Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com




Việt Triết Nhập Môn
Kim Định




Mục Lục

KHAI TỪ

I. Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay

II. Tự Hoàng Nho qua Di Nho tới Việt Nho

III. Cơ Cấu Uyên Nguyên

IV. Từ Hoàng Dịch tới Chu Dịch

V. Minh Triết Trống Đồng

VI. Vũ trụ Nhân Linh

VII. Tại sao chúng ta cần phải trở về văn hoá dân tộc

VIII. Đường về triết lý ưu việt

IX. Trống Đồng Đông Sơn gọi hồn An Việt

X. Bức thư ngỏ gửi tới anh em bốn bể

 

PHẦN PHỤ TRƯƠNG

XI. Đính chính về toàn bộ Triết Lý An Vi

XII. Sự khác biệt giữa Việt Lý và Sứ Việt

 


TỰA



   Tập nhập môn này được viết ra sau chuyến đi Đài Loan năm 1984 và có đóng góp vào hội nghị một bài. Nhưng thấy còn nhiều điều chưa nói hết ra được, nên khi về viết thêm mươi bài nữa thành ra tập này, rồi đặt cho nó cái tựa là “Việt Triết Nhập Môn”. Thực ra không đúng lắm. Lẽ ra nó phải là nhập môn ở bộ “Bát Sách” mở đầu bằng quyển “Việt Lý Tố Nguyên” nhưng như đã nói: nghĩ tới đâu viết tới đó chứ không có chương trình trước. Trong quyển này ngoài bài đầu rất được hội nghị triết học Đài Loan chú ý, thì có bài “Từ Hoàng Dịch tới Chu Dịch” đưa ra cái nhìn bao trùm cuộc hình thành bộ kinh đó để giúp nắm được cốt yếu Kinh Dịch. Rồi bài “Cơ Cấu Uyên Nguyên” cũng giúp cho thấy các học giả cả Tây lẫn Tàu (Tàu cả hai ngàn năm) không đọc ra được ý nghĩa mấy truyện huyền sử căn bổn hơn hết ra sao. Lý do, vì đó là truyện của Việt tộc nên phải do Miêu Duệ Việt tộc mới khám phá ra ý nghĩa. Cuối cùng có bài “Đường Về Triết Lý Ưu Việt” độc giả xem hình như Việt Triết có đức tính đó chăng?

  Phần I
 
  I. VAI TRÒ NHO GIÁO CÓ THỂ ĐẢM NHIỆM TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

 
Mùa hè năm 1949 ở Honolulu có hội nghị quốc tế về triết học quy tụ các đại biểu trên 50 quốc gia (đại diện Á Châu có Aán Độ, Tàu, Nhật). Tôi đặc biệt chú ý tới hội nghị này vì trước hết mục tiêu của hội nghị là tìm cho nhân loại một nền triết lý chủ đạo. Hội nghị cho rằng vì thiếu nó mà nhân loại đã trải qua hai cuộc đại chiến hoàn cầu. Thứ đến hội nghị đã đề cử Khổng Tử làm nhạc trưởng cho cuộc hòa hợp Đông Tây nọ vì ông có chân đứng trên cả hai tàu: vừa chấp nhận và cải thiện đời sống trần gian nhất là trong những mối giao liên của con người. Đàng khác tuy không chấp nhận lập trường Lão giáo độc chú vào đời sống tâm linh, nhưng cũng dọn phòng đón nhận mọi giá trị tâm linh (Essays in East West philosophy by Charles Moore p.447, University of Hawaii 1951).

Đây là lời tuyên bố làm vinh dự cho chính những người tham dự hội nghị vì câu trên tàng chứa được ba nhận xét đều sâu xa và ơn ích. Có thể nói đây là đỉnh cao nhất mà hội nghị quốc tế Triết Học có thể tới, vì những hội nghị này ít được sự đồng ý về một điều gì, nhiều khi còn là cuộc độc thoại giữa các người điếc, hoặc vấn đề đưa ra bàn cãi có tính cách xa lắc xa lơn với cuộc đời. Nhưng lần này các triết học gia đã nhìn thẳng vào đời, đã thấy đời đang mắc bệnh và gọi đúng tên bệnh tức là thiếu hồng huyết hòa, mà chỉ có bạch huyết rã, làm cho con bệnh trở nên nhợt nhạt, mất hướng đi, không biết đâu là lối về, đáng gọi là vô gia cư (homeless). Hội nghị đã thấy thế và chỉ ra bài thuốc Hòa. Toa thuốc còn ghi là “Hòa tinh thần với vật chất” lại còn chỉ rõ phải đến với dược sĩ nào. Rồi đây trong bài tôi sẽ chứng minh những lời chỉ dẫn nọ đúng đến đâu.

Câu tuyên bố trên quả là một sự thành tựu lớn lao do một quá trình nghiên cứu tinh thông về Nho trải dài cả trăm năm với những tên tuổi lừng lẫy như H.G.Creel, những Marcel Granet và những triết gia như Keyserling, Karl Jaspers… mới đạt được lời tuyên bố đó, tuy chỉ xảy ra trong phạm vi triết và chưa được nhiều người chú ý tới các cân xứng, nhưng quả thật phải kể là một biến cố quan trọng có tầm mức lớn lao. Chúng ta đều biết rằng “Nhân loại bao giờ cũng được dẫn đưa do tư tưởng” cho nên các nhà tư tưởng bầu Khổng Tử lên chức lãnh đạo triết lý Đông Tây, thì cũng là bầu ông lên chức hướng đạo thế giới. Đó quả là vinh dự không tiền khoáng hậu. Càng lớn hơnnữa khi ta biết rằng đứng về phương diện ngôn từ và lý luận mà đem Khổng Tử đặt bên cạnh Phật Tổ hay Socrates, Platon thì ông có phần lép vế, vậy mà lại được chọn.

Thế thì chắc ông phải có một cái gì đặc biệt mới được danh dự cao quý như kia. Cái đặc biệt đó theo hội nghị là ông không chú ý đến lời hay ý đẹp cho bằng chú ý đời sống đẹp, nó gậy nên do chữ Hòa. Đấy là điều hết sức đặc biệt của hội nghị, vì các hội viên đa biết chọn cuộc sống đẹp hơn là chọn lời đẹp ý hay, cũng như đã không chọn tranh chấp mà lại chọn hòa hợp.

Tuy nhiên sự tuyên dương long trọng kia lại rơi vào quên lãng liền, không gây nên một âm vang nào đáng kể ngay cả trong lãnh vực triết học, kể cả triết học Trung Hoa thì tự nhiên ta phải hỏi vì đâu. Riêng tôi nghĩ rằng cái hướng hội nghị đưa ra thì thật là đúng nhưng đó mới chỉ là bảng chỉ đường, chưa phài là Chính Đường. Thế mà trong các lần hội nghị về sau mãi cho tới nay chưa có được một công trình nào đáng gọi là đường, tức trình bày Nho cho thấu triệt xứng tên là một Đạo học. Vì thế tôi lấy điều đó làm đề tài cho bài này mong tìm ra chỗ thiếu sót, hy vọng có thể sửa soạn cho một nền triết Nho đầy đủ. Nếu không thì cũng là thử đề nghị một lối nghiên cứu Nho kiểu mới. Trước khi vào bài, tôi xin mở ngoặc đơn để nói lên rằng đối với tôi, Khổng Tử chỉ là đại diện cuối cùng của Nho Giáo, Nho Giáo đã có lâu trước, Khổng Tử chỉ là người truyền đạt. Vì thế khi nào bài này nhắc đến Khổng Tử thì xin hiểu đó là Nguyên Nho, nó rộng lớn hơn Khổng Giáo rất nhiều. Bây giờ xin trở lại phân tích lời tuyên ngôn nói trên của hội nghị Honolulu.

Trứơc hết tôi xin giới thiệu lướt qua đường lối trình bày mà tôi sẽ áp dụng trong bài này. Nó ở tại sự tóm thâu nền triết được nghiên cứu vào một hai điểm then chốt cùng cực và được gọi là cái toàn thể, rồi đem đối chiếu cái toàn thể đó với một số toàn thể khác. Thế rồi cái toàn thể kia lại được chi tiết hóa thành bốn điểm để dễ xét thấu đáo. Bốn điểm đó là Từ, Tượng, Số, Chế.

Từ: là lời nói nhằm vào những lời then chốt nhất của nền triết Nho.

Tượng: là tượng hình tiêu biểu, những huyền thoại, truyền kỳ.

Số: là những số biểu tượng gọi là huyền số.

Chế: là những thể chế, thói tục, những phương thức sống, cách thức tu luyện.

Đây là bốn khía cạnh được dùng để xét một nền triết lý nhân sinh xem có được toàn diện chăng. Một nền triết có sống được nhiều hay ít, bao quát được hết cả bốn nấc thử thách nọ. Bởi thế bốn điểm trên có thể dùng như thước đo giá trị từng nền triết về phương diện vào đời. Phải công nhận rằng phần lớn triết học chỉ trải qua được có một vài chặng đầu. Nguyên Nho thì đã đi hết bốn bước. Nhưng tự Hán Nho thì sa đọa, nên cũng không còn người đi hết được cả bốn chặng nữa. Vì thế mà Nho bớt hiệu nghiệm. Muốn hiệu nghiệm phải có người đi được bốn bước trên. Sách Trung Dung gọi người đó là “kỳ nhân”, người chính cống của Nho “Văn Võ chi chính bố tại phương sách. Kỳ nhơn tồn, tắc kỳ chính cử. Kỳ nhơn vong, tắc kỳ chính tức” T.D 20. Câu trên có nghĩa là triết gia chính trị của Nho (kỳ nhân) còn, thì triết lý chính trị đó sẽ hoạt động mạnh, nếu kỳ nhơn đó mất tức chưa xuất hiện thì triết lý chính trị đó có cũng như không. Vậy xin hỏi kỳ nhơn đó là ai? Thưa là triết gia Nho. Nói triết gia mà không là học giả cũng không cả triết học gia, mà phải là triết gia. Nói cụ thể, bao lâu chưa có một học giả về Nho kiêm luôn triết gia, thì kinh điển Nho vẫn chỉ là một đống sách hôi mốc. Phải có triết gia Nho, phải có kỳ nhơn đó thì Nho mới hiện lên những tư tưởng sống động để đi vào cõi người ta. Nghĩa là triết gia đó phải có những tư tưởng cùng chiều như Nho, nhưng lại phải hợp cảm quan thời đại, phải có những cái nhìn soi dọi vào các vấn đề khúc mắc hiện nay, thì đấy mới là kỳ nhơn của Nho.

Bao giờ người đó đến thì không biết và có lẽ câu hỏi cũng không mấy quan trọng vì Nho vốn là triết lý tác hành, không trông cậy vào tha lực mà phải tự mình làm ra vì thế câu hỏi đúng tinh thần Nho hơn phải là: làm thế nào để chúng ta có hy vọng trở nên kỳ nhân của Nho. Hay nói cụ thể hơn phải hỏi rằng cái đặc trưng của Nho ở chỗ nào và phương pháp nào có thể ám hợp hơn hết cho ta theo để nếu không thành triết gia Nho thì ít ra cũng biết mình trình bày Nho một cách trung thực để con người thời đại hiểu được Nho hơn. Muốn thế việc cần trước tiên phải biết cách thấu triệt đâu là nét đặc trưng của Nho? Thưa nét đó nằm trong chỗ Nho đi được cả bốn bước Từ, Tượng, Số, Chế. Chúng ta hãy xét từng điểm:

 
1. Từ
  Từ tức là lời. Lời của Nho rất ít. Khổng Tử là hiền triết nói ít nhất trong các triết gia trên đời. Đã vậy về đạo, về nhân thì hầu như ông không có lời nào. Đấy là nét đặc trưng mà xưa nay chưa mấy được chú ý, nên cần bàn thêm. Lời nói là một phát minh rất quan trọng của con người, nó mở đường cho mọi tiến bộ về sau. Vì thế nó có sức thôi miên, gây thành khuynh hướng thờ lời như một cái gì thần thánh, mà ta còn thấy dấu vết trong những lời chú mà người xưa đã gán cho rất nhiều uy lực; nhưng sau này người ta cũng nhận ra tính cách ma thuật của nó. Ngoài ra lời nói cũng có sức quyến rũ khác đến nỗi những triết gia thượng thặng như Lão Trang đã hiểu rõ rằng “Đạo bất khả ngôn”. Vì thế “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri”. Vậy mà các ông còn nói lu bù về đạo. Lão Tử thì để lại năm ngàn lời trong Đạo Đức Kinh. Trang Tử để lại lối mười vạn lời trong cuốn Nam Hoa Chân Kinh. Vậy mà kể còn là ít khi so với các triết gia tên tuổi khác như Plato, Aristotle chẳng hạn, các vị này nói có cả hàng triệu lời.

Theo luật răng đau của Bernard Shaw rằng người ta chỉ nói đến răng khi răng đau. Cũng vậy nói nhiều quá về đạo là tỏ ra chưa đạt đạo. Phương ngồn quen nói “Nhất Lý thông, vạn lý minh”. Cái Lý cùng cực đó, Lý trên nhất đó chính là Lý Thái Cực. Nếu đạt được thì tự nhiên mọi lý khác thuộc phần mớ liền sáng ra, khỏi cần nói nhiều, còn khi không đạt cái Lý viết hoa đó thì cứ phải bày biện lý nọ lẽ kia rườm rà, quanh quất, nên có câu “Thất Lý nhi nhập ư thuật” không đạt lý nên bày ra muôn vàn lý lẽ quanh co (thuật). Vì Lý viết hoa đó là Lý Thái Cực, vốn gồm cả âm, cả dương, cả có cả không, cả đa cả nhất, cả tĩnh cả động, cả sáng cả tối… Còn nếu không đạt Lý đó thì chỉ có một bên, một duy nhào đó: thiếu mất bên kia, nên lời nói hết hiệu nghiệm: phải thêm hoài mà vẫn chưa cảm thấy đủ. Kinh Dịch nói:

“Nghi giả kỳ từ chi

Cát nhơn chi từ quả

Táo nhơn chi từ đa” (Hệ từ hạ XII 7)

“Người còn nghi nan trong lòng thì lời nói rậm lời không có tư tưởng, (ngành ngọn: chi). Người đạt (may mắn) thì nói ít nhưng đủ để bao được cả trong ngoài. Người táo kết (bất thông) thì nói nhiều. Nhiều nên hiểu là nhiều chủ thuyết mà không có thuyết nào đạt địa vị ưu thắng.

Biết thế rồi ta thấy sự ít lời trong Nho có cái giá trị riêng biệt của nó. Ít lời đây không vì bất lực, nhưng là vì lờinói đã chứa đầy uy mãnh rồi; khỏi cần nói thêm. Theo đó ta phải tìm xem lời nào đầy đủ nhất trong Nho? Thưa đó là ba chữ “Chí Trung Hòa”. Ba chữ này tóm thâu tinh thoa Nho giáo cách tuyệt vời cũng như nói lên được nét đặc trưng của Nho cách thấu triệt. Cho nên “Kỳ nhơn” của Nho phải là người nhận thức ra được mọi chiều kích ba chữ đó, để hiện thực vào thân tâm và diễn đạt ra cho mọi người cùng hiểu. Vậy chúng ta hãy dùng tượng hình và đồ biểu để trình bày sơ lược châm ngôn trên cho được rõ ràng. Câu đó nằm trong lời phát đoan của sách Trung Dung rằng:

“Trung dã giả, thiên hạ chi đại bồn dã.

Hòa dã giả, thiên hạ chi Đạt đạo dã.

Chí trung hòa:

Thiên địa vị yên

Vạn vật dục yên”

Đoạn văn trên chỉ rõ đâu là bổn gốc, đâu là ngọn ngành. Bổn là Trung, ngọn là Hòa. Hòa đây là Thái Hòa tức cái Hòa bao trùm hết tất cả: cả trời đất, cả vạn vật nữa. Và sự bao trùm diễn tả bằng chữ “dục” nghĩa là được nuôi nấng giáo dục.

Để hiểu rõ hơn tưởng cần giải rộng câu trên. Trước hết là về ba chữ “Chí Trung Hòa”. Trong quyển Chữ Thời tôi đã giải rộng bằng câu “có chí trung thì mới đạt được chí hòa”. Cần lập lại chữ chí để nói lên hai đàng khác nhau. Chí trung là bổn, còn chí hòa là hoa trái ngọn ngành. Phải làm nổi bật cả hai để đạt nổi bước “lưỡng hành” của Nho mà hội nghị Honolulu đã nói lên bằng hình bóng là “có chân trên cả hai tàu”. Điểm lưỡng hành này ít được học giả chú ý, thí dụ James Legge dịch ba chữ kia là “Let the states of equilibrium and harmony exist in perfection”, không dám nói là dịch sai nhưng bản dịch làm chìm mất tính chất lưỡng hành của câu nói. Đọc lên người ta không thấy Trung là căn bổn, Hòa là hoa trái. Muốn cho dễ thấy được điều đó thiết tưởng phải dịch là “When the Centering is utmost, the Harmony is the greatest”. Dịch trung bằng chữ centering bao hàm được sự “tiến hành vào nội tâm”, và khi tiến vào đến cùng cực thì đạt Thái Hòa là hòa âm với dương, tức cái hòa nền tảng, bao trùm cả trời cùng đất. Để giải rộng hơn nữa ta có thể nói: “The deepest is centering, the greater is harmony” câu này đặt theo câu cách ngôn triết Tây: “Plus la compréhension est petite, plus l’extension est grande”. Tuy câu công lý này chỉ nằm trong bình diện ý niệm, nhưng chiều hướng thì cũng như chí trung hòa, là vào càng nhỏ thì sức bao gồm bên ngoài càng to. Theo đó, cái Hòa bên ngoài có thể dùng như tiêu chuẩn để đo độ sâu của cái Trung bên trong. Trung là đi vào nội tâm: ta không thể kiểm soát nội tâm, nhưng ta nhờ cái Hòa để biết Trung cách cơ thể, nên có thể nương theo Hòa để biết Trung đi tới đâu. Nhất là khi Hòa còn được đèo thêm dấu hiệu cụ thể là sự nuôi dưỡng: sách nói nếu đạt Chí Trung Hòa thì:

“Thiên địa vị yên.

Vạn vật dục yên”.

Khi trời đất được xếp đặt đúng chỗ thì vạn vật đều được dưỡng nuôi. Hai chữ vạn vật ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng gồm cả tâm lý: ý, tình, chí đều được nuôi dưỡng. Tức triết không chỉ có duy lý hay duy tình, hoặc duy chí mà tất cả tình lý chí cùng tham dự. Còn trong siêu hình là cả thiên lẫn địa, cả âm lẫn dương đều có phần. Tóm lại là không duy nào cả nhưng bao trùm hết. Được như vậy thì là dấu Trung đã đi tới chốn: nên có được chí Hòa, và vạn vật được nuôi dưỡng, không còn khát vọng nào đói khát làm reo, khiến triết nhân phải nói thêm, nói hoài. Như vậy, ít lời không là dấu tốt sao? Vì thế có thể kết luận được là Nho đã thành công ở bước Từ: không một nền triết nào có thể tóm thâu đựơc vào ba Từ như vậy.

 
2. Tượng
  Bây giờ xét đến tượng. Tượng là bước thứ hai sau lời. Văn hóa nào bám vào lời thì thải bỏ hết các biểu tượng, nên Tượng chỉ có lác đác một cách cầu âu. Nhưng văn hóa muốn đi vào đời tất phải có tượng, vì nó cụ thể gần với việc, nhất là nó mềm dẻo dễ uốn nắn theo hoàn cảnh là điều cần trong đời sống muôn mặt.

Tượng lớn hơn hết trong Nguyên Nho là những quan niệm về Trời, Đất, Người đựơc biểu tượng bằng hình tròn vuông.  “Thiên viên địa phương”: trời tròn đất vuông. Biểu tượng này không hẳn riêng của Nho trong các nền văn hóa thời sơ khai người ta gặp hình tròn vuông lu bù, như mandala thí dụ. Nhưng đến nay chúng đã quá lu mờ, không còn thể biết rõ ban đầu chúng có biểu thị Trời Đất chăng, cũng không biết trải qua các chặng biến hóa hình tròn vuông đã chỉ thị những gì thì chưa được tìm ra. Tuy nhiên đó là phần việc của khảo cổ và cổ sử. Riêng trong triết, người ta cũng thấy có dấu vết của một số văn hóa nghiêng về tròn, như thấy trong kiểu xếp đặt theo vòng tròn trong các Menhir bên Pháp hay stonehenge bên Anh. Aán Độ có biểu hiệu rắn cắn đuôi, tức cũng tròn, ngược lại bên Sumer hay Assyria thì thiên trọng về vuông, như thấy trong hình các Ziggurat luôn luôn vuông. Quan sát theo mấy ấn tích lớn đó, ta có thể nói hầu như không nơi nào có được tròn vuông hòa hợp.

Riêng bên Nho thì tròn vuông hòa hợp và có đầy tang chứng: tiêu biểu hơn hết cả là đền Tế Thiên với nền vuông mái tròn. Xe vua đi thì thùng vuông mui tròn. Nho gia đi giầy vuông đội mũ tròn…
 
  Do biểu tượng tròn vuông trên ta có thể phân ra ba loại triết. Một loại chỉ lo có tròn tức Duy Vô hoặc Duy Nhất, thiếu đa tạp chỉ bằng hình vuông. Vì vậy chỉ bằng vòng tròn. Loại hai chỉ có vuông tức là duy hữu, duy đa tạp, không nghĩ tới Nhất hay Vô. Ta hãy chỉ thị bằng hình vuông. Loại ba tròn vuông hỗn hợp. Tục ngữ Việt gọi là “Mẹ tròn con vuông” tức tròn (tinh thần) thẩm thấu hay bao bọc lấy vật chất vuông. Và vẽ ra như hình sau.

Hãy soi sáng bảng trên bằng vài thí dụ tổng quát. Khi đọc Lão Trang chẳng hạn, ta thấy đó là những thiên tài cao cả, có khả năng đưa ra những cái nhìn thấu triệt, những hình ảnh ví von tuyệt vời làm ta có cảm tưởng lạc vào một thế giới thần tiên, siêu thoát. Nhưng nếu tìm cách áp dụng những lời đó vào cuộc sống ta sẽ thấy lúng túng. Rồi ta nhìn kỹ lại thì cảm tưởng các ngài còn ở lì lại cõi tiên mà ta gọi là cõi Nhất. Các Ngài bám vào cái nhất không sao ra đa tạp được, nghĩa là trước sau chỉ có một đề tài và chỉ chuyên về nói: nói về Từ, Ý, không còn hơi sức cho việc làm (Dụng, Cơ). Nên ta thấy có sự bất lực kinh niên về kinh tế, chính trị của loại triết này. Như vậy theo câu “Chí Trung Hòa” thì chưa đạt đạo, tức chưa gồm cả âm, cả dương. Thực ra những lời đó không thiếu giá trị nhưng là giá trị phần mớ như về suy luận, hoặc đóng góp vào hội họa, vào tu tâm nhưng đối với đời sống toàn diện thì kể là bất lực.

Lối thứ hai được gọi là đa phương. Mới xem ta có cảm tưởng là rất phong phú. Tư tưởng kết nạp một cách rất mạch lạc. Nhưng khi xem kỹ lại thì tất cả chỉ có một chiều: thiếu mối liên hệ nền tảng giữa Có với Không, giữa động với tĩnh, giữa nhất với đa mà chỉ có đa thiếu thống nhất, nên ví được với thần Cộng Công chạy vòng quanh núi Bát Chu không tìm ra lối vào thiên thai nói bóng là húc đầu vào cột chống trời, làm trời sụp. Đó là lối suy luận của Duy Lý hay Duy Trí, xây trên những tượng ý (imago-idea) của sự vật lẻ tẻ. Kinh Dịch chỉ bằng những hình vuông rời rạc, không tìm ra được vòng tròn để bao bọc lấy, để thống nhất lại: hậu quả là vạn vật không được nuôi dưỡng “Vạn vật bất dục yên”, hiểu là những ý niệm đó không được tẩm nhuận trong luồng linh lực tuôn trào tự thâm tâm (tiềm thức hay siêu thức) để nuôi dưỡng, nên chỉ là những ý niệm trừu tượng khô cằn, đọc vào không đủ để di dưỡng tính tình, nên triết học gia cứ phải đi tìm thêm mãi. Làm người ta liên tưởng tới chuột chạy vòng, chạy hoài mà không tới: qua hết môn phái này đến môn phái kia, quả là đa phương, nhưng thiếu hướng. Thiếu hướng đi thì môn triết học chỉ còn là cực hình Tantalus như Kant có lần đã nói thế, hoặc như Nietzsche gọi sinh viên triết là “các thánh tử vì đạo” (tử vì triết). Vì học triết đã đốc ra sự học rất nhiều ý kiến của nhiều triết gia, cuối cùng không biết theo đường nào: sự học chỉ làm khô cạn tâm hồn, trở nên cực hình và không có nuôi dưỡng, không bơm sinh lực vào tâm trí.

Bởi thế về tinh thần phải nhờ tôn giáo đảm nhiệm, luân lý cũng phải xây trên tôn giáo. Triết học không đủ uy tín đưa ra đựơc nền luân lý độc lập. Thế nhưng triết học lại thường chống đối tôn giáo: hai đàng không sao cộng tác đuợc với nhau để hướng dẫn đời. Đành phải đạo đời riêng rẽ. Đó quả là một tai họa. Vì lý tưởng phải là đạo đời tương thông, và lẽ ra cả hai chỉ là một, y như xác hồn chỉ là một con người. Tuy nhiên ta cũng phải công nhận giá trị của loại này ở chỗ chứng tỏ cho ta sự hạn cục của lý trí. Và vì không có lỗi nào mà nó đã không đi tìm kiếm nhưng đều thất bại thì điều đó cho ta một kinh nghiệm sâu xa về sự bất lực của triết học lý niệm, khiến ta phải tìm ra lối siêu thoát nẻo tâm linh. Cái giá trị của triết học duy trí ở chỗ đó.


Loại ba là gồm có cả vào lẫn ra, cả trong lẫn ngoài, cả hữu lẫn vô, cả lý trí lẫn tâm linh. Lý trí hay vòng ngoài được biểu thị bằng hình vuông đựơc bao bọc bằng tâm linh biểu thị bằng hình tròn thành “mẹ tròn con vuông” như hình sau. Hình này là biểu thị câu “vạn vật dục yên”: vạn vật là vuông được vòng tròn chỉ tinh thần bao bọc. Nếu loại một là lên tiên rồi ở lì lại trên đó, thì loại ba là giống Từ Thức lên tiên chơi ít lâu rồi trở về làng đặng cố làm cho đời sống của làng thêm tốt đẹp.

Tôi không có ý áp dụng ba loại trên vào từng nền triết đích danh nào cả, mà chỉ có ý đưa ra cái khung tiên thiên để làm cho điều muốn nói được thêm rõ ràng. Nhưng riêng về Nho thì tôi phải cho là một trường hợp ngoại lệ, và nghĩ là nó đã đi sát loại ba hơn hết. Tôi cho đó chính là lý do Nho được hội nghị Honolulu tuyên dương là có chân trên cả hai tàu: tinh thần và vật chất. Vật chất biểu thị bằng hình vuông được bao quanh bởi tinh thần chỉ bằng vòng tròn. Tròn vuông nói lên chữ Hòa cao sâu nhất. Trên đã nói về nét tròn như chí trung, như cột gốc. Bây giờ ta nói đến hòa như trái, và ta sẽ dùng số để triển khai điều này.


 
 3. Số

    Số là bước thứ ba sau tượng. Số cũng là một thứ tượng, là kết tinh của tượng, là bước trùu tượng hóa của tượng. Thay vì nói tròn vuông thì đổi ra số lẻ (tròn) số chẵn (vuông) nhờ vậy mở rộng sự dùng tượng ra rất nhiều. Vì mối liên hệ chặt chẽ giữa số và tượng nên những nền văn hóa ít xái biểu tượng cũng ít xài số. Còn Nho vì đã xài tượng nhiều nên cũng xài số lu bù và cách rất hệ thống, chứng tỏ đã bước mạnh vào đời.

