết rơ (tạp chí Thức Tỉnh tại Los Angeles của kư giả Tô Văn cũng đă có hai kỳ nêu lên một ít t́nh tiết không đẹp về ông Trân rồi). Thành thực mà nói th́ khi bị thuyên chuyển khỏi Nha Trang, tôi không oán hờn ông Trân lắm mà chỉ ngạc nhiên và thầm trách ông Ngô Đ́nh Nhu, làm một nhà lănh đạo cao cấp mà lại chủ quan, thiếu sáng suốt.

    Sau cuộc tiễn đưa thắm thiết t́nh đồng chí của quân dân Nha Trang, dọc chuyến tàu hỏa đưa tôi vào Sài G̣n, đêm đó tôi c̣n đón nhận bao nhiêu cảm t́nh nồng hậu của quân dân vùng duyên hải Nam Trung phần. Mỗi lần tàu ngừng lại tại Ba Ng̣i, Tháp Chàm, Phan Rí và Phan Thiết, hàng trăm chiếc đuốc, hàng ngàn cánh tay của quân dân chính những vùng đó dơ cao lên hoan hô một người chiến hữu cách mạng đă từng dẫn dắt họ trong cuộc đấu tranh chống Phong-Thực-Cộng qua hơn hai năm trời. Các ông Tỉnh trưởng Nguyễn văn Tích (Ninh Thuận) và Hồ Đắc Khương (B́nh Thuận), các Thiếu tá Tiểu khu trưởng như Hồ Nghĩa, Phan Xuân Nhuận và các dân biểu đại diện Phong trào Cách mạng Quốc gia (mà hiện nay c̣n có bác sĩ Nguyễn Trọng Thiện hiện ở Mỹ) đă thay mặt quân dân chính các tỉnh liên hệ ngỏ lời tiễn đưa tôi. Họ bùi ngùi nhắc lại những thành quả thu hoạch được tại địa phương do sự chỉ đạo chính trị của tôi. Đặc biệt tại Ba Ng̣i, Linh mục Nguyễn văn Dũng đă kéo mấy trăm gia đ́nh người Công giáo di cư Quảng B́nh đến ga xe lửa để gặp mặt người đồng hương, đồng chí lần chót. Cha Dũng đă ôm lấy tôi mà khóc nức nở và Cha cũng không ngần ngại to tiếng trách móc ông Ngô Đ́nh Nhu “có mắt mà không có ngươi”. Tôi không ngạc nhiên trước thái độ của nhà tu hành khả kính đó. Ông là người hết ḷng ủng hộ chế độ Ngô Đ́nh Diệm, nhưng ông không phải là hạng linh mục Cần Lao, hạng linh mục hay lui tới cửa ngơ kẻ có quyền, không bao giờ vào ra dinh Phú Cam hay dinh Độc Lập, không bao giờ khúm núm trước cửa Triều đ́nh Ngô Đ́nh Thục ở Vĩnh Long. Sau khi tôi đi rồi, ông Nguyễn Trân t́m mọi cách làm khó dễ địa phận của Cha Dũng ở Hải Triều, thu lại hết số vũ khí mà tôi đă phát cho xóm đạo của cha. Linh mục Nguyễn văn Dũng là một tu sĩ Công giáo có tinh thần cách mạng, có tính t́nh cứng rắn, nhưng tôi không ngờ ông quyết liệt đến độ đă cùng với Phan Xứng tham gia vào tổ chức cách mạng chống nhà Ngô của ông Nguyễn văn Lực sau này. Đă đành Cha Dũng và ông Phan Xứng sau này bí mật tham gia vào hoạt động của ông Nguyễn văn Lực là để đạp đổ một chế độ độc tài làm đau khổ nhân dân 8, 9 năm trời, nhưng biết đâu việc tôi bị cất chức khỏi Nha Trang một cách bất công đă là một yếu tố nhỏ đầu tiên đóng góp cho cái quyết định có thể đă làm Cha mất mạng. Sau cuộc lật đổ ông Diệm (năm 1963) nhóm Cần Lao coi tôi như kẻ thù, nhưng có những phần tử Công giáo như ông Phạm Quốc Trị hay như ông Nguyễn văn Dật (hiện ở Los Angeles) chẳng hạn, quen thân với Cha Dũng, hết ḷng bênh vực tôi, họ không ngần ngại công khai lên án tập đoàn Cần Lao đă phá hoại chế độ và làm suy sụp miền Nam.

    Đến Sài G̣n, tôi t́m cách vào gặp ông Nhu măi mà không được, bèn đi thăm một số bạn bè trong đó có ông Tôn Thất Trạch (hiện ở Pháp) Tổng giám đốc Bảo an. Ông Trạch nguyên là cựu Tri huyện, theo ông Diệm từ ngày hồi cư khoảng 1949, 1950. Khi ông Diệm mới về nước làm Thủ tướng, nhờ là người liêm chính ông Tôn Thất Trạch được chọn giữ chức vụ tín cẩn là Đổng lư Văn pḥng. Nhưng tính t́nh vốn cứng rắn, nói phô thiếu mềm dẻo, nên ông Trạch không được ông Diệm ưa thích, sau đó ông Trạch bị mất chức Đổng lư Văn pḥng và được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc Bảo an.