Số của Nho lấy từ câu Kinh Dịch rằng “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số” câu này là sự phân tích của Ngũ hành, mà Ngũ hành là một cơ cấu uyên nguyên của Nho, nhưng cho tới nay chỉ được dùng theo nghĩa ma thuật hoặc dùng để xếp loại còn dùng như cơ cấu thì hầu như chưa ai động đến. Cho nên có một số điểm rất quan trọng mà cho tới nay hầu như chưa thấy học giả nào nhìn ra. Vì thế chúng tôi thấy cần phải làm sơ qua những điểm đó.

Trên tôi đã bày tỏ rằng có ba loại triết lý, mà riêng Nho biểu lộ lưỡng hành cách liên tục bằng cơ cấu. Vậy then chốt cơ cấu đó nằm trong Ngũ hành.

Vì Ngũ hành bao gồm cả có lẫn không. Chính mối liên hệ giữa có với không này làm nên cơ cấu uyên nguyên. Có là bổn hành chung quanh, không là hành Thổ ở trung cung, cũng gọi là “hành vô hành”, “địa vô địa”. Nhờ mối liên hệ then chốt nọ mà có cơ cấu uyên nguyên giữa Hữu là Dương thông hội với Vô là Âm.

Vì là cơ cấu uyên nguyên nên đựơc cơ cấu hóa thành khung Ngũ hành như sau:




 

Hình Ngũ Hành

 
Chỉ nội cơ cấu trên đủ nói lên nét đặc trưng của Nho mà hai loại triết kia đều không có. Thay vì Ngũ hành chỉ có tứ tố, gọi Tố vì là cái gì bất động, một chiều như con số bốn chứng tỏ, có chia ra vẫn chỉ là số chẵn.

Đôi khi ta cũng gặp tố thứ năm như Aristotle đã thêm ether vào bốn tố kia là nước, lửa, khí, đất. Nhưng ether thuộc cung bình diện hiện tượng tức là Hữu không phải là Vô, nên kể là thiếu hành uyên nguyên đi từ Vô sang Hữu, thiếu đối đáp nền tảng. Cả bên Aán Độ cũng chỉ là tứ tố, đôi khi cũng có thấy tố thứ năm như trong phái Sankhya. Nhưng tố thứ năm cũng thuộc cùng một bình diện nên vẫn không được gọi là hành. Vì hành hàm ngụ sự đi tự Hữu sang Vô hay ngược lại. Do lẽ đó tứ tố không được cơ cấu hóa để đặt nổi mối Tương Quan nền tảng giữa Hữu với Vô và tất nhiên không có những phát triển sâu rộng thêm thành Hồng Phạm, Lạc Thư, Minh Đường… Tất cả đều là phát triển do câu “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”.

Hai bộ số trên mà Kinh Dịch tuyên dương là cột trụ vì chúng chuyên chở những chân lý nền móng của Nho. Bao lâu chưa thấu hiểu thì chưa thể trở nên triết gia của Nho. Sự thấu hiểu này nếu không làm cho học giả trở nên triết gia thì cũng giúp cho dễ phân biệt đâu là bổn đâu là ngọn. Một cái biết cần thiết cho bất cứ ai đáng mặt triết gia: nên cần bàn thêm ít lời.

Hai bộ số trên chứa ba nhóm chân lý phải gọi là ngược chiều con mắt với lương tri, nhưng nó ngược kiểu rễ cây phải mọc ngược chiều với thân cây; gốc cây đâm xuống thân cây mọc lên. Thân cây là những hiểu biết thông thường bằng lương tri, thâu nhận qua giác quan nhất là tai mắt ai cũng thấy ai cũng nghe hết. Nhưng triết nào chỉ gồm có những chân lý loại này thì kể là triết của con mắt, là triết một chiều, vì không có hạn từ ngược để đặt ra mối Tương Quan nền tảng (mà Kinh Hùng gọi là cánh đồng Tương). Mấy chân lý này đi theo ba bộ số 2, 3, 5.

Số 2 chỉ chân lý ngược chiều đầu tiên là vũ trụ quan biến hóa biến dịch. Nó ngược tai mắt: vì ta thấy sự vật im lìm, một khối. Đây lại bảo là sự vật biến động, có hai mảnh nên được cơ cấu hóa bằng số 2. Chính con số này làm nên mối Tương Quan nền tảng nhờ đó Nho đáng tên là tổ sư của cơ cấu luận.

Số 3. Thứ đến là số 3 chỉ con người. Mắt thường thấy sự vật một là có hai là không. Không có trường hợp thứ ba: triết Tây gọi đó là nguyên lý triệt tam: middle excluded, tiers exclu. Triết Đông lại bảo có trường hợp thứ ba: đó là vừa có vừa không một trật. Điều này chứng tỏ ngoài con người bé nhỏ còn có con người cao cả gọi đó là đại ngã tâm linh biết xem thấy cách siêu việt bên trên con mắt thường, và vì thế dung hòa được cả có với không. Và do đó con số ba chỉ con người nhân chủ. Đó là chân lý ngược đời, vì theo mắt ta thấy người chỉ la vật bé nhỏ như “cây sậy trước vô cùng tận”. Thế mà ngược lại Nho bảo con người có cái Tâm bao la như vũ trụ: “vũ trụ chi tâm” (Kinh Dịch). Vì thế Nho đáng tên là nhân chủ: con người trong Nho cũng là vua như Trời cùng Đất.

Số 5 (do 2+3=5) thành ra là hành ngũ. Đi về hành ngũ cũng là đi về số không. Lại ngược chiều nữa: ở đời ai chẳng muốn có, thế mà đây lại bảo đi về với không là sao? Thưa không đây chẳng phải là không có gì hết mà là Không viết hoa, là cái Không chân thật làm nền tảng cho mọi cái có. Nó ví như giếng thiêng luôn luôn vọt lên nước hằng sống, nên cũng gọi là mạch Cam Tuyền để tẩm nhuận những thể chế thói tục. Vì thế mà những thể chế đó đựơc trình bày bằng khung ngũ hành như chúng ta sẽ thấy sau.

Đó là mấy chân lý ngược chiều gắn liền với ba con số có nền tảng của Nho 2, 3, 5. Vì là nền tảng nên Nho nguyên thuỷ dùng những số này cách tràn ngập nó làm nên xương sống của Kinh Dịch là Kinh cội gốc của Nho.

 

4. Chế

  Để Ngũ hành có thể trở thành khung chứ các thể chế thì tiên Nho đã kép nép Ngũ hành lên: trước hết kép thành vòng trong vòng ngoài, sự phân biệt này cung ứng cho hai chữ lưỡng hành cả một lược đồ đặc biệt, làm cho thấy rõ câu “có chân trên cả hai tàu”: chân trong chân ngoài cân đối.

 

                                                             

  Hình Vòng trong vòng ngoài

 
 
Là căn để của Nho, đựơc phát triển cách cơ cấu ở đợt nhất là ngũ hành; ở đợt nhì gọi là vòng thành vòng thì ngũ hành đã trở thành sự vật đặc. Đây là vòng đi vào thế sự, đi vào thực hiện, nhưng vẫn lấy tâm linh làm gốc, như các số 6, 7, 8, 9 gốc từ số 5 vậy. Vòng trong vẽ nét đứt chỉ vô, chỉ tâm, chỉ tiềm thức, làm nên phần nội thánh và phải dịch là five agents. Vòng ngoài về nét liền chỉ cõi hiện tượng tức sự vật đã thành hình, có thể dịch là five elements. Sau đó biến vòng trong vòng ngoài thành Hồng phạm Cửu trù.

Hồng phạm Cửu trù là đưa các số của 2 vòng trên xếp vào khung Ngũ hành kép mà thành nên như hình bên:


Hình Cửu trù Hồng phạm

 
Vì có 9 lô nên Hồng phạm luôn luôn kèm theo tên Cửu trù, tức đem những việc then chốt của đời sống đặt vào 9 ô của Hồng phạm để biểu thị lòng quyết tâm làm những việc đó theo như mẫu mực lớn lao nọ, tức theo trời (Thuận Thiên).

Hồng phạm chính là cái khung tiên thiên đưa ra làm mẫu mực cho các thể chế khác mà quan trọng hơn hết là Nhà Minh Đường với thể chế Nguyệt lệnh.


 
 
       

    Hình Nhà Minh Đường


Nhà Minh Đường hay là “nhà vũ trụ” vì có ba tầng chỉ Trời, Đất, Người. Đó không chi khác hơn là Hồng phạm Cửu trù nhưng có 12 trù (vì 4 trù góc chia đôi thành 8) để hợp với 12 tháng. Mỗi tháng có mệnh lệnh riêng ăn gì, mặc áo màu nào, ở phòng nào… Vì thế gọi là Nguyệt lệnh. Đó là thể chế cho câu tu thân vi bản, tu sao cho người hợp với Trời Đất thì đạt đạo. Đó gọi là Thuận Thiên. Sự thuận thiên được biểu thị bằng màu, số, phương phải hợp nhau thí dụ mùa xuân thì phương Đông, số 3, màu xanh; mùa hạ màu đỏ, thu trắng, đông đen…

Tuần cuối mỗi mùa vua phải ở căn giữa để chỉ sự siêu thoát ra khỏi thời gian và không gian, tức vào ở với hành ngũ vốn là “hành vô hành, địa vô địa”. Để làm chi? Thưa để không làm chi cả. Có còn trong thời gian không gian đâu mà làm. Vậy chỉ còn cách là “làm cái không làm” (vi vô vi). Trang Tử gọi đó là  “Nhan Hồi ngồi mà quên đi” để có được “trai tâm” hoặc “hư tâm”. Khi có hư tâm tức tâm hồn trống trơn thì linh thiêng sẽ xuất hiện, để xảy ra hiện tượng “Giao Chỉ” là chỉ Trời chỉ Đất giao thoa, làm nên cuộc Thái Hòa. Đó là đại đạo. Kinh Dịch nói tóm lược trong câu “an thổ, đôn hồ nhân, cố năng ái”. An thổ là vào ở trong Hành Thổ ngồi quên mọi sự, nhờ đó sẽ biết bản tính con người, yêu cách trung thực nên không làm hại người vì lòng yêu người của mình. Đó là ý câu “cố năng ái”.

Xem thế đủ biết thể chế Minh Đường chính là bản gốc của Nho hay nói tu thân vi bản cũng thế, vì tu thân được cơ cấu hóa thành khung Minh Đường, nên Minh Đường cũng là nền móng đường lối tu thân, nó là gốc. Vì vậy thời Nguyên Nho vua chỉ trị vì mà không cai trị. Việc cai trị để cho các quan, còn vua dùng hết thời giờ mà tu thân, mà ở trong Nhà Minh Đường. Đó gọi là vô vi nhi trị. Do đấy mà vua xưa là nhà tư tế thượng phẩm trước hết, còn chức hoàng đế chỉ là thứ yếu, tức cai trị coi như việc tuỳ ý có thể uỷ thác cho các quan, còn vua thì phải lấy việc tu thân làm gốc.

Thiên Vũ Cống không là lịch sử (không có trong sử ký) mà chỉ là bản tuồng lý tưởng diễn tả cung cách hành đạo của người lý tưởng gọi bóng là Đại Vũ thực hiện quy chế Nhà Minh Đường. Sau 4 năm tuần thú 4 phương thì về trung ương hội với các thần ở Cối Kê. Sử ký của Tư Mã Thiên (S.M.T.3 p.413) nói vua tế phong trên núi Thái Sơn, rồi vẽ tế Thiện trên núi Cối Kê (Kinh đô U Việt). Chữ Thiện cũng đọc là Thiền và nghĩa tương đương với thiện nhượng là nhường lại hết: tức trút bỏ tất cả để hội với các thần (Hội Kê) hầu đạt bản tính con người đại ngã tâm linh. Đó quả là một lối thi vị hóa mênh mông thể chế Minh Đường vậy.

Hồng Phạm còn là Khung cho nhiều thể chế khác như Hà Đồ, Lạc Thư đựơc dùng nhất là cho việc suy tư triết lý, nó nhấn mạnh trên luật hành động và phản động. Hành động trong Hà Đồ là đi ra ngoài thế sự rồi, thì phải phản hồi ở Lạc Thư là đi vào hành ngũ: ngồi mà quên đi để mong tiếp cận với giếng thiêng đặng bồi bổ tinh thần đã sa sút khi tiếp xúc với trần cấu. Ngoài Hà Đồ Lạc Thư còn có phép tỉnh điền.

Tỉnh điền chính là sự áp dụng Hồng phạm vào kinh tế. Người ta đã hiểu theo nghĩa đen, nên nảy sinh ra rất nhiều tranh luận vô ích. Sự thực thì đó chỉ là lời dạy về sự phải phân chia tài sản trong nước sao cho đạt được đồng đều theo lý tưởng của Hồng phạm, nó bóng là chia mảnh đất ra 9 ô theo cái mẫu mực lý tưởng kia. Vì thế tỉnh điền cũng chính là khung Hồng phạm vậy. Nó ở tại Trời Người Đất cùng tham dự cả vòng trong chỉ bằng số 3, cả vòng ngoài chỉ bằng số 9. Nói bóng là Nữ thần mộc (số 3) cũng có tên là Cửu Thiên Huyền Nữ (số 9). Thực ra đó là đại diện cho nguyên lý mẹ luôn luôn có mặt trong Nguyên Nho tạo nên thế hòa giữa âm dương, giữa nguyên lý cha và nguyên lý mẹ mà Kinh Dịch gọi là Càn Khôn. Sự hòa hợp này được biểu thị bằng nhạc. Vì Nhạc là bà chúa sự hòa hợp. Nên nhận xét chỉ có nước vua Thuấn mới có bộ nhạc. Xưa nay chưa đâu có bộ này.

Đó là đại để tinh hoa của Nguyên Nho được đúc kết trong ba chữ Chí Trung Hòa mà tôi đã thử trình bày qua 4 đợt từ, tượng, số, chế để cho dễ nhận ra nét đặc trưng của Nho.

Từ giúp cho có một ngôn ngữ sắc bén, thâu tóm cả hai đường nội ngoại.

Tượng giúp cho Nho triết nhìn ra vị trí hòa giả của mình thật bao la.

Số giúp cho đi sâu vào gốc rễ để thấy những chân lý ngược chiều làm nên nét đặc trưng không ai có thể phủ nhận.

Chế giúp cho thấy Nho vào đời một cách đặc sắc.

Câu nói của hội nghị rằng “Khổng Tử có chân trên cả hai tàu” được biểu thị cách cụ thể cùng tột bằng 4 bước trên. Nên hy vọng chúng giúp cho kỳ nhân của Nho xuất hiện. Vì nếu kỳ nhân không ra thì đạo không căn cứ vào ai để hiện hành. “Cầu phi kỳ nhân đạo bất hư hành” (Hệ từ hạ VIII 4). Xem đấy sẽ thấy Nguyên Nho khác với Hán Nho ở chỗ nào. Xưa nay vẫn có lưu truyền cho rằng: Nho đến hết đời Khổng Tử thì mất chính truyền. Từ đời Hán về sau Nho đã bị què quặt. Tuy lưu truyền đó ai cũng công nhận ít ra cách mặc nhiên, nhưng chưa có một cuộc khai quật để biết Nguyên Nho khác với Hán Nho ở chỗ nào. Tôi thiết tưởng Hán Nho đã nhãng bỏ mất 3 bước sau là tượng, số, chế mà chỉ còn chuyên có bước đầu là từ. Điều ấy truyền cho tới ngày nay lại càng gia tăng gấp bội, vì khi người Tàu gặp văn minh Thái Tây thì lại càng chú ý đặc biệt đến từ.

Hãy nhớ lại buổi đầu một số Nho gia đã bị thôi miên vì logic đến thế nào. Khởi đi xa về trước chỉ cần nhắc đến Hồ Thích và Phùng Hữu Lan.

Hồ Thích đã say xưa logic đến nỗi đã phá luân lý Nho để đề cao khoa lý luận của Mặc Địch, của Huệ Thi, cuối cùng chẳng đi đến đâu.

Đến Phùng Hữu Lan thì khá hơn nên ông đã được tặng danh hiệu triết gia. Nhưng danh hiệu này mới do ông Demiéville tặng, chưa đựơc truy nhận rộng rãi. Tuy về phương diện văn học hàn lâm thì họ Phùng có đủ, hơn nữa về đàng triết ông cũng có bề thế vì đã nhìn ra tầm quan trọng của sự vô ích, vô dụng, tức đã nhìn ra sự quan trọng của chữ Không. Nhưng rồi ông đã quá nghiêng về phía Hữu, phí Lý trí đến nỗi dùng cả kinh tế để giải nghĩa thượng tầng văn hóa y như cộng sản, thành thử cuối cùng ông đã giản lược Nho giáo vào 4 ý niệm trừu tượng là Lý, Khí, Đạo, Đại Khối. Nho giáo là một đạo hành vi mà trình bày qua mấy ý niệm trừu tượng đó tức là đã nhổ Nho ra khỏi đất tâm linh, chặt của Nho mất một chân, còn đâu đủ hai chân tâm vật để mà lưỡng hành. Thành thử ông mới là một học giả, kiêm triết học gia (ideologue) chưa là triết gia, ít ra chưa là triết gia của Nho vốn có cả ngoại lẫn nội. Nội nằm trong tượng, số, chế, còn ngoại nằm trong từ. Oâng chỉ chú ý có từ với ý tức là logic. Vì sức quyến dũ của logic quá mạnh nên ta cần xét về điều đó tận nơi tổ của nó là triết học Tây Âu.


Logic với từ chỉ là một: logic là sự phát triển của từ, vì logic thành bởi ý niệm, mà dấu hiệu của ý niệm là từ. Nên bám ý niệm cũng là bám từ: không đi xa hơn từ bao lăm. Ta chỉ xem cái tam đoạn luận trong logic Aristotle ông tổ của lý luận là thấy ngay: “mọi người phải chết. Socrate là người nên Socrate phải chết”. Đó là câu mẫu của danh lý hình thức mà mấy năm đầu ban triết tôi đã tốn biết bao thì giờ học để thi, đến cuối cùng gặp câu phê bình của Nietzsche: “Logic là một lối lý luận ngu đần nhất”. Mà ngu thật. Nó có đưa lại yếu tố mới nào đâu, nó chỉ đi từ sự đã biết nọ đến sự đã biết kia, chứ nó không bắc sang một miền khác, sang cõi vô thí dụ để đặt liên hệ uyên nguyên hầu mở rộng chân trời ôm luôn cả vô thể, vì thế tôi muôn nói tiếp theo Nietzsche rằng “đó là chứng bệnh nan y, đến nỗi nhiều người đã biết nó là vô ích mà cũng không sao thoát được”. Khỏi nói về Nietzsche mà hãy lấy ngay ví dụ về Hegel vì ông cực kỳ chống logic mà ông cho là bất động, vì nó thành bởi những ý niệm đặc. Oâng đề nghị phương pháp mới thay thế đó là biện chứng pháp là cái gì động, vì có hai mặt, thành bởi những cái chống đối nhau, nên gọi là mâu thuẫn. “Mâu thuẫn là mẹ của tiến bộ”, “chống đối là cha tiến hóa”. Mới đọc ông, ta tưởng ông là kiện tướng dẫn ta leo trên cây cầu ngũ sắc để đi sang một thế giới huy hoàng, trung thực có hai chiều. Nhưng cuối cùng ông đã làm ta thất vọng. Cái cầu ông bắc giống cầu vòng, vươn lên thì có cao thật nhưng rồi lại cắm đầu xuống đất, thành ra một thứ duy kiểu mới, nên có người muốn gọi ông là “đứa con truỵ thai của Á Châu”. Con Á Châu vì có thể ông lấy hứng để lập ra biện chứng pháp ở cặp đôi Âm Dương của Kinh Dịch. Nhứt là những đề luận lớn của ông như óc thượng sử, óc phiếm thần, sự coi vũ trụ như một cơ thể (thay vì cơ khí) là những điều na ná với lập trường Nho nên gọi là con Á Châu, nhưng là đứa con sinh sớm nên truỵ thai. Vì ông mới đi hết được có vòng ngoài, gọi là vòng kháng, mà chưa đi tới vòng trong hay vòng sinh nên cuối cùng triết thuyết của ông không thoát khỏi vòng tay của logic tức cũng lại trở nên một duy “ism” như trước, duy tâm.

Karl Marx chê ông là đi ngược: đầu ở dưới hai chân giơ lên trời nên đã chữa lại cho biện chứng đi hai chân trên đất, thành ra duy vật biện chứng (Mao Trạch Đông đã khai mạc cuộc cách mạng của ông bằng quyền “Mâu Thuẫn” là đi đúng với tinh thần một chiều của Hegel và Marx. Đó là chiều kháng, thiếu vòng sinh). Chỉ nội một tấm gương đó của Hegel đã đủ chứng tỏ duy lý (logicisme) là một chứng ung thư chưa tìm ra thuốc chữa. Sau bao thất bại mà mãi đến tận nay logic vẫn còn được dưỡng bồi nhiều kiểu khác nhau. Nhưng phát triển đến đâu mặc, triết vẫn tiến tại chỗ. Logic không giúp cho triết có thêm chiều kích tâm linh để có được chân trên cả hai tàu. Chính tổ logic mà còn vậy, phương chi mình học một thì trông làm sao hơn đặng. Vậy phải trở về con đường hai chiều của Nguyên Nho. Hãy nhớ chính vì chỗ hai chiều đó mà hội nghị Honolulu không chọn triết Tây vì ngầm hiểu là nó thiếu hai chiều, nên phải chọn triết Nho, vì cho rằng Nho có hai chiếu. Nhưng trớ trêu thay triết Nho đã được trình bày một chiều theo triết Tây nghĩa là duy trí. Và đó là lý do tại sao Khổng Tử chưa thể ra cầm trịch là vì ông vẫn còn què, cái Nho đựơc trình bày là cái Nho thọt, nó đi ngược với truyền thống Nho vốn đặt lập đức trước hết, thứ đến là lập công, cuối cùng mới đến lập ngôn, tức tu từ, tu lý bị kể vào hạng bét. Tôi thiết nghĩ cản trở lại con đường cũ gồm cả bốn bứơc từ, tượng, số, chế thì Nho mới đủ hai chân. Có lẽ chỉ nên đổi thứ tự và chỗ nhấn để hợp tinh thần ngày nay hơn. Thay vì từ, tượng, số, chế, thì nay sẽ là dụng, từ, ý, cơ. Tức nhấn mạnh đến việc làm gọi là Dụng (đối với thể là lý).

Từ giữ y nguyên, còn ý thay cho tượng, tức biểu tượng phải bớt đi để nhường quyền cho ý, cho logic, và đó là phần mà Nho phải học với triết Tây để biết phân tích thấu đáo, luận lý rành mạch, hệ thống hóa chặt chẽ để hợp tâm trạng người mới. Sau đó đến số nên đổi ra cơ để khai thác những thành tựu của cơ cấu luận. Đó cũng là sự phục hoạt con đường Nho nguyên thuỷ, thứ Nho có dùng số, đồ biểu, biểu tượng. Cho nên với phần này ta có thể đưa lại cho Nho những khía cạnh mới mẻ hợp cảm quan thời nay. Người nay đã chán lối suy tưởng duy lý, trừu tượng, khô khan, và đang mong muốn một thứ triết lý cụ thể. Với cơ cấu cùng các tuỳ phụ như tiêu biểu, truyền kỳ, chúng ta có thể nếu không tạo dựng một nền triết mới ít ra cũng nhìn Nho bằng một lối mới, một kiểu trình bày Nho một cách cụ thể, có màu sắc, có truyện tích, điểm pha lịch sử cho bớt tính chất trừu tượng của duy lý. Và trên hết là dụng.

Dụng là làm, tôi muốn dùng chữ này thay cho chữ chế là có ý mở rộng chế hơn. Tôi muốn dùng chữ này trước hết để chỉ tất cả mọi lời nói phải hướng vào hành động, cần gạt bỏ những vấn đề quá hàn lâm, thuyết lý. Sau là muốn chỉ những hoạt động nào nhằm tu thân. Vì nhiều thể chế cũ nay đã lỗi thời. Và vì lối tu thân xưa đã thất nói vắn tắt là nhạc đã mất, nên không còn rõ người xưa tu cách nào. Ta có thể thay vào bằng thi ca, nghệ thuật thì mới có phương tiện thanh lọc tâm tình để cân đối với logic suông.

Ngoài ra nên thêm một lối thiền nào mà ta ưng ý hơn hết. Vì thiền cụ thể hóa lối tu trong nhà Minh Đường hơn cả. Thiền đi vào nội tâm để trai tâm y như Minh Đường là để thực hiện lời Kinh Dịch “Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Dịch là không suy tư, không làm nữa, ngồi bất động để rồi tự nhiên thấu suốt các lẽ đất trời”. Phai có thế thì Mạnh Tử mới nói được câu “phản thân nhi thành lạc mạc đại yên”. Có như vậy mới đúng câu mở đầu sách Luận Ngữ “vừa học vừa tập vui biết mấy” (câu 2), và câu sách Đại học (câu 3) “Hữu phỉ quân tử như thiết như tha, như trác như ma”. Người quân tử chú ý đến tu thân cách chăm chú như người thợ ngọc “như cắt, như dũa, như đục, như mài”. Bỏ phần tu luyện thì làm sao có thể nói những câu như thế, làm sao có thể nói vừa học vừa tập vui biết mấy. Cái ấy tôi gọi bằng tên bao quát là dụng. Phải để Dụng trên đầu, trứơc cả từ, ý, cơ. Đó cũng là hợp câu châm ngôn “tiên học lễ hậu học văn”. Văn là từ, ý, cơ đi sau, còn lễ là dụng, là tu luyện, là tất cả những gì hiện thực phải để lên đầu, phải cho là quan trọng bậc nhất. Như vậy mới có một cái gì thực nghiêm chỉnh đặng cân bằng với lý luận lý trí để thiết lập lại con đường “lưỡng hành”.

Đó là đại để nét đặc trưng của Nho giáo mà hội nghị Honolulu đã gọi là có chân trên cả hai tàu, cả tàu vật chất lẫn tinh thần, cả dụng lẫn từ, ý, cơ. Sở dĩ hội nghị đã bầu Khổng Tử lên cầm trịch mà ba mươi lăm năm nay chưa thấy ông xuất hiện, thì truy căn ra ông còn cụt một chân: mới có đi chân từ, ý, chưa chắc đến chân cơ, dụng. Mới có học giả để nghiên cứu, chưa có triết gia để suy tư, để đưa ra những tư tưởng hướng dẫn. Thế giới tuy bao giờ cũng đựơc hướng dẫn do ý tưởng thực, nhưng nó không chịu ăn đồ hộp là ý tưởng cũ, mà đòi những tư tưởng mới vọt lên, còn nóng sốt. Đó là ý nghĩ của tôi về lý do sự chọn lựa của hội nghị Honolulu năm 1949, và tại sao Nho giáo chưa nổi lên được.

Tôi xin kết thúc bài nói bằng câu hỏi sau: có vẻ tư riêng hơi kỳ nhưng vì yêu cầu thực tế nên cứ hỏi là liệu hội nghị này có chọn một triết gia nào, hoặc một triết lý nào để dẫn đưa nhân loại trong giai đoạn đang tới chăng? Tôi không biết rồi đây trong các cuộc thảo luận câu hỏi trên có được đặt ra chăng? Nếu không tôi ước mong được mỗi quý vị ghi ý kiến mình vào mảnh giấy nhỏ và trao cho tôi để tôi có bằng chứng mà đo mức độ tâm thức nhân loại hiện nay cũng như dùng làm kỷ niệm quý báu về hội nghị này.

 
Bài đọc tại Đệ nhất hội nghị toàn cầu về triết học Trung Hoa hội tại Đài Loan-  Đại học Đông Hải – August 1984 (The First World Conference in Chinese Philosophy – Taichung Taiwan R.O.C)

  Phần I I

II. TỪ HOÀNG NHO QUA DI NHO TỚI VIỆT NHO
 
Phi lộ

  Bài sau đây nói đến hai thứ Nho, một là Hoàng Nho cũng có tên là Di Nho hay Việt Nho. Hai là Hán Nho cũng có lúc gọi là Chu Nho. Như vậy chủ đích là nói về văn hóa, chứ tuyệt nhiên không đả động chi đến vấn đề chủng tộc tức không xem Tàu với Di hay Việt khác nhau về chủng tộc mà chỉ có ý đến hai thứ Nho. Việt Nho là nguyên thuỷ chung cho cả Việt lẫn Tàu. Hai là Hán Nho cũng là Nho đã được người Tàu hoàn chỉnh (tức làm cho trọn vẹn cũng gọi là công thức hóa) và sau đó có đọa do đưa vào chừng 30% chất du mục, nay cần phân định để gạn lọc hầu đạt Nho chính thống.

Các học giả cả Tàu lẫn Tây Aâu khi nói về Nho đều dùng tiếng Confucianism, đến nỗi nhiều người không biết đến tên Nho, càng không biết đến những chặng tiến của Nho. Đó là điều chúng tôi có ý bổ túc trong bộ triết Việt Nho này.

Vậy Nho có tất cả 4 giai đoạn:

Một là Hoàng Nho thuộc Tam Hoàng từ –4480 đến –3080

Hai là Di Nho từ vua Thuấn –2255 đến Vũ –2205

Ba là Việt Nho lối Xuân Thu –821

Bốn là Hán Nho cũng là Khổng Giáo từ nhà Chu –1122


  Hoàng Nho là Nho của Tam Hoàng: Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Nho đợt này chứatrong 4 loại sách gọi là “Tam phần, Ngũ điển, Bát sách, Cửu khâu”. Đời Chu có đặt chức quan Ngoại sử coi về bộ cổ thư này (xem Chu Lễ, chương Xuân Quan Tông Bá, tiết Ngoại Sử). Nhưng sau không hiểu sao lại để mất. Gọi là ngoại sử vì thuộc giai đoạn trước khi có dân tộc Tàu. Tàu chỉ xuất hiện từ Hoàng Đế là cùng cực và sách tự đấy thì do quan “nội sử” trông coi. Vì sách đã mất nên nay ta chỉ có thể biết cách gián tiếp qua những đức tính của Tam Hoàng mà dấu đặc trưng nổi bật là huyền số như ta thấy số 3, 5, 8, 9 trong tên sách. Rồi đến tính cách và phong thái của Tam Hoàng như sống cả trên trời lẫn dưới nước (tiên rồng). Phục Hy thì làm ra “Dịch tiên thiên”. Nữ Oa nấu đá ngũ sắc. Thần Nông khai sáng nông nghiệp. Đấy là loạt tổ đầu tiên lập ra Nho, tôi gọi là Hoàng Nho và là tổ của Tứ Di. Trứơc khi nói đến Di Nho hãy nhận xét hai điều:

Trước hết là Nho đã được đặt nền móng xong hẳn, người Tàu chỉ có thể hoàn chỉnh (trọn vẹn hóa) chứ không thêm được gì cũng không thể bỏ. Kinh Thư hay nhắc: nếu không lấy ở cổ đạo thì lấy giáo huấn ở đâu? “Bất do cổ huấn, vu hà kỳ huấn” (thiên Tất Mệnh câu 11). Đó là cái Đạo mà Khổng An Quốc gọi là Đại Đạo (bài tựa Kinh Thư). Chúng ta sẽ bàn ở chương sau.

Điều hai là vì vụ nhà Chu “để mất” các cổ thư nên sau người ta quên hẳn dòng văn hóa Hoàng Nho, mới có truyện móc nối với Hoàng Đế, và tính năm tự Hoàng Đế (-2696) trở lên thành ra Phục Hy là –2852 và Thần Nông là –2737.

Đó là những niên hiệu cần phải thải bỏ, vì nó trái với khảo cổ: hai di chỉ Long Sơn và Ngưỡng Thiều phải có tự 4 đến 5, 6 ngàn năm trước. Văn hóa Hòa Bình cũng đã có Thần Nông tức lối 10 ngàn năm trước là ít. Vì vậy nên ghi niên hiệu lưu truyền không phải vì nó đúng hơn, nhưng vì nó bớt xa sự thực hơn.

Đợt tổ thứ hai là Nghiêu Thuấn, nhất là Thuấn là tổ của Khổng Tử. Khổng Tử không là nhà sáng lập mà chỉ là người truyền bá. Truyền bá đạo nào? Thưa là đạo Di Nho đó. Sách Trung Dung câu 30 nói “Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, Hiến chương văn võ. Thượng luật thiên thì, hạ tập thuỷ thổ”: Trọng Ni (tên Khổng Tử) thuật lại đạo ông tổ của mình là hai ông Nghiêu Thuấn, và hiến chuơng của vua Văn, vua Võ. Trên thì để tâm đến Thiên thời, dứơi thì chú ý tới lệ tục từng nơi”. Câu trên bày tỏ hai chiều kích (có chân trên hai tàu): Đạo chung thì lấy từ ông Nghiêu ông Thuấn, còn hiến chương (hay hiến pháp tức khởi đầu đi vào cụ thể tư riêng) thì lấy của vua Văn, vua Võ. Câu sau giải rộng: Đạo phổ quát thì là chữ Thời, đến lúc hiện thực thì phải tuỳ nơi, (hạ tập thuỷ thổ). Câu sách trên cho thấy rõ Khổng Tử chỉ thuật lại cái đạo của ông Thuấn ông Văn; vậy mà ông Thuấn ông Văn đều là người Man Di “Thuấn Đông Di chi nho, Văn Vương Tây Di chi nhân” (Mencius IV b.1)

  Đợt cuối là Việt Nho. Việt cũng gọi là Bách Việt là một tên mới dùng để chỉ Tứ Di, hay Man Di, tức không phải dòng tộc mới mà chính là liên đoàn các dân thổ trước đã cư ngự ở nước Tàu trước khi Tàu xuất hiện, và gọi là Viêm Chủng, là Tam Miêu, Cửu Lê, rồi Cửu Di, Tứ Di v.v… đến quãng sau này chỉ bằng tên Bách Việt gồm rất nhiều chi như:

Bộc Việt  =  miền Kinh Sở

Liêu Việt  =  miền Hồ Quảng

U Việt  =   miền Chiết Giang

Mân Việt  =   miền Phúc Kiến

Nam Việt   =   Lưỡng Quảng (Lưỡng Việt)

Lạc Việt   =    Bắc Việt

v.v…


Người vẫn là một dù mang tên Hoàng, Di hay Việt. Nhưng sở dĩ phải dùng những tên khác nhau cho hợp lịch sử và nhất là có những chặng nhỏ để dễ nhận diện: tự người Việt liên hệ với Bách Việt. Bách Việt cũng là Man Di. Di là con cháu của Tam Hoàng, nhất là đợt tên mới này bao gồm Việt Nam là nước hiện có hoàn cảnh sử địa đặc biệt đáng tên là đại diện cho Di Nho hay Hoàng Nho, thì từ nay nói đến các thứ Nho này có người thừa kế sống động để “bênh vực quyền lợi” của Di Nho, kẻo tự trước tới nay chỉ có mình Hán Nho lên tiếng, còn Di Nho kể như người vắng mặt. Ngạn ngữ Pháp nói “kẻ vắng mặt bao giờ cũng có lỗi hay bị thiệt thòi”, les absents ont toujours tort. Từ nay có Việt Nho thì hết sợ thiệt thòi. Huống chi ta đang kiến thiết một triết lý để sống thì cần phải có người sống thật sự, mới hy vọng viết ra được đạo sống.

Vậy bây giờ xin hỏi Di là những giống người nào?

Di có hai nghĩa: một là chỉ những bộ lạc “man rợ” ở phía đông nước Tàu. Trong ý đó Di đi với Nhung miền Tây, Địch miền Bắc (như Kim, Mông, Mãn) Man miền Nam (như vùng Hồ Quảng cũng gọi là Kinh hoặc Kinh Man. Huyền sử Việt gọi là Di là Dương trong tên Kinh Dương Vương). Như vậy Di gồm từ miền núi Thái Sơn, Châu Từ, Hoài An, Giang Tô, Giang Nam trở xuống (trong Kiều gọi là người Việt Đông).

Còn một nghĩa chung và thông thường hơn thì Di chỉ tất cả các dân cư ngụ trong nước Tàu mà không phải là Tàu, hay chưa là Tàu và thường được chỉ bằng hai chữ “Tứ Di” thí dụ câu “Tứ Di tả nhậm” trong Kinh Thư, thiên tất mệnh, câu 13. Nhiều chỗ tứ Di được thay bằng Tứ Phương hoặc Tứ Hải. Theo sách Nhĩ Nhã thì hai chữ “Tứ Hải” có nghĩa như Tứ Di cũng như chữ Tứ Di sẽ mang nhiều tên khác như Man Di, Bành cũng đọc là Bàng, Bang, Bang cũng dọc là Man. Rồi Bàn cũng đọc là Ban, Ba cũng đọc là Bà. Cũng có khi Di mang tên Cơ (Aâu Cơ) hoặc Nhung hay Địch hoặc Đông Di, Điểu Di, Lai Di, Tam Miêu, Cửu Lê và nhất là từ thời Chiến Quốc có tên Bách Việt.

Trong quyển V của Legge “The Ch’un Tséw” trang 112 có in tấm bản đồ với chữ “Việt Đông tỉnh thành. Tuy văn Đường khắc” thì hai chữ Việt Đông chỉ bao trùm các thứ Việt ở rải rác từ miền Thái Sơn trở xuống xuyên qua các tỉnh miền Hoài Giang, Giang Tô, Giang Nam, trong đó có “quê hương” của những “nhân vật” nổi tiếng như Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Như vậy chữ Bách Việt cũng như chữ Tam Miêu, Cửu Lê, chỉ liên đoàn các dân mà trước kia gọi là Tứ Di, Tứ Hải nên không có sự phân biệt rõ ràng giữa các tên, thí dụ Di cũng gọi là Nhung mặc dầu Di ở mạn Đông, Nhung ở mạn Tây. Người Việt có tổ tiên Lạc Việt, mà Lạc cũng đi đôi với Dịch ở mạn Bắc thành ra Lạc Dịch. Hay chữ Bàng (trong Hồng Bàng) cũng đọc là Bành là Bang, mà Bang lại cũng đọc là Man, nên Viêm Bang cũng là Viêm Man hay Viêm Việt, mới coi như có sự dùng bừa bãi, mà xét thấu đáo thì lại thấy có cái lý do của sự việc, tức những tên khác nhau tuy ban đầu chỉ một chi tộc khác nhau, nhưng vì có sự pha giống giữa các chi và nhất là có những yếu tố văn hóa căn bản như nhau, nên về sau các tên hay được dùng chung nhau. Trong các tên hay được dùng thì có Tam Miêu, Cửu Lê mà ông Needham (II.117) gọi là “liên đoàn các dân” hoặc “cộng đồng huynh đệ” nhưng còn nhiều tên khác như Bàng, Bành, Bang, Bàn, Man Di, Cửu Di, Tứ Di, Nhung Di, Từ Di, Hoài Di, Điểu Di, Lai Di, Bách Việt: Bộc Việt, Liêu Việt, U Việt… cả ba chùm tên trên (hay bốn, năm, sáu…) đều cùng có chung một tiên tổ văn hóa đã cư ngụ trong nứơc Tàu trước khi người Tàu xuất hiện như một dân, nghĩa là chưa tách ra khỏi đại khối. Đó là một sự thực to lớn là 25 thế kỷ qua đã bị quên khuấy, phải chờ đến thế kỷnày mới được khoa học khui ra. Và điều này rất cần được ghi nhận và nghiên cứu khi tìm về nguồn gốc văn hóa Đông Nam Á. Đó là điểm một.

Điểm thứ hai cần phải để trước mắt là về người Tàu và nứơc Tàu. Người Tàu là ai?

 Thưa có 3 loại. Thứ nhất là những người trước chính là Di nhưng sau đã trở nên văn minh mà hóa ra Tàu. Hai là những rọ phương Bắc như Mông, Mãn, Tạng, Hồi, và nứơc Tàu rồi thấm được văn hóa Di, sau trở nên Tàu. Ba là những bộ tộc của Di mà Tàu chinh phục thí dụ ba nước Sở, Ngô, Việt rồi được đồng hóa ra Tàu. Vì thế khi tôi nói 70% dân Tàu là Di là nói non cho chắc ăn, chứ thực sự phải hơn nữa.

Còn nước Tàu to lớn như ngày nay thì mới có tự đời Tần Hán (năm 221 tr.c.n) chứ trước nữa bé hơn nhiều lắm. Theo huyền thoại thì nước Tàu có tự đời Hoàng Đế Hiên Viên, nhưng đó chỉ là huyền thoại không có đủ bảo chứng về khảo cổ. Ngày nay các cuộc tìm kiếm theo phương pháp khoa học đã minh chứng là những nhân vật như Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, mới được tạo dựng lên tự cuối đời Chu chứ trong các sách cổ hay cốt tự văn hoặc chữ tạc lên đồ đồng không hề nhắc đến các “vị” đó. Vì vậy không còn được coi là nhân vật có thực trong lịch sử của Tàu mà chỉ còn được kể là những anh hùng văn hóa hầu hết là của Di Việt, ngoại trừ vài người như Hoàng Đế là đại diện cho văn hóa “du mục”. Đây là loại văn hóa mới xuất hiện để chinh phục văn hóa nông nghiệp chỉ thị bằng Li Vưu con cháu Thần Nông.

Còn nói về sử ký thực sự thì Tàu mới xuất hiện tự tộc Thương quãng 17 thế kỷ trước công nguyên. Có người muốn kể cả tộc Hạ, nhưng nói chung tộc Hạ chưa được giới nghiên cứu công nhận. Tộc Thương khi mới xuất hiện thì chỉ như một bộ lạc hùng mạnh hơn các bộ lạc chung quanh, địa vực lại rất khiêm nhượng, sau bao cuộc chinh phục mà đất đai cũng mới rộng chừng vài ba trăm ngàn dặm. Ngay đến đời Chu mà xem trong bản đồ in trong quyển Kinh Thư của Legge (IV tr.126) cũng chỉ quanh quẩn hai bên bờ Hoàng Hà mà ở giữa còn xen kẽ vô số bộ lạc của Di, sách cổ quen gọi là vạn quốc chư hầu. Vì thế về đất đai cũng chưa nổi bật như sau này tự đời Tần Hán.

Còn về văn hóa thì trứơc tộc Thương tất cả nước Tàu như nhau nghĩa là chỉ có văn hóa Tứ Di, tức cũng anh em kế nghiệp chứ chưa có tông pháp trao quyền theo con cả. Khi múa cũng mang lông chim. Các bà đẻ con theo kiểu trống quân tức là dã hợp. Trong quyển Tiền Sử ông Andreas Lommel ghi nhận “tất cả miền đất mênh mông tự Thái Bình Dương trở lên đến đất mạn nam Trung Quốc đều cùng một nền văn hóa. Đảo Borneo cũng có nghệ thuật như ở sông Hoài (sông Hoài là Giang Tô miền nước Ngô xưa) Préhist tr.180.

Sự khác biệt giữa Di và Tàu còn rất ít. Đời Thương mới thấy có sự khác về lá cờ: cờ tộc Thương là cờ bạch hổ (Shang civ .206), đang khi các chư hầu đều trương cờ rồng. Kinh Thi nói “cờ rồng bay phơi phới”, “long kỳ dương dương” (Kinh Thi Legge IV tr.591). Còn văn hóa vẫn là Di, chỉ có biến đổi tự nhà Chu do sự đưa những yếu tố văn minh vào như chức thiên tử, hoạn quan, luật hình. Đấu là những yếu tố mượn bên miền du mục Lưỡng Hà như Perse, Assyria, chúng sẽ lớn lên và làm bẻ quặt Di Nho nên bị tiếng là du mục. Nhưng là du mục so với Di Nho chứ còn đối với Tây phương thì Chu Nho (sau này gọi là Hán Nho) cũng còn là nông nghiệp có thể nói đến 70%. Du mục chỉ chừng độ 30% là nhiều. Cứ xem bảng tiếng nói thì tạm có một ý niệm rõ hơn. Theo các nhà ngôn ngữ thì Tàu có đến 10 phương âm. Trong đó tiếng Quan Thoại đựơc kể là chính thức (do may mắn là tiếng nói của kinh đô vua ở, nên được đắc dụng chứ không vì văn hóa cao). Tiếng Quan Thoại cũng chỉ gồm có phía đông Thiểm Tây, bắc Hà Nam, nam Hà Bắc, nam Sơn Tây. Ngoại giả hầu khắp nơi đều nói giọng của Di Việt gồm có:

Tần ngữ đuợc coi như cổ ngữ của Quan Thoại

Thục ngữ âm của người Thái xưa.

Yên, Tề ngữ của Đông Di và Mạc Dịch.

Sở ngữ: Kinh Man, Lạc Việt.

Mân ngữ của Mân Việt ở Phúc Kiến.

Giang Hoài ngữ: Việt Chiết Giang (U Việt)

Ngô Việt ngữ: bắc Giang Tô, Việt Chiết Giang

Điển và Kiểm ngữ: Vân Nam

Việt ngữ: Quảng Đông, Quảng Tây

Khi tôi dùng chữ Di Nho hay Việt Nho là tôi gồm cả 9 thứ người trong đó với Chu Nho hay Hán Nho. Vì vậy đây chỉ là mặt trận giữa hai loại văn hóa siêu quốc gia, chứ không có ý chính trị nứơc Tàu và nước Việt chi cả. Trong khi nói Việt Nho cũng có ít nhất là 70% dân Tàu, là tôi nghĩ tới một hiện tượng kỳ lạ không mấy ai để ý, tức nước Tàu không có tên riêng, phải mượn tên Tàu là một nước của Tứ Di hay Nhung. Còn chữ Trung quốc không là tên chỉ nguồn gốc hay dòng tộc chi cả, đó là tên nói lên nguyện ước là “nứơc ở giữa” các nước khác “nước trung ương”, nó nảy sinh tự tộc Hạ và tự đấy có đôi người gọi người Tàu là “Hạ dân”, nhưng tên này không ổn lắm vì Hạ chỉ là mảnh đất “ước ao” hơn là có thực vì nó ở mạn nam sông Hoàng Hà mà mãi đến đời thứ ba là TanKang (-2188 đến –2159) “tộc Hạ” mới sang qua sông Hoàng Hà đóng ở Zhenxun tỉnh Hà Nam (phía tây nam Gong district ngày nay, 121 Wu). Vì thế khi ông Vũ đi kinh lược bốn phương rồi mà trở về tính sổ với các thần thì phải đến “Cối Kê” kinh đô của U Việt nằm mãi phía đông nam bên dưới Hoàng Hà xa lắm. Cho nên đã rõ truyện Đại Vũ trị thuỷ được các nhà nghiên cứu Tây Aâu xếp vào loại huyền thoại nên tên Hạ không ổn, đến nhà Chu phải thêm vua Hạ tiếng Hoa thành Hoa Hạ có nghĩa là vinh hiển. Sau cùng chữ Hoa thay thế hẳn cho chữ Hạ (xem Wu 107-110 và Tả truyện: Định công năm thứ 10). Như vậy chữ Trung trong Trung quốc và hai chữ Hoa đều là hình dung từ chứ không là danh từ chỉ tên đất, tên tổ chi cả. Điều đó ngầm chỉ rằng ít ra 70% người Tàu là gốc Di hay Việt.

Đấy là vài yếu tố cần đặt nổi để tránh những sự hiểu trái khoáy lịch sử (anachronic). Vì không chú ý điểm này nên hầu hết các người chú thích và dịch giả không chịu chấp nhận câu sách Mạnh Tử cho ông Thuấn là người Đông Di, Văn Vương là người Tây Di, mà cưỡng dịch là “ông Thuấn sống gần mọi Đông Di” làm như nói ông Thuấn là người Di là hạ nhục ông mà không chú ý rằng lúc ấy chưa có ý niệm “mọi rợ” trong tiếng Man Di, nên Mạnh Tử không ngần ngại nói lên việc “ông Thuấn là người Đông Di, Văn Vương là Tây Di”. Cần ghi nhận là ý niệm rợ mọi đi liền với Man Di mới manh nha dần tự đời Chu do sự việc giàu có sinh lễ nghĩa. Nhờ nắm được chính quyền nên có thể áp đặt tiếng nói, tục lệ của mình. Lại nhờ có sự học hành nhiều mới gây nên “văn hóa nhà Chu” mà sự thực chỉ là Di Nho đựơc trau dồi, rồi thêm mấy nét du mục, mấy tập tục của riêng vào mà thành ra, mới dần dần khinh Man Di vẫn còn quê mùa ít học. Cần ghi nhận điều này kẻo không hiểu được cổ sử đúng vào thời của nó.

Học giả James Legge đã hé nhìn ra chỗ trái khoáy này, nên trước kia ông đã dịch câu sách trên là “Văn Vương là người sống gần mọi Tây Di” nhưng đến quyển Kinh Thi thì ông viết: “Song le theo sử sách của chính nhà Chu thì ta thấy tổ phụ của họ là Công Lưu cũng xuất phát từ các bộ lạc nọ (tức Tây Di) và lập nghiệp ở đất Bân. Rất lâu sau họ mới chậm chạp tiến lên văn minh rồi bỏ nơi cư ngụ cũ, thiên về phía đông nam để va chạm với tộc Thương, và thiết lập ra Trung Quốc hay nước Tàu thời sơ khai lúc đó. Còn những truyện móc nối giữa các tổ phụ nhà Chu với ông Nghiêu ông Thuấn thì phải gạt bỏ khỏi phạm vi lịch sử có thể tin cây được” (Legge IV.2). Theo gia phả nhà Chu thì Công Lưu là dòng dõi ông Khí (sau con cháu phong làm Hậu Tắc) làm Bộ trưởng canh nông của ông Thuấn, đựơc phong ở đất Thai (Thiểm Tây), sau ông Công Lưu (-1796) thiên về đất Bân. Đến cháu 13 đời ông Khí là Cô Công Đản Phủ (-1325, con cháu phong là Thái Vương) lại thiên về đất Chu ở miền núi Kỳ, quận Phượng Tường… Xem đấy đủ biết cả nhà Chu cũng cố móc nối với ông Thuấn “Đông Di chi nhân” chứ có kỳ thị chi đâu. Kỳ thị mới có về sau tự đời Trung Chu trở đi, nhất là tự đời Hán, lúc nước Tàu đã thực sự lớn rộng sau khi Tàu đã thôn tính cái miền mênh mông của Man Di gồm Sở, Ngô, Việt.

 
Những dấu văn hóa của Tứ Di
Sau khi đã bàn qua về lãnh thổ của Di (gồm toàn cõi nước Tàu xuống tới tận các đảo Thái Bình Dương) bây giờ ta bàn sơ qua về nội dung văn hóa, như được biểu lộ xuyên qua những dấu đặc trưng sau:

1. Dấu đầu tiên là trọng bên tả, Kinh Thư ghi “tứ Di tả nhậm” có nghĩa các Di đều bắt vạt áo bên tả, tức trọng bên tả, đối lại với Tàu trọng bên hữu.

2. Dấu hai là bên tả đi với phương đông nam, chú ý số 2 và 3 ngược với tây bắc số 4-1.

3. Dấu ba đi với trọng bên tả là trọng nữ, tức trọng nguyên lý mẹ, nên đặt âm trước dương, ngược với nguyên lý cha đặt Càn trước Khôn (tức dương trước âm).

4. Trọng số 5, ngược với Tàu trọng số 6.

5. Đã nói đến số thì phải nói đến bà Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá lại Trời, sau bà hóa ra chim tinh vệ, nên bà là người Di có tiên (chim) là họ mẹ và rồng là họ cha. Tiên (chim) rồng vẫn đi đôi.

6. Phục Hy làm ra Kinh Dịch với số 2 và 3. Phục Hy có tên là Thanh Tinh là rồng xanh.

7. Do đây có nét đặc trưng là huyền thoại mang dấu Lưỡng hợp (dual-unit) chỉ bằng số 2 như Nữ Oa, Phục Hy, Non Nước, Núi Sông, ông Cồ bà Cộc v.v… Tôi gọi đó là nét song trùng.

8. Vật tổ: là chim và xà long mạn bắc, hoặc giao long man nam, chứ không chỉ có một con như Tàu lúc đầu là bạch hổ.

9. Oâng Thuấn nổi về đức hiếu thảo, tức là đặt quan trọng về gia đình, sẽ xây nước trên mẫu gia đình. Đây là điều rất lớn vì các nhà xã hội đã nhận ra rằng ở đâu phát triển gia đình hay thị tộc thì đấy không có nô lệ, mà không nô lệ kéo theo bình sản (chia của đồng đều).

 
Vài dấu bên ngoài
a) Ruộng nước, cấy lúa (dạo, rice) với gieo mạ (miêu). Tàu: ruộng khô, lúa tắc với lúa mạch.

b) Tàu mạn tây bắc cưỡi ngựa, ngôn ngữ là Quan Thoại đại diện thị dân. Di mạn đông nam đi thuyền, ngôn ngữ chính là Phúc Kiến, Quảng Đôn đại diện thôn dân. Thôn dân thì vẫn theo Di Nho đến 90%. Còn Tàu thành thị chỉ giữ Di Nho được quãng 60-70%.

Những dấu rên đây thường được biểu lộ qua truyền kỳ, huyền thoại, là những dữ kiện không có giá trị lịch sử, thí dụ truyện Nghiêu Thuấn thì nay không một học giả nào dám nhận là vua như xưa nay vốn truyền tụng, nhưng vẫn được coi như những anh hùng văn hóa, hay là những mẫu mực tinh thần do cuối đời Chu dựng nên. Rất nhiều truyện khác thí dụ Hiên Viên, về ông Đại Vũ v.v… cũng phải xem như thế tức phải vượt qua nghĩa lịch sử cũng gọi là hiện nghĩa (phéno-texte) để đạt ý nghĩa tinh thần nội tại (genotexte). Vì thế độc giả sẽ thấy chúng tôi dùng khá nhiều những huyền thoại là theo ý đó. Và cũng vì vậy không ghi xuất xứ kỹ như sử học hay văn học, vì hê thống quy chiếu của huyền sử là các khoa tân nhân văn như cơ cấu luận, uyên tâm, khảo cổ, cổ nghệ v.v… Phải nhờ những khoa này mới đủ sâu sắc tế vi cũng như đủ chứng từ khách quan để đi vào vùng huyền sử. Vì nó rất quặt quẹo: thí dụ nói là Tàu trọng bên hữu mà trong sách vở lại không mãi như vậy: lúc trọng hữu, lúc trọng tả, lúc Đông lúc Tây, số 3-2 cũng vậy. Thành ra là cả một sự thăm dò so sánh lâu mới tìm ra. Xin đọc quyển “Hùng Việt Sử Ca”.

 
Văn hóa và văn minh
Những dấu trên (bên tả, số 2-3 v.v…) biểu thị một nền văn hóa đặc trưng và rất vững mạnh có thể nói là ưu thắng. Chính với số 2 mà Di Nho có một nét quân bình siêu việt, nhờ đấy sau này Khổng Tử được chọn làm triết gia để dẫn đầu nhân loại (xem Đạo trường bài I) cũng như nhờ số 3 mà Di Nho nghiễm nhiên trở thành một nền nhân bản cao siêu đáng tôn lên bậc nhân chủ an vi. Cũng như nhờ số 5 mà nền nhân bản này mang tính cách tâm linh, cũng như trọng bên tả đem lại cho nền văn hóa này nét tế vi ưu việt. Đây là nền văn hóa phương nam mà Khổng Tử bảo người quân tử phải y cứ: “Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi” (T.D 10).

Nói tóm lại với Di Nho ta đã có một nền văn hóa cao sâu xứng đáng được các triết học gia quốc tế truy nhận và tôn lên bậc ưu thắng để dẫn dắt nhân loại như đã bàn trước. Đến đời nhà Chu chỉ đưa vào mấy yếu tố văn minh có tính cách tô điểm trang trí bên ngoài thôi nhưng ta cũng cần xét qua.

Các dấu văn minh thì phải kể trước hết là quân đội nhờ đó có thể mở mang bờ cõi rộng ra, một khi đất đã rộng dân đã đông thì dễ dàng thôn tính các bộ lạc khác. Đây là yếu tố tương đối dễ ở chỗ thế nào cũng có người giỏi về quân sự trong một bộ lạc nào đó, thế là họ thôn tính thêm một bộ lạc nữa. Khi đã có hai thì dễ thêm ba, bốn, năm, và thế là thành hình một “nước” rồi một một nước tất nhiên phải có Vua, tức một tù trưởng cỡ bự. Nước càng lớn thì quyền vua càng cao, thế là nảy ra sự tôn thờ vua đến độ tuyệt đối là Vua Thần.