    Tôi vào thăm, ông Trạch mừng lắm, và đề nghị với Bộ trưởng Nội vụ là ông Nguyễn Hữu Châu để tôi giữ chức Phó Tổng giám đốc Bảo an, phụ tá cho Trạch về phần quân sự. Nhưng chỉ độ hai tuần lễ sau th́ Trạch bị ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu khiển trách tại sao lại sử dụng tôi, và đồng thời ra lệnh cho tôi sửa soạn đi nhận chức Tùy viên Quân sự tại Ṭa đại sứ Việt Nam ở Pháp.

    Tôi nghĩ bụng việc chỉ định tôi đi làm Tùy viên Quân sự thật ra chỉ là một biện pháp khai trừ những phần tử “bất hảo” bằng cách cho ra nước ngoài (như trường hợp các ông Bùi văn Thinh, Nguyễn Đôn Duyến, Trần Chánh Thành, Lâm Lễ Trinh, Trần Kim Tuyến sau này...), nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là tại sao lại bổ nhiệm tôi đi Pháp v́ tôi vốn là phần tử có thành tích chống Pháp mà cả ông Diệm và ông Nhu đều biết rất rơ. Vốn nặng t́nh quê hương và thích sống đơn giản nên tôi không thích những kinh thành hoa lệ, náo nhiệt và xa xôi như Paris, hơn nữa lại chán nản trước sự bạc đăi của ông Nhu, tôi đă định xin từ chức. Nhưng nghĩ lại th́ dù sao c̣n có ông Diệm biết rơ cuộc đời ḿnh, biết rơ công lao của ḿnh, biết rơ tấm ḷng trung cang nghĩa khí của ḿnh, cho nên trước khi quyết định từ chức, tôi muốn biết rơ thái độ của ông Diệm như thế nào đă. Tôi xin yết kiến Tổng thống, tŕnh bày mọi sự việc đă xảy ra ở Nha Trang, rồi xin ông Diệm cho tôi được ở lại quê nhà. Ông Diệm trả lời: “Không lẽ cha Sồ mà cũng nói láo về anh hay sao? Anh cứ đi Pháp đi đă”. Ông Diệm không có vẻ giận dữ tôi lắm nhưng tôi vẫn tự hỏi tại sao ông lại không có một quyết định sáng suốt hơn và đúng đắn hơn để gỡ mối oan cho người cán bộ trung kiên. Một ông linh mục th́ thường có thể đúng trong chuyện Đạo, nhưng trong chuyện Đời, nhất là những mâu thuẫn chính trị có tính cách phe phái phức tạp, th́ ông Cha có thể nhầm lẫn lắm chứ. Chỉ một ông Cha Sồ ở Nha Trang mà đă có áp lực nặng nề như thế th́ sau này những linh mục, nhưng Tổng giám mục, những Hồng y... c̣n san sẻ quyền lực và chi phối chính sách đến mức độ nào!

    Tôi rời quê hương ngày 25 tháng 10 năm 1956, một ngày trước lễ Quốc Khánh đầu tiên của miền Nam Việt Nam. Ngày mai, ông Diệm sẽ tuyên bố thành lập nền Cộng ḥa và chính thức ban hành Hiến pháp, sẽ chủ tọa lễ Quốc Khánh trên đại lộ Trần Hưng Đạo huy hoàng cờ quạt. Ngày mai, bạn bè tôi ở đó, đồng chí tôi ở đó, đồng bào tôi ở đó, và lănh tụ tôi ở đó cũng sẽ được mang chung niềm vinh dự lớn, c̣n tôi th́ sau 15 năm gian truân đấu tranh cho dân tộc và cho tổ chức ông Diệm, lại làm kẻ độc hành giă từ quê hương đi đến một phương trời xa ngái. Dẫn theo đứa con trai trưởng mới 16 tuổi cho đỡ đơn côi tại xứ người, tôi bước lên chiếc phi cơ Constellation 4 động cơ của hăng Air France mà buồn ông Diệm hiểu lầm ḿnh th́ ít nhưng giận ông Nhu mới qua sông mà đă chặt cầu th́ nhiều.

    Trời Paris cuối thu lành lạnh, sương trắng giăng mắc suốt đoạn đường từ phi trường Orly về đến trung tâm thành phố. Hai cha con chúng tôi được nhân viên Ṭa đại sứ đón về tạm trú tại một khách sạn ở khu Latin. Đêm đầu tiên trên xứ người thật là dài và sâu.

    Mặc dù được đại sứ Phạm Duy Khiêm hết ḷng vận động nhưng tôi vẫn không được chính phủ Pháp thừa nhận là nhân viên thuộc ngoại giao đoàn. Tôi không ngạc nhiên và cũng không có ư trách người Pháp v́ làm sao họ có thể có thiện cảm với một người có thành tích hung hăn chống lại quyền lợi của quốc gia họ, và đe dọa tính mạng kiều dân của họ tại Việt Nam. Trong bữa tiệc thết đăi Đại sứ Pháp Jean Payart từ Sài G̣n về công cán tại Paris có sự tham dự của hai ông Bùi Xuân Bào và Bửu Kĩnh với mục đích tạo một tiếng dội về Bộ Ngoại giao Pháp, Đại sứ Phạm Duy Khiêm đă giới thiệu tôi không phải là một con cọp hung dữ với Đại sứ Payart, nhưng chính phủ Pháp vẫn coi tôi là phần tử nguy hiểm. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, v́ chính phủ Pháp chưa muốn tạo ra quan hệ căng thẳng giữa Pháp và Việt Nam nên họ đă để cho tôi ở vào cái thế không ở trong quy chế ngoại giao đoàn mà cũng không coi tôi là một personna non grata để trục xuất về nước. Cuối năm 1956, nhân có các ông Trần Chánh Thành và Nguyễn Hữu Châu đi công cán ở Pháp, tôi nhờ hai ông về tŕnh lại với Tổng thống Diệm cho tôi được hồi hương. Trong lúc chờ đợi sự giải quyết của chánh phủ Sài G̣n, tôi lại phải kéo dài chuỗi ngày vô vị chán nản của một người mang tâm trạng bị vắt chanh bỏ vỏ, một người bị phản bội, sống vất vưởng nơi quê người mà tâm huyết đóng góp cho đất nước th́ vẫn sục sôi theo ngày tháng.

    Paris vào tiết trọng Đông sương tuyết lạnh lùng càng làm cho niềm cô đơn thêm tê tái, căn pḥng trọ ở số 10 đường Claude Terrace gần Porte St. Cloud là một cao ốc ở tầng thứ bẩy hứng chịu cơn gió lốc buốt giá khi đêm về. Tôi thường ngồi độc ẩm với b́nh trà tàu thâu đêm và tuy không phải là thi sĩ, nhưng cứ mỗi lần tâm sự dạt dào th́ t́nh thơ lại chứa chan lai láng. Nhớ lại cụ Phan Thanh Giản ngày xưa cũng đă có lần đi sứ sang Pháp nên tôi bèn nhại bài thơ Đường của Cụ để kư thác tâm sự ḿnh, tâm sự mà tôi muốn nhắn gởi cho ông Diệm:

    Từ lúc quen nhau kết chữ đồng,
    Lời thề đă hẹn với non sông.
    Trời Tây riêng tớ sầu cô quạnh,
    Đất Việt mong ai khéo vẫy vùng.
    Chén rượu liên hoan c̣n chửa cạn,
    Con thuyền viễn xứ đă xa trông.
    Trùng dương muôn dặm dù xa cách,
    Rằng nhớ rằng quên, ḷng hỏi ḷng.


    Tôi gởi bài thơ về nước cho một số bạn bè đọc chơi, không ngờ sau này ông dân biểu Vơ văn Trưng, một đồng chí của tôi, lại cho đăng trên tuần báo “Sinh Lực” do ông làm chủ nhiệm và người bạn tri kỷ của tôi là nhà văn Thái văn Kiểm lại gởi cho thi sĩ Đinh Hùng để được ngâm nga trên mục Tao Đàn của đài phát thanh Sài G̣n. Tôi nghĩ rằng bạn hữu tôi đều biết đó là thứ “thơ kaki”, nhưng có lẽ v́ họ thương mến và muốn chia sẻ tâm sự của tôi nên mới phổ biến bài thơ để cùng cảm thông với nỗi buồn của một con người bị bạc đăi mà vẫn cố giữ tấm ḷng cô trung.

    Trong thời gian ở tại Paris, tôi lại t́nh cờ mà biết thêm về tư cách của vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu, sự hiểu biết cần thiết của một cán bộ về cấp lănh đạo quốc gia đang cầm vận mạng đất nước.
    Ông bà Ngô Đ́nh Nhu đến Pháp ở một tuần lễ tại ngôi nhà riêng của ông bà ta tại quận 16 của thủ đô Paris. Ông Bùi Xuân Bào (hiện nay ở Pháp) vừa là Cố vấn của Ṭa đại sứ, vừa là Chủ tịch của Phong trào Cách mạng Quốc gia Hải ngoại, đại diện cho ông Đại sứ, thường đến gặp ông Nhu để tŕnh bày công việc. Một hôm tôi cùng đi với ông Bào đến gặp ông Nhu để tŕnh bày trường hợp khó xử của tôi và yêu cầu cho tôi hồi hương. Gặp ông Nhu, ông Bào mới nói được vài lời th́ ông Ngô Đ́nh Luyện đến, chúng tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với ông Nhu trong khi ông Luyện nói chuyện với bà Nhu trong cùng một pḥng khách. Do đó dù không muốn tôi vẫn nghe câu chuyện của họ, trong đó ông Luyện không gọi bà Nhu bằng chị mà chỉ gọi bằng tên “Lệ Xuân” (ví dụ “Lệ Xuân nói vậy là sai” hay là “Lệ Xuân hay căi bướng”...). Câu chuyện giữa hai người lúc đầu c̣n êm thắm, dần dần đi đến căi vă, tuy lời lẽ chưa đến độ thô lỗ nhưng bầu không khí cuộc nói chuyện đă nặng nề lắm rồi. Ông Bào và tôi ra dấu cho nhau để cáo từ ra về.