Một khi có vua là phải có pháp luật thay cho lệ tục. Lệ tục là của riêng một bộ lạc, hay bộ tộc; còn nứơc quá lớn phải có pháp luật chung. Đã có luật tất phải có hình để trị tội những kẻ lỗi luật v.v…

Đã có pháp luật, phải có chữ viết để truyền đi xa. Văn tự đã có từ đời Thương và cả trước nữa như chữ con quăng và chân chim nhưng càng ngàycàng phát triển. Thế là mấy yếu tố quân đội, vua, luật pháp, chữ nghĩa hợp lực nhau làm cho văn hóa Man Di trở nên rực rỡ uy nghi, đến nỗi người ta tưởng là khác. Nhất là khi đã “phú quý sinh lễ nghĩa” phú quý càng cao lễ nghĩa càng trở nên phức tạp. Có hai điều nổi bật một là lễ nghĩa tôn Vua. Vua Tàu chưa đến nỗi là vua thần như bên Babylon, nhưng cũng đã được tôn lên bậc “thiên tử” là người của Trời, có thiên mệnh cao xa, khiến người dân không được xem mặt. Xem thì phạm nhan có thể bị giết và nhiều nghi lễ khác…

Điều hai thuộc về hôn phối, vua đặt ra quan môi với những nghi lễ kềnh cơi để kiểm soát việc cưới hỏi. Tứ Di cứ theo lệ tục riêng như trong hát trống quân, cô cậu nào ưng nhau là lấy nhau khỏi bị lễ nghĩa ràng buộc. Phép đó gọi là bôn. Triều đình rất ghét thói tự do đó nên gọi là “dâm bôn”. Khi nhà vua Tàu chê Tứ Di là thiếu lễ nghĩa cần được “đức hóa” thì chẳng qua là muốn bắt dân Di theo mấy tục lệ riêng của mình cho ra “văn minh” vậy thôi, nghĩa là mấy cái lễ nghi bề ngoài đó.

Văn hóa của Tàu với Di vẫn là một, khác nhau chỉ vì những cái bên ngoài đó. Tàu “văn minh” hơn ví như người giàu sang ở tỉnh thành, lễ nghĩa đầy mình, nhưng bên trong có ít nhiều nhân vi trá nguỵ. Di Nho thì như người nhà quê, học hành ít, lễ nghĩa đơn giản nhưng đầy chân tình, song vì đời sống xuềnh xoàng thoải mái nên bị thị dân (triều đình) chê là quê mùa, man di, mọi rợ. Đó toàn là những cái bên ngoài chứ văn hóa thì là của chung cho các quý tộc lẫn dân gian. Quí tộc truyền dòng nối dõi không tồn tại được, sẽ có kẻ sĩ thay vào, mà kẻ sĩ thì tự dân mà lên, chứ không có văn hóa riêng của quý tộc như bên La Hy hay Aán Độ. Quý tộc nhà Chu cũng chỉ học với Di, rồi sau làm cho Di Nho nên rực rỡ để mang tên Hán Nho.

Về văn hóa thì Chu Nho kể là có công ở chỗ làm cho Di Nho trở nên rõ ràng, san định sách vở, đặt thành câu văn rành mạch, tôi gọi là “công thức hóa”. Thí dụ Di Nho làm bánh dầy tròn bánh chưng vuông, thì Chu Nho sẽ nói “thiên viên địa phương” để dễ truyền bá, tiện lập khoa cử, chứ về nội dung sâu xa thì không thêm được gì cả. Vì thế gọi được Di Nho là thời sáng tạo, Chu Nho chỉ là thời phát triển còn Hán Nho là thời ăn tự và truyền bá cũng như làm hư hỏng.

Cũng có thể gọi lối khác:

Di Nho là tinh thần

Chu Nho là văn hóa

Hán Nho là chính trị.


Hai thứ Nho sau, nhất là Hán Nho sẽ làm hỏng cái tinh thần là Nho rất nhiều, như được ám chỉ bằng nhiều huyền thoại chẳng hạn truyền thần Cộng Công húc đầu vào núi “bất Chu chi sơn” làm nghiêng trời. Truyện Long Bá ăn trộm rùa làm chìm đảo tiên, vụ Hoàng Đế chiếm chỗ Nữ Oa khiến Nho gần mắc bệnh duy dương, vụ “hậu thiên bát quái” đảo lộn Kinh Dịch mà chúng ta sẽ phân tích sau, cũng như cụ thể là vụ Gác Thạch Cừ xem giặm vào Kinh sách những yếu tố đàn áp chuyên chế (xem trong quyển Cửa Khổng chương 3).

Tóm lại nếu muốn chấn chỉnh lại đạo Nho để cho nó đủ khả năng dẫn đạo nhân loại như hội nghị quốc tế triết năm 1949 đã truy nhận là Nho có khả năng đó thì phải vượt qua hai giai đoạn Hán Nho, Chu Nho bằng vạch trần những sai lầm của hai giai đoạn đó để vềvới Di Nho. Di Nho thường bị coi là man rợ nhưng sự thực thì đó là thứ Nho còn đầy chất sáng tạo, tức nhiều chất tâm linh phát xuất thẳng tự tiềm thức cộng thông, hơn hẳn hai thứ Nho sau đã đầy chất nhân vi, lý trí nên đã kết tinh thành hệ thống cứng nhắc, kèm theo những định chế hết hợp thời, làm cho người học khó có thể kiến thiết được gì mới vớithứ Nho đã kết tinh nọ. Đang khi Di Nho hãy còn âm u man mác với những huyền thoại, truyện tích những lược đồ, số độ. Đó là bấy nhiêu những khuôn rỗng, người học bó buộc phải tìm ra những tư tưởng mới để đổ đầy. Đây chính là một lối thúc đẩy tạo dựng, dễ giúp cho học giả đem ra một thứ Nho sống động hơn, hợp cảm quan thời đại hơn, có thể gọi là Việt Nho, theo nghĩa là siêu Việt.

  III. CƠ CẤU UYÊN NGUYÊN
 
1. Đi tìm ý nghĩa huyền thoại

  Ta đã bàn về Hoàng Nho gọi là “Đại Đạo”. Đó là một đạo đầy đủ đến nỗi Chu Nho sau không thêm được gì. Vậy Đại Đạo là gì? Có cách nào để tìm ra nội dung Đại Đạo chăng. Bởi các sách cổ nói về Đại Đạo như “Tam phần, Ngũ điển, Bát sách, Cửu khâu” đã bị nhà Chu làm mất rồi?

Thưa có hai lối: một là đi tìm xuyên qua kinh điển của Nho, vì Nho đã múc tự Hoàng Nho nên tìm ra Nguyên Nho cũng là tìm ra Hoàng Nho. Và đó là con đường chúng tôi đã theo cho tới nay. Lối này tuy trung thực nhưng mới là tuỳ phụ và gián tiếp… Còn một lối nữa có thể gọi là trực tiếp và chính cốt đó là tìm ngay trong những huyền thoại của Tam Hoàng. Lối này đã được dùng rồi, nhưng phương thức sai: không tiêu diệt thần thoại như Chu Nho, thì lại đi theo lối ma thuật của Hán Nho. Cả hai đều trật, chúng ta sẽ cố tìm ra một lối thứ ba.

Chu Nho tiêu diệt thần thoại bằng cách sử ký hóa thần thoại tức cố cắt nghĩa kiểu thường như Hoàng Đế có 4 mặt (tứ diện) thì giải nghĩa là Hoàng Đế đặt quan coi 4 phương. “Quỷ nhất túc” Quỷ có một chân được giải là “một mình ông Quỳ đã đủ (chữ túc có nghĩa là chân và đủ). Aùo rồng áo chi của ông Thuấn trở thành 2 que cặp nách… Theo lối này thì bao truyện thần tiên đều trở nên lịch sử: các thần trở nên hiền triết hoặc quan đại thần tài ba như ông Đại Vũ. Các quái vật trở nên quân phản nguỵ như thần Cộng Công.

Lối này có cái hại ngay về văn học vì đã thải bỏ mất bao huyền thoại như truyện bắn mặt trời, truyện Nữ Oa. Đó là những truyện vì không thể róc chất quái dị đi được thì bỏ hẳn. Còn cái hại chính là khi làm mất chiều kích bao la của câu truyện thì cũng là làm mất ý nghĩa của Đại Đạo…

Đó là điều mà đến đời Hán đã gây sự phản động lại, bằng cách thu thập đầy đủ các thứ thần thoại như chứng tỏ trong các sách Sơn Hải Kinh, Xuân Thu phồn lộ… nhưng đều giải nghĩa theo lối ma thuật như âm dương gia, phong thuỷ, “ngũ hành”… thì đều là đi xuống: “hình nhi hạ”.

Còn một lối biến huyền thoại ra dụng cụ văn chương, triết học như trong Trang Tử, Liệt Tử v.v… Đó không là giải nghĩa mà có thể nói là chối thần thoại, biến thần thoại thành ra đồ trang sức cho văn chương hay ý nghĩa.

Trong thiên nghiên cứu nhan đề “Các thần thoại trong Kinh Thư”, légendes mythologiques dans le Chou Kinh (1924) Maspéro nhận xét: “học giả về Tàu chỉ biết có lối biến đổi thần thoại thành lịch sử nên biết bao truyện bị róc hết chất huyền thoại, chỉ còn lại chút cặn bã vô sách màu: thần tiên trở nên hiền triết hoặc những quan đại thần tài ba, còn các quái vật đều trở nên những tên phản nguỵ. Và tất cả được xếp vào một túe thứ tiên thiên đặt theo ngũ hành…”

Lời bình luận trên của Maspéro có chỗ đúng và đó là lối Chu Nho. Nhà Chu phát xuất từ phía tây bắc vốn thiên về lý trí không ưa huyền thoại, đến khi gặp Di Nho còn dùng nhiều huyền thoại thì tìam cách róc tỉa hoặc bỏ qua. Vì thế mà hầu hết các huyền thoại đều bị giản lược vào chiều kích lịch sử, người Hy Lạp gọi là euhemerization. Còn Nho gọi là hình nhi hạ tức từ hình ảnh ngụ ngôn đi xuống sử ký thế sự. Lối hình nhi hạ tương đương với lối mà cơ cấu gọi là phénotexte.

Phê bình như thế rất đúng nhưng không đi đến đâu tức không đưa ra lối giải nghĩa đích thực nào cả mà để huyền thoại y nguyên là huyền thoại, ta có thể gọi đó là hình nhi hình tức là không giúp vào Đạo lý chỉ trừ có việc thông báo về văn hóa làm cho độc giả biết rõ truyện lấy ở sách nào và thời đại xuất hiện v.v… Đây là điều có ích cho văn học thôi. Thế mà cũng không hàm ơn ích, vì về việc ghi thời gian của thần thoại không ăn nhằm chi (irrelevant) nhiều khi còn không đúng hoàn cảnh nữa. Không ăn nhằm vì thần thoại nói về việc phổ biến tức vượt phạm trù không gian, thời gian, nên vấn đề trước sayu, ở đây hay kia không mấy cần thiết, nhiều khi ghi thời gian còn rút hẹp phạm vi của câu truyện.

Cũng không đúng hoàn cảnh nữa vì chỉ căn cứ vào sách vở mà định thời nảy sinh truyện thì sai. Bởi ở đây có hai truyền thống văn hóa: một Tàu một Việt. Tàu đến sau đã “làm mất” sách của Việt, khiến Việt kể là không còn tiếng nói, nên hầu hết truyện có lâu trước nơi Việt chỉ được chép vào sách Tàu dần dần theo đó Tàu mở rộng đất đai, thí dụ học giả hay nói ngũ hành mới có tự thế kỷ 4 tr.c.n. Vì từ đó mới thấy ghi vào sách Tàu, nhưng nếu theo khảo cổ thì ngũ hành đã có lâu đời ít nhất là 30 thế kỷ trước như 5 hòn sỏi ở Phùng Nguyên chứng tỏ điều đó. Cho nên hầu hết các câu quyết đoán của học giả về thời gian xuất hiện của truyện đều nên coi là đáng nghi ngờ.

Còn về việc đưa ra giải nghĩa chung cách đúng thì không có. Vì quả thật đây là chỗ khó khăn chưa được vượt qua tức vượt tự lý trí lên tâm linh chưa làm được.

Muốn giải nghĩa huyền thoại đúng cách phải dùng đến phạm trù Việt Nho mới có phổ biến tính và đó sẽ là nhân thoại. Nhân thoại khác thần thoại. Thần thoại thì thần làm chủ người làm nô. Còn ở nhân thoại thì người làm chủ ngang với thần, sau này Nho công thức hóa thành thuyết tam tài: Trời, Đất, Người. Theo đó nếu trời là chủ, đất là chủ thì người cũng là chủ tức con người phải có chiều kích bao la như vũ trụ. Và đó là điều được biểu thị trong ngũ hành nhưng chẳng may ngũ hành bị hiểu kiểu ma thuật hoặc dùng để xếp loại như trong y học hay sử ký do Hán Nho đã dùng rồi, nó còn kèm cả lối sử ký hóa của Chu Nho vì đã không bày tỏ được chiều kích bao la của con người mà còn trở nên cái ụ chận đường tiến của khoa học. Vì lấy ngũ hành làm thực tại rồi suy tư theo đó. Dầu vậy cũng còn cao hơn Hán Nho vì Chu Nho đã lên đến đợt ý hệ. Chứ Hán Nho còn đang ở đợt bái vật. Muốn hiểu đúng ngũ hành phải hiểu theo nghĩa nhân chủ an vi của cơ cấu như sẽ trình bày sau đây.

 
2. Cơ cấu uyên nguyên

   Cơ cấu là phương pháp nhìn bao trùm cánh đồng nghiên cứu để tìm ra cái dạng thức chung rồi đối chiếu với các dạng thức khác cho thêm rõ; lại dùng lược đồ, số độ và truyện tích để trình bày. Đại để đó là cơ cấu nói kiểu dễ hiểu. Nhưng biết và hiện thực được thì khó hơn nhiều như sẽ xem sau.

Còn về hai chữ uyên nguyên là khi đi đến chỗ đầu trước hết, đến chỗ tột cùng có nghĩa là phổ biến tức thực cho mọi nơi mọi đời. Tính cách uyê nguyên sẽ sa đọa khi bị hiểu trụt xuống nghĩa hiện tượng, lúc ấy trúng hay trật chỉ còn là chuyện may rủi và dẫu sao cũng là phần mớ, nhiều khi còn làm mất luôn cả ý nghĩa hiện tượng nữa; tiêu biểu chỉ còn là truyện cổ tích, tản mát, sứt mẻ. Trong chương này chúng ta sẽ bàn về cơ cấu uyên nguyên trước hết rồi sau chỉ trỏ ra một hai trường hợp sa đọa.

Trước hết về cơ cấu uyên nguyên và đó là ngũ hành. Vì ngũ hành phát sinh tự cái nhìn về vũ trụ và nhân sinh là hai quan niệm vừa bao quát vừa có ngay tự đầu. Để thấy điều đó rõ hơn ta hãy đi vào cụ thể bằng xét bộ “ngũ hành” của Aristotle vì nó ảnh hưởng quyết định trên triết Tây Aâu đến tận ngày nay. Vào thời của ông có hai vấn đề: thứ nhất hỏi yếu tố nào là bản chất sơ nguyên làm nên vũ trụ. Hầu hết thưa là đất. Thales cho là nước. Heraclite cho là lửa. Anaximene khí. Câu hỏi thứ hai là vũ trụ có tính cách cố định hay biến đổi…

Parménide thưa là bất động, bất biến. Empédocle cho là có động có tiến hóa. Aristotle thấy người nào cũng có một phần sự thực nên ông đã tìm cách tổng hợp bằng đưa ra một vũ trụ có hai tầng, lấy mặt trăng làm ranh giới: tầng trên tức tự mặt trăng trở lên thì bất động. Tầng dưới mặt trăng thì động. Phần bất động gồm có chín đợt (spheres) là mặt trăng, Venus, Mercure, Mặt trời, Mars, Jupiter, Saturne, đợt các sao, vòng ngoài cùng là Thượng đế. Ngài là đấng bất động nhưng lại là đệ nhất tác động, làm chuyển động các vật dưới mặt trăng mà trái đất là trung tâm. Sự động gây nên do sự pha trộn các yếu tố đối nghịch nhau. Có bốn tố là đất, nước, khí, lửa được xếp đặt như bảng sau:

 
                

 
 

                                                  

    Với bảng này Aristotle nghĩa là đã tổng hợp được cả tứ tố, lại vừa bất động với biến hóa. Dầu sao thì đây phải kể là bứơc thành tựu đầu tiên của con người cố vượt ra khỏi giai đoạn thần thoại để đi lên giai đoạn lý trí: dùng bảng tứ tố để chỉ đường tiến hóa của vũ trụ. Bước tiến này cũng xảy ra có thể nói là khắp nơi, và với sự xếp đặt các tố khác nhau mà ta nhận diện ra nền văn hóa đó.

Bên phía Việt Nho thì là ngũ hành khi so với nó thì bằng tứ tố có mấy dị biệt sau:

1. Thứ nhất thiếu sự vuông tròn lồng vào nhau: tròn ở trên, vuông ở dưới: nóng lạnh, khô ẩm giao thoa theo đường thẳng tắp, chứ không tiến theo vòng tròn. Như vậy chỉ có vuông.

2. Không có vòng sinh, vòng khắc trái chiều nhau.

3. Và nhất là không có vô thể, tuy Aristotle có thêm Ether làm tố thứ năm, nhưng nó cũng là một tố như bốn tố kia tức cũng là hữu thể và ở riêng trên tầng bất động, không liên hệ chi tới trái đất, tức là trời đất không giao thoa: không có “giao chỉ”. Chính vì thiếu vô thể, nên không có sự biến động, uyên nguyên giữa vô với hữu. Vì vậy tứ tố không là cơ cấu uyên nguyên.

Cái bảng tứ tố này về sau cũng được theo bên Aán Độ như thấy trong phái Sankhya, và nhấn mạnh đến tròn chỉ vô thể. Nên nếu kể Aâu Tây là Hữu với siêu hình là Hữu thể học (ontology) thì bên Aán là Vô với Vô nhị (advaita) hai bên giống nhau ở chỗ tròn vuông không giao thoa. Vì thế có thể nói chung là cả hai nơi đều rơi vào duy: Tây Aâu là duy hữu, Aán Độ là duy vô. Đấy là nói về nền tảng chứ trong đời sống thì tất cả có sự pha trộn tròn vuông, nhưng chỉ ở cỡ lương tri thường nghiệm chứ không đến đợt cơ cấu. Tuy bên Aán có lưỡng hợp đặc biệt là mandala coi như có pha tròn vuông, nhưng khi xét kỹ thì sẽ thấy đó chỉ có như một kỷ niệm của một thời, thí dụ của Dravidien, nhưng vì Dravidien không nắm được lèo lái văn hóa, nên mandala không phát triển ra các thứ như bên ngũ hành (thí dụ ra Hà Đồ, Lạc Thư, Hồng Phạm, Cửu Trù…) để đi vào đời sống thực sự. Và vì thế văn hóa Aán Độ cũng giống văn hóa Tây Aâu thiếu thống nhất: quý tộc theo Vichnou và Krishna. Trung lưu theo Jain và Buddism. Dân chúng theo đạo phong nhiêu Shiva là Thần mặt trời.

Nếu thực có tròn vuông thì văn hóa có thống nhất tức chỉ có một như bên các nước Việt Nho, mà chúng ta sẽ bàn về cơ cấu ngũ hành.

 
  3. Ngũ hành

Điều trước hết là có năm hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Thứ hai là mỗi hành đi với một phương, một số, màu v.v… như mấy hình sau:

 



   
Điều khác thứ ba rất căn bản là hành Thổ đại diện cho vô thể tức không có mùa, có phương riêng. Nên ta phải vẽ ngũ hành theo hình sau …… thì hình này làm ta tưởng Hành Thổ cũng như 4 hành kia, kỳ thực thì không vì nếu ta tháo rời 4 ô ra thì thấy hành giũa không còn: đúng là vô thể. Nhưng chính cái vô thể đó làm cho ngũ hành trở nên cơ cấu uyên nguyên tức có sự giao thoa giữa Hữu với Vô. Chính vì sự pha trộn này mà ngũ hành làm được việc mà bảng tứ tố không làm được là cộng tròn với vuông, tức giàn hòa giữa vô với hữu, để đi lên bậc cuối cùng của trí thức con người và trở nên mẫu mực có tính cách phổ quát và bất khả li tức vững vàng muôn thưở và gọi là Đạo, mà Đạo thì bất khả li (khả li phi đạo dã). Triết lý An vi chia tâm thức con người làm ba đợt là bái vật, ý hệ, và tâm linh mà ta có thể gọi bằng danh xưng khác là thần thoại, lý trí, đợt tương đối thuyết. Cả tứ tố lẫn ngũ hành đều hơn kém đã vượt giai đoạn thần thoại (bái vật) để lên giai đoạn lý trí; nhưng tứ tố ở lì lại lý trí nên đốc ra duy ý, ý hệ tức là bám vào có một bên: hoặc hữu hoặc vô, không nhìn ra trường hợp thứ ba, vì thế ngày nay tứ tố chỉ được nhắc tới như một kỷ niệm lịch sử, vì người ta coi nó là bảng vật lý cổ hủ đã bị vượt qua rồi. Ngược lại ngũ hành không còn ở bình diện vật lý mà đã vươn lên đợt siêu hình, trở nên phạm trù triết lý, hơn nữa có đầy tính chất tâm linh bao gồm cả hữu lẫn vô, nên triết an vi gọi là tâm linh, còn riêng ngày nay có thể nói là thuộc giai đoạn tương đối thuyết, vì tương đối thuyết cũng đi vào “hữu và vô” với combinary logique ngược lại ý hệ thì “hoặc hữu, hoặc vô” thuộc logique một chiều.

Chính vì chỗ này mà Nho đựơc gọi là Minh triết khi hiểu minh triết là tài hoà hợp những cái thái cực như giữa Vô với Hữu: như sẽ được chứng tỏ trong các phát triển của ngũ hành: nào vòng sinh vòng khắc, Hà Đồ, Lạc Thư, nào Hồng Phạm, Cửu Trù, Minh Đường, Thái Thất… và bao câu sách khác trong Nho cũng chỉ là bày tỏ sự khác biệt nền móng nọ, nó làm nảy sinh ra biết bao nét đặc trưng khác mà chúng tôi đã bày tỏ trong nhiều sách như đã nói dài trong Chữ Thời, Sứ Điệp nên ở đây chỉ nêu ra ít nét nền tảng để ngũ hành được nhận ra là chìa khóa dùng được đặng phanh lần ra cả về đạo lý lẫn nguồn gốc.

Về đạo lý thì như câu châm ngôn “chí trung hòa” với ba chân lý gốc rễ đi với số 2, 3, 5 đã nói phớt qua ở bài đầu. Chúng làm nên chiều kích tâm linh, nên triết cũng gọi là Đạo có sức gây ảnh hưởng như tôn giáo. Triết mà lại ảnh hưởng như tôn giáo, đó là nét đặc trưng. Phải là Đạo mới làm được như vậy. Chỉ có một số nhỏ triết lý Aán đạt được nhưng rồi lại ngả ra tôn giáo như kiểu Phật giáo tức là phần nào đi lùi lại thời thần thoại, do sự không thành công vươn lên đợt tâm linh, để biến triết thành Đạo học, tức lý trí kiêm được cả tâm linh, bao gồm sự hiện thực một cách tận tâm tận lực như tôn giáo vậy và gọi là văn hiến, tức những người hi hiến thân tâm cho văn, y như tu sĩ hi hiến thân tâm cho tôn giáo, nhưng khác ở chỗ tu sĩ chưa dứt khoát với giai đoạn trước, nên nhiều vấn đề thuộc lý trí phê phán đã đựơc đẩy đến hết mức có thể gọi được là đầy bến bờ vô thể, tức cũng là bờ của linh thiêng, làm cho rõ là triết lý mà lại tác hành như tôn giáo vậy. Đây là hiện tượng mà chúng ta cần nghiên cứu.   

 
4. Sự hữu bản mạt

  Nói đến tôn giao là nói đến vị Chúa Tể ngự trên trời cao mà ta phải tôn thờ vâng phục. Thượng Đế đó thấy được trong quan niệm của Aristotle. Ngài là đấng cao cả ngự mãi bên trên chín tầng trời rất xa con người. Con người ở mãi sâu dưới đất: liền bên dưới là cả một cõi âm ti đang sôi sùng sục. Trong tình thế đó con người phải sợ sệt uy quyền Ngài đến cùng cực, vì Ngài có thể bỏ mình xuống âm phủ bất cứ lúc nào. Bởi thế phải hãi sợ và thờ phượng Ngài.

Theo quan niệm trên ta thấy rõ sự kính tôn phụng thờ như vậy có tính cách nô lệ vì thuộc loại cưỡng hành. Giai đoạn này có thể gọi là toàn tròn. Đó là thái độ tôn giáo gọi được là toàn thần hay duy thần. Ngày nay người ta gọi đó là giai đoạn vong thân, tức không có con người như một tự thể có nhân vị. Vì thế tôn giáo nào cũng phải cố dần dần nhân bản hóa thần linh tức kéo thần lih xuống với con người hay đưa con người lên, nhiều khi để chắc ăn thì chối tuột Thượng đế để con người được làm chủ nhân, không còn sợ vong thân nữa như hầu hết triết lý vô thần, hay có nhận thần, nhưng đặt thần ở mãi trên cao tắp tít không ăn nhằm chi tới con người.

Nói theo cơ cấu thì đó là toàn vuông, và vì vấn đề tròn vuông không nối kết được nên tôn giáo thiếu triết, toàn tin suông thành ra lý trí con người chưa được thỏa mãn. Trái lại, triết thiếu niềm tin, cậy, mến nên không ảnh hưởng gì cả hay nếu có thì cũng chỉ được chút lý trí, nhưng lý trí mà thiếu tình thiếu chí thì vô hiệu. Vì thế lý tưởng phải là giao chỉ: tức nối trời với đất hay nối triết lý với tôn giáo để làm nên Đạo. Đạo là dấu trưởng thành của con người. Nho đã thành công điều đó mà bảo chứng là Ngũ hành, là Hồng phạm, nên tuy là triết mà ảnh hưởng như tôn giáo. Triết là vuông, là lý trí, là óc khoa học, mà lại đi đôi với tròn là thiên, là tâm linh, nên ảnh hưởng như tôn giáo, nhưng hơn tôn giáo ở chỗ lý trí được thỏa mãn, hơn triết học duy lý ở chỗ tâm tình ý chí đều được vun bồi nuôi dưỡng. Đó là Đạo “Đạo bất khả li, khả li phi đạo dã” tức đạo thì siêu thời gian, thật muôn thưở.

Đây là chỗ cần ghi nhận, vì nhiều người cố đi tìm thuyết lý tối tân. Làm như vậy là tỏ ra chưa nắm được đạo lý. Đạo lý làm gì có tối tân với tối cổ: nó vượt ra khỏi thời gian rồi: nó thuộc cõi muôn thưở, đời nào cũng thế; y như 2 với 3 bao giờ cũng là 5, làm chi có mới với cũ mà phải đi tìm. Còn lo đi tìm cái mới là tỏ ra chưa nắm được triết chân chính nên chưa là triết nhân trung thực để biết nhận ra đâu là bản gốc (hay cơ cấu uyên nguyên). Nói vắn tắt là chưa đạt Đạo.

Chính vì thế mà ngũ hành đã không được nghiên cứu theo phương diện cơ cấu, thành ra nhiều bài học căn bản không được nhận ra. Thí dụ ông Robert van Gulik phàn nàn về cái quy củ rằng: “Chưa thấy sách nào giải nghĩa thỏa đáng về hai dụng cụ đạc điền trong tay bà Nữ Oa và Phục Hy (la vie sexuelle dans la Chine antique p.84). Đó là tại trong dĩ vãng đã bỏ bê lối cơ cấu, mà chỉ có lối đó mới giải nghĩa thấu đáo không những hai chữ quy củ mà còn nhiều truyện khác.