    Ngày ông bà Nhu lên đường về nước, ông Bào và tôi lại đến chào tạm biệt ông Nhu và để tiễn ông lên phi trường Orly. Vào nhà, chúng tôi thấy ông Nhu đang ngồi ủ rũ một ḿnh, trong khi đó th́ chuông điện thoại reo vang thúc giục ông bà lên phi trường gấp v́ đă gần tới giờ phi cơ cất cánh, nhưng bà Nhu vẫn “biệt vô âm tín”. Một lát lâu sau, thấy bà Nhu về tay xách tay ôm mấy gói đồ. Thấy mặt vợ, ông Nhu đứng bật dậy như chiếc ḷ xo, miệng lẩm bẩm: “Ḿnh đi đâu để tàu bay hối thúc hoài...”. Ông Nhu nói chưa dứt câu th́ bà Nhu đă nổi cơn thịnh nộ, ném mấy gói đồ xuống sàn nhà làm tung tóe mấy chai lọ, toàn là đồ trang sức đàn bà, và to tiếng nạt lại ông Nhu: “Mấy bữa nay bận rộn, hôm nay mới rảnh để mua một ít đồ dùng sao ḿnh ồn ào quá thế, có gấp th́ về trước đi, tôi về sau”. Bà Nhu cứ tiếp tục lải nhải như thế ngay cả trước mặt chúng tôi trong khi ông Nhu mặt x́u xuống, đứng im lặng. Ông Bào và tôi lại làm dấu cho nhau bước ra khỏi pḥng đứng đợi.
    Tôi được nghe kể nhiều giai thoại về chuyện bà Nhu nạt nộ, hỗn láo với chồng và tôi đă chứng kiến hơn một lần cái cung cách “vô hạnh” của bà vào năm 1962 nhân đi họp ở Bộ Quốc pḥng Sài G̣n, khi tôi ghé thăm ông Nhu ở số 8 đường Ypres. Đến nơi tôi thấy có ông Tôn Thất Cẩn, một bạn thân của nhà họ Ngô, chủ tiệm “Table des Mandarins” ở Paris, đang ngồi với ông Nhu trong pḥng khách. Trong lúc ông Nhu, ông Cẩn và tôi đang nói chuyện th́ bỗng nhà trong nổi lên tiếng bà Nhu quát tháo ồn ào. Nghe tiếng vợ, ông Nhu đưa lời khuyên can, nhưng tiếng quát tháo của bà Nhu càng lúc càng lớn hơn, ông Nhu bèn kéo ông Cẩn và tôi ra mái hiên ngồi nói chuyện. Hôm nay, tại Paris, ông Bào và tôi có cơ hội chứng kiến cái tư cách yếu hèn của một nhà đại khoa bảng, của một lănh tụ quốc gia, chỉ v́ quá chiều chuộng người vợ trẻ mà đành phải mất hết sĩ diện trước những người lạ. Từ khi chứng kiến được cảnh ông Nhu bị vợ làm nhục trước mặt khách, sau này tôi không ngạc nhiên về việc bà Nhu trở thành “Nữ Hoàng” tại dinh Tổng thống, dám la mắng cả người anh chồng là một vị nguyên thủ quốc gia.

    Đáng lẽ sinh ra sau lũy tre làng nơi đồng khô cỏ cháy, bùn lầy nước đọng, th́ dễ bị cuốn hút vào nét kiêu kỳ của kinh đô ánh sáng Paris, nhưng nhờ lớn lên trôi nổi khắp ba miền đất nước và rung động được với cảnh trí xinh đẹp của quê hương mà nét đan thanh lồng vào trong niềm đau khổ của cả người lẫn cảnh nên đối với tôi, dù Paris có ḍng sông Seine êm đềm, có đại lộ Champs Elysées diễm ảo, có khu Latin quyến rũ... tôi vẫn cảm thấy ḷng vắng lặng, hồn xa xôi. Đúng là người buồn th́ cảnh có vui đâu bao giờ! Đă mang cái tâm trạng bị bạc đăi và đang bị lưu đày th́ lầu son gác tía của kinh đô hoa lệ, lá vàng trải thảm dưới chân những pho tượng trắng ở vườn Luxembourg... tất cả chỉ là hư ảnh trong niềm nhớ xót xa về quê hương ruột thịt.

    Nhiều lần, nhớ đến việc ông Nhu kết tội tôi “phá Công giáo, chống Cần Lao”, tôi thấy giấc mơ ôm ấp từ thuở thiếu thời về một quốc gia dân chủ, một chế độ đoàn kết, một chính sách ḥa đồng dân tộc để xây dựng được sức mạnh chống lại Cộng sản miền Bắc bỗng tan thành mây khói. Một cán bộ trung kiên như tôi mà c̣n bị cấp dưới xuyên tạc rồi lại bị cấp trên tin vào đó mà chế tài về cái tội gọi là “phá Công giáo” th́ thử hỏi những thành phần khác, quần chúng cũng như đảng phái, đứng ngoài chế độ hoặc đối lập xây dựng, th́ số phận của họ sẽ như thế nào. Niềm hy vọng duy nhất c̣n sót lại để tôi ấp ủ đóm lửa đấu tranh, để sưởi ấm những ngày dài và lạnh là sự hiểu biết và t́nh nghĩa của con người nhà nho nơi ông Ngô Đ́nh Diệm.

    Đúng một năm trôi qua, vào giữa tháng 10 năm 1957, tôi nhận được thư của Đại tá Đinh Sơn Thung, Giám đốc Nha Nhân viên Bộ Quốc pḥng và là một người bạn rất thân với tôi. Thung cho biết ông Diệm đă ra lệnh làm giấy tờ để gọi tôi hồi hương và Đại tá Trần văn Trung (sau này là Trung tướng Cục trưởng Cục Chiến tranh Chính trị vào năm 1975) sẽ qua Pháp thay tôi. Đinh Sơn Thung là một cựu chánh quản khố xanh, thời kháng Pháp tuy Thung làm sĩ quan Việt binh đoàn nhưng vẫn bí mật hoạt động cho Việt Minh trong tổ chức của nhóm trí thức Huế với bác sĩ Lê Khắc Quyến. Thung đă bị sở mật thám Pháp bắt vài lần nhưng nhờ Thủ hiến Phan văn Giáo và ông Nguyễn Ngọc Lễ hết ḷng can thiệp nên khỏi bị tội tù. Nguyên tôi với ông Thung là bạn láng giềng tại cửa Đông Ba (Huế) nên ngày ngày thường cùng nhau thảo luận t́nh h́nh chiến tranh và tương lai đất nước. Cuối cùng tôi thuyết phục được ông Thung ủng hộ ông Diệm. Khi ông Diệm về nước, tôi giới thiệu ông Thung với ông Ngô Đ́nh Cẩn, nhờ đó ông được cử làm Giám đốc Nha Nhân viên Bộ Quốc pḥng. Thung lớn tuổi hơn tôi, có mái tóc bạc như cước, lại cũng đă đỗ được bằng Thành Chung nên ông Diệm có vẻ nể nang. Trong thư ông Thung gửi qua Pháp cho tôi có câu: “Cụ vẫn nhắc đến anh, có vẻ nhớ thương anh lắm”. Đồng thời với thư của ông Thung, tôi lại nhận được thư của ông Vơ văn Hải bảo tôi khi về nước nhớ mua cho “ông Cụ” một ít melon, thứ trái cây mà ông Diệm ưa thích. Việc nhắn mua melon, tôi đoán không phải là do sáng kiến của ông Vơ văn Hải mà chính là của ông Diệm, nghĩ vậy, tôi rất mừng v́ cho rằng trong cái việc nhắn mua melon đă gói ghém rất nhiều sự hồi tâm của ông Diệm.

    Trong suốt thời gian một năm ở Paris, tôi chỉ chơi thân với một người bạn học và đồng chí cũ là anh Nguyễn văn Đạt. Ngày rời Paris, tôi chỉ cho một ḿnh Đạt biết và Đạt đă thân hành đến tiễn đưa tôi. Đạt là người Quảng B́nh cùng quê hương với ông Diệm và tôi. Đạt vốn là bạn học với các ông Thái văn Kiểm và Trần văn Dĩnh ở trường Khải Định. Vào năm quân Nhật chiếm đóng Đông Dương, Đạt cũng hoạt động thân Nhật như Trần văn Dĩnh và cũng ở trong phong trào ủng hộ Cường Để. Trong việc Nhật Bản cứu thoát ông Diệm năm 1944, Đạt đă tham dự một cách tích cực nhờ Đạt đang là bí thư của Phó tổng lănh sự Ishida tại Huế. Thời thế đổi thay, Đạt theo Việt Minh, chỉ huy Cục Quân báo Mặt trận B́nh Trị Thiên dưới sự điều khiển của cháu tôi là Đỗ Dinh, Chính trị viên của Mặt trận. Năm 1952, khi tôi đang giữ chức Tham mưu trưởng Đệ nhị quân khu, Đạt bí mật liên lạc với vợ (hiện ở Mỹ) nhờ nhắn với tôi là đang bị Dinh nghi ngờ theo Pháp, muốn trở về vùng quốc gia để tránh hậu họa. Tôi liền tổ chức bố trí một tiểu đoàn hành quân ở Dạ Lệ (Thừa Thiên) và phái một tiểu tổ đặc công cứu được Đạt. Năm 1954, khi tướng Navarre mở cuộc hành quân Atlante, do sự giới thiệu của người bạn là ông Nguyễn văn An đang giữ chức chỉ huy Trung Nam trấn, Đạt được ông Phan văn Giáo cử giữ chức Tỉnh trưởng Phú Yên. Nhưng khi ông Diệm mới về làm Thủ tướng được ba, bốn tháng, ông Nguyễn văn An bị anh em ông Diệm ra lệnh sát hại tại Qui Nhơn như tôi sẽ tŕnh bày, c̣n Nguyễn văn Đạt bị nhóm Công giáo ở Phú Yên do linh mục Tô Đ́nh Sơn cầm đầu tố cáo Đạt là Việt cộng. (Các vị Tỉnh trưởng Phú Yên sau Đạt đều v́ ông linh mục này mà kẻ th́ xin từ chức, kẻ th́ bị thuyên chuyển đi nơi khác như quư cụ Hồng Dũ Châu, Lê Tá và Thiếu tá Dương Thái Đồng hiện có mặt tại hải ngoại). Sở dĩ Đạt bị vu khống là Việt cộng chỉ v́ lúc làm Tỉnh trưởng, Đạt đă liên kết với tổ chức Đại Việt Trương Tử Anh ở Phú Yên, một đoàn thể cách mạng chống Cộng, mà tổ chức Đại Việt đó và nhóm Công giáo lúc bấy giờ lại là hai lực lượng thù nghịch nhau. (Theo Đoàn Thêm trong “Hai Mươi Năm Qua” th́ ngày 7 tháng 10 năm 1958, nhóm Đại Việt Trương Tử Anh ở Phú Yên bị ra Ṭa án quân sự ở Nha Trang với 54 can nhân mà chỉ có một luật sư). Đạt bị thuyên chuyển lên Kontum được độ một tuần lễ th́ có lệnh bắt nên Đạt phải đi trốn và lưu vong qua Pháp.