Theo cơ cấu thì Ngũ hành phải biến ra vòng trong vòng ngoài. Ta thấy ruột vòng trong là số 5 gọi là quy, nghĩa là mẫu mực cao cả gọi là “thiên thời” và chỉ nguyên lý mẹ: còn vuông ngoài là 4 số thành chỉ nguyên lý cha, tức là luật lệ tự riêng theo thổ ngơi (từng nơi). Bởi triết Việt đề cao nguyên lý mẹ (mẹ tròn) nên trao quy vào tay Nữ Oa thái mẫu, còn cái củ trao cho ông Phục Hy. Cái củ dùng để đo (4) góc cạnh vì thế Phục Hy cũng có tên là ông tứ tượng, là cũng theo lý này. Về sau quu củ biến ra “Hồng phạm Cửu trù” cùng ý nghĩa tức Hồng phạm là mẫu mực lớn, còn Cửu trù là các việc xác định nằm trong khung của Hồng phạm. Rồi đến Hà Đồ Lạc Thư (H.1) cũng thế: Hà Đồ là sách cha. Lạc Thư là sách mẹ. Chữ sách hàm ý là quy luật điển chương, nên cùng nghĩa như quy củ.

Hình 1
 
  5. Tố nguyên

   Bây giờ ta hãy đi vào một đường “Tố Nguyên” là tìm về gốc ngọn của ba bộ số nọ tức là tìm về gốc Đạo. Vậy khi cất bứơc đi tìm ta chỉ thường gặp thấy có số 1 hay số 4, ít khi thấy 2, 3, 5. Số 1 là dấu còn ở thần thoại. Số 4 là ở ý hệ, tức vẫn là duy. Chưa có hợp nhất: chưa có hai mà vẫn một. Muốn gặp hai mà một thì phải tìm cho ra bộ số 2, 3, 5 chúng thường xuất hiện cách vô lý, vô dụng, vô duyên, là cốt để cho người ta biết chúng không làm việc đo đếm thông thường hữu lý, mà chúng chỉ là huyền số, biểu thị những chân lý vượt tầm giác quan, nên gọi là những chân lý gốc rễ, đi ngựơc đời như đã nhắc qua nơi khác: là số 2 chỉ biến hóa, số 3 chỉ nhân chủ, số 5 chỉ tâm linh: toàn những chân lý đặt nền trên vô thể. Vì thế các số biểu thị mang trong mình tính chất vô thể, bằng tính cách vô duyên, vô ích, vô lý như có 3 chân, chim 3 mình v.v… Vì số đây là phạm trù triệt. Số 2 thí dụ chỉ nét lưỡng hợp dual unit: nên hai mà một, một mà ba, nghe rất vô lý nên ít có triết nào nắm được. Vậy mà khi đi vào văn hóa Việt Nho ta thấy nhan nhả.

Trứơc hết là con số 2 xuất hiện cách uy nghi trong hai lễ Phong, Thiện để tế Trời tế Đất. Rồi thấy ông Nghiêu ông Thuấn đều có hai con người gọi là “Trùng Hoa”. Hai ông bà Phục Hy Nữ Oa sống cả trên đất lẫn dưới nước gọi là “lưỡng thê”.

Rồi ta gặp trong nét giao chỉ biểu lộ bằng hai con giao long giao tay nhiều khi cả giao chân (H.2) nó sẽ dẫn đầu cho các lối hát có hai bè như ca lý liên, hay Trống quân, quan họ v.v…

Hình 2
 
Rồi tới những cặp đôi như sông núi, nước lửa, ông Cồ bà Cộc và nhất là tiên rồng hay loài có lông vũ sống trên trời với loài có vảy như rồng sống dưới nước, vậy mà vẫn đi đôi với nhau được. Đó là điều không có trong các nền triết khác. Đôi khi số 2 cũng có xuất hiện nhưng rồi nghiêng sang mộtbên như bên Perse số 2 đọa ra thần lành thần dữ, rồi thần lành thắng thấn dữ tức được coi trọng hơn thần dữ. Vậy là hỏng vì cuối cùng chỉ có một bên. Đó là dấu còn ở đợt thần thoại. Phải như âm dương không bên nào hơn bên nào, mỗi bên có vị trí của nó.

Bên Aán Đô tuy cũng có chim thần là garuda và rắn naga gần giống số 2 của tiên rồng, nhưng rồi chim garuda đã mổ rắn naga thế là lại giống bên Perse tức khởi đầu đi vào số 1: mắc chứng bệnh duy.

Nhà Chu khi mới lên chuyên dùng số 6 (tức là số 1 vì 6-5=1) chẳng biết gì đến số 2 như được chứng tỏ trong Chu Dịch bản Kinh không hề nhắc đến 2 chữ âm dương, cũng như không nhắc đến chữ địa xét như phạm trù triết đối đãi với thiên (Craft 446).

Số 3. Đã có 2 thì tất có 3, bởi số 3 chỉ nhân chủ. Vì phải là con người mạnh làm mới nối trời cao với đất thấp lại được. Có với không nối lại thành ra có mà như không, không mà lại có. Các triết học lý niệm thiếu số 2 nên khử trừ số 3 gọi là nguyên lý triệt tam: tiers exclu. Trái lại đi vào Việt Nho ta gặp có đầy số 3. Trước hết là con “thiềm thừ” cóc trời chỉ có 3 chân. Rồi ta lại gặp chim 3 chân, cả chim 3 mình nữa. Rồi đến thuyết Tam hoàng gồm Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Đến sau Tam Hoàng được công thức hóa thành Tam Tài là Thiên, Nhân, Địa… Rồi tới nhiều ấn tích thực xa xôi nữa như những cái chạc tìm được trong các mộ ở Phùng Nguyên bao giờ cũng thấy đi bộ ba. Người ta suy đoán rằng tục lệ vái ba cái, đốt ba nén hương, bàn thờ có ba bậc, đánh ba hồi trống v.v… đã có mãi từ thời ấy.

Cuối cùng đến số 5 hậu quả của 2 + 3 ta cũng gặp lu bù nhất là trong những việc trọng đại như các đồ tế tự: như cái lịch (hình 3) rất thời danh nó là tiền thân của cái đỉnh bao giờ cũng có 3 chân 2 tai: các bình đèn ở Đông Sơn cũng đều 3 chân 2 tai như vậy. Ta thấy có truyện cổ ở vùng Thái Bình Dương chứa 3 thúng khôn với 2 hòn đá, y như 5 hòn sỏi tìm được ở trong một cổ mộ ở Phùng Nguyên thì 3 hòn mài nhẵn 2 hòn để thô v.v… Trẻ con Việt đọc vè:

Cái cò chết tối hôm qua

Có 2 hột gạo với 3 đồng tiền.

Một đồng mua trống mua kèn,

Hai đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong.

Thế là ta biết con số 2 +3= 5 đã có lâu đời lắm. Sách Trúc Thư kỳ niên nói “ông Đại Vũ có 2 tai 3 lỗ” thì ta biết ông thuộc về văn hóa Việt Nho, còn trung thực hơn cả Hệ từ viết vào đời chiến quốc nên đã nói tham lưỡng 3-2 thay vì lưỡng tham 2-3 hay vài ba tức âm dương thay vì dương âm 3-2.

Hình 3
 
Thôi bấy nhiêu tạm đủ để ta thấy số ngũ hành là chìa khóa giúp ta tìm về nguồn một cách đầy thích thú, nhất là nguồn Đạo, tức lối sống bao gồm cả Vô lẫn Hữu. Vậy mới là Đạo: Nhất âm nhất dương chi vị đạo”: duy âm hay duy dương, duy vô hay duy hữu đều không là Đạo. Tôn giáo duy âm không là Đạo. Triết lý duy dương cũng không phải là Đạo. Đạo phải kiêm cả 2, cả âm lẫn dương, cả vô lẫn hữu.

 
 6. Quốc bảo

  Đó là đại để nguồn gốc về cơ cấu uyên nguyên gọi là ngũ hành đã xuất hiện không biết từ lúc nào (xem Need II. 256) và được truyền tụng ở Việt như quốc bảo dứơi hình thức “sách ước gậy thần”. Về điểm này có nhiều dịch bản, sau đây là dịch bản gọi là sách ước của Thần Tản Viên, câu truyện như sau:

“Thần xưa kia nguyên là một đứa con bị bỏ rơi giữa rừng được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là Kỳ Mạng. Sở dĩ thần có tên này là vì trứơc khi gặp cha nuôi đứa bé mới lọt lòng đã được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ cho khỏi chết. Kỳ Mạng chóng lớn khôn, theo nghề cha nuôi ngày ngày vác rìu vào rừng đốn củi.

Một hôm Kỳ Mạng đốn một cây đại thọ. Cây to lớn quá chặt từ sáng tới chiều mà vẫn chưa hạ nổi. Bỏ dở ra về, đến sáng hôm sau trở vào rừng, Kỳ Mạng hết sức ngạc nhiên thấy những vết chặt đã dính liền lại khắp thân cây. Kỳ Mạng lại xách rìu chặt nữa, suốt ngày ráng hết sức không xong, đến ngày thứ hai trở lại cũng thấy cây vẫn nguyên vẹn như chưa hề bị động tới. Không nản chí, Kỳ Mạng lại ra công cố chặt nữa, quyết hạ cho bằng được, rồi đến tối ở lại nấp gần cây rình xem sự thể. Vào khoảng nửa đêm, Kỳ Mạng thấy một bà lão hiện đến, tay cầm gậy chỉ vào cây, đi một vòng quanh cây, tự nhiên những vết chặt lại liền như cũ. Kỳ Mạng nhảy ra khỏi chỗ nấp, tức giận hỏi bà lão sao lại phá công việc làm ăn của mình. Bà lão nói:

- Ta là thần Thái Bạch, ta không muốn cho cây này bị chặt, vì ta quen nghỉ ngơi ở trên cây này.

- Không chặt cây thì tôi lấy gì mà nuôi sống?

Bà thần liền đưa cho Kỳ Mạng cái gậy rồi biến mất. Được chiếc gậy thần, đời sống của Kỳ Mạng từ đây có phần dễ chịu: chàng đem báu vật ra cứu giúp những người bệnh tật, ốm đau.

Một hôm Kỳ Mạng đi chơi gắp xác một con rắn nước bị trẻ chăn trâu đập chết vứt ở bờ sông, mới dùng gậy thần chỉ cho rắn sống lại, bò xuống nước. Vài ngày sau có một người lạ tới tự xưng là Tiểu Long Hầu, đem nhiều châu báu tạ ơn Kỳ Mạng đã cứu sống mình hôm rồi, nhân lúc đi chơi bị trẻ đánh chết. Thần Tiểu Long lại mời Kỳ Mạng xuống chơi dưới thủy phủ.

Kỳ Mạng nhận lời theo con Long Quân rẽ nứơc xuống biển chơi, được Long Quân mời ở lại ba hôm bày yến tiệc tiếp đãi nồng hậu và dẫn chàng đi xem khắp thế giới dưới nước. Khi về Kỳ Mạng lại được Long Quân biếu cho một cuốn sách ước, có thể nhờ sách mà cầu ước chuyện gì cũng đều được thực hiện cả. Kỳ Mạng sung sướng đem sách về trần.

Cuốn sách ước chỉ gồm có 3 tờ bằng da cá, ngoài bọc vỏ rùa. Ba trang sách chứa một tính chất: kim, mộc, hỏa… chỉ thiếu một trang về thuỷ mà Long Quân đã giữ lại.

 Kỳ Mạng mới bắt đầu thử xem linh nghiệm ra sao, mới mở sách ra, đặt tay vào trang hỏa khấn hứa, được nghe thấy sấm sét giữa lúc trời quang mây tạnh. Tức thì chỉ trong nháy mắt trên trời vần vũ dầy đặc, rồi chớp sáng, sấm sét nổi lên rung chuyển cả bầu trời.

Kỳ Mạng mỉm cười đắc ý, đặt tay vào trang mộc ước ao thấy một rừng cây di động. Tức thì những cây ở trước mặt chàng tự nhiên bỗng tiến bước lên như một đạo quân.

Kỳ Mạng gấp sách lại, thấy mình uy quyền sức mạnh không còn ai sánh kịp. Rồi từ đấy lang thang đó đây, cứu giúp đời.

Cuối cùng chán cảnh trần tục, Kỳ Mạng lên núi Tản Viên ở luôn lại đấy. Với cuốn sách ước, chàng dựng lên những lâu đài cung điện nguy nga giữa chốn núi rừng hoang vu. Từ đó tiếng đồn đi rằng núi Tản Viên do một vị thần pháp thuật thần thông cai quản. “

GIẢI NGHĨA

Hãy giải nghĩa mấy chữ quan trọng. Chữ thứ nhất là Kỳ Mạng

 Kỳ Mạng có nghĩa là “làm chủ vận mệnh của mình” thuộc về chính mình tựa làm chủ lấy mình. Trên đã nói tâm thức con người chia ra ba giai đoạn: bái vật, ý hệ, tâm linh.

Bái vật thì thần làm chủ, cầm vận mệnh con người: cái gì cũng thần hết, con người chưa làm chủ được cái gì, hoàn toàn còn vong thân.

 Đến giai đoạn hai con người cố tìm cách lấy lại chủ quyền vận mệnh mình bằng giải nghĩa vũ trụ cách độc lập bên ngoài các thần và đó là lý do nảy sinh các hệ thống ngũ hành. Bứơc này thuộc ý hệ, nhưng ý hệ mới đạt được chủ quyền có một phần. Vì hệ thống ngũ hành chưa hoàn chỉnh, mới là tứ tố còn hoàn toàn duy vật, mới có địa chưa có thiên, vì thế ở khởi đầu nhiều bảng tứ tố còn phải đưa thần vào chỉ huy, thí dụ triết gia Empedocles đã đưa vào bộ tứ tố của ông 4 thần là Zeus, Hera, Aidone, Nestis… Như vậy là phần nào lại lộn trở lại Bái vật thần thoại mất rồi, chưa kể là Kỳ Mệnh được, mà còn là thiên mệnh địa mệnh cũng gọi là định mệnh, mà tiếng Hy Lạp gọi là moira: nhân loại cứ gập gình ở giữa hai đợt này: hết thần thoại đến ý hệ. Ý hệ không xuôi lại mon men trở về thần thoại như Aâu Mỹ, nhưng cả hai khuynh hướng này đều có chỗ vong thân. Phải chờ đến bứơc thứ ba mới tìm ra lối thoát.

 Bước ba này không còn tứ tố nữa mà là ngũ hành: bốn hành chung quanh chưa phải là sự vật mà mới là tượng của sự vật (tại thiên thành tượng). Còn hành thứ năm chỉ Thần. Vì “thần vô phương” tức cũng là Con Người Đại Ngã nên nói “Nhân giả ngũ hành chi đoan dã” –Người là đầu mối của ngũ hành. Trong truyện nói là Kỳ Mạng cũng thế. Vì làm chủ vận mạng cũng là nắm phần sáng kiến. Tự đấy Kỳ Mạng không còn bị lệ thuộc vào sự vật (chỉ bằng đốn củi kiếm ăn) mà được rảnh rơi đi cứu cấp tha nhân, làm nhiều việc ân nghĩa. Đây là bước tu đầu tiên dưới quyền nguyên lý mẹ là Nữ Thần Mộc biểu thị bằng lời dặn chớ có chặt cây linh.

 Bứơc sau học thêm với nguyên lý cha biểu thị bằng Long Quân sống dưới thuỷ phủ. Hạn học cũng phải 3 ngày (nhớ bàn thờ bao giờ cũng có 3 cấp) và mãn khoa thì lãnh được quyển “kinh vô tự” gồm có 3 tờ bằng da cá và bìa bằng mu rùa, tức những sản phẩm sống dưới nước, vì chữ rùa này nên sau sách được gọi là sách rùa (quy thư) tức Lạc Thư, đó là sách của đất Lạc mà vua là Long Quân, thành ra Lạc Long Quân, dân chúng gọi là sách ước.

  Đựơc sách rồi Kỳ Mạng chỉ để tay lên có hai trang hỏa và mộc. Hỏa số 2 mộc số 3. Đó là hai số của Việt tộc đã chọn và gọi là vài ba. Nho kêu là lưỡng tham. Đó là hai số làm thành số 5. Số 5 này sẽ làm nên gậy thần có 9 đốt với đầy hiệu lực: tương truyền rằng ai biết nắm vào đốt thứ 5 thì nắm được vận mạng cả khi sống cũng như khi chết. Gậy thần chẳng qua là sách rùa gồm bởi 9 số mà số 5 ở giữa, cộng chiều nào cũng ra số 15 nên gọi là “ma phương” nghĩa sâu xa là đạo thấm vào mọi việc. Kinh Hùng nói bóng là vua Hùng dùng huyền thuật mà thần phục được 15 bộ nước Văn Lang, cũng có tên khác là Tản Viên. Viên là tròn chỉ bằng số 5 cũng gọi là cái quy. Quy phải bao gồm cả 4 phương (cái củ). Vẽ đơn sơ thì ra mẹ tròn con vuông tức viên phải tản ra ôm lấy 4 góc chỉ vạn sự vạn vật: việc nào cũng phải làm đúng Đạo, đúng nguyên lý mẹ vì thế gọi là Tản Viên. Còn nếu vẽ đủ cả thì ra Lạc Thư tức là sách của dân Lạc do Lạc Long Quân ban cho, có một sức biến hóa dị thường, nên sau gọi là Kinh Dịch, nghĩa là biến đổi mà chúng ta sẽ bàn ở chương sau.

Ở đây hãy nhận xét ít điều về sự suy thoái của đạo như vừa kể trên. Về sách ước gậy thần thì đúng là một trường hợp đánh mất trọn, nên sách ước gậy thần chỉ còn là câu chuyện cổ tích không gây âm vang gì vào Đạo, nói ngay việc làm tưởng nghĩ đến Đạo cũng không nốt. Lý do phải có nhiê2u và phiền toái, nhưng điều nổi bật có thể nhận ra được, là ngũ hành không còn được dùng như cơ cấu tức đi với các số. Vì nếu cho đi với các số thì mới có đường thấy được con số 5 do con số “vài ba” ứng dụng ở đây: số 2 là 2 trang trong quyển sách chỉ vọn vẹn có 3 trang: lúc ấy các số trong truyện có thể giúp cho thấy số 2-3 là thành tố của ngũ hành. Rồi trong hai trang được đọc cũng có số 2-3 tức trang hỏa số 2, trang mộc số 3 là 5, 5 nhân với 3 ngày ở dưới thủy phủ thành ra số 15 ma phương, hay 15 bộ nước Văn Lang cũng vậy. Thế là ta biết sách ước gậy thần không phải là truyện cổ tích suông mà đã gây âm vang vào nước Văn Lang huyền sử và cuối cùng chính là truyện bản thân của ta.

Nếu xét về nguồn gốc thì ta thấy sach ước đi trước Lạc Thư Hà Đồ. Vì trước hết sách ước đi với số 2, 3, 5. Thứ đến lại ở dưới biển: nó bao la hơn là sông Hà sông Lạc. Huống chi Lạc Thư Hà Đồ lại đi tới số 9 như vậy đó quả là phó sản của ngũ hành tức của sách ước gậy thần vậy.

Bây giờ chúng ta đưa ra một thí dụ khác về cơ cấu uyên nguyên lý què quặt. Đó là câu “thiên bất túc tây bắc, địa bất mãn đông nam: trời không đủ về phía tây bắc, đất không đầy về phía đông nam”. Người ta thường giải nghĩa bằng câu truyện có quan đại thần tên Kang-Hui hoặc Cộng Công toan làm một cuộc đảo chính để cướp chính quyền, nhưng bị thất trận mới đâm đầu vào núi Bất Chu làm nẻ trời sụp đất. Vì thế trời phía tây bắc không đủ (bị hở). Còn đất phía đông nam thì nghiêng đi nên các sông nước Tàu đều chảy tự tây bắc sang đông nam. Đó là lối giải nghĩa có vẻ thực sự xảy ra như thế. Nhưng nhìn theo cơ cấu uyên nguyên thì thấy quả đó là lối bẻ quặt Đạo xưa, tức truyện không nói về hình thể đất đai mà là nói về Đạo, tức không nói chuyện xa xưa bên Tàu mà có ý nói chuyện ngay ở bây bây giờ và thiết đến bản thân mỗi người, là chúng ta không được ngưng đọng ở một ý niệm nào, mà phải cố vươn lên đợt chu tri (biết tròn đầy hiểu là cả âm lẫn dương, cả trong lẫn ngoài) có vậy mới tri thiên mệnh, là biết trời. Còn “trệ ư nhất ngưng” (ngưng đọng lại một góc) thì là húc đầu vào cột chống trời, gọi là Bất Chu chi sơn. Đấy mới là nghĩa chính, còn nghĩa nứơc mưa chảy về phía đông chỉ là nghĩa tuỳ phụ, nghĩa áp dụng vào thực thể, có đúng cũng là truyện may rủi, chí như sự trật khỏi nghĩa uyên nguyên xuống nghĩa hiện tượng thì đã rõ ràng. Bởi làm chi có người húc đầu vào núi mà đạt công hiệu lớn lao như vậy đâu. Đã thế lại cắt rời truyện ra khỏi cái toàn thể của nó còn bao gồm nhiều truyện khác như truyện bà Nữ Oa nấu đá ngũ hành mà trát lại trời phía tây bắc. Truyện trên đã hiểu xuống nghĩa hiện tượng thì truyện Nữ Oa cũng trở nên nhạt nhẽo vô duyên và chẳng còn chi ăn chịu với nhau.

Lý do tại vì đã bỏ mất con số ngũ hành tức là bỏ mất chìa khóa mở vào kho ý nghĩa để soi sáng cho các truyện kia. Xưa nay ngũ hành chỉ đọc là Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏ, Thổ chứ có ai nghe thấy số nào đi với hành nào đâu. Đấy là điểm một.

Điểm hai là nếu có nhớ rằng số lẻ chỉ trời số chẵn chỉ đất thì mới có hy vọng hiểu câu thiên bất túc tây bắc, vì đất (phía tây) đã chiếm hết 4 (bắc) trời chỉ còn 1 thì làm sao đủ được mà chả bất túc. Còn phía đông nam thì trời 3 mà đất có 2 thì đất không thể đầy được “địa bất mãn đông nam”. Vì vậy bà Nữ Oa phải nấu đá ngũ hành để trát lại trời phía tây bắc, để cho trời đất quân bình có 4 góc. Điều đó chỉ bằng thập tự nhai có 4 cành đều nhau gọi là “quân thiên” celestial equilibrium tức là mức độ chí thiện, nó chi tiết thì đó là số 5 thành bởi 2+3 gọi là Thái Hòa. Vậy mà điều này khó giữ được lắm, thường nghiêng ra một góc gọi là duy dương nên phải đưa nguyên lý mẹ vào để lập lại thế quân bình. Nguyên lý đó là 2+3 hay số 5 cũng gọi là hành thổ. Phải làm phép “an thổ”. Đó là ý chính của truyện bà Nữ Oa luyện đá vá trời; nấu đã ngũ hành là phải tuy luyện, phải “an thổ” (như thiền) phải thực thi nhân nghĩa, chứ không chỉ có chúi đầu vào việc cầu cơm, kiếm tiền. Chỉ lo cho đời sống vật chất như vậy thì gọi bóng là húc đầu vào núi Bất Chu, nên trời sụt, nghĩa là tâm linh suy thoái, nói bóng là trời không đủ “thiên bất túc tây bắc”. Có hiểu thế mới trúng nghĩa huyền thoại, nó không nói truyện trời với đất mà là nói truyện người nói truyện Đạo. Để hiểu như vậy thì phải chú ý đến các con số chúng sẽ giúp lần ra nẻo về chính Đạo.

Để hiểu vai trò các con số trong Việt Nho cần nhớ về ba chặng lớn mà tâm thức con người phải trải qua là Bái vật, Ý hệ, và Tâm linh. Bái vật cũng goi được là đợt thần thoại hay là dị đoant ức là giai đoạn mà lý trí con người chưa phát triển nên chỉ biết có tin. Hết mọi người đều trải qua như thế, cả đến đoàn thể cũng vậy. Trẻ nhỏ lặp lại giai đoạn bái vật tức chỉ có tin chưa biết phê bình, đến tuổi nào đó quãng 15 thì mới khởi sự biết tự suy xét, tự nhận định. Loài người nói chung cũng thế. Ban sơ toàn có tin, nhưng đến một lúc nào đó thì cố vươn lên đợt lý trí. Vậy ấn tích của những bước rẽ đường này là các con số. Có những Đạo được đặt căn bản trên con số như của Pythagore hay đời Tống có Thiệu Ung, bên Crète người ta thờ số 3… Trong Việt Nho có đầy số và sau đã kết tinh vào ngũ hành cùng các phó sản như Hồng phạm, Cửu trù, Hà Đồ, Lạc Thư. Ta thấy trong khoa học vật lý kỹ thuật cũng vậy chỉ tự khi những nhà khoa học như Descartes, Galilèe đem toán học vào vật lý thì tự đấy khoa học mới tiến được. Nhưng số của triết khác toán của vật lý, nó không có ý đo đếm mà chỉ để biểu thị cái phẩm tính, cái dạng thức của sự vật.

Đó là điều mà ngừơi ta sẽ quên đi, hay mất ý thức về sự quan trọng của các số. Có hai lý do gây ra sự quên này. Trước hết lý do chính đáng là đường tiến hóa phải đi nữa, phải vượt qua lý trí để lên tâm linh. Đã lên tâm linh thì còn cần chi đến số, số ví như bè để sang sông, qua được sông rồi đâu còn cần bè. Lý do thứ hai nằm trong đợt vật lý, đó là khi khoa học phát triển mạnh thì số chỉ còn dùng để đếm đo. Thế là người ta quên đi vai trò ban đầu của các huyền số.

Sự quên này không quan trọng lắm khi người ta duy trì được tinh hoa Đạo lý, nhưng đến lúc Đạo suy vi, mà người ta muốn truy tầm sự chính tông của Đạo thì phải đi một đường tố nguyên, lúc ấy vai trò các con số trở nên cần thiết. Nếu không nắm được thì không hiểu được các huyền thoại. Mà huyền thoại là phần rất quý giá trong gia tài thiêng liêng của đất nước.

Chính vì thế mà bộ triết này chuyên chú khai quật các truyện cổ của Việt tộc mục đích là tìm ra đạo lý chính tông để noi giữ. Trong khi tìm kiếm như vậy thì nhân tiện cũng nhận ra Đạo lý phát nguyên từ đâu. Tức Đạo quy gồm vào số 5 (do 2-3). Vậy ta thấy số 2+3=5 phát xuất ở đâu trước thì biết Đạo phát nguyên từ nơi đó. Đó là Việt tộc.

Truyện Bàn Cổ

  Truyện này gốc ở Quảng Đông nơi có “mồ mả của Bàn Cổ”. Truyện mới được đưa vào quỹ đạo Tàu từ thế kỷ thứ ba trong sách “Tam ngũ lịch” của Từ Chỉnh.

Đây là một nhân thoại cao cả nhất nói lên óc tự cường, tự lập, tự làm chủ, nhưng ngừơi ta đã hạ thấp truyện xuống đợt sử ký bằng đồng hóa với chó Bàn Hồ của dân Dao và Miêu. Đấy là kiểu sử ký hóa thô kệch. Vì truyện Bàn Cổ có tầm vóc bao la như vũ trụ nói lên tinh cốt của nền nhân chủ Việt tộc, sao dám đặt ngang với chó Bàn Hồ. Chữ Bàn Cổ có nghĩa là đời cổ quấn khúc như rồng Bàn Quỳ = Coiled up antiquit nghĩa này hợp môi sinh tinh thần của Lạc Việt có vật tổ là Bàn Quỳ. Hầu chắc truyện thuộc giai đoạn văn hóa Hòa Bình đã xuất hiện lối 10.000 trứơc mà ngày nay người ta thám quật được rất nhiều ấn tích thí dụ tại di chỉ “Đại Bôn Khanh” bên Đài Loan và lan rộng cả lên miền sông Hoài, lên mãi tận Long Sơn bắc Tàu (Kwang Chih Chang tr.85).

Truyện Nữ Oa

 Bà Nữ Oa đội đá vá trời, vì trời bị thần Cộng Công làm xiêu lệch. Đó là trang nhân thoại tuyệt vời nhưng đã bị sử ký hóa thay Cộng Công bằng một quan đại thần tên Kang Hui toan cướp chính quyền nhưng thất bại nên đâm đầu vào núi làm trời sụt phía tây, đất lệch sang phía đông, nên trăng sao đều tiến về phía tây, còn các sông chảy về phía đông. Giải nghĩa như vậy đã hẹp nghĩa còn bỏ sót việc Bà cất 4 chân rùa kê lại đất cho yên. Giải nghĩa theo lối tâm linh thì trời sụt ở phía tây bắc. Đó là góc 4-1 trong ngũ hành nó chỉ người duy vật vì hành kim phía tây số 4, bắc số 1 tức đất có đến 4 mà trời chỉ có 1 nên nói “thiên bất túc tuy bắc”. Còn đất phía tây quá nhiều nên làm cho đất không còn đủ bên đông (địa bất mãn đông nam) chỉ có 2 vậy phải lập lại quân bình cho tâm vật cân đối. Cụ thể là làm phép “an thổ” tức là tĩnh tâm. Xưa chỉ bằng 4 tuần cuối mỗi mùa gọi là tứ quý. Tuần tứ quý là những ngày dùng để tĩnh tâm gọi bóng là Bà chặt 4 chân rùa là dứt lo thế sự 1 tuần để bơm linh lực cho tâm hồn khỏi chìm sâu vào vật chất. Sách “phong tục thông nghĩa” (của Ứng Thiều thế kỷ thứ 2) còn nói là Bà sinh ra loài người cũng như lập ra phép hôn phối thì ta phải hiểu là phép “an thổ” tức là dọn đất cho sự xuất hiện của con người đại ngã (đôn hồ nhân). Còn hôn phối hiểu là linh phối đất trời, tâm vật.

Cắt liên hệ với Trời
Ngày xưa loài người giao thông được với Trời và mọi sự xảy ra yên ổn. Nhưng sau vì Cửu Lê làm loạn thứ tự nên Trời cứ xà xuống lấp cả đường đi của con người. Đế Chuyên Húc mới sai Trùng Lê cắt đường không cho Trời xuống quấy rầy người nữa. Tự đấy ngừơi ta lại được bình an lo công việc của mình.

Đây là câu truyện mà ta có thể nói là diễn lại ý câu “Trời Đất giữ đúng vị trí của mình thì vạn vật được nuôi dưỡng”, còn khi đất quá đất (duy vật) hay trời quá trời (duy tâm) thì con người khổ luỵ. Nói bóng là trời xà xuống quá thấp làm ngãng đường con người như khi phải thiêu trẻ để tế trời, hay gìm con gái xuống sông để làm vợ Hà Bá v.v…

Đại để nghĩa lý câu truyện là thế, nhưng vì khuynh hướng cố lịch sử hóa huyền thoại, nên đưa ra nhiều dịch bản khác nhau, trong đó có dịch bản của Kinh Thư (Lữ Hình) với vai trò của Trùng Lê như trên. Trùng Lê có thể hiểu là 2 lần Cửu Lê (thì ra số 18, là một trong những bộ số riêng biệt của Cổ Việt). Trong sách Quốc ngữ thì nói Trùng Lê là hai người: Trùng thì nâng trời lên, còn Lê thì đè đất xuống. Chung quy cũng là cố hiện thực câu “thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”.

Hậu Nghệ bắn 9 mặt trời

  Đời vua Nghiêu có 10 mặt trời xuất hiện làm cho cây cối muốn cháy, vua Nghiêu phải treo giải thưởng cho ai giải toả được nạn này sẽ gả công chúa cho. Có Hậu Nghệ ra bắn được 9 mặt trời, còn để lại có một. Từ đấy trái đất mới được ôn hòa.

Đây là truyện cùng biểu diễn một ý như truyện trên là trời quá trời, còn đây là mặt trời quá mặt trời. Câu truyện có thể xuất hiện vào lúc con người đang bỏ tục thờ mặt trời để tiến lên giai đoạn thờ trời (xem Sứ Điệp, chương III). Hậu Nghệ được truyền tụng là được Tây Vương Mẫu cho cây thuốc trường sinh. Oâng ta đưa về trồng bên đông nhà hằng ngày đi đâu thì dặn vợ tên là Thường Nga rằng có đi đái thì đái đằng tây, chớ đái bên đông mà cây dông lên trời. Dặn đi dặn lại làm vợ phát cáu: nói mãi, đã vậy để bà đái cho mà coi, thế là cây tự nhiên bay lên đến cung trăng. Chồng về chỉ còn kịp bám lấy chân vợ, lên đến mặt trăng rồi thì Thường Nga bị hóa ra Thiềm Thừ là cóc ba chân, Hậu Nghệ hóa ra thằng cuội ngồi gốc cây đa. Đại ý là chớ khinh Đạo lý chứa trong 2 bộ số 2-3. Vì làm thế tất sẽ ngả sang bên Tây với số 4-1. Đó là duy vật chứa toàn truyện dối dá lừa bịp…

Lụt cả với ông Đại Vũ

  Truyện Đại Vũ thì ai cũng có nghe Vũ là con ông Cổn giúp việc vua Thuấn trị thuỷ thành công nên đựơc lên ngôi vua Thuấn như ghi trong thiên Vũ Cống của Kinh Thư, nhưng quả tang đó là đã lịch sử hóa truyện huyền thoại mà ta còn thấy được một số dấu vết: như ông Vũ có 2 tai 3 lỗ, hoặc khi ông đào xuống sâu thì gặp Phục Hy Nữ Oa đang ôm nhau. Oâng ăn trộm thứ đất “tức thổ” là thứ càng đào xuống càng thêm lên. Trong việc trị thuỷ ông được giúp việc do con rồng có cánh nó đi trước lấy đuôi về đường cho ông. Oâng truyền cho 2 quan giúp việc bước đi để đo đất thì thấy đất hoàn toàn vuông mỗi chiều 233.500 dặm. Có lúc ông biến ra con báo, vợ đưa cơm trông thấy liền chạy và hóa ra tượng đá. Oâng đến đòi bà trả con, tượng đá liền “mở ra” cho con chui ra nên con gọi là Khỉa. Lại còn vụ ông Cổn hóa ra gấu, ra cá, ra ba ba (three-legend turtle). Xem bấy nhiêu đủ biết nói ông giúp vua Thuấn trị thuỷ chỉ là sử ký hóa thần thoại, tin đó là lịch sử thì quả là ngây thơ. Các nhà nghiên cứu đều cho đó là thần thoại, còn tôi cho đây là một nhân thoại nói lên sức mạnh của con người sửa sang đất cho ra nơi ở tốt lành. Lụt không để phạt tội mà để con người có dịp phát triển khả năng tác hành hết cỡ. Đó là truyện khởi đầu văn minh.

Tóm lại

  Xem qua 5 huyền thoại người ta có thể thấy rõ 2 dòng văn hóa, một của Hán Nho cũng gọi là Chu Nho cố gắng lịch sử hóa thần thoại. Lối này kéo theo 2 lối khác là ma thuật đời Hán, hai nữa là lối phê bình của học giả đời nay tất cả đều làm mất chiều kích bao la của thần thoại, nó chỉ con người Đại Ngã tâm linh có tầm vóc bao la như trời đất. Vì thế mà trong truyện toàn trình bày con người hiện thực những việc mênh mông như vũ trụ, nào Bàn Cổ xếp đặt trời đất, Nữ Oa đội đá vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt nhật, Trùng Lê bắt trời phải ở vị thế của mình, Đại Vũ trị thuỷ… Toàn là những động tác có tầm vóc vũ trụ như thế cả mà con người đầy tác động tính nên tránh được những truyện sáng thế ký mà trong đó con người không góp phần tích cực được như trong nhân thoại. Cũng vì là nhân thoại nên né tránh những gì là bạo động, những gì chết chóc khủng khiếp, là những cái vượt tầm mức con người. Còn đây con người tự làm lấy hết theo mẫu mực mình đã hoạch định, mẫu mực đó được trình bày bằng khung ngũ hành. Vì thế mà nói được ngũ hành tóm thâu toàn thể triết Việt Nho là vậy.

  Do đâu mà thần thoại biểu lộ bản tính con người?
Thần thoại là một trong những yếu tố trường tồn đã xuất hiện cùng với con người ở bất kỳ nơi đâu: xưa đã vậy mà nay cũng thế, chỉ có hình thức thay đổi, xưa thì hô phong hoán vũ, độn thổ đằng vân, nay thì Superman hay Wonderwoman… và bao giờ con người cũng nghe kể cách thích thú, nhất là trẻ nhỏ nơi thiên năng chưa co rút lại nên cảm thấy thần thoại liên hệ với mình chặt chẽ hơn là người lớn. Nói bản là nói đến cái gốc cái rễ cùng cực, nên thường không xuất lộ rõ ràng, nhưng lại là nền tảng. Ta biết thế vì hễ cái gì trường tồn – ở đâu và bao giờ cũng có: cổ hay kim cũng vậy thì ta hiểu đó là thuộc bản tính con người.

Đến lúc xem lại kinh điển thì thấy nói đến Đại Ngã, nhưng ít thấy Đại Ngã được diễn tả cách cụ thể, thành ra Đại Ngã thường chỉ là một từ ngữ suông không vươn ra để móc nối được với thần thoại. Còn thần thoại thì thường chỉ đựơc coi là việc của thần của tiên, không dính dáng chi đến con người, thành ra hai bên vẫn xa cách.

Nay Việt Nho đưa ra thuyết nhân thoại là có ý nối 2 đang lại, tức những tác động bao la như phân định trời đất, đội đá vá trời… thì quy ngay cho con người, vì con người đã có mộng như thế tự muôn thưở, nên kết luận được đó chính là một trong những đức tính căn bản của con người, cho nên chủ trương nhân thoại không những đã có nền móng vững chắc mà làm thế còn nâng con người lên ngang hàng thần linh. Nho có nói “chí thành như thần” nhưng câu đó chưa được giải rộng, nay Việt Nho quảng diễn bằng thuyết Nhân thoại là để nói rõ lên rằng: Con người chính là Đại Ngã Tâm Linh nghĩa là nó có cái sống song toàn gồm cả đời sống thân xác lẫn đời sống tâm linh. Nho dùng chữ “lưỡng thê” chính là thế. Lưỡng thê nghĩa đen là những vật sống cả dưới nước lẫn trên bờ. Còn nghĩa bóng là tiểu ngã sống trong cõi hữu hình nhưng lại tàng chứa một Đại Ngã sống trong cõi vô hình. Tiểu Ngã thì bị tràng buộc trong không gian thời gian, ở đây và bây giờ với cái xác thân bé nhỏ nặng chỉ chung quanh 100 ký, nhưng Đại Ngã thì vượt không gian thời gian, nói bóng là sống cả trên đất lẫn dưới nước tức có tầm vóc như vũ trụ. Đấy mới là cốt Đạo lý. Và vì thế những tổ văn hóa của ta đều sống cả dưới nứơc lẫn trên trời. Thần Tản Viên xuống thuỷ phủ nhận lãnh sách ước gậy thần rồi lên sống trên núi. Mẹ Aâu Cơ cũng thấy vừa sống trên núi Phong Châu lại vừa gặp bố Lạc dưới thuỷ phủ. Tất cả nghe đều thật lạ lùng, cho nên học giả James Legge bàn đến thuyết Tam tài là thuyết đặt người ngang hàng cùng Trời với Đất thì cho là điên rồ. Phải điên rồ mới dám đặt con người bé nhỏ yếu đuối ngang với Trời. Mọi người đều “thấy” như vậy.

Chính vì sự ngược đời đó nên thuyết Tam tài trở nên vật rất họa hiếm. Hầu hết các nền văn hóa chỉ mới nhận thêm có linh hồn, nhưng linh hồn cũng bé nhỏ như xác thân, chỉ khác xác thân là nó tinh hơn, nên có thể gọi đó là một thứ vía. Lấy về đàng tinh thô mà nói thì xác là thô nhất nên giác quan ta xem nghe sờ mó được. Bên trên xác chỉ có phách. Phách đã tinh hơn nên chỉ một số người có giác quan thứ 6 mới “nhìn” ra. Bên trên phách là vía tuy tinh hơn nữa, nhưng cũng vẫn còn bé nhỏ và bị ràng buộc. Linh hồn xem chừng không cao hơn vía mấy, tất nhiền bị cột trói trong không gian thời gian. Phải tiến lên nữa mới đến đợt Đại Ngã mà Nho gọi là thần “âm dương bất trắc vị chi thần” = thần thì đến ngay âm dương cũng không còn đo lường được nữa, vì nó đã vượt ra khỏi không gian thời gian và trở nên bao la như vũ trụ. Kinh Dịch đã đặt tên “vũ trụ chi tâm” là thế.

Phần lớn các nền văn hóa chưa vươn lên được đợt Đại Ngã, vì thế mà có sự vụ là thần thoại bị coi khinh, hoặc bị hạ thấp xuống bậc sử ký, hay lại hiểu lối ma thuật tức những việc cao cả thì quy cho thần, cậy thần làm hộ chứ không dám nghĩ đến rằng mình cũng có khả năng làm được như thần. Đấy là chỗ nhân thoại giúp con người nhận ra chiều kích bao la như vũ trụ của mình. Phải đạt đến đó đường tu tiến mới hanh thông, mới là Đại Đạo, tức cũng là Đạo trung thực tròn đầy vậy.


  IV. TỪ HOÀNG DỊCH ĐẾN CHU DỊCH

Dịch là sách có một địa vị hi hữu trong văn hóa loài người ở chỗ đã duy trì được nền tảng của văn hóa nguyên thuỷ, tức cũng là văn hóa chính trung gồm cả hai bên: trong ngoài, trên dưới, tả hữu… tức là cân đối cùng cực.

Đang khi đó hầu hết các văn hóa đều sa đọa vì nghiêng về một bên. Điều này cũng xảy ra cho Kinh Dịch như được ghi trong Hậu thiên bát quái, nên hậu thiên bát quái có thể coi như dấu chỉ đường đi sa đọa. Vì thế nghiên cứu về quá trình hình thành của Kinh Dịch cũng là nghiên cứu về tiến trình văn hóa nhân loại nói chung: cả về tiến bộ lẫn sa đọa.

  Dịch Kinh gồm 5 giai đoạn hình thành như sau:

- Giai đoạn 1: Dịch của Trời Đất, tức những huyền thoại có nét song trùng như đực cái, núi sông, tiên rồng, nứơc lửa, ông Đùng bà Đà.

- Giai đoạn 2: Dịch của Phục Hy thành bởi:

a. Hai gạch đứt: - - / - - hay số chẵn lẻ

b. Rồi chồng 2 nét lên nhau thành ra tứ tượng. Đoạn chồng lên một nét nữa thành ra quẻ đơn có 3 gạch. Ba gạch đó hàm ngụ số 2 âm dương với số 3 Tam tài.

c. Tất cả có 8 quẻ đơn và đựơc xếp đặt theo hình bên sau gọi là tiên thiên bát quái: hãy đọc theo số Kiền 1, Đoài 2, Li 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8.



Hình Tiên thiên bát quái

 
- Giai đoạn 3: Dịch của ông Đại Vũ thêm vào số 5 là ngũ hành được đặt nổi, với số 4 thành thì hóa ra 9, nói bóng là “Vũ chú cửu đỉnh” = ông Vũ đúc được 9 cái đỉnh. Đó là câu nói ghi giai đoạn thứ ba của Kinh Dịch có vòng trong vòng ngoài như hình sau:

                                        


                                        
 
    Hình này sẽ là gốc cho các hình đồ kép khác như Hồng Phạm, Cửu Trù, Hà Đồ, Lạc Thư, Minh Đường v.v… như sẽ nói dưới.

- Giai đoạn 4: Dịch Văn Vương thêm Hậu thiên bát quái. Nó ở tại đặt lộn thứ tự bát quái của tiên thiên thành ra hình như sau:




Hình Hậu thiên bát quái

 
Và từ đấy thì bắt đầu có lời gọi là hệ từ nghĩa là lời treo, tức lời đặt sau 64 quái để giải nghĩa.

- Giai đoạn 5: Dịch Khổng Tử thêm thập dực tức là 10 phụ trương, trong đó đáng kể nhất thì có thuyết quái và Hệ từ thượng hạ, nhằm nói lên ý sâu xa của Kinh Dịch. Đó là 5 giai đoạn hình thành Kinh Dịch.

Ba giai đoạn trước tôi cho là thuộc Việt tộc vì các lẽ sau:

1 - a. Các huyền thoại có tính lưỡng hợp (dual unit) thuộc miền Đông Nam Á mà Việt là đại biểu nổi nang cũng như đất Việt Nam là ngã ba các nền văn hóa gặp gỡ.

    b. Nét song trùng là cột trụ của Kinh Dịch thì gặp thấy tràn ngập ở miền Việt, cũng như tìm được trước hết ở Bắc Sơn trong 2 gạch chạy song song. Khảo cổ Tàu không có ít ra rõ nét như vậy.

2. Thứ đến giai đoạn hai cũng thuộc Việt, vì:

a. Phục Hy là người gốc Việt có họ rồng nên Phục Hy cũng có tên là rồng xanh (thanh tinh). Vậy mà rồng là của Việt tộc trước hết. Tàu chỉ mới nhận rồng từ đời Hán.

b. Lối xếp đặt cũng Việt tức trọng tả là đặt âm trước dương, nét đứt trứơc nét liền.

c. Số ba gặp thấy nơi Việt trước như nhà sàn (ba cấp), 3 đầu rau, bộ ba cái chạc (đồ tuỳ táng bao giờ cũng đi theo bộ ba…) Việt tộc cũng có cái mang tên là Tam Miêu là người có cánh như chim (mà chim là Việt) và dẫn đầu liên đoàn các dân gọi là Cửu Lê (số 9).

d. Số 5 kép bởi 2 cộng 3 cũng thấy ở Việt trước: rõ nhất là các bình đèn có hai tai ba chân tìm được ở Phùng Nguyên. Tuy có thấy ở cái lịch bên Tàu trên Long Sơn, nhưng Long Sơn nay được khám phá chịu ảnh hưởng từ phía Nam.

e. Ngôn ngữ học nhận thấy tiếng Nam Á (Austroasiatic) ưa số 5, 10, 20, Tàu quý phái ưa số 6. Tàu nhà quê (gốc Việt) ưa số 5 (Danese 6).

3. Thứ ba Dịch Đại Vũ đúc 9 đỉnh cũng là Việt. Số 9 gọi là đăng cao ngày mồng 9 tháng 9 lên núi, nói là để hái hoa vạn thọ đặng sống lâu, mà nghĩa ẩn tàng là để ôn bài học nằm trong số 9, cũng gọi là “Cửu thiên huyền nữ”, hay là 18 đời Hùng Vương (2*9=18). Hùng Vương đựơc cưu mang ba năm ba tháng (3*3=9) là theo lý đó. Quốc Hoa Việt là Nhật Quỳ cũng phải có 9 cánh (Quỳ: cửu đạt chi đạo = quỳ là nơi thông hội của 9 con đường). Số 9 có căn 3 nên Con Cóc Việt (thuộc nông nghiệp vì làm mưa) phải rụng một chân mới được làm cậu ông Trời: chỉ còn có 3 chân, nhưng nhớ 3 là căn số 9. Vì số 9 là của Việt nên có tên gọi là Cửu Lạc, người Mưỡng gọi phép bói bằng rùa là chí rò (9 rùa). Số 9 nhân với 2 thành ra 18:

Bàn Cổ cai trị 18.000 năm

18 đời Hùng Vương

Thánh Dóng cưỡi ngựa 18 thước cao.

Đoàn hát Li Vưu có 81 người (9*9=81)…

Chính vì sự gắn bó với hệ thống 9 (nói hệ thống vì nó gồm các số 2+3=5 và 5+4=9) mà sau Cửu Lạc được Nho biến ra thành Lạc Thư và Hồng Phạm Cửu trù, tất cả đều theo một lối xếp đặt như Cửu Lạc nghĩa là theo chiều tả nhậm (vòng khắc). Xem các hình dứơi đây sẽ nhận ra điều đó.


Hình 1. Hà Đồ


Hình 2. Lạc Thư


 
Hình 3. Cửu Trù Hồng phạm

 

 

 

 
Bắt đầu nhận cho kỹ các số vòng sinh (hình 4) đi từ số 4-1-3-2-5. Rồi vòng khắc (hình 5) đi từ số 1-2-4-3-5.

Đoạn xem lên Lạc Thư hình 2 thấy vòng khắc số 1-6-7-2-9-4-3-5 (các số 6, 7, 9, 8 là số thành nên trừ 5 thì ra 1, 2, 4, 3 tức là lối xếp của vòng khắc. Đó là lối tiến chính của Kinh Dịch. Vì “Dịch nghịc số dã” (thuyết quái, câu 2). Do lẽ đó Lạc Thư đi theo vòng khắc nền giữ vai chính, vì làm mẫu cho cả Hồng Phạm và Cửu Trù. Còn Hà Đồ (hình 1) đi theo số sinh, “hữu nhậm” vòng ngoài (tiện theo tay phải xuôi kim đồng hồ).

Đại để đó là những phát triển đến cùng tột của giai đoạn Dịch Việt, sau được Tàu đưa vào Chu Dịch (1), nhưng nhiều sách nhận xét là Lạc Thư Hồng Phạm v.v… không thuộc Dịch, thì nên hiểu là không thuộc Chu Dịch là cái chỉ đến sau, khi những nền móng chính của Dịch đã hình thành xong gồm Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành với ba nhóm chân lý trọng đại đi kèm theo. Đó mới là nền móng thâm sâu của Dịch Kinh linh thể, Dịch tiên thiên, cũng là Dịch chính trung và chỉ được tâm truyền chứ không viết ra, không có lời.

(1) Cũng có thể nói là không thuộc Nho khi hiểu Nho là Khổng học. Vì Khổng tuy có tiếp nhận được đạo lý Dịch là nhân đạo, nhưng không biết đến cơ cấu ngũ hành, tam tài, âm dương. Cả Khổng cả Mạnh không hề nhắc đến những chữ đó, nên đoán được rằng ba bộ cơ cấu này chỉ đựơc rước vào Nho đời Hán mà thôi. Có thể vì Khổng Tử như người đi chữa nhà cháy, ông chỉ cứu được bức ảnh mà không cứu được cái khảm ảnh, tức chỉ cứu được có đạo lý bằng từ, mà không cứu được cơ cấu bằng số. Vì thế sau đạo Nho bị nhàu nát (vì không có khung để che chở).

 
Còn việc Tàu học được Dịch Việt thì được huyền sử hóa bằng truyện ông Vũ lấy vợ Việt, ẩn nghĩa là ông học được văn hóa nông nghiệp của Việt, là văn hóa đề cao nguyên lý mẹ, gọi bóng là “Cửu thiên huyền nữ” (Cửu là số 9), nên Lạc Thư cũng gọi là sách Mẹ. Truyền thuyết nói rằng: khi vua Vũ trị được thuỷ rồi (nghĩa đen là ngăn lụt, nghĩa bóng là trị nước theo Cửu Lạc) thì có con rùa thần đội văn, trên lưng có các số từ 1 tới 9. Vua Vũ bèn nhân đó mà xếp thứ tự thành ra 9 trù (cửu trù). Vậy Cửu Trù là Lạc Thư, trứơc nữa gọi là Cửu Lạc, người Mường gọi là chí rò. Hùng Vương thần phục 15 bộ nước Văn Lang là cai trị theo sách mẹ (Cửu Lạc) vì đem các số Lạc Thư mà cộng bất cứ chiều nào: ngang, dọc, xéo đều đựơc số 15. Tất cả những điều này đều xảy ra trước nhà Chu. Nhà Chu chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ 12 trước công nguyên mà thôi, và từ đấy mới có Chu Dịch với hậu thiên bát quái. Ta hãy nghiên cứu giai đoạn này xoáy vào hậu thiên.

4. Giai đoạn 4 của Văn Vương có 3 điều khác: một là đặt quẻ Kiền trứơc Khôn, hai là dùng số 9, ba là hậu thiên bát quái. Ta sẽ tìm hiểu 3 điểm dị biệt nọ.

Trước hết cần nhận diện các quẻ với tên và nghĩa chung. Xin nhớ số thứ tự các quẻ theo tiên thiên.

8 Khôn = Đất (Mẹ)                     4 Chấn = Sấm (Trai 1)

7 Đất = Núi (Trai 3)                    3 Li = Lửa (Gái 2)

6 Khảm = Nước (Trai 2)             2 Đoài = Hồ (Gái 3)

5 Tốn = Gió (Gái 1)                    1 Kiền = Trời (Cha)

 
Các chữ cha, mẹ, con trai, gái đặt trong ngoặc, vì thuộc hậu thiên. Nên ghi nhận khi xếp quẻ thẳng thì lấy nét dưới làm nền, thí dụ quẻ Chấn thì nền là nét liền, nên là quẻ dương. Ngược lại quẻ Tốn là âm. Còn khi xếp theo vòng tròn, thì lấy nét trong làm nền theo nguyên lý “nữ nội nam ngoại”.

Bây giờ hãy so hai bảng tiên thiên và hậu thiên để nhận ra những điều sai biệt:


Hậu Thiên Bát Quái


Tiên Thiên Bát Quái

 
Điều nổi bật trứơc hết là trong tiên thiên bát quái có sự cân đối trọn vẹn: Trời đối Đất (bắc nam) nứơc đối lửa (đông tây), sét đối gió, hồ đối núi. Hậu thiên chỉ còn 2 cặp đối đáp tuỳ là “li khảm” và “chấn đoài”.

Thứ đến tất cả 4 mối liên hệ đều đi qua Thái Cực, mà Thái Cực được chia ra 2 mảng Âm bên đông, Dương bên tây. 4 quẻ nền âm đứng bên Đông, 4 quẻ nên dương đứng bên Tây (bên hữu).

Nếu vẽ ra thái cực viên đồ bên âm bên dương thì ta dễ thấy được mối tương quan căn bản của cơ cấu, tôi gọi đó là cơ cấu uyên nguyên vì 4 cặp đối đáp đều đi qua Thái Cực. Trái lại ở Hậu thiên trời đất mất đối đáp, vì Kiền Khôn tức thiên địa bị xếp cả sang một bên, nên mối liên hệ không đi qua Thái Cực. Thế là gây ra 3 loại tai họa như sau:

Một là mất Tương Quan nền tảng xuyên qua thái cực: mất cơ cấu uyên nguyên là mất hết nửa những cái cân đối như giữa càn khôn.

Hai là cha sang bên tả của mẹ, mở đầu phụ quyền lấn át mẫu quyền, cũng như thứ tự tả hữu bị phá luôn.

Ba là thứ tự các số cũng xếp khác đi làm mất hai chữ giao chỉ. Đây là ba điều quan trọng vô cũng như sẽ nói sau. Ta hãy bàn từng điểm một.

Trước hết là cơ cấu uyên nguyên

Cơ cấu ở tại sự đối đáp giữa hai đối cực như nứơc lửa, đất trời, sông núi v.v… Còn uyên nguyên là khi mối liên hệ giữa hai bên gặp nhau trong vòng Thái Cực. Mà Thái Cực cũng là Vô Cực, nên Vô Cực là hồn, là thần, là căn nguyên của mọi cuộc thống nhất: đã trật ra ngoài cơ cấu uyên nguyên thì chỉ còn là bì phu. Như Kiền Khôn trong hậu thiên không đi qua được Thái Cực mà chỉ gặp nhau ở ngoài chu vi, quen gọi đó là không thể vào được trung cung hay không lên được Trời, như được ám chỉ trong huyền thoại Cộng Công húc đầu vào núi Bất Chu chống trời, làm trời sụt, khiến nên cảnh “thiên bất túc tây bắc, địa bất mãn đông nam” nghĩa là thiên không đủ ở tây bắc (vì đã đưa Kiền sang phía đông), địa bất mãn đông nam. Vì đông nam là phần đất mẹ đã bị quẻ Kiền sang xâm chiếm. Đó là nguồn gốc của duy vật được nói bóng là không vào được trung cung.