    Không ngờ năm 1956, tôi và Đạt gặp lại nhau nơi đất khách quê người, mà tôi là kẻ bị bạc đăi c̣n Đạt là một tội đồ lưu vong. V́ thế mối t́nh tha hương ngộ cố tri giữa Đạt và tôi lại càng thắm thiết. Nhưng gặp nhau chưa bao lâu th́ tôi được gọi về nước c̣n Đạt ở lại làm kẻ giang hồ “rũ áo phong sương nơi gác trọ”, gậm nhấm mối oán hận t́nh đời bạc bẽo. Khi tiễn tôi lên đường, Đạt rưng rưng nước mắt tặng tôi tấm ảnh với mấy vần thơ ghi chút kỷ niệm của đôi bạn tuy khác hoàn cảnh mà cùng tâm sự:

    “Gặp nhau nơi xứ lạ
    Tôi tâm hồn tơi tả
    Anh tơ ḷng vấn vương
    Gặp lại anh giữa độ đường
    Thuyền vừa cập bến trăng buông lạnh lùng”


    Mấy năm sau, Đạt về Việt Nam làm chủ nhiệm nhật báo Tin Mới. Ngày Nhảy dù đảo chánh 11-11-1960, Đạt viết bài đả kích chế độ Ngô Đ́nh Diệm nên ngày 13, ṭa báo của Đạt bị cảnh sát công an đến đập phá tan tành, may cho Đạt kịp thời trốn thoát, sống lẩn lút ở nhiều nơi khác nhau trong ba năm cho đến ngày chế độ Diệm bị lật đổ. Dưới chế độ Nguyễn văn Thiệu, tuy có nhiều bạn bè có quyền lực mời Đạt tham dự nội các nhưng Đạt từ chối để hoạt động trong Phong trào Quốc gia Cấp tiến của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy với tư cách là Tổng ủy viên Tổ chức.

    Nguyễn văn Đạt là người thông minh, mưu trí, có ư thức chính trị, nhiều kinh nghiệm t́nh báo, từng trải đấu tranh, lại là cán bộ cũ và là ân nhân của ông Diệm, thế mà chỉ v́ Cần Lao thù ghét, v́ anh em ông Diệm thiếu sáng suốt, thiếu khoan dung, để từ một người có thể hữu ích cho quốc gia, cho chế độ, Nguyễn văn Đạt đă phải trở thành kẻ thù rồi nạn nhân của chế độ.

    Trả lại Paris vô duyên cho Đạt, trả lại một năm vô t́nh dằng dặc cho quá khứ, tôi hân hoan trở về Việt Nam ḷng tự nhủ thầm rằng có đứng vững vàng trên đất mẹ mới nói đến chuyện đấu tranh cho quê hương.
    Về Sài G̣n, vào yết kiến Tổng thống Diệm sau hơn một năm xa cách, tôi thấy ông bệ vệ và mập mạp ra một cách rơ ràng. Ông vui cười và có thái độ cởi mở, thông cảm với hoàn cảnh của tôi đă không được chính phủ Pháp chấp thuận là nhân viên của ngoại giao đoàn. Tuy nhiên ông trách Đại sứ Phạm Duy Khiêm bất lực và bảo rằng Khiêm là một nhà trí thức thân Pháp, từng làm thông ngôn cho Pháp trong đội lính thợ (Ouvrier Non-Specialisé) thời Đệ nhị thế chiến, mà không vận động nổi cho tôi làm Tùy viên Quân sự.

    Ông Diệm bảo tôi về Nha Trang nghỉ ít ngày rồi vào nhận chức “Tổng giám đốc Công binh”. Ông giải thích sẽ hợp nhất ngành “công binh tạo tác” và “công binh chiến đấu” làm một cho dễ chỉ huy và đỡ tốn công quỹ. Tôi rất ngạc nhiên v́ hợp nhất hai ngành công binh làm một đă là một sự lạ, và cử tôi chỉ huy ngành công binh lại càng vô lư hơn. Tôi lễ phép từ chối v́ tôi có biết ǵ về chuyên môn công binh đâu. Nhưng ông Diệm bảo tôi đừng ngại v́ tôi chỉ lo phần vụ điều hành cho đúng chính sách và ông sẽ cho một số kỹ sư có khả năng chuyên môn về phụ tá cho tôi, rồi ông nói tiếp một cách giận dữ: “Anh sang đó đuổi hết mấy thằng Bắc kỳ đi cho tôi”. (Ông Diệm rất khinh ghét người Bắc, trừ ra thành phần người Bắc Công giáo là ông tin tưởng).

    Nói chuyện với ông độ hơn một giờ, tôi xin từ giă để đến tŕnh diện tại Bộ Quốc pḥng và tŕnh bày lại cho ông Trần Trung Dung biết quyết định của Tổng thống và quan điểm của tôi. Ông Dung thông cảm ngay và t́m cách “hoăn binh chi kế” để khỏi làm cho ông Tổng thống vốn ghét “Bắc kỳ” nổi giận. Ông Dung bàn với Đổng lư Nguyễn Đ́nh Thuần (hiện ở hải ngoại) cử tôi đi thanh tra công binh để rút kinh nghiệm trước khi nhậm chức Tổng giám đốc công binh. Làm thế độ vài ba tháng th́ Tổng thống Diệm sẽ quên đi và khi đó sẽ kiếm một sĩ quan chuyên môn thay vị Đại tá đương kim Giám đốc Công binh người Bắc cho Tổng thống vừa ḷng. Cũng may cho tôi, nhờ được đi thanh tra công binh mà tôi có dịp tham quan khắp các nẻo đường đất nước và tiếp xúc với khá nhiều đơn vị nên biết rơ được nỗi ḷng quân dân đối với chế độ Ngô Đ́nh Diệm như thế nào sau hơn một năm trời xa xứ.

    Độ ba tháng sau, tôi được gọi gấp về tŕnh diện Tổng thống. Đang lo âu v́ cái nợ “Tổng giám đốc Công binh” th́ được Tổng thống cho biết ông đă quyết định bổ nhiệm tôi giữ chức Giám đốc Nha An ninh Quân đội thay tướng Mai Hữu Xuân đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.

    Từ ngày đi Pháp về, tôi vẫn không muốn gặp lại ông Ngô Đ́nh Nhu, nhưng từ khi được Tổng thống giao cho nhiệm vụ chỉ huy ngành An ninh Quân đội, xét thấy cần phải đến chào ông ta để nhận chỉ thị v́ dù sao ngành An ninh Quân đội cũng chịu ít nhiều trách nhiệm về sự tồn vong của chế độ, do đó, của quốc gia. Vẫn cái nh́n cao ngạo và vẻ mặt lạnh như tiền, ông Nhu tŕnh bày một số quan điểm của ông về nhiệm vụ của tôi và cuối cùng chỉ thị cho tôi là phải đuổi hết bọn tay sai của Pháp và tay chân của ông Mai Hữu Xuân mới có thể bảo mật được công tác và hồ sơ.

    Nha An ninh Quân đội có bốn nhiệm vụ chính yếu là Phản gián, chống Binh vận, chống Phản loạn và “Bảo vệ tinh thần binh sĩ”. Tất nhiên tất cả nhiệm vụ đều khó khăn, đ̣i hỏi người chỉ huy trước hết phải có ư thức chính trị, phải am hiểu Cộng sản, phải có ư thức t́nh báo, nhưng điều khó khăn của tôi lại là điều “bảo vệ tinh thần binh sĩ”. Nhiệm vụ không những đ̣i hỏi phải có công tâm đối với toàn thể các cấp trong quân đội mà c̣n thể hiện sự công tâm đó ra bằng hành động cụ thể. Khốn nỗi quân đội Việt Nam Cộng Ḥa được khai sinh trong hoàn cảnh ngang trái, phối hợp với và kết hợp bởi rất nhiều thành phần thuộc các giáo phái, đảng phái và hoàng phái vốn có rất nhiều mâu thuẫn chính trị và ân oán lịch sử với chế độ.

    Mâu thuẫn đó và ân oán đó lại phát triển và chồng chất thêm kể từ khi chế độ khai sinh thêm một thứ “quân đội” song song có tên gọi là Cần Lao. Một thứ quân đội không nằm trong định chế, không xả thân ngoài chiến trường nhưng có đặc quyền kiểm soát, điều động và khống chế quân lực. Là một lực lượng ch́m khi ẩn khi hiện, lại chỉ chịu mệnh lệnh và chịu trách nhiệm với ông Ngô Đ́nh Nhu là trung tâm quyền lực cao hơn cả vị Tổng tư lệnh quân đội (là Tổng thống Diệm) nên t́nh trạng lạm quyền và bè phái đục khoét tinh thần binh sĩ tạo khó khăn cũng như nguy hiểm không cần thiết cho sự quản trị và điều động quân lực trong đại công tác đối đầu với lực lượng vơ trang của kẻ thù Cộng sản. Ba lần quân đội đứng ra phát động và tổ chức binh biến làm lung lay và cuối cùng lật đổ chính quyền đă đủ nói lên sự căm phẫn của thành phần quân nhân đối với chế độ Diệm-Nhu.

    Cho nên từ khi về nhậm chức, tôi đă không thay đổi một sĩ quan nào như ư muốn của ông Nhu, tôi chỉ tăng cường thêm nhân viên theo đà cải tổ chung của quân đội. Tôi không muốn có sự thay đổi xáo trộn tạo chia rẽ, bè phái, chỉ gây tai hại cho tinh thần quân đội. Về nhậm chức được hơn một năm tôi chỉ đổi viên chánh văn pḥng là Đại úy Tống Tấn Sĩ v́ ông ta đă ăn cắp cuốn băng ghi âm cuộc điều tra một vị Trung tướng. C̣n số nhân viên được xin thêm hầu hết là người theo Công giáo do các ông Ngô Đ́nh Cẩn, Nguyễn văn Châu, Lê Quang Tung và các đảng viên Cần Lao giới thiệu. Về chính trị, tôi chủ trương đối với Cộng sản, phải coi họ là đối thủ nguy hiểm, đối với các sĩ quan thuộc các giáo phái hay đảng phái th́ phải gây t́nh đoàn kết, c̣n về nhiệm vụ “bảo vệ tinh thần binh sĩ”, tôi chủ trương chính sách “nặng giáo hóa mà nhẹ trừng phạt”. Tôi không thể đề nghị đưa ra ṭa án những binh sĩ chỉ ăn cắp ít tấm tôn, vài chục lít xăng, trong lúc các tướng tá và cả anh em ông Diệm lại hết sức tham nhũng, bóc lột, dĩ công vi tư, hối mại quyền thế.