Nói theo tâm lý thì Dịch Việt (cũng gọi là tiên thiên hay nguyên thuỷ) đạt đựơc tiềm thức tâm linh biểu lộ bằng mối liên hệ giữa hai hạn từ bao giờ cũng đi xuyên qua trung cung (là tiềm thức tâm linh) hậu quả sẽ là có Biểu tượng như những huyền thoại chứa nét song trùng: đực cái, tiên rồng v.v… Còn Dịch Văn Vương thuộc lý trí vòng ngoài nên liên hệ giữa hai hạn từ không đi xuyên qua trung cung tiềm thức, mà chỉ do ý thức, nên gọi là Hậu thiên và như vậy không còn là Tiêu biểu nữa (symbol) mà chỉ là ẩn dụ (allegory). Tiêu biểu phát xuất tự tiềm thức còn ẩn dụ thuộc lý trí bày ra. Ý thức không đạt liên hệ cơ thể với tâm linh, nên mất đi hầau hết hiệu nghiệm thường đi kèm với Tiêu biểu. Từ đấy hầu hết các quẻ chỉ còn là một trò chơi lý trí suông, đã xa lìa sự thực thâm sâu rồi. Thế mà 64 quái chiếm trọn Kinh Dịch, đến nỗi nhiều sách không in phần thập dực. Mà chính ra thập dực cố cứu vớt lại phần nào cái ý nghĩa sâu xa của Dịch. Nay bỏ thập dực mà chỉ chuyên có 64 quẻ, thì chỉ còn là một việc tầm phào. Chính vì chỗ này mà học giả Needham lên án những hậu quả tai hại do Kinh Dịch. Xem Needham II.335.

Điểm hai là cha lấn quyền mẹ. Trong tiên thiên bát quái cha đứng đầu 4 quẻ dương đặt bên hữu, còn mẹ đứng đầu 4 quẻ âm bên tả, nay đặt Kiền sang phía âm là cha chiếm chỗ của mẹ. Việc này được phản chiếu trong vụ Hoàng Đế chiếm chỗ bà Nữ oa (xem Việt Hùng Sử Ca chương XI, Vụ án Nữ Oa Thái Mẫu bị hiếp dâm) cũng như Đông cung thái tử. Thái tử lẽ ra phải ở bên hữu theo lệ của Việt: “gái tả phòng, nam hữu phòng”, sao lại lớ rớ sang bên đông làm gì. Đó là lấn át, chứ theo Việt thì âm trước dương: gái mới được ở Đông cung. Theo lệ gái trước trai đó nên mỗi khi đúc trống xong mà đánh khai mạc thì phải là các bà. Tư tế của Việt cũng là các bà.

Xưa kia gái ve trai là sự thường: người đàn bà Ra Đê còn nói đi “bắt” cái chồng. Mỵ Nương quyết định lấy Chử Đồng Tử là đúng sách Việt. Lúc xưa các bà nổi lắm, cả về sáng chế nông nghiệp hầu hết cũng do các bà: bà Giàn, bà Đậu, bà Dâu, bà Nành, bà Đà trồng cây rú…

Bây giờ bàn đến thói quen trọng bên tả: bên tả đi với nữ, bên hữu đi với nam. Việt tộc trọng tả. Tàu ban đầu trọng bên hữu, sau theo Việt cũng có lúc trọng bên tả. Trong Kinh Lễ ta thấy đầy dấu vết Việt trội hơn Tàu, như khi đi đường nam bên hữu, nữ bên tả (Đạo lộ nam tử do hữu, nữ tử do tả. Lễ Ký, thiên Nội Tắc).

Khi tiếp khách chủ phải nhường khách ngồi bên tả, chủ bên hữu.

Thói tục trọng bên tả có lẽ xuất hiện do việc quan sát bầu trời trăng sao cho người ta cảm tưởng nó xoay quanh sao bắc đẩu theo chiều ngược kim đồng hồ. Vì thế gọi tả là bên Trời, hữu là bên Đất. Bên tả chỉ văn hóa nên trường học đặt bên tả, còn bên hữu chỉ võ lực, chỉ nhà binh. Tàu du mục nên trước trọng bên hữu, Việt trọng văn nên đề ca bên tả. Kinh Thư ghi “tứ Di tả nhậm” = Tứ Di cũng như “Tứ Hải” đều chỉ các dân ngoài Hoa tộc, tức là Việt tộc, tất cả đều trọng bên tả, nên những gì xếp theo thứ tự này phải kể là của Việt, như Phượng Hoàng là của Việt vì Phượng là con cái đi trước Hoàng là con đực, đúng thứ tự âm trước dương. Cũng như phải nói như thế về các chim quen xếp cánh bên tả: Lạc Địch và Tất Phương. Hai đàn cầm sắt cũng vậy: đàn cầm 5 dây do bà Nữ Oa sáng tạo. Đàn sắt 50 dây do vua Phục Hy to hơn nên là dương vòng ngoài.

Còn việc tả hữu đi với đông tây là do ngày xưa ngừơi ta định hướng theo lối quay mặt phía Nam thì sau lưng là Bắc, bên tả là Đông bên hữu là Tây. Do đấy ta có thêm một dấu để nhận diện Việt. Việt trọng bên Đông như khi chôn người chết thì theo hướng Đông tây. Người Chàm Châu Đốc còn giữ tục này (xem Nếp Cũ tr.265). Làm nhà có lễ Thượng Đông tức lễ đặt đòn nóc quay đầu hướng Đông. Sau khi làm lễ gia quan, cha mẹ sang đứng bên thềm tây, nhường thềm bên đông cho con dâu, để tỏ dấu giao lại quyền nội tướng (Li Ki 610). Đứng chầu vua thì tam lão đứng bên đông.

Khi tế Thái Miếu thì vua đứng bên đông (Li Ki 425). Khi vua tế phải để trần vai tả gọi là tả đản. Có khi chỉ nói đản (CA. 211)

Tóm lại phía Đông hay bên tả đã thắng, tức là văn hóa Việt đã cải đổi văn minh Tàu. Tàu đã dần dần chấp nhận văn hóa Việt, chỉ có vài phản đối nho nhỏ, chẳng hạn gọi tay tả là sái quấy như trong chữ “tả đạo”. Kiểu nói gọi tay chiêu là tay trái, còn mục là tay phải, cũng như tự xưa của Tàu còn sót lại. Nhưng trừ vài phản đối đó thì toàn thấy âm trước dương tức Tàu đã bị văn hóa Việt chinh phục Tàu này chỉ xảy ra đời Aán. Còn đến đời nhà Chu thì xuất hiện vụ “hậu thiên bát quái đồ” với thứ tự dương trước âm (Càn trước Không) cha lẫn mẹ như đã nói trên, để rồi đến đời Hán thì khởi cuộc Tàu thắng Việt. Tàu thua văn hóa, nhưng thắng về văn minh. Tuy nhiên khi ghi lại thứ tự các hành hay các quẻ thì nên theo lối xưa kẻo gây lộn xộn. Mà cái mất lớn nhất là đặt tả sang tay mặt.

Điểm thứ ba về các số
Số của Dịch Tàu cũng gọi là Chu Dịch là cặp số 9-6 tức gọi hào dương là cửu (9) còn hào âm là lục (6). Khác với Dịch Việt cũng gọi là Dịch Quy Tàng đời Aân, dùng cặp số 7-8. Để thấy rõ hai bộ số nọ biểu thị nguồn của Việt và Tàu ra sao ta hãy ôn lại các số theo cung ngũ hành xếp đặt như sau:

 

 
                                                             

 
  DỊCH QUI TÀNG
 
    Bảng trên chỉ rõ Việt nhận phía Đông Nam hay 3-2 như câu Kinh Dịch “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”. Còn Tàu nhận Tây Bắc với bộ số 4-1. Nếu ta đưa số 9-6 trên kia trừ số 5 số sinh, thì ra 4-1 hay Tây Bắc. Còn 7-8 trừ 5 thì ra 2-3 (vài ba) tức là số của Việt tộc. Dịch đời Aân mà Khổng Tử còn gặp nơi nứơc Tống được gọi là Khôn Càn, tức Khôn trước Càn theo thứ tự âm trước dương. Như vậy Dịch Quy Tàng với số vài ba (2-3) là Dịch của Việt tộc đó.

Có một người đoán cả Dịch Liên Sơn của Phục Hy cũng theo số 7-8 này (xem CA 367 note 2). Hai số 7-8 tức là hai số 2-3, mà 2 với 3 gặp nhau vì không có gì ngăn cách nên gây ra được cảnh Thái Hòa, trái lại 4-1 thì không vì bị hai số 2 cộng 3 ngăn cách, đành đứng trong cảnh thiên lệch 4 đất 1 trời, nên nói “thiên bất túc tây bắc” là vậy. Vì thiên chỉ có một (1) đang khi bên Đông thiên là số ba (3). Trái lại địa bất mãn đông nam vì địa chỉ có hai (2 ) đang khi phía tây là 4. Nên nhớ ba bộ số 2, 3, 5 chỉ những chân lý nền tảng gốc rễ (số 2 chỉ biến hóa, số 3 nhân chủ, số 5 tâm linh) mà nền văn hóa nào thiếu thì kể là mất gốc. Chính trong ánh sáng đó mới hiểu được câu nói của triết gia José Ortega y Gasset chỉ về Tây Aâu cho là đã mù quáng thâu nhận nền văn hóa huy hoàng nhưng thiếu gốc, nên nay đang thâu hoạch hậu quả đau thương: “Europe is now reaping the painful results of her spiritual conduct. She has adopted blindly a culture which is magnificent but has no root (The revolt of the Masses p.189).

Tình trạng này suýt nữa Hán nho mắc phải do “hậu thiên bát quái” của Văn Vương. Mayt hay nhờ có ảnh hưởng Di Việt còn lại sâu đậm, nên đã không rơi hẳn vào số 4-1, nên còn làm nảy sinh ra được những tổng hợp giá trị như của Tống Nho, nó gắn với triết lý cơ thể hơn bất cứ nền triết nào. Cũng như đã gợi hứng cho Leibniz nghĩ ra đựơc lối toán hai số (binary) để làm nảy sinh toán điện tử. Cũng như các cơ cấu Kinh Dịch hợp với khoa vi thể ngày nay hơn bất cứ triết lý nào, hợp tới 5 bước, đang khi các đạo lý khác nếu có hợp cũng chỉ được một cùng hai, vì không hạp cơ cấu (như trong ngoài, vòng sinh vòng khắc, lỗ đen, vũ trụ nở ra bóp vào, vũ trụ tiện thị ngô tâm v.v… Có bàn rộng trong Chữ Thời bài I). Xem thế đủ thấy ảnh hưởng Kinh Dịch rất sâu xa.

Tuy vậy đó mới là thành tựu trong ngoài, chưa phải mục tiêu chính của Dịch. Mục tiêu chính là “giao chỉ” tức phải liệu sao cho chỉ đất (ý thức) giao thoa với chỉ trời (tiềm thức tâm linh). Bởi vậy cần bàn thêm đường lối của hai chữ này.

Chữ Giao Chỉ theo nghĩa uyên nguyên của Dịch là chỉ trời và chỉ đất giao thoa nhau như có thể thấy trong hình các quẻ xếp theo tiên thiên bát quái kèm theo: bên hữu khởi từ 1 đến 4, bên tả khởi từ 5 đến 8. Bên hữu chỉ đất hay ý thức vòng ngoài.

 
                                                   


Bên tả chỉ trời hay ý thức vòng trong. Khi hai chỉ giao thoa thì mọi sự hanh thông. Độ giao thoa tốt nhất là 2 đất 3 trời, theo câu “vài ba tham lưỡng”. Đựơc như vậy thì có Minh triết. Phần nhiều con người dùng toàn ý thức, ý chí vòng ngoài (chỉ bằng 4-1) mà bỏ bê vòng trong tiềm thức, tâm linh nên không đạt 2+3=5.

Kinh Dịch đưa ra đường lối phát triển sự giao thoa nọ. Hai chỉ có thông hội với nhau đựơc hay không là tại ý thức. Ý thức mà phát triển quá đáng, chuyên đề cao những cái ý, tình, chí bé nhỏ, đến độ chỉ còn thấy có những cái tư riêng, cá thể thì sẽ mất cảm nghiệm về cõi tiềm thức tâm linh, rồi rơi vào duy thức tức là duy vật. Tiên Nho nói “ngoạn vật táng chí” tâm chí quá bám vào sự vật không thể vươn lên cõi đạo.

Muốn cho hai chỉ giao thoa thì con người phải dẹp bớt phần ý thức (mà tôi tóm vào ba chữ ý, tình, chí) để lòng trí được trống rỗng, cho tiềm thức tâm linh có đất trồi lên (giô lên) mặt ý thức, hầy ý thức thấu vào đựơc cõi tiềm thức bao la. Mỗi lần giao thoa được như vậy gọi là được linh hứng, hoặc được ơn trời mặc khải và đó là những bước tiến trên nẻo đường thăng hoa của tâm hồn. Dịch chú ý phát triển điều đó bằng những câu như “an thổ, đôn hồ nhân, cố năng ái” = an thổ là lòng trí không nghĩ gì hết (Dịch vô tư dã, vô vi dã), đây gọi là An thổ, vì hành thổ cũng gọi là “hành vô hành, địa vô địa” tức là hành không có mùa riêng, phương riêng hay nói là nó vượt thời không bé nhỏ cũng vậy. Vì thế phải đi xin 4 hành kia một tuần cuối để làm vốn là quy có nghĩa như hoa quỳ là quy hướng, hiểu là để lòng quy hướng về nguồn cội. Đó là gốc mọi đạo lý trung thực.

Phép “an thổ” này cùng với tứ quý đã được cụ thể hóa qua thể chế nhà Minh Đường với nguyệt lệnh là để thi hành câu an thổ, hay là “Dịch vô tư dã, vô vi dã”. Nhà Minh Đường lấy khung của Cửu Lạc gồm có 4 chương 4 hướng như hình

 
 
 

 

                               I                                  II                                          III

                                             
  Rồi chia 4 phương làm đôi thành 8 cá (cá thể: tức làm cho ra nhỏ hơn nữa). Hình II 8 cá cộng với 4 hướng thành ra con số 12 để hợp cho 12 tháng. Hình III và gọi là nguyệt lệnh: nghĩa là mệnh lện phải thi hành trong tháng, thí dụ 3 tháng xuân phải ở phòng đông, mặc áo xanh, ăn đồ ứng hạp (xem nguyệt lệnh). Tháng quy tức tuần cuối mùa (cuối tháng 3, 6, 9, 12) thì vào ở trong cung Hành thổ gọi là “an thổ”. Để làm gì?

Thưa để “đôn hồ nhân” là trở về chỗ sâu thẳm lòng mình bằng cách “vô tư dã, vô vi dã”, đặng đạt khả năng yêu được mọi người (cố năng ái) tức là đạt cốt tuỷ của đạo lý chính trung. Vì muốn yêu được người phải vượt qua được các phân biệt thuộc cá thể, như giàu nghèo, nam nữ, tôn giáo, giống nòi… để cảm nghiệm được bản thể Con Người Đại Ngã tâm linh cùng với thiên địa vạnvật nhất thể, để thấy mọi người như mình: cùng một bản thể. Đấy gọi là Hoa quỳ theo nghĩa quỳ là nơi cả 9 con đường đều thông hội (căn số 9 là số 3). Vì thế Thổ thần (hiểu là hành Thổ) có 3 mắt, để xem thấu đựơc cả 3 cõi Trời, Đất, Ngừơi.

Tất cả đạo lý Dịch nằm trong chỗ “an thổ” là vậy. Đó cũng là con đường chính trung của cuộc tiến hóa muôn loài, cũng là phần siêu hình tiên thiên bát quái.

 
 
Về phép bói Dịch

  Bói Dịch cũng là một lối giao chỉ, lối hữu hình gọi là bốc phệ (bốc phệ là bói bằng cỏ thi hoặc mu rùa). Có thể gọi đây là việc của địa tiên với khả năng biết trước những sự xảy ra do thông được với tiềm thức (hay thiên năng) của ý thức tiểu ngã, qua trung gian những vật thể như mu rùa, cỏ thi. Vật thể trong Dịch là các quẻ, tất cả được gọi là “vật linh”. Vật là sự thể hữu hình như cỏ thi, mua rùa hay các gạch đứt liên (gọi là hào) còn linh là thuộc tâm linh tiềm thức có sự hiểu biết siêu việt có năng lực bao la và nó thông cho sự vật được phần nào khả năng đó, nên gọi là linh tức là cái biết có hiệu lực vựơt khả năng của sự vật. Bởi nếu xét nguyên có sự vật thì thấy rất vô lý, không lý gì mà cỏ thi, mu rùa lại hiểu biết cao xa hơn lý trí con người, nhưng Dịch dùng lối biết toàn thể (gọi là chu tri) tức ý thức không làm việc một mình mà còn đựơc tâm thức tâm linh thôngbáo cho. Vì thế khi chiêm bốc phải chăm sóc phần tâm linh bằng gạt bỏ những chướng ngại vật như tư ý, tư dục, để lòng vắng lặng trống trơn. Cái đó phải coi là chính. Vì thế quan trọng không nên đặt vào sự vật mà phải đặt vào người. Người phải có đủ điều kiện tâm linh là cần trước hết, còn việc dùng cỏ thi, mu rùa, hay quẻ, hoặc bói bài v.v… là tuỳ phụ, tất cả đều vô lý: chúng chỉ có nghĩa do tâm linh. Chính vì thế ở dưới có cho một lối bói Dịch đã đơn giản hóa cùng cực, để bạn thử chơi, nếu thấy hiệu nghiệm thì dùng, chỉ cần nhớ rằng hiệu nghiêm hay không ở tại mình “linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Tử vi, đẩu số đều như vậy hết: hay hoặc không hay là ở tại nơi con người. Phương tiện không quan trọng, mà quan trọng là trình độ nhạy cảm về phương diện đó của mỗi người. Đấy là bí quyết việc bói toán nó cũng trùng hợp với đường tu tâm dưỡng trí ở chỗ làm cho lòng trống trơn. Vì thế mà tuy Dịch Văn Vương có gây xáo trộn về đàng trí học nhưng ơn ích về tu học vẫn còn phần nào, nhưng nếu bói Dịch mà bỏ phần “an thổ” thì kể là dị đoan, trúng trật ít bảo đảm hơn nhiều.

Cách đơn sơ nhất để bói Dịch là dùng ba đồng tiền gieo xuống đồng nào ngửa thì cho số 2, xấp cho số 3. Cộng cả ba lại nếu được số chẵn (6,8) thì là hào âm, gạch 2 cái - - nếu là số lẻ (7,9) thì là hào dương, gạch một cái – thế là được hào nhất. Gieo lại lần 2, rồi đặt hào mới trên hào 1.

Cứ làm như thế đủ 6 lần thì được 6 hao của quẻ muốn tìm. Mở sách ra xem tên quẻ và chiêm nghiệm lời quẻ (sách này chỉ nhằm phần đạo lý minh triết nên không cho phần bói toán, tức 64 không in ra ở đây). Chỉ cần ghi nhận rằng sự gieo quẻ coi như rất là ngẫu hữu “may rủi”, nhưng xét theo toàn diện thì không là may rủi, vì việc khiến đồng tiến sấp hay ngửa còn đựơc quy địn do tiềm thức nữa: người ta không biết đến việc tiềm thức nên gọi là may rủi. Mức pha độ tốt nhất là ý thức 2, tiềm thức 3. Dịch nói là “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”. Muốn đạt độ lý tưởng “vài ba tham lưỡng” nọ phải “an thổ” cho lòng trí trống trơn.

Kinh Dịch gọi đó là “Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động. Cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố, phi thiên hạ chí thần, kỳ thực năng dữ ư thử” Hệ từ X.4 = Dịch là để lòng trống vắng, không suy tư, không làm gì hết; đột nhiên linh cảm mà thấy được chỗ căn do của sự việc. Nếu không phải là rất thần, thì làm sao được như vậy? Nên nhận xét rằng: theo Dịch thì thần với không đi đôi. Vì vậy làm cho lòng trống trơn, không suy nghĩ về việc gì trần tục, cũng là sửa soạn cho thần linh xuất hiện. Muốn đạt chí thần thì tâm hồn phải cực rỗng (chí hư) là thế. Tâm hôn có trống rỗng được như vậy mới “đọc” ra được ý nghĩa của những lời đèo theo quẻ và hào, những lời ấy vốn rất lơ mơ mù mịt, vì cái soi sáng, cái đem lại ý nghĩa cho quẻ cho lời không phải là lời, là quẻ, mà là thần. Lời chỉ là những dụng cụ bất tương xứng, còn chủ soi sáng, chủ dùng những phương tiện đó, là chính thần. Thần biến hóa và hiệu năng vô cùng, không cần những phương tiện hiệu nghiệm cân xứng. Đó là điều cần phải nhớ khi bói Dịch. Có làm được như vậy mới trông nhờ ơn ích của Dịch.

Về thứ tự 64 quẻ

  Nên biết có hai lối xếp đặt. Một theo tiên thiên bát quái xếp theo vòng trong và vuông, kiểu bánh dầy bánh chưng (xem hình A dưới).

Đây là thứ tự tiên thiên đã nói trên là Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Quẻ kép cũng theo thứ tự ấy: muốn tìm quẻ theo vòng tròn thì khởi lấy quẻ nền dương là Kiền làm nền rồi tính ngược lên: có 4 quẻ nền dương là Kiền, Đoài, Li, Chấn, mỗi quẻ trong 4 quẻ nền này sẽ trở thành nền cho 8 quẻ kép, mỗi quẻ nền mang trên mình 8 quẻ đơn cũng theo thứ tự: Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn… và được 32 quẻ. Rồi đến 4 quẻ nền âm bắt đầu tự Tốn tính xuôi lên cũng có 4 quẻ là Tốn, Khảm, Cấn, Khôn rồi cũng chồng 8 quẻ đơn lên mỗi quẻ nền trên theo thứ tự Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn… thế là được 32 quẻ kép nữa. Cộng 2 bên vào thành 64 quẻ.

Còn với hình vuông thì lấy hàng dọc bên tay phải tự dưới tính lên theo thứ tự Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn đủ 8 quẻ. Đoạn lấy quẻ Kiền làm nền cho 8 quẻ kép xếp theo hàng ngang (tự phải qua trái) trên đặt 8 quẻ đơn Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn… thành ra một thứ thước thợ. Thế rồi chống các quẻ đơn lên trên quẻ đoài: cũng xếp như với Kiền. Xong lại lên quẻ Li. Cứ thế hết 8 quẻ nền thì được 64 quẻ. Cả hai lối tròn cũng như vuông rất dễ tìm ra cấu trúc của quẻ. Tuy nhiên hai thứ tự vuông tròn này đã bị “hậu thiên” làm đảo lộn mất rồi, nên không còn dùng được để tìm ra số và tên quẻ. Vì thế trong thực tế phải dùng đến bảng thực hiện (hình B) để tìm ra số quẻ trong sách.

Muốn tìm ra tên quẻ thì lấy quẻ hàng dọc làm nền. Lấy quẻ ngang làm tầng trên, rồi dò xem 2 quẻ dọc ngang gặp nhau ở ô thứ mấy thì mở sách ra đọc tên quẻ và các lời soán từ và hào từ.


Hình A



Hình B

 V. MINH TRIẾT TRỐNG ĐỒNG
 

   Tổng quát

 Trống đồng là một lâu đài văn hóa chung cho các nứơc Đông Á và Đông Nam Á mà Việt Nam có duyên may là nơi ký thác, nên cũng có sứ mạng tìm hiểu và truyền bá cái minh triết tàng ẩn trong di vật nọ.

   Các nhà nghiên cứu chia trống ra 4 loại. Loại I tiêu biểu hơn hết: các hình người vật còn hiện thực chưa bị kiểu thức quá như các loai sau. Loại I tìm được nhiều nhất ở Việt Nam: hơn trăm chiếc. Tàu mà cũng chỉ 30, Indônê 10, Thái 10, Lào 4, Mã Lai 2. Cái đẹp nhất gọi là Ngọc Lữ đựơc dùng để phân tích trong bài này xuất hiện ước đoạn đầu thiên niên kỷ trứơc tây lịch. Cao 63cm. Mặt rộng 79cm. Tang rộng 85cm. Ở giữa là mặt trời được bao quanh bằng 14 tam giác gốc hãy gọi là vòng B. Mặt trời là A.

Rồi tới vòng C có hình người đang ca vũ chia ra hai nửa như nhau nhưng trên mái nhà thì một bên có 2 chim đậu, bên kia 1 con.

Vòng D cũng chia đôi mỗi bên có 10 hươu, nhưng chim thì bên 3 cặp bên 4 cặp.

Vòng 3 ngoài cùng gồm 36 chim: 18 con nhỏ đứng xen kẽ 18 con lớn.

Tang trống chia ra 3 phần gọi là tang, thân, chân. Tang có 6 hình thuyền, trên có người. Thân có hình người đang ca múa. Chân không có trang hoàng.

Đây là một biểu hiệu kép tàng chứa toàn bộ nền minh triết Việt Nho sẽ được trình bày tóm tắt qua 5 cái nhìn sau:

 
Mặt Trống Ngọc Lữ


1. Cái nhìn lên sổ

   Để liệt kê các yếu tố liên hệ đến triết Việt.

   Yếu tố đầu tiên là vừng nhật.
Vừng nhất ngự giữa mặt trống và có trên mọi loại trống. Đây là ấn tích thời thờ Thái Dương Thần Nữ được suy tôn là nguồn mạc mọi sự sống, nên đi với đạo “phong nhiêu” có làm “nghi lễ truyền sinh” để được tham dự vào luồng phong nhiêu vũ trụ do mặt trời ban phát. Vì thế ta thấy có 4 đối tượng nổi đang làm tình trên nắp thạp Đào Thịnh. Những tượng này sau được biến thể ra những tam giác gốc. Ban đầu người ta không hiểu tưởng là lông công kỳ thực là sự giao hợp âm dương vật, mà truyền thuyết kể rằng khi ông Đại Vũ đào sâu xuống sông thì gặp hai ông bà Phục Hy Nữ Oa đang ôm nhau.

Cũng thuộc thời này là tên huyền sử Viêm Bang. Chữ Viêm kép bởi 2 căn hỏa chỉ mặt trời lúc cao độ (mồng 5 tháng 5) Vua gọi là Viêm Đế (Thần Nông), dân gọi là Viêm Việt hoặc Viêm tộc, nhà Phật dịch là Nhật Chủng, nay có sách gọi là Đại Chủng Xích Đạo.

Cũng vì thời này nước Việt chọn sắc đỏ và quẻ Li. Kinh Dịch nói “Li vi nhật” = quẻ li chỉ mặt trời.

 Yếu tố thứ hai là tiên rồng

  Tiên được biểu thị bằng chim. Có đủ loại chim và ở cùng khắp trên mặt trống, chim to chim nhỏ, chim đứng chim bay, người cũng hoá trang chim. Nhà, thuyền, đồ vật đều hóa trang chim hết, cho nên phải nói là yếu tố nổi bật và chói chang là chim, mặt trời là yếu tố trung ương, còn yếu tố bao trùm là chim tức nói lên nét nổi của mẹ tiên (chim) của trống.

Rồng được biểu thị bằng những thuyền rồng tạc ở dưới tang trống. Thuyền đã biến thể ra rồng đang cong lưng, há miệng để đón cái hồn sâu thẳm tới cổ họng của tiên chim để sinh ra trăm con đứng lô nhô trên lưng cha rồng. Kinh Hùng nói 50 con theo cha xuống bể. Ơû đây cho xuống tang trống, nên yếu tố rồng không nổi bất trên mặt như yếu tố mẹ tiên.

 Yếu tố thứ ba là “tả nhậm”

   Tả nhậm đây là tiến ngựơc kim đồng hồ. Đó là thói của Cồ Việt khi còn gọi là Di. “Tứ Di tả nhậm” (Kinh Thư 56, 11). Đây là dấu phân biệt Di Việt với người Tàu, người Tàu trọng hữu, Di Việt trọng tả. Tục này nhắc lại thời tổ tiên Việt còn thờ mặt trời, nên các con trĩ tiến theo hướng mặt trời mọc, sách xưa gọi là “Tuỳ dương Việt trĩ” = con trĩ của Việt tộc đi theo hướng mặt trời, hoặc câu “Phượng minh triều dương” con phượng (tên khác của chim trĩ) đang hót chào mặt trời buổi mai. Vì trĩ cũng là tước và gắn liền với mặt trời nên sau có tên là “chu tước”: con tứơc đỏ.

  Yếu tố thứ bốn là nông nghiệp

  Được biểu thị bằng 4 cái cối mỗi bên nửa mặt trống với 4 người đang giã gạo chày đứng. Đấy là lối giã gạo tiêu biểu cho việc truyền sinh hơn hết, nên các nhà nghiên cứu suy đoán rằng trống đã được khởi hứng từ lối giã gạo chày đứng này: cái cối sau biến ra cái trống, còn chày giã gạo thì là giùi trống luôn. Nên có lối đánh trống y như giã gạo. Đây là tiêu biểu cho nông nghiệp thuộc văn hóa của Thần Nông và con cháu là Li Vưu, đối ngược với văn minh du mục của Hoàng Đế.

  Yếu tố thứ năm là ca vũ

  Vũ lan tràn ra khắp 3 cõi Trời, Đất, Người nói lên lối sống phong lưu thanh thản như cá (rồng) lượn chim bay, coi như hậu quả của nông nghiệp. Ngược với chiến tranh sản phẩm của du mục. Vậy những ngừơi đang ca múa là đoàn vũ chứ không phải là đoàn quân ra trận. Cần lưu ý yếu tố vũ có đeo lông chim này vì có gặp cùng khắp trong các lối vũ xưa từ trường Bích Ung đến các bản vũ như Hàm Trì… đặng dễ nhận diện dòng tộc văn hóa.


 2. Cái nhìn cơ cấu
 
 Là nhìn để tìm ra ý nghĩa tàng ẩn trong sự xếp đặt các yếu tố vừa liệt kê trên. Có hai lối xếp đặt một ngang một dọc. Lối nào cũng nói lên sự hòa hợp. Lối ngang nói lên lưỡng hợp tính được bày tỏ trong sự đối đáp giữa đực cái (hươu đực hươu cái) chim to chim nhỏ, con bay con đứng, số chẵn số lẻ … và nhất là hai đường chỉ chạy song song mà tôi gọi là nét song trùng. Đấy là sự xếp đặt hàng ngang có thể gọi là thuộc cõi ngừơi ta nói lên số 2 cách tràn ngập.

Còn hàng dọc nói lên số 3 chỉ Thái Hòa tức cái Hòa bao la như vũ trụ gồm cả Trời, Đất, Người.

Trời đại diện do mặt trời ngự giữa mặt trống.

Đất đại diện do nứơc với rồng ở tang trống, cũng như do 2 vòng ngoài cùng trên mặt trống 1 vòng gồm hươu và chim, còn một vòng toàn chim: 36 con lận.

Người ở 2 vòng B, C. Vòng C là các người đang ca múa ta hãy cho đó là những con người tiểu ngã. Còn đại ngã là những hình tam giác gốc đặt chung quanh mặt trời. Hình tam giác số 3 (tam) bao hàm số 2 bên trong làm nên số 5 là thập tự nhai chỉ con người Đại Ngã được bồng trong tay Nữ Oa Thái Mẫu.

Đó gọi là Thái Hòa, do đấy Trống đáng tên là “nhạc cụ của vũ trụ” và được dùng để biểu thị đức Thái Hòa trung ương.

Với cái nhìn cơ cấu này mặt nhật không còn là mặt nhật nữa mà đã hóa ra mặt trời nghĩa là thay mặt cho Trời. Vì đạo Trống là đạo thờ Trời, chứ không còn trong giai đoạn thờ mặt nhật (Thái Dương thần nữ). Lúc đó mặt nhật đối đáp với mặt trăng (chỉ bằng 2 tuần trăng là 14 cánh) và đi với chim trĩ cũng gọi là chu tước. Thờ mặt nhật cũng có thể gọi là Thái Hòa nhưng chưa bao la được như đợt thờ Trời. Thờ Trời là thờ cả Trời, Đất, Người. Còn thờ mặt nhật mà đối đáp là mặt trăng thì chưa bao gồm Đất và Người. Ở giai đoạn thờ mặt nhật các chim mới là duy dương như con trĩ, con tất phương, đều gọi là “dương địch” hay “thiên địch”. Sang giai đoạn thờ Trời thì các chim đều là chim nước tức bao hàm nét song trùng trong mình: bay trên trời mà lại ăn dưới nước. Các chim nước này gồm nhiều loại như Hồng, Hạc, Vụ, Cò… nổi nhất là chim Hồng Hộc cũng gọi là Thiên nga là vật biểu của họ Hồng Bàng lập ra nước Hoàng Việt. Đấy cũng là thêm một dấu hiệu chỉ trỏ nước Việt có đủ điều kiện để trở nên kẻ kế thừa cái gia bảo thiêng liêng là nền triết Việt Nho. Đạo thờ Trời được kết tinh vào 2 chữ “thuận thiên” = tức là thuận theo mệnh trời; những con chim ở vòng ngoài cùng chính là đang diễn tả cái đạo “thuận thiên” tức theo hướng mặt trời mọc gọi là “Phượng minh triêu dương”. Tất cả là 36 con là để biểu lộ 4 chiếc hoa quỳ 9 cánh (4*9=36). Gọi là hoa quỳ mà không hoa khác là tại tính hướng dương của nó. Ca dao nói: “Hoa quỳ chăm chắm hướng về Thái Dương”.


3. Cái nhìn thẩm thấu

   Là cái nhìn để tìm ra căn do gây nên đựơc cảnh Thái Hòa vừa tả trên. Hỏi đâu là lý do? Thưa rằng bí quyết nằm ngay trong tên của di vật gọi là cái Trống. Trống là tên chỉ sự hòa hợp ở đợt cùng tột có thể có tức là hòa có với không. Nói ở đợt cùng tột cũng là nói siêu hình ở đợt cao nhất. Bên dưới là đợt nhất với đa, động với tĩnh, trên cùng là có với không. Đây là vấn đề siêu hình cùng tột, ít có nền siêu hình đạt tới.

Vì nó là vấn đề kép: trước hết phải là Vô, sau phải là Vô thứ thật gọi là chân không, chứ không là cái vô bị hạn chế bởi cái hữu, nhưng phải là cái vô kiêm được cả hữu, vì nếu không kiêm được hữu thì cái Vô đó có cùng: nó bị giới hạn do chính cái hữu mà nó không bao được đó, nên là duy vô, mà hễ đã là duy vô thì tất bị hạn chế y như duy hữu. Hữu chân thực phải kiêm được Vô. Vô chân thực phải kiêm được Hữu. Đó là trạng thái hàm hồ cùng kỳ cực vì không thể nói là có (là hữu) cũng chẳng thể nói là không (là vô) mà phải gọi là Trống viết hoa. Ta quen đi rồi không ngờ rằng chữ Trống bao gồm cả có lẫn không. Thí dụ phải có cái hang mới có cái hang trống không. Phải có cái nhà mới có cái nhà trống không. Phải có cái trống không và xin nói ngay rằng đó là nền tảng của mình triết Việt bao giờ cũng có cái gì trống kèm theo. Thí dụ cái nôi văn hóa Việt là Động Đình Hồ, thì chữ động là cái hang trống. Lão nói “cốc thành bất tử” là đấy và chữ không đi với trầu không cũng là đó. Vì nó chỉ thị đạo vợ chồng, mà để đáng tên là Đạo thì phải có không đi kèm thành ra trầu không. Chính chữ không đem lại cho Trầu chiều kích cao cả.

Vì thế Trống phải để một đầu trống tức không bịt kín để cho có sự giao thông giữa trời đất. Bởi vậy lối đánh trống có ý nghĩa hơn hết còn giữ được trên Mưỡng là treo trống trên 4 cái cọc, cách mặt đất 20 phân liền dưới đào một lỗ tròn sâu 30 phân, để chỉ Trời Đất giao thoa: Trời chỉ bằng 30 phân đâm xuống lỗ sâu, Đất chỉ bằng 20 phân lại vươn lên sát chân Trống. Kỹ lưỡng như vậy vì đây là cảnh Thái Hòa tức cảnh hòa bao trùm, mà văn hóa nào đạt được thì sẽ tránh được bao sự nghiêng lệch gây ra do sự ngưng trệ vào một góc mà ta quen gọi là duy. Rất ít văn hóa hoát đựơc nạn duy nền tảng này. Triết Tây Aâu thì nghiêng sang cái có đặc sệt, cái có duy hữu, nên siêu hình gọi là Hữu thể học (ontology). Triết Aán lại nghiêng sang không, không: neti, neti, nhà Phật gọi là Thái Hư = sunyata. Duy hữu hay duy vô đều là căn để cho các nghiêng lệch khác trong văn hóa, như duy hữu đẻ ra các thứ duy thần, duy vật… và ngược lại duy vô đẻ ra các thứ duy tâm, duy linh… Trong thực trạng thì bờ cõi hai thứ khó phân ranh vì luật “mạnh chống mạnh chấp” = chống cái gì quá thì tại chấp vào đó (abyssus abyssum invocat). Tây Aâu chống vô bằng duy hữu số 4 thì lại ngả hẳn vào nguyên lý đồng nhất, mà đồng nhất là một thứ thái nhất được công lý hóa, nên đồng nhất có họ màu với duy vô. Aán Độ chống hữu bằng duy vô (số 1) thì lại nghiêng sang số 4 (4 phương). Số 4 là đầu các số đất, các số chẵn 4, 6, 8, 12…

Đạo trống gồm cả có lẫn không, nên đạt được nét trung hòa siêu diệu. Cho nên khi hiểu thật đúng thì liền biết được rằng Đạo Trống đã là cao tuyệt vời rồi không thể đi xa hơn về đàng đạo lý. Đó là Đạo viết hoa cũng gọi là Minh Triết rồi, chỉ còn phải cố hiểu thấu đáo để thực thi mà thôi.


  4. Cái nhìn đâm thủng

    Đặt tên này theo lối nói của ngừơi Mường gọi đánh trống là đâm trống (chàm thau). Đây dùng hai chữ đâm thủng để chỉ sự hiện thực tâm linh ngược chiều để đối với cái nhìn thẩm thấu thuộc trí học đi xuôi: càng học càng biết nhiều. Ở cái nhìn tục học càng tiến tới càng ít đi, càng nhọn hoắt để có thể đâm sâu vào nữa cho đến tâm đến tính. Lối đi ngược kim đồng hồ này được biểu thị bằng hình xoáy ốc ngược chiều để cuối cùng đâm thấu qua các trở ngại bé nhỏ đặng phối hợp cùng Trời Đất như được chỉ trỏ bằng một định nghĩa Hoa Quỳ là “nơi chín đại lộ đều quy vào một mối” (Quỳ: cửu đạt chi đạo), tức khi tâm hồn nào hướng theo Trời cách bền bỉ được như Hoà Quỳ thì sẽ đạt đựơc sự thông suốt với Thiên, Địa, Nhân ba cõi. Xem thế đủ biết đó là chân lý rất quan trọng phát xuất từ chữ Trống. Trống bao gồm cả có lẫn không. Vậy việc tu học cũng phải bao hàm cả sự chinh phục cái không nữa. Tất nhiên lối đó ngược với sự chinh phục cái có. Cái có đi xuôi chiều được hiện thực bằng lý luận, suy diễn. Đến lượt cái vô phải hiện thực bằng bỏ hẳn suy luận, phải xả bỏ hết để đi vào nội tâm tức càng đi càng tới chỗ bé nhỏ. Khi đi đến chỗ nhỏ cùng cực là đắc Đạo. Chữ Đạo kép bởi bộ xước và thủ ngầm chỉ Đạo là đi về nguồn gốc, mà gốc muôn vật là Vô, thứ Vô chân thực nên sinh ra các thứ Hữu. “Hữu sinh ư vô” là vậy. Nhưng phải là thứ vô thực mới là nguồn mọi sự hữu.

Đường về Vô cực thì có thể thi hành bằng ca múa như trên mặt Trống: tất cả các chim đều múa để chào mặt Trời, tức hướng về mặt trời mọc gọi là “phượng minh triêu dương”.

Còn một lối khác gọi là thiền. Chữ thiền chính là chữ thiện, mà thiện là một lễ đối đáp với lễ phong. Đây là hai lễ mở đầu văn hóa Việt tộc. Phong là tế trời trên núi, rồi đến tế đất gọi là thiện. Muốn tế thiện thì phải quét sạch đất, muốn thiền cũng phải xả bỏ khỏi tâm trí hết mọi ý nghĩ về hữu thể để tâm hồn trống rỗng đặng thông suốt 3 cõi Trời, Đất, Người. Dịch Kinh gọi phép này là “an thổ” mà bước đầu tiên là “vô tư dã vô vi dã”… Đó là tâm kiện mà tổ tiên ta gọi là Trống. Có tạo ra được trạng thái trống rỗng trong tâm hồn thì mới mong đón nhận được những tia sáng bao la về Đạo. Người xưa quen nói tâm hồn có an nhiên tĩnh lặng thì chân lý mới chịu lộ diện xuất đầu.

Có hai lối gây sự “trống rỗng tâm hồn”, một bằng hành động, một bằng im lặng. Bên Ấn Độ nghiêng về tĩnh lặng nên có phép “tọa thiền” bên Việt dùng lối hoạt động (karma / yoga) nên gọi là “hành thiền” hay là “an hành” nền tảng triết lý an vi. Trên mặt trống là lối hành thiền: tất cả đang ca vũ để chào mặt trời ban mai được gọi bóng là “phượng minh triêu dương” = con phượng hót chào mặt trời buổi mai. Con người cũng đi theo hướng đó mà chào mặt trời mới mọc được Khuất Nguyên gọi là “Đông quân” Vua Phương Đông.

  Đó chính là lối “phối thiên phối địa”. Phối thiên được chỉ bằng chim Hồng Hộc (Hồng Bàng) cũng gọi là Thiên nga bay đầy trên mặt trống. Phối địa chỉ bằng rồng lặn sâu tận đáy biển đây là tang Trống. Thế là có cả triệt thượng lẫn triệt hạ. Có làm được như thế mới trông đâm thủng được các phân biệt bé nhỏ để nhìn ra nền tảng chung của toàn thể mọi vật, mọi người, để nhìn ra Đại Ngã tâm linh. Đó là nguồn mạch của thống nhất cũng như của yêu thương cùng khắp. Hỏi rằng các điều suy luận trên đây có thực chăng? Thưa rằng có như sẽ trình bàay trong cái nhìn lan tỏa sau.


5. Cái nhìn lan tỏa

    Người Mường truyền tụng rằng khi trống được đánh đúng kiểu thì tiếng sẽ lan rộng khắp hàng huyện. Đó cũng là ý nghĩa huyền thoại ở U Việt rằng nơi của Nam thành Cối Kê có treo một cái trống bự. Khi nào có con Bạch Hạc bay qua chạm phải thì trống phát ra tiếng vang mãi tận Hàm Dương (kinh đô Tàu). Nói vậy có nghĩa là khi tâm hồn nào giữ đựơc sự trống rỗng (gọi là Bạch Hạc) thì sẽ hòa hợp với vũ trụ, lan tỏa khắp nơi. Đến đâu? Thưa lan tỏa vào cùng khắp ngõ ngách văn hóa của Việt tộc, đâu đâu cũng có ấn tích và khi biết những ấn tích đó là gì thì sẽ thấy ảnh hưởng đạo Trống lan xa và rộng vô kể. Vậy Đạo ấy được biểu thị bằng các số 2, 3, 5, 9 nên ta có thể tìm theo dấu vết các số đó để biết Đạo đi tới đâu. Số 2 là các cặp đôi làm nên nét song trùng cơ bản như tiên rồng, núi non, ông Cồ bà Cộc… Aên thì dùng đôi đũa (số 2) nói cũng tiếng đôi: làm lụng, học hiếc, lai rai… Kể ra vô cùng.

Số 3 thì như 3 cấp bàn thờ, vái 3 cái, rót 3 chén rượu, thắp 3 nén hương, nhà sàn có 3 cấp: nóc, sàn, nền…

Số 5 cũng thấy cùng khắp ngay tự thời Phùng Nguyên đã gặp 5 hòn sỏi mà 3 mài nhẵn 2 để thô. Rồi các bình đèn bao giờ cũng có 3 chân 2 tai. Aùo mặc thì 2 cúc trên vai 3 cúc dưới nách. Mâm cơm nếu là vuông (số 4) thì giữa có 1 bát nước chấm thành số 5, hoặc mâm tròn thì hình vuông là chiếc chiếu. Bánh dầy tròn số 3, bánh chưng vuông số 4… Trên mặt trống nét song trùng (2 hàng song song, giữa có chấm) chạy cùng khắp. Rồi đến hoa văn “răng cưa”, gọi thế chứ thật ra là 2 hàng tam giá gốc lan tỏa ra cùng khắp mặt trăng, đúng câu “nội hàm càng nhỏ, ngoại càng to”: nội hàm rút nhỏ vào đến số 2 +3 đặt giáp mặt trời, nên ngoại tỏa lan ra cùng mặt trống.

Ta hãy chú ý đến ba cái kết tinh nổi bật của sự tỏa lan này: đó là bộ ba Tam Hoàng, Lạc Thư và Kinh Dịch… Đấy là bấy nhiêu kết tinh của Đạo Trống. Mới nhìn chẳng thấy chi ăn chịu với nhau, nhưng xét đến cơ cấu thì lại là một. Ta hãy lược qua:

Trước hết về Tam Hoàng thì cặp uyên ương Nữ Oa Phục Hy quấn đuôi nhau. Đó là số 3 trời 2 đất với bà cầm cái quy số 5, ông cầm cái củ số 4…

Sau đến Kinh Dịch cũng thành bở các số 2, 3, 5 (lưỡng nghi, tam tài, ngũ hành) làm nên “tiên thiên bát quái” để nói lên đường đi ngược chiều. “Dịch nghịch số dã” Kinh Dịch được gọi bóng là con chim lạc dịch có 8 cánh 1 chân. Chim Tất Phương cũng 8 cánh 1 chân đều chỉ Dịch tiên thiên bát quái là 8 quẻ bao quanh Thái cực viên đồ.

Sau nữa đến Lạc Thư cũng bằng ấy số và tiến theo chiều ngược. Chưa cần xem nhiều chỉ mới thấy những bước đi tả nhậm của đoàn vũ là đã nhận ra sự đồng tính giữa Lạc Thư với Trống Đồng rồi: vì Lạc Thư cũng tiến theo tả nhậm như vậy tức tự 1 tới 2, 2 tới 4… nhưng ít người thấy vì giữa các số 1, 2, 4 có xen kẽ số 6, 7, 9 nhưng nếu biết đó là những số thành cần vượt qua để theo dõi các số sinh (từ 1-5) thì dễ thấy Lạc Thư cũng là 1 điển chương như trống đồng hay Kinh Dịch đều đi theo chiều ngược, đến nỗi muốn đặt trống đúng hướng thì phải theo thái cực Viên Đồ của Dịch, và ngượ lại phải coi trống đồng mới đặt đúng được chiều hướng Kinh Dịch. Có thể nói 75% xếp đặt Thái Cực đồ trong các sách là sai, còn đúng chỉ được 25% nhưng là đúng theo cú ngáp phải ruồi chứ không do sự hiểu biết như đã trình bày ở bài Kinh Dịch trên. Đó là đại để cái nhìn tỏa lan được chứng minh bằng số.

6. Cuộc sống phong lưu

  Bây giờ xin hỏi các số đó có nội dung trung thực chăng? Thưa rằng có, đó là nếp an vi đầy ca múa mà tiền nhân gọi là “phong lưu” tức sống thanh thoát ví được như “ngọn gío ngàn, như làn nước suối an nhiên tự tại đáng gọi là bài ca múa của tiên trên cung Quảng Hàm = Nho gọi là Nghê thường vũ y khúc. Truyền thuyết nói rằng Đường Minh Hoàng trong một giấc mơ đã được cho lên chơi cõi tiên để chứng giám khúc Nghê Thường nọ. Đó là một lối lịch sử hóa vô nền (cái nền mặt trống chỉ là giấc mơ mà ngay giấc mơ cũng là truyện giả thuyết). Còn trên mặt trống có đủ sự thực thi với tên của bài Vũ: Nghê Thường có nghĩa là váy màu ráng đỏ. Đó là màu đỏ lửa thuộc hành hỏa số 2 của phương Nam. Vũ Y khúc là bài vũ người có đeo lông chim. Vậy 2 điểm trên thì không đâu được bày tỏ nhiều hơn trên mặt trống. Còn cung Quảng Hàm chính là mặt trống chia ra 2 nửa thành 2 vòng bán nguyệt. Bán nguyệt là vòng trăng khuyết lưỡi liềm: trong Trống có 2 tuần trăng (2*7) là 14 tam giác. Tóm lại Nghê Thường Vũ Y khúc là tên gọi cảnh sống an vui đầy ca múa được tạc trên mặt trống, nó phản ánh lại đời sống theo Đạo Trống, ngậm ý rằng: ai biết sống theo đạo Trống thì đều có cuộc sống an vui như vậy, vì đó là hậu quả của nền triết lý Thái Hòa. Bởi thế bức họa này không là “bánh vẽ” mà đích thị là sự thực được thể hiện hết đời nọ đến đời kia trong cái làng Việt Nam mà đời sống cũng diễn lại y chang cái cảnh sống như trên mặt trống: cũng hát xướng chèo ca, cũng hội hè, đình đám (xem bài Cái Làng Việt).

Bây giờ ta phải cố tìm ra căn do siêu hình của đời sống an vui nọ. Lúc ấy ta sẽ hiểu nó ở tại quan niệm Trống về con người. Theo đó thì con người gồm cả Có lẫn Không mà đã bao gồm cái không chân thực thì phải trở nên bao la như vũ trụ, nói bóng là như trờivới đất: đất biểu thị bằng số 2, trời bằng số 3. 2+3 hóa ra 5 (ngũ hành). Ngũ hành chính là con người Đại Ngã đựơc bồng trong tay Nữ Oa, hoặc hiện hình vào các tam giác gốc. Đó là quan niệm bao la về con người mà ta thấy đã xuất hiện ngay tự trang đầu triết Việt với hình ảnh oai hùng cùng cực của Bàn Cổ: tự mình xuất hiện với tác động đầu tiên là phân định Trời Đất. Tiếp theo là Tam Hoàng cũng diễn lại chiều kích bao la đó như lấp biển và trời. Tất cả đều mênh mông như vũ trụ tức là nói lên chiều kích nhân chủ cao sâu bằng những nhân thoại huy hoàng cùng cực, tất cả nói rõ lên cái bản tính con người toàn vẹn vựơt xa tiểu ngã của ta vô cùng, cho nên con người muốn sống an vui cần phải hiểu biết bản tính của mình là chi và thứ đến là phải sống thuận theo bản tính đó. Nhưng không may hầu hết chỉ biết theo có đời sống bé nhỏ của tiểu ngã. Tất cả khốn đốn của loài người cũng như sự thất bại của hầu hết các nền triết lý hay thuyết lý đều nằm trong chỗ đó: trong chỗ không biết được bản tính con người bao la để mà tìm cách nuôi dưỡng vì thiên địa không có vị yên: không duy thiên (duy tâm) thì lại duy địa (duy vật) đều là vấp phải tội “xúc bất chu chi sơn” = như Cộng Công húc đầu vào núi Bất Chu hiểu là cắm đầu vào cái biết không tròn cái biết duy lý ý hệ hay duy tín bái vật, nói cụ thể là chỉ biết có một chiều: không chiều hữu thì lại chiều vô, chiều nào cũng đều là ngõ cụt gây ra mọi tai họa. Sự vụ xảy ra thế này.

7. Căn do khổ luỵ

    Bản chất con người là vô cùng nhưng chiều kích này không đựơc nuôi dưỡng bằng chất vô cùng, nên con người mãi mãi bị đói khát. Vì đói hoài nên phải ăn thêm, ăn thêm mà không sao no thỏa bởi đó là những đồ ăn hữu hạn như tiền của chức quyền, chúng không có chất vô cùng nên không thỏa mãn được con người có bản tính vô cùng, thế là đưa đến cái nạn tham dục vô đáy. Nho gọi là”nhân dục vô nhai”. Vô nhai là không giới mốc vì chính quyền cũng như tư nhân không có cái tự chế trên con đường chao vét, nên cuối cùng đốc ra cướp đoạt và chuyên chế. Thế là gây nên chia rẽ cùng khắp. Cho nên nếu muốn cuộc sống an vui thì đời sống phải được thành nên bởi cả không lẫn có: phải có yếu tố không để cân bằng với yếu tố có. Nói bằng số thì đất chỉ được chiếm có 2 còn phải để cho không (cho trời) đựơc 3. Đời người chỉ có ý nghĩa khi để được 3/2 t6m trí vào cái vô thể, cái linh thiêng, những việc cứu dân độ thế, tế thế an bang. Vì đó là những việc bao hàm cái Vô (tư lợi) nó mở vào chân trời bao la miên viễn. Đấy sẽ là đề tài được quảng diễn về sau… Ở đây chỉ cần nói rằng đạo lý hay triết lý mà chưa thành công, thì căn do then chốt là tại chưa có ý niệm bao là về con người, nên suy tư, cảm nghĩ toàn xoay quanh những cái hữu hạn. Cho nên dẫu thấy con người lâm cảnh thiếu hướng thiếu hồn cũng đành bó tay. Vì bao hướng đưa ra đều cụt. Bao phương thức giải cứu được đề nghị đều thành bởi chất có cùng, cả đến thần linh hay linh thiêng cũng làm toàn bằng chất hữu hạn, thì sức mấy mà thỏa mãn nổi con người có bản tính vô cùng, và như vậy hiểu được tại sao cả Trống Đồng lẫn Kinh Dịch và Lạc Thư đều đặt nổi quan niệm bao la về con người.

Và đó phải là nền triết lý cho con người đời mới, đời hậu kỹ nghệ, đời mà triết lý lao động của thời công nghệ hết xài rồi vì nó chỉ có hàng ngang không vươn lên được, bởi thiếu chiều bao la như vũ trụ, nên cuộc sống toàn làm bằng những chiều kích bò ngang trên mặt đất: đó là sản xuất tiêu thụ và đánh nhau… chưa có gì nuôi dưỡng chiều kích bao la nơi con người cả. Muốn tránh tai họa nọ đời sống hậu kỹ nghệ phải là đời sống như chơi, làm ít chơi nhiều, để con người được thanh nhàn mà lo đến cái chiều kích bao la như vũ trụ của mình. Thời đại đang đến con người phải có một nền triết lý mới hẳn và nền triết lý đó chính là triết lý bao gồm chiều kích trống rỗng. Hội nghị quốc tế triết ở Honolulu đã hé thấy điều đó khi đề bạt Khổng Tử, nhưng Khổng học đã không tiếp thu được lời chỉ định kia bằng đưa ra đạo lý Nho chân thực là cái phải gồm có chiều Vô, như chúng tôi thử bày tỏ trong Hoàng Nho, và Việt Nho.

Tất cả đều đặt nền trên chữ Trống.

Đó là hành Thổ của Hoàng Nho.

Thái cực nhi vô cực của Di Nho

Trống đồng của Việt Nho…

Người đại diện cuối cùng của Nguyên Nho là Khổng Tử. Ít ai để ý rằng chữ Khổng chính nghĩa là trống không. Vì thế truyền thuyết nói Khổng Tử sinh ra ở bên cây giâu rỗng gọi là “không tang”. Có nghĩa là cái Đạo ông truyền lại đặt nền tảng trên cái Trống rỗng. Điều đó đã được chúng tôi bảy tỏ trong ba bài.

Bài thứ nhất là Hoàng Nho với cơ cấu uyên nguyên để thấy được nền tảng sâu xa cùng cực của nó rất thật cho xưa cũng như nay. Đông hay Tây không khác lại kèm theo 5 nhân thoại tuyệt vời để kiện chứng.

Bài hai là Di Dịch với Chu Dịch để thấy sự phong phú vô biên của cơ cấu nguyên thuỷ mà Kinh Dịch làm nổi bật lên nét song trùng. Chính vì thiếu nét song trùng mà nhân loại ngày nay chia ra hai mảnh duy luôn luôn nhỏ máu.

Bài ba Việt Nho với Trống Đồng nói lên bằng hình ảnh rằng: tất cả các điều nói ở bài một và hai đều rất thật, chỉ xem trên mặt trống là đủ biết nếu giữ được Đạo Trống thì con người sẽ được sống cuộc sống phong lưu an nhiên thư thái. Điều đó có thực chứ không phải truyện hư cấu chi cả. Xem hình trên mặt trống rồi kiểm kê lại đời sống cái làng Việt Nam thì đủ rõ. Ở một bài khác chúng tôi sẽ minh chứng rằng các hình này đã được thực thi trong cái làng Việt Nam từ lâu đời.

Tiếp theo trang 2

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Việt Triết Nhập Môn
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc, thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống văn hiến hầu phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt

Trang[ 1 ][ 2 ]