    Chức vụ Giám đốc An ninh Quân đội đối với tôi là một chức vụ bạc bẽo. Tôi vừa bị các sĩ quan tham nhũng, vừa bị các sĩ quan thuộc các đảng phái đối lập với chính phủ coi là kẻ “hung thần”, là “tay sai của chế độ”; trong lúc đó th́ nhóm Cần Lao cũng coi tôi như kẻ thù chỉ v́ tôi đă khinh bỉ ông Ngô Đ́nh Cẩn ra mặt, tôi bất phục ông Ngô Đ́nh Nhu, và tôi không bao giờ gặp mặt, khúm núm chầu hầu bà Cố vấn và Giám mục Ngô Đ́nh Thục. Ngay các dịp lễ, Tết, cúng kỵ của họ Ngô, hầu hết nhân viên cao cấp của chính phủ và nhiều tướng tá ra Phú Cam để chầu hầu, ngoại trừ tôi. Tôi bị toàn thể anh em ông Diệm coi như cái gai phải nhổ, nhóm Cần Lao xem như kẻ thù nên nhất cử nhất động của tôi đều thường bị Cần Lao báo cáo lại cho ông Nhu. Nếu không có ông Diệm bênh vực và thông cảm th́ có lẽ tôi đă vào tù hay bị mưu hại từ lâu rồi.

    Cho đến cuối năm 1958 và c̣n kéo dài thêm một năm nữa, chế độ Ngô Đ́nh Diệm quả thật đă bước vào giai đoạn cực thịnh. Dù riêng cá nhân tôi có một thời gian bị bạc đăi, dù mầm mống độc tài đă bắt đầu xuất hiện, dù lực lượng Cần Lao tàn độc đă manh nha khống chế sinh hoạt chính trị, và cuối cùng, dù nền dân chủ tối cần thiết để xây dựng sinh lực lâu dài cho quốc gia không được thực thi, nhưng những thành quả của chế độ trên mặt ngoại giao, kinh tế và xă hội cũng đă là những khích lệ lớn cho quần chúng tiếp tục tin tưởng ông Diệm, tiếp tục nhắm mắt bỏ qua những tội lỗi mà chế độ đă phạm phải.

    Nhưng những căn bệnh ấu trĩ của nền dân chủ này lại có sức tàn phá độc hại khốc liệt sau này v́ thành phần lănh đạo đă không xem đó như những lỗi lầm cần sửa chữa ngay, trái lại anh em ông Diệm lại tin tưởng mănh liệt rằng đàn áp đối lập, khuynh loát quân đội, áp bức chính trị, trung ương tập quyền vào gia đ́nh và phe nhóm là những sách lược hiệu dụng để chống Cộng và bảo vệ quốc gia. Họ không biết rằng để đối đầu với Cộng sản, sách lược trường kỳ và bảo đảm nhất là phát triển và khai dụng sinh lực của dân tộc, một nguồn sinh lực chỉ được khơi dậy bằng một sinh hoạt dân chủ, bằng đoàn kết dân tộc, nhất là trên mặt chính trị và đặc biệt trong giai đoạn qua phân đó của đất nước.

    Mỹ có yểm trợ, Cộng sản Hà Nội có đe dọa, đảng Cần Lao có là bức tường đồng của chế độ th́ cũng chưa đủ để bảo vệ chế độ chứ đứng nói đến bảo vệ miền Nam. Nếu không muốn nói rằng chính những yếu tố đó lại phá nát lực lượng quần chúng, tạo mâu thuẫn giữa chính quyền và nhân dân, giữa bộ phận dân tộc này với bộ phận dân tộc khác.

    Từ năm 1956 đến 1958, say sưa với những thành công ngoạn mục, lộng hành v́ tấm ḷng quảng đại của nhân dân, ông Diệm và chế độ gia đ́nh trị của ông đứng trước bờ vực thẳm của lịch sử mà không biết, để từ đó về sau trở thành những kẻ đại tội làm vẫn đục chánh nghĩa dân tộc và làm suy nhược sức mạnh của miền Nam.

    Chú thích:
    [1] Đào Trinh Nhất, Phan Đ́nh Phùng, trong tạp chí “Việt Nam Hải Ngoại” (số 137), tr. 115
    [2] Malachi Martin, The Decline and Fall of The Roman Church, tr. 88.
    [3] Thư của cụ Huỳnh Minh Ư gửi cho tác giả.
    [4] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable? Tr. 178.
    [5] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable? Tr. 181.
    [6] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable? Tr. 189.
    [7] Hilaire Du Berrier, Background to Betrayal, tr. 92.
    [8] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 267.
    [9] Marvin E. Gettleman, Vietnam History, Documents and Opinions, tr. 242.
    [10] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam, và “Sổ Tay Văn Hóa” - s.đ.d. - tr. 138.
    [11]Edward Lansdale, In The Midst of War, tr. 307.
    [12] Trần văn Đôn, Our Endless War, tr. 60.

  3. Nguồn: http://www.forum.clickvao.com

 Xem tiếp phần 2

Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.




Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